Loạt bài | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 14 Mar 2024 22:39:16 +0000en-UShourly1Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/02/nu-than-hoang-gia-trong-vo-kich-lon-cua-lich-su-phan-1.htmlFri, 02 Feb 2024 03:24:20 +0000https://chanhkien.org/?p=32496Tác giả: Thiên Tải Vân [ChanhKien.org] Lịch sử xoay vần giống như một vở kịch dài đằng đẵng, mỗi người chúng ta đều đóng một vai trong vở kịch lớn này. Một số vai diễn trong đó lại không phải là ý nguyện của con người, thậm chí khiến người ta đau khổ tận cùng, […]

The post Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Tải Vân

[ChanhKien.org]

Lịch sử xoay vần giống như một vở kịch dài đằng đẵng, mỗi người chúng ta đều đóng một vai trong vở kịch lớn này. Một số vai diễn trong đó lại không phải là ý nguyện của con người, thậm chí khiến người ta đau khổ tận cùng, nhưng lịch sử đã làm ra an bài như vậy, bạn cũng không thể không đi đóng vai đó. Tuy nhiên, nếu bạn vén lớp màn sương mù của thời gian và không gian, bạn sẽ phát hiện tuy rằng những an bài này rất phức tạp, nhưng chúng không hỗn loạn lộn xộn mà là vô cùng có trật tự, tự có huyền cơ và mục đích ở trong đó. Cũng như hàng vạn con suối phải chảy về sông, hàng ngàn con sông phải đổ ra biển cả.

1. Tại sao lại tức giận vung trượng?

Ở thành Bắc Kinh cũ (trước năm 1949) có rất nhiều chùa chiền, miếu mạo với các loại khác nhau, tính ra có lẽ lên tới hàng nghìn, trong đó nhiều nhất là miếu Quan Đế, tương truyền chỉ riêng ở thành Bắc Kinh cũ, những ngôi chùa, miếu thờ riêng Quan Công và cả thờ chung Quan Công có tổng cộng là 116, còn nhiều hơn cả chùa thờ Quan Âm. Miếu Quan Đế ở vùng đất Thần Châu, cũng là nhiều nhất. Đặc biệt là đoạn thời gian vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, tốc độ tăng trưởng lại càng nhanh.

Do được các đế vương các triều đại tôn sùng, địa vị của Quan Vũ dần trở nên nổi bật, từng bước được thần thánh hoá, được quan lại và dân chúng tế tự một cách phổ biến, được xưng là “võ vương”, “võ thánh nhân”, đứng cùng hàng ngũ với “văn vương”, “văn thánh nhân” Khổng Tử. Ông ấy phù hợp với nhu cầu của những người khác nhau, Quan Vũ là hoá thân của trung nghĩa, trong con mắt của đế vương các thời đại, ông ấy là trung thần nghĩa sĩ; ba người kết nghĩa vườn đào, đồng cam cộng khổ là tấm gương mẫu mực của tình bạn chân thành; ông ấy giảng nghĩa khí, trong lúc nguy nan trung trinh không thay lòng, gặp nạn không trốn tránh, dám gánh vác nguy hiểm.

Kỳ thực còn có nguyên nhân ở tầng thâm sâu hơn nữa. Nghe nói rằng vào cuối thế kỷ 19, Ngọc Hoàng đã từng làm thiên đế cùng với Vương Mẫu do thọ mệnh trời đã mãn, nên đã hạ giới chuyển thế thành người, mà người thay thế lại chính là Quan Đế. Ở nhân gian, cũng có không ít cao nhân biết được sự việc ở trên trời, xuất phát từ sự tôn kính Quan Đế, đã tu sửa không ít miếu Quan Đế. Khi ấy, hương hỏa của Quan Đế cũng trở nên vô cùng hưng thịnh.

Tuy nhiên, thời gian trôi qua, chớp mắt một cái, vào những năm 80 của thế kỷ 20, lúc này Ngọc Đế chuyển thế xuống nhân gian cũng đã đi hết gần 100 năm cuộc đời con người và quay về thiên giới. Lúc này Quan Đế lại không có ý định nhượng lại ngôi vị, mà Ngọc Đế lại cho rằng Quan Đế đã tại vị 100 năm, không thể tiếp tục ngôi vị nữa, thế là không tránh khỏi một trường tranh chấp đế vị. Vào hôm ấy, hai Đế trong khi đàm phán đã phát sinh lời qua tiếng lại, không có chút lời hay lẽ phải nào, việc hai vị Đế tranh chấp kịch liệt đã kinh động tới một vị nữ Thần, vị nữ Thần này nhất thời phẫn nộ, đã vung trượng đầu rồng lên, đẩy Quan Đế ngã xuống đất, nửa tháng cũng không thể ra khỏi giường.

Vị nữ Thần này là ai, vì sao lại tức giận như vậy? Bà là chị ruột trên trời của Ngọc Đế, từng vào triều đại nhà Tống chuyển sinh xuống nhân gian làm Xà Lão Thái Quân. Trượng này của bà không phải là vì bênh vực Ngọc Đế, mà là vì Quan Đế nói lời không đúng mực đã làm tổn thương những người con gái của Ngọc Đế. Quan Đế khi còn sống ở nhân gian không coi trọng giới nữ lưu, lên trời thì tính cách cũng không thay đổi. Mà những người con gái của Ngọc Đế, là bảy vị công chúa của nhà trời, nhiều lần bị lịch sử an bài xuống phàm gian, chịu đủ hết thảy khổ nạn và khuất nhục ở nhân gian. Trượng này của Lão Thái Quân, hoàn toàn là vì bất bình cho những người họ.

Những công chúa nhà trời này đã từng chuyển sinh thành những ai? Họ chính là Vương Chiêu Quân (đại công chúa), người con gái quốc sắc thiên hương gả cho đại mạc xa xôi, Tôn Thượng Hương (ngũ công chúa) tài mạo xuất chúng, vì nước vì tình mà chết, Phàn Lê Hoa (tam công chúa) người con gái nhưng có tính cách nam giới, trung dũng phi thường, Nhạc phu nhân (vợ của Nhạc Phi, thất công chúa) kiên trinh hiếu thuận, trải qua mọi khổ nạn, Tống Khánh Linh (lục công chúa) luôn thích từ thiện, bác ái cương cường,… Họ là những ngôi sao sáng lấp lánh trên bầu trời của dân tộc Trung Hoa, họ vì sự hoà hợp của dân tộc Trung Hoa và sự phát triển của văn hoá đã đóng góp những cống hiến bất diệt. Những gì tôi kể ở đây chỉ là một trong những kiếp sống của họ, kỳ thực, họ cũng đã từng nhiều lần chuyển thế làm người, như thất công chúa từng chuyển thế thành Lý Tịnh phu nhân (mẫu thân của Na Tra), Nhạc Phi phu nhân, vương phi của Khang Hy,… Ý của Lão Thái Quân là ta không quản việc các người tranh vị, ta cũng không muốn quản, nhưng không thể xúc phạm những người cháu gái của ta.

Lão Thái Quân khi còn ở thế gian con người một đời trải qua trăm trận, thân không hề tổn thương, điều này khiến bà cảm thấy tự hào; thế nhưng người đầu bạc lại phải tiễn kẻ đầu xanh, con cháu của bà lần lượt hiến thân trên chiến trường bảo vệ nước nhà, tuổi trẻ thoáng qua, cho dù hơn một ngàn năm trôi qua, Lão Thái Quân kiên cường cũng cảm thấy vô cùng đau lòng. Lão Thái Quân sau khi tự mình thống lĩnh 12 quả phụ tây chinh giành chiến thắng khải hoàn trở về quê hương, ẩn cư nơi quê nhà, tâm quay về với tự nhiên, nhất tâm hướng Đạo, cuối cùng nhục thân thành Thần, sau trăm tuổi chuyển đến vương quốc Thuỷ Tức (Âm). Dân gian lưu truyền Lão Thái Quân tóc bạc rồi lại xanh, răng gãy rồi tái sinh, quả không phải lời hư giả.

Một ngày nọ vào năm 2004, một số công chúa từ trên trời đã đến vương quốc Thuỷ Tức để thăm người cô ruột của họ. Các vị Thần nhìn bó tóc và giỏ răng nhỏ do Lão Thái Quân tu luyện hơn nghìn năm để lại, đều thở dài không thôi. Lão Thái Quân cười nói với chư Thần, nếu như các vị bằng lòng, ta sẽ cho các vị một cái, con cháu của các vị sẽ trở thành quan lớn. Chúng Thần không quan tâm đến danh lợi và sự giàu có ở nhân gian, họ mỉm cười và cảm ơn.

Lại nói, ngay khi Ngọc Hoàng vừa mới giành được ngai vàng và mọi việc đang diễn ra suôn sẻ thì trong cung đình lại xảy ra nội chiến, nguyên nhân là những người con gái của ông và một số thiên binh, thiên tướng đã làm loạn.

2. Chịu đủ khổ nạn quay trở về Thần vị

Nói về việc Ngọc Đế trở lại ngai vàng, chớp mắt đã trải qua tám, chín năm, ông đã hoàn toàn quên mất Vương Mẫu, người cùng với ông hạ thế, nhưng lại chuyển sinh ở nơi khác. Vương Mẫu lúc này cũng đã trải qua hết những khổ nạn cuộc đời của bản thân, nhưng bà ấy lại không quay trở về thiên giới, mà là bị đày xuống địa ngục tám, chín năm.

Vương Mẫu từng nhiều lần hạ thế, từng hai lần chuyển sinh vào nhà của đế vương, hai lần chuyển sinh vào nhà của bách tính bình dân. Ngô Quốc Thái ở thời Tam Quốc, tức mẫu thân của Tôn Quyền chính là bà ấy, con gái của bà Tôn Thượng Hương chính là ngũ công chúa chuyển thế; Tiêu Thái Hậu của nước Liêu vào thời Tống cũng chính là bà (Chú thích: Liêu Thái Hậu là Tiêu Xước vợ của Liêu Cảnh Tông, mẹ của Thánh Tông, tự Yến Yến, sử gọi là Hoàng Thái Hậu, bà phò tá Cảnh Tổng bệnh yếu, quyết định các việc lớn quân sự quốc gia trong 14 năm, lại giám hộ cho Thánh Tông còn nhỏ, lâm triều nhiếp chính 27 năm, cai trị nhà Liêu hơn 40 năm vô cùng xuất sắc. Bà chủ trương cách tân, hướng về Bắc Hán, khiến triều Liêu trong thời kỳ bà cai trị đạt đến thời thịnh trị đỉnh cao, bà là một vị nữ chính trị gia và quân sự gia có hùng tài thao lược của nhà Liêu, cũng là một người phụ nữ kiệt xuất không dễ thấy trong lịch sử Trung Quốc), Yến thái hậu có một người con gái chính là công chúa nhà trời chuyển thế.

Vương Mẫu vào kiếp này chuyển sinh vào gia đình bách tính bình thường, cuộc đời bà trong kiếp này đã trải qua đủ mọi khổ nạn và khuất nhục. Phụ thân của bà chính là một nông dân thực thà thiện lương, mà người mẹ lại là một người không có nhân tính, một người phụ nữ ác độc thích hút thuốc, bà chưa từng nhận được một ngày tình cảm của người mẹ. Lúc còn nhỏ, bà toàn ở trong sự che chở và trên lưng của người cha mà sống qua ngày, khi mới năm tuổi đã bị người mẹ độc ác gả cho người khác để làm vợ nuôi từ nhỏ. Bà ở trong một gia đình họ Trần làm vợ nuôi từ nhỏ, đồ ăn là lá cây khô, mặc bộ quần áo đơn rách rưới, ngủ trên cỏ khô, đắp chăn là áo xơ dừa, mùa đông bởi vì quá lạnh, chỉ có thể co ro đến khi trời sáng. Mẹ chồng của bà cũng rất ghê gớm, có một lần bà ăn “cơm” kẹp một miếng dưa chua, bị mẹ chồng chửi bới một trận, chửi bà ăn ngon, còn bị mẹ chồng dùng đũa đánh sưng cái tay nhỏ. Đứa trẻ sáu, bảy tuổi trong trời đất băng tuyết lại phải trèo đèo vượt núi để gánh nước, có một lần từ trên núi lăn một vòng gãy chân. Mà mẹ chồng lại không thương xót đứa trẻ nhỏ, mà lại tiếc cho cái thùng của mụ, vì chiếc thùng vỡ của mụ, lại đánh bà một trận đau. Sau ba năm làm dâu nhỏ tuổi, bím tóc dài xanh mượt đã biến thành những sợi tóc vàng khô.

Một đời của bà hai lần bị bán, một lần là khi bà 14 tuổi bị mẹ bán, lại một lần nữa là khi bà hơn 30 tuổi sau khi chồng mất bị ác phụ ở trong họ bán. Bà một đời sinh được chín người con gái, tám người trong đó đã bị chết trong những năm loạn lạc. Tuy nói rằng bà đã khổ một đời, nhưng bản tính từ bi chính trực không thay đổi. Mẹ và em trai của bà sau này đã tham gia đảng X thời kỳ đầu, kỳ thực chính là làm cường đạo thổ phỉ, từng nhiều lần cướp đoạt được những thứ của nhà giàu. Bà cho rằng những thứ tài vật này lấy được không thuần chính, không trong sạch, vì thế một xu cũng không cần, lại phát thệ đoạn tuyệt quan hệ với người mẹ độc ác và người em trai không ra gì; trong thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, bà từng lấy danh nghĩa nấu cơm cho người Nhật Bản, lặng lẽ thả người phụ nữ trẻ bị quân Nhật bắt được, bản thân lại bị quân Nhật đánh thậm tệ.

Vương Mẫu hạ địa ngục được tám, chín năm thì Thần điểu ở Nhạc Vương miếu cũng hướng lên Nam Thiên Môn kêu lên cả tám, chín năm. Những người con gái của Vương Mẫu, những người công chúa ở trên trời nhìn thấy mẫu thân vẫn không thể quy vị, trong tâm nóng ruột đứng ngồi không yên, một vài vị thủ lĩnh trong thiên binh thiên tướng cũng bất bình lên tiếng cho Vương Mẫu.

Trong số các vị công chúa, thì đại công chúa là có bản lĩnh nhất, lục công chúa có tài ăn nói nhất, khi đại công chúa chuyển thế thành Vương Chiêu Quân, người ta tán dương cô là quốc sắc thiên hương, vẻ đẹp kinh động lòng người, kỳ thực cô ở thiên giới tính cách mười phần mạnh mẽ, khá giống Ngọc Đế; mà lục công chúa tính cách ôn hoà, nói năng khéo léo, khá giống Vương Mẫu. Đại công chúa có Đạo Pháp thập toàn, mỗi một loại pháp thuật đối ứng với một loại pháp bảo, theo tôi được biết thì có bốn pháp bảo là kiếm trảm yêu, gương chiếu yêu, thừng trói tiên, bình hấp hồn. Bốn pháp bảo này cực kỳ có linh tính, giống như kiếm trảm yêu, không chỉ trảm yêu mà còn trảm tiên, có điều nếu như bạn là người tốt thì cho dù có phóng vào bạn, nó cũng sẽ tự động xoay chuyển, tuyệt đối không đả thương người vô cớ. Dù là Ngọc Đế cũng nể đại công chúa ba phần. Mấy vị thiên tướng cũng rất xuất sắc, trong đó một vị thiên tướng tính tình cương trực, giọng nói mạnh mẽ, khi tức giận lời nói ra oang oang như sấm, trên trời dưới đất đều có thể nghe được âm thanh của ông, bọn họ làm náo loạn yêu cầu đón Vương Mẫu về Thiên đình.

Sau khi Vương Mẫu quy vị, đội chiếc mũ phượng, tay vịn vào trượng đầu rồng, triển hiện uy nghiêm trở thành vị Thần lớn nhất, chưởng quản “địa bàn” (đĩa của đất), “địa bàn” chủ yếu là an bài đại sự ở nhân gian; “địa bàn” đối ứng với “thiên bàn”, “thiên bàn” do Ngọc Đế đích thân nắm giữ. Sau khi Vương Mẫu quy vị, Thần Thánh ở tám phương đều đến chúc tụng, trong đó có một vị vẫn luôn quan sát bà, cũng chính là kẻ địch của bà là Xà Thái Quân. Hai người họ vào triều đại nhà Tống từng đối đầu trời long đất lở, hai người có mối thù gặp nhau, nhưng lại hết sức thân mật. Ở trên từng nói đến, Xà Lão Thái Quân chính là chị ruột của Ngọc Đế ở trên trời chuyển thế, Vương Mẫu (Yến Thái Hậu) và Thái Quân, khi hạ thế trở thành kẻ thù lớn nhất của nhau. Ở trên trời là chị em tốt, an bài của lịch sử có lúc lại tàn khốc đến như vậy! Kỳ thực những vị Thần này là dùng nhiệt huyết thậm chí là sinh mệnh một đời để viết nên lịch sử, để nói cho con người ta biết, thế nào là “trung”, thế nào là “nghĩa”, trung, hiếu, tiết, nghĩa là tiêu chuẩn Thần định cho con người, đồng thời cũng là thúc đẩy sự hoà hợp của các dân tộc, dẫn dắt nhân loại đi đến văn minh.

Sau này khi Vương Mẫu đội mũ nhỏ mặc áo tuyết tuần tra địa ngục, nhìn thấy rất nhiều sinh mệnh ở địa ngục chịu khổ cảm thấy đau lòng, nhưng khi thấy người mẹ ở nhân thế của bà còn đang trong địa ngục khóc lớn, bà cũng không buồn bận tâm. Bà không thể quên được, mẹ của bà hút thuốc như thế nào, đã làm bại hoại gia đình ra sao, để bà ở nhà họ Trần chịu đủ thứ tra tấn giày vò; không thể quên được, mẹ của bà khinh thường người cha chân chất thật thà của bà như thế nào, thường xuyên thông gian cấu kết với “đồng chí cách mạng” ở bên ngoài làm điều ác, lại còn ác tâm bán cả con của mình đi, bà không thể quên được khi mình bị bán đi, cha của bà từ đó lâm bệnh, không ngừng kêu gọi con gái mà đoạn mệnh nơi hoàng tuyền,… Dùng lời nói của Vương Mẫu mà nói thì loại người không bằng chó lợn này, uổng phí làm người mẹ.

Tôi cũng từng nói chuyện với Vương Mẫu, tại sao ngài với thân phận là một vị Thần lớn như vậy lại chuyển thế làm bách tính bình dân, chịu cái khổ lớn như vậy. Vương Mẫu nói, việc Thần hạ thế, chịu khổ, chịu nạn, làm việc tốt, đều có thể tăng công tích đức, đây gọi là chịu cái khổ trong những cái khổ, làm một người ở trên người, người ở trên người có nghĩa là gì? Thần mới là người ở trên người. Nếu như chỉ hưởng thụ, tiêu xài hoang phí, cũng sẽ chuyển thế thành lợn, chó, trâu, ngựa để hoàn trả những gì đã nợ, giết người phải đền mạng, nợ thì phải trả, ngươi nhìn xem, hiện nay chẳng phải cũng có hoàng đế của triều trước vì không giữ nhân đạo, phung phí vô độ, vẫn đang lăn lộn trên phố sao, nếu như làm một việc xấu lớn vi phạm thiên đạo, như lạm sát vô cớ, Thần Tiên đi lầm đường, cũng bị đào thải trong kiếp nạn, cũng bị trời đánh sét đánh. Ngươi xem xem, có vị Thần nào hạ thế mà không phải chịu khổ, cho dù hạ thế làm hoàng đế, mỗi ngày vẫn phải lo lắng vì quốc gia, vì lê dân bách tính, chẳng phải ngủ cũng không ngon giấc đó sao!

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37990

The post Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn – Một ngành khoa học mới đánh dấu bước ngoặt về trải nghiệm cận tử (Phần 1): Lời mở đầuhttps://chanhkien.org/2024/01/mo-canh-cua-sinh-tu-kham-pha-bi-an-cua-linh-hon-mot-nganh-khoa-hoc-moi-danh-dau-buoc-ngoat-ve-trai-nghiem-can-tu-phan-1-loi-mo-dau.htmlWed, 31 Jan 2024 05:40:46 +0000https://chanhkien.org/?p=32485[ChanhKien.org] Cuốn sách “Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn” được tổng hợp từ nhiều hiện tượng trải nghiệm cận tử, đồng thời tác giả sẽ dựa trên trí huệ trong quá trình tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để đưa ra một số lời giải thích đối với hiện […]

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn – Một ngành khoa học mới đánh dấu bước ngoặt về trải nghiệm cận tử (Phần 1): Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Cuốn sách “Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn” được tổng hợp từ nhiều hiện tượng trải nghiệm cận tử, đồng thời tác giả sẽ dựa trên trí huệ trong quá trình tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để đưa ra một số lời giải thích đối với hiện tượng này. Hy vọng quyển sách này sẽ giúp ích cho những ai đang tìm kiếm chân lý nhân sinh của đời người.

1. Lời mở đầu

Đời người ngắn ngủi, từ xưa đến nay, bất luận là đế vương khanh tướng, hay là bậc thánh hiền hào kiệt, đều khó tránh khỏi cái chết. Rất nhiều người cho rằng, con người chết giống như ngọn đèn tắt, là chấm dứt hết rồi, tất cả những gì khi còn sống đều trở thành khói mây. Thế nhưng, sự tồn tại của đời người lẽ nào chỉ như giây phút thoáng qua; nhục thể tiêu tan rồi, lẽ nào đồng nghĩa với việc sinh mệnh vĩnh viễn biến mất? Kỳ thực trong thế giới mà chúng ta đang sinh sống này, có quá nhiều hiện tượng và ví dụ nói cho chúng ta biết rằng, con người thực sự có linh hồn, mà linh hồn con người sẽ không tiêu mất sau khi chết, do đó tất cả những gì một người làm lúc sống, từ việc lớn cho tới việc nhỏ, dù tốt hay xấu, cũng đều sẽ mang theo cùng với linh hồn của người đó trong nhiều đời nhiều kiếp. Các bằng chứng cho thấy sự tồn tại của linh hồn là nhiều vô số kể. Trong cuốn sách điện tử này, chúng tôi đã chuẩn bị để cùng mọi người khám phá một nội dung trong vô số hiện tượng và trường hợp, đó là: Trải nghiệm cận tử (Viết tắt là NDE:Near Death Experience).

Rất nhiều người trong đời từng trải qua một lần hoặc thậm chí nhiều lần trải nghiệm thần bí: Nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ, gặp người thân đã qua đời, thậm chí chết đi sống lại, v.v. Trong khi mọi người giữ kín những hiện tượng này, thì những nhà khoa học chính trực và có nhận thức mới mẻ đã lặng lẽ bắt đầu một cuộc nghiên cứu khó khăn nhất trong lịch sử khoa học nhân loại, nhưng lại có ý nghĩa nhất, đó chính là nghiên cứu về trải nghiệm cận tử.

Trải nghiệm cận tử là một hiện tượng khá phổ biến. Ngay từ hơn 2000 năm trước, Plato trong cuốn sách “Cộng hòa” (The Republic) của mình đã viết về hiện tượng trải nghiệm cận tử. Nghiên cứu cho thấy, những người từng trải nghiệm cận tử phân bố tại các khu vực khác nhau trên thế giới, các chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và bối cảnh văn hóa khác nhau. Theo cuộc điều tra của Công ty thống kê Gallup nổi tiếng của Mỹ dự đoán, chỉ tính riêng nước Mỹ thì đến nay có ít nhất 130 triệu người trưởng thành sống khỏe mạnh từng kinh qua trải nghiệm cận tử, nếu tính luôn cả trẻ em, con số này sẽ còn cao hơn. Nghiên cứu của tiến sĩ Kenneth Ring và một số nhà nghiên cứu khác tiết lộ thêm rằng, có khoảng 35% người khi cận kề cái chết có trải nghiệm cận tử. Hiện nay, hiện tượng trải nghiệm cận tử đang ngày càng thu hút các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực. Trong đó rất nhiều đều là học giả sáng giá trong lĩnh vực mà họ đã nghiên cứu. Ngoài tiến sĩ Kenneth Ring của trường đại học Connecticut, còn có Melvin Morse giáo sư của Trường đại học Washington, tiến sĩ Raymond A. Moody của trường đại học Nevada, tiến sĩ Ian Stevenson của trường đại học Virginia, tiến sĩ Linz Audain bác sĩ khoa nội của Đại học George Washington và đồng thời ông cũng là giám đốc điều hành cấp cao của công ty Mandate, tiến sĩ Charles Tart giảng viên Đại học California, v.v. Các bài báo liên quan đến nghiên cứu cận tử không ngừng được công bố trên các tạp chí y khoa có uy tín quốc tế như The Lancet và The Journal of Near Death Studies (Nghiên cứu trải nghiệm cận tử). Năm 1987, theo đề xuất của một số học giả, hiệp hội nghiên cứu trải nghiệm cận tử quốc tế chính thức được thành lập. Có thể nói, sự nghiên cứu đối với lĩnh vực thần bí này của giới khoa học đang trên đà phát triển.

Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử (NDE) thời cận đại bắt nguồn từ nhà địa chất học người Thụy Sĩ Albert Heim. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ông bắt đầu nghiên cứu NDE từ một lần trải nghiệm của bản thân mình. Heim thích leo núi, một lần, khi ông đang leo lên dãy núi Alps (hay Anpơ), thì bị một trận cuồng phong thổi rơi xuống vách núi. Trong khoảng khắc đó, một kỳ tích đã xảy ra.

—–

“Dường như, ở trên vũ đài cách tôi một khoảng, tôi nhìn thấy mình xuất hiện với nhiều hình tượng khác nhau và toàn bộ quá khứ của bản thân. Tôi nhìn thấy bản thân mình là vai chính trong vở diễn này. Mỗi sự vật dường như đều bị ánh sáng của thiên đường tô điểm, không còn bi thương và lo âu, tất cả đều tươi đẹp rực rỡ. Ký ức về nỗi khốn khổ mà tôi đã từng chịu đựng hiện ra rất rõ ràng, nhưng nó không làm cho người ta cảm thấy đau buồn. Không có xung đột và mâu thuẫn, xung đột đã chuyển hóa thành yêu thương. Tư tưởng cao thượng và hòa ái ngự trị và thống nhất những ấn tượng đơn độc. Một loại cảm giác tĩnh mịch thần thánh giống như âm nhạc kỳ diệu gột rửa tâm hồn tôi”.

Trải nghiệm đó đã thôi thúc Heim tiến hành nghiên cứu sâu rộng về rất nhiều người đã từng kinh qua trải nghiệm tương tự, bao gồm cả những người lính bị thương trong chiến tranh, từ những công nhân xây dựng rơi từ trên công trình kiến trúc xuống, những ngư dân suýt chết đuối,… Năm 1892, trong luận văn nghiên cứu của mình ông đã nhắc đến: Trong số 30 người bị rơi và may mắn sống sót mà ông khảo sát, thì 95% người nói rằng họ cảm thấy bình tĩnh và hạnh phúc trong quá trình cận kề cái chết. Ông còn phát hiện trải nghiệm của họ là cực kỳ giống nhau: Rất nhiều hoạt động ý thức bay vút qua, năng lực siêu phàm dự đoán trước kết quả, ý thức tiêu tán khắp thời gian, nhanh chóng nhớ lại một đời của mình, nhìn thấy những cảnh tượng mỹ lệ siêu nhiên, nghe được âm nhạc thiên thượng văng vẳng bên tai.

“Không một chút bi thương, cũng không có nỗi sợ hãi có thể xuất hiện khi gặp một chút nguy hiểm… Không có lo lắng tuyệt vọng và thống khổ, chỉ có nghiêm túc, tiếp nhận một cách sâu sắc; tinh thần minh mẫn và hoạt động cao độ”.

Nghiên cứu của Heim dường như trở thành chất xúc tác mạnh mẽ khiến rất nhiều nhà nghiên cứu đã lần tiếp bước ông. Năm 1903, tác giả người Anh F.W.H. Myers đã hoàn thành cuốn sách “Bản chất con người và sự tồn tại của nó khi nhục thể tử vong” (Human personality and its survival of bodily death) gồm hai quyển; năm 1907, James H. (James Hervey) đã xuất bản bài báo “Ảo giác của người đang hấp hối” tại Hoa Kỳ, mang lại sức ảnh hưởng rất lớn. Năm 1926, nhà vật lý học nổi tiếng người Anh William Barrett đã xuất bản cuốn “Ảo giác lúc lâm chung”. Trong thời gian này, nghiên cứu cận tử nhận được sự ủng hộ rộng rãi.

Năm 1959, nhà tâm lý học Karlis Osis thuộc Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ lại tiếp tục nghiên cứu của Albert Heim bằng cách phân tích hàng trăm ghi chép chi tiết về trải nghiệm của bệnh nhân trong quá trình tử vong. Năm 1972, với sự giúp đỡ của E.Haraldsson, một nhà tâm lý học tại Iceland, nhóm nghiên cứu đã vượt qua ranh giới chủng tộc và văn hóa, mở rộng nghiên cứu sang Ấn Độ. Họ hợp tác cùng nhau và xuất bản cuốn sách Thời khắc tử vong (At the Hour of Death, 1972). Osis kết luận:

“Mặc dù nhiều bệnh nhân rơi vào trạng thái mất trí nhớ, bất tỉnh nhưng vẫn có những người ý thức giữ được tỉnh táo đến phút cuối cùng. Họ nói đã ‘nhìn thấy’ kiếp sau và có thể kể lại những trải nghiệm của mình trước lúc lâm chung. Ví dụ: Họ đã nhìn thấy người thân quá cố và linh hồn của bạn bè, nhìn thấy các nhân vật trong tôn giáo và truyện thần thoại, nhìn thấy ánh sáng thần kỳ, màu sắc rực rỡ mỹ lệ và những cảnh vật ở thế giới khác. Những trải nghiệm này rất có sức ảnh hưởng, nó mang lại cho họ sự yên tĩnh, an nhàn và tình cảm tôn giáo. Các bệnh nhân đã trải nghiệm ‘cái chết tốt đẹp’ một cách kỳ lạ, điều này hoàn toàn trái ngược với bóng tối và bi thương mà mọi người thường nghĩ về cái chết”.

Vào những năm 1970, Russell Noyce Jr., giáo sư tâm thần học tại Đại học Iowa và đồng nghiệp Roy Clayty đã cùng nhau nghiên cứu lượng lớn các mô tả về người lúc sắp chết, đồng thời cũng tiến hành nghiên cứu đối với những tường thuật mang tính tự truyện của từng cá nhân, trong nhóm nghiên cứu có cả nhà tâm lý học nổi tiếng, bậc thầy tâm thần học người Thụy Sĩ Karl G. Jung. Năm 1944, do mắc bệnh tim, ông Jung đã có trải nghiệm cận tử, trải nghiệm này đã thay đổi quan điểm nhận thức của ông về nhân loại. Ông viết: “Những gì xảy ra sau khi chết thật huy hoàng sáng lạn, nó khó diễn tả thành lời, đến mức cảm xúc và sức tưởng tượng của chúng ta không thể mô tả được đại khái về chúng”.

Trong khoảng thời gian từ năm 1972 đến năm 1974, tiến sĩ Raymond Moody đã thu thập được 150 trường hợp thực tế trải nghiệm cận tử (NDE), từ đó quy nạp những yếu tố thường gặp nhất của NDE: Nhẹ nhàng rời khỏi thân thể; đi qua một đường hầm tối đen; hướng về một chùm sáng mà bay đi; gặp gỡ những người thân thích; nhớ lại toàn bộ cảnh tượng lúc còn sống; không muốn quay trở lại thân thể; nhìn các thời không rõ ràng một cách phi thường; cảm giác thất vọng sau khi được chữa trị. Năm 1975, cuốn sách “Kiếp sau” (Life After Life) của ông được xuất bản, từ đây nghiên cứu trải nghiệm cận tử bước vào giai đoạn mới.

Những yếu tố được Moody liệt kê ra đều được miêu tả tương tự trong các báo cáo về trải nghiệm cận tử sau này, do đó chứng thực các nghiên cứu của Albert Heim, Karlis Osis, Russell Noyce Jr và Roy Clayty. Sau khi tổng hợp các trường hợp trải nghiệm cận tử, ông Moody đã đề xuất “Trải nghiệm lý tưởng hoặc trải nghiệm hoàn chỉnh dựa trên lý thuyết”, ông đã miêu tả như thế này:

“Một người đang cận kề cái chết, khi đạt đến sự thống khổ cực điểm của nhục thân, anh ấy nghe thấy tuyên bố của bác sĩ rằng bản thân mình đã chết, anh ấy bắt đầu nghe được âm thanh hỗn độn, tiếng chuông ngân hoặc tiếng vo ve, đồng thời cảm thấy mình đang lao nhanh qua một đường hầm đen tối. Sau đó, anh ấy đột nhiên phát hiện mình đã rời khỏi nhục thể, nhưng vẫn đang trong môi trường vật chất trực tiếp (Giải thích của người dịch: môi trường xã hội hiện tại). Anh ấy ở phía xa nhìn thân thể của mình, giống như một người đứng bên ngoài quan sát. Anh ấy quan sát quá trình sống lại của mình từ trên cao, cảm xúc hỗn loạn.

Một lúc sau, anh ấy bình tĩnh lại, dần dần quen thuộc với tình trạng này. Anh chú ý tới bản thân mình vẫn có một “thân thể”, nhưng mà tính cách đặc tính của nó so với anh khác biệt quá nhiều. Thoáng chốc lại xảy ra một số sự việc khác. Anh nhìn thấy linh hồn của người bạn đã chết, một vị Thần ân cần nhiệt tình mà anh chưa bao giờ nhìn thấy trước đây — một sinh mệnh giống như tia chớp — xuất hiện ở trước mặt anh ấy. Sinh mệnh này dùng phương thức phi ngôn ngữ để hỏi anh một vài vấn đề, bảo anh ấy đánh giá cuộc đời của mình, trong nháy mắt, những sự kiện chính trong đời của anh được triển hiện ra. Trong nhất thời, anh ấy phát hiện bản thân mình đang đến gần chướng ngại vật hoặc ranh giới nào đó, điều này hiển nhiên là đại biểu cho ranh giới giữa kiếp này và kiếp sau. Thế nhưng anh ấy biết mình nhất định phải trở lại nhân gian, là vì thời khắc tử vong vẫn chưa tới. Bởi vậy cho đến tận bây giờ anh vẫn cảm thấy hứng thú với trải nghiệm đã xảy ra sau khi chết, anh không muốn quay về nhân gian. Nhưng cho dù thái độ của bản thân anh như thế nào, cuối cùng anh ấy vẫn phải nhập vào thể xác và sống lại.

Moody thận trọng nhấn mạnh: Quá trình của mỗi trường hợp trải nghiệm cận tử đều không phải là hoàn toàn dựa theo phương thức kể trên, nhưng ông bị cuốn hút mê mẩn bởi một số trải nghiệm “giống nhau đến kinh ngạc”. Nghiên cứu của Moody đã mở đầu cho các nhà nghiên cứu trải nghiệm cận tử của thế hệ mới, những người xuất sắc trong số ấy gồm có: Tiến sĩ Kenneth Ring, tiến sĩ Michael Sabom, tiến sĩ Melvin Morse,… Nghiên cứu của họ rút ra các kết luận chủ yếu như sau:

– Không thể nghi ngờ gì nữa, trải nghiệm cận tử từng xảy ra nhiều lần trên thế giới. Trải nghiệm cận tử không chỉ giới hạn ở người trưởng thành, mà còn xảy ra ở trẻ em. Khoảng 35% người cận kề cái chết đều sẽ có trải nghiệm cận tử.

– Tuyệt đại đa số người trải nghiệm cận tử đều nói họ cảm thấy yên tĩnh và vui vẻ, mà không phải là thống khổ hoặc bị dày vò.

– Một số hiện tượng mà người trải nghiệm cận tử nhìn thấy không nhất định là trùng khớp với sự hiểu biết của bản thân anh ấy. Ví dụ, nhà vật lý học William Barrett có ghi chép rằng, một số trẻ em trong lúc trải nghiệm cận tử đã nhìn thấy một số thiên sứ không có cánh nên cảm thấy thất vọng.

– Trải nghiệm cận tử có ảnh hưởng rất lớn đối với đương sự, phần lớn những người này phát sinh sự chuyển biến cực kỳ lớn, tích cực, tâm hồn trở nên phong phú. Một số người vô thần luận sau khi kinh qua trải nghiệm cận tử đã hoàn toàn cải biến nhân sinh quan của bản thân, từ đó về sau trở thành người tín ngưỡng hữu thần luận thành kính.

Điều khiến người ta ngẫm nghĩ sâu hơn là, cũng không phải là tất cả những gì mà người trải nghiệm cận tử nhìn thấy đều là cảnh tượng tốt đẹp khiến người ta hạnh phúc. Có một số người trong trải nghiệm cận tử cũng nhìn thấy một số cảnh tượng đáng sợ. Ví dụ: Trong bài viết “Ấn tượng Thiên đường – 100 câu chuyện truyền miệng của những người sống lại sau khi chết” được đăng trên Minh Huệ Net có ghi chép về trải nghiệm cận tử đáng sợ của một trưởng cục cảnh sát ở Đức tên Stein Heideler. Trong một lần trải nghiệm cận tử ông nhìn thấy bản thân bị rất nhiều linh hồn tham lam xấu xí vây xung quanh, trong đó một linh hồn mở miệng lớn như cái chậu máu nhào tới muốn cắn ông. Còn có một số người khi trải nghiệm cận tử đã nhìn thấy những linh hồn có được kết cục khác nhau chiểu theo những việc làm khi họ còn sống. Những trường hợp trải nghiệm cận tử này khiến người ta vô tình nghĩ đến lời dạy “thiện ác hữu báo” của người Trung Quốc thời xưa.

Hiện tượng “linh hồn ly thể” không chỉ giới hạn trong những người cận kề cái chết, có một số ít người đang trong trạng thái thân thể khỏe mạnh cũng có trải nghiệm tương tự. Hiện tượng “linh hồn ly thể” của những người này càng khiến cho các nghiên cứu về NDE trở nên khả thi hơn khi tiến nhập vào thực nghiệm kiểm chứng. Ví dụ, tiến sĩ Charles Tart của Đại học California từng tiến hành kiểm tra thực nghiệm nghiêm ngặt đối với một phụ nữ tự xưng là thường trải nghiệm trạng thái “linh hồn ly thể”. Ông đặt tờ giấy ghi năm chữ số ngẫu nhiên trên một cái giá cao gần hai mét, yêu cầu người phụ nữ nằm trên giường trong phòng thí nghiệm không cách nào nhìn thấy được. Sau đó ông yêu cầu người được thí nghiệm này tìm cách bay tới chỗ cao kia để nhìn nội dung của tờ giấy, tức là “linh hồn ly thể”. Kết quả của thí nghiệm thực chứng là bà đã nói chính xác năm con số trên tờ giấy sau khi tuyên bố rằng linh hồn của bà ly thể vào đêm thứ tư. Mà xác suất đoán trúng năm con số này là 1/100.000, thí nhiệm chứng thực trên đã minh chứng cho khả năng tồn tại khách quan của trải nghiệm cận tử.

Người trải qua linh hồn ly thể nổi tiếng nhất

Trong lịch sử phải kể tới nhà khoa học, nhà triết học và nhà thần học nổi tiếng người Thụy Điển sống tại thế kỷ 18, ông Emanuel Swedenborg. Ông căn cứ theo những cảnh tượng mà bản thân nhìn thấy được trong linh giới khi linh hồn ly thể đi ngao du, lưu lại kiệt tác lớn “Học thuyết thiên đàng” (Heavenly Doctrine), đã miêu tả chi tiết cảnh tượng ông nhìn thấy tại linh giới và những tri thức liên quan tới linh giới mà ông có được khi giao tiếp với các sinh mệnh khác. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng quan trọng đối với những gì xảy ra sau này, nó cũng ảnh hưởng đến nhiều người ngày nay. Nhiều học giả nổi tiếng vô cùng sùng bái ông, bao gồm Carl Jung nhà tâm thần học, nhà văn Mỹ nổi tiếng Helen Keller, nhà thơ Mỹ nổi tiếng Emerson, chính trị gia và nhà khoa học người Mỹ Benjamin Franklin, vợ chồng nhà thơ người Anh Browning, nhà thơ nhà văn nổi tiếng người Đức Goethe, nhà triết học và học giả thiền tông người Nhật Suzuki Daisetsu Teitarō, hai tổng thống Mỹ George Washington và Franklin D. Roosevelt cũng chịu ảnh hưởng của kiệt tác này.

Ngày càng xuất hiện nhiều ví dụ thực tế về trải nghiệm cận tử, các thành quả nghiên cứu ngày càng thấu triệt, khiến cho những người luôn hoài nghi không tin càng khó khăn hơn trong việc che giấu sự thật của trải nghiệm cận tử. Nghiên cứu trải nghiệm cận tử tiết lộ cho chúng ta không chỉ đơn thuần là hiện tượng, mà càng quan trọng hơn là phương pháp tư duy và con đường nghiên cứu được biểu thị bằng hiện tượng; nó không chỉ mở ra cho chúng ta cánh cửa thế giới sau khi chết, nhiều hơn là ý thức, sinh hoạt, cánh cửa của sinh mệnh.

Khoa học đang khám phá thế giới bên kia đạt được tiến triển rất lớn, nhưng khi khám phá lĩnh vực của bản thân nhân loại thì lại giống như nhà vật lý học Einstein từng nói: “Vẫn còn đang trong giai đoạn trẻ sơ sinh”, khám phá điều bí ẩn của bản thân nhân loại chắc hẳn sẽ phải trở thành mục tiêu của khoa học tương lai. Đối với những ai theo đuổi chân lý mà nói, ở chỗ khoa học vẫn chưa dám tiến vào, thì tín ngưỡng và dũng khí có vẻ rất trọng yếu. Nhìn chung từ những hiện tượng trải nghiệm cận tử và những người trải nghiệm cận kề cái chết từ đó có được cảm ngộ đối với nhân sinh, hiện tượng trải nghiệm cận tử có lẽ đang ám chỉ linh hồn của chúng ta không hề tiêu biến khi nhục thể của chúng ta tử vong. Vì để có trách nhiệm vĩnh viễn đối với sinh mệnh bản thân, chúng ta nên thiện đãi với bản thân mình và người khác. Giống như Pierre Teilhard de Chardin từng nói: “Có lẽ trong vũ trụ tồn tại một sự vật như là mục đích, thứ đó như là hy vọng và nhân từ, có lẽ trải nghiệm cận tử là lễ vật hoặc manh mối mà Thần đã ban cho nhân loại để khám phá sự bí ẩn của bản thân nhân loại”.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/zjbooks/life_gate/01.htm

Tài liệu tham khảo:

1. “Ấn tượng Thiên đường – 100 câu chuyện truyền miệng của những người sống lại sau khi chết”, tháng 1 năm 1999.

2. “Mở cánh cửa sinh tử” của Jean Rithie, tháng 10 năm 1998.

3. http://www. iands. org

4. Charles T. Tart,Journal of Near Death Studies, 17(2) Winter 1998

5. Melvin Morse, Paul Perry, Villard Books, New York,1994, Parting Visions: Uses and Meanings of Pre-Death, Psychic, and Spiritual Experiences

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn – Một ngành khoa học mới đánh dấu bước ngoặt về trải nghiệm cận tử (Phần 1): Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bài viết kỷ niệm 20 năm Chánh Kiến – Thảo luận về văn minh 5000 năm Trung Hoa: Công trình thủy lợi Đô Giang Yển chí thiện chí mỹ (Kỳ 1)https://chanhkien.org/2024/01/bai-viet-ky-niem-20-nam-chanh-kien-thao-luan-ve-van-minh-5000-nam-trung-hoa-cong-trinh-thuy-loi-do-giang-yen-chi-thien-chi-my-ky-1.htmlMon, 22 Jan 2024 03:03:32 +0000https://chanhkien.org/?p=32418Tác giả: Phất Hiểu [ChanhKien.org] Ghi chú của ban biên tập: Cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của các đồng tu, sau khi đăng tải bài “Thông tri kêu gọi gửi bài nhân dịp 20 năm Chánh Kiến Net”, chúng tôi liên tục nhận được bài viết của các đồng tu gửi đến. Thời […]

The post Bài viết kỷ niệm 20 năm Chánh Kiến – Thảo luận về văn minh 5000 năm Trung Hoa: Công trình thủy lợi Đô Giang Yển chí thiện chí mỹ (Kỳ 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Phất Hiểu

[ChanhKien.org]

Ghi chú của ban biên tập: Cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của các đồng tu, sau khi đăng tải bài “Thông tri kêu gọi gửi bài nhân dịp 20 năm Chánh Kiến Net”, chúng tôi liên tục nhận được bài viết của các đồng tu gửi đến. Thời hạn cuối cùng nhận bài là ngày 31 tháng 12 năm 2021, do vậy chúng tôi đã lựa chọn ngày 13 tháng 5, ngày sinh của Sư phụ và cũng là ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới, để bắt đầu đăng tải các bài viết. Cũng hy vọng rằng các đồng tu chưa đóng góp có thể nỗ lực viết ra những chánh kiến của mình trong tu luyện Đại Pháp, về nhân thể, sinh mệnh, vũ trụ và vạn sự vạn vật.

Đô Giang Yển nổi tiếng thế giới, là công trình thủy lợi quy mô lớn được xây dựng dưới sự chỉ đạo của hai cha con thái thú quận Thục, Lý Băng (李冰) thời Chiến quốc (cuối thời Tần Chiêu Vương), tọa lạc tại huyện Quan cách thành phố Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên 60 km về hướng Tây Bắc, là công trình trị thủy nhánh sông Mân Giang của Trường Giang, có công năng hợp nhất vừa để dẫn nước cho tưới tiêu, vừa dùng để phòng chống lũ lụt. Đô Giang Yển sau khi xây dựng thành công, đã giải quyết được rất nhiều tác hại do hạn hán và lũ lụt gây ra cho địa phương (khu đồng bằng trũng Thành Đô); từ khu Nội Giang (Đô Giang Yển đã phân chia Mân Giang thành khu Nội Giang và Ngoại Giang) thông qua hệ thống tưới tiêu Bảo Bình Khẩu dẫn nước qua hơn 10 huyện thành, với hơn 520 nhánh sông và kênh đào, phục vụ tưới tiêu cho hơn 300 vạn mẫu ruộng, khiến vùng đồng bằng trũng Thành Đô trở thành một địa khu giàu có bậc nhất, là “Thiên phủ chi quốc” bạt ngàn những cánh đồng phì nhiêu. Đến ngày nay công trình Đô Giang Yển vẫn còn phát huy công dụng của nó, tạo phúc cho bách tính trong vùng suốt hơn 2200 năm. Đô Giang Yển đã được tổ chức giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là danh sách “Di sản văn hóa thế giới”.

Công trình thuỷ lợi Đô Giang Yển có lịch sử lâu đời, vẫn hoạt động đến tận ngày nay, là một công trình “không cần đập” mà dẫn nước, thuận theo thế nước, nổi tiếng thế giới, tạo phúc một phương, là kiệt tác của các bậc tiền bối từ 2000 năm trước. Mỗi một bộ phận cấu thành nên Đô Giang Yển đều cô đọng hàm chứa trí huệ của bậc tiền nhân, như một viên minh châu rực rỡ tại vùng đất Tây Nam Trung Hoa, có thể nói là một trong những kỳ tích của nền văn hóa 5000 năm Trung Hoa.

I. Phân tích về mục đích và nguyên lý thiết kế công trình Đô Giang Yển

1. Vấn đề cần giải quyết

Dải đất Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên là đất vùng trũng, Mân Giang là một nhánh sông chính của Trường Giang, chảy qua khu đồng bằng phía Tây của Thành Đô theo hướng từ Bắc đến Nam, đến vùng huyện Giang, địa thế đột nhiên lại trở nên bằng phẳng, tạo nên phù sa bồi đắp; ngoại thành huyện Quan có ngọn núi Ngọc Lũy chặn đứng thế nước, nên vùng hạ lưu phía Tây Mân Giang thường xảy ra lũ lụt, mà khu vực phía Đông rộng lớn lại thường gặp hạn hán.

2. Nhiệm vụ cơ bản (phân lũ và tưới tiêu)

Ý tưởng của công trình Đô Giang Yển, chính là mở một cửa dẫn ở phía Nam chân núi Ngọc Lũy, khiến sông Mân Giang sẽ tách ra một nhánh nhỏ thông hướng đến phía Đông núi Ngọc Lũy (hướng đến Thành Đô), có tác dụng là: thứ nhất có thể giảm lượng nước của Mân Giang và phân lũ; thứ hai là có thể dẫn nước tưới tiêu vào vùng phía Đông của Mân Giang, nhất cử lưỡng đắc! Khu vực núi bị phân ra gọi là Ly Đôi, chỗ được khai mở cửa dẫn gọi là Bảo Bình Khẩu.

3. Phân chia dòng nước (đê phân dòng nước, Ngư Chủy phân dòng nước)

Ở thượng lưu Bảo Bình Khẩu, lợi dụng bãi cát giữa lòng sông mà thiết kế một cái đập phân dòng nước, chia dòng sông Mân Giang thành hai nhánh, phía đông gọi là Nội Giang, dòng chảy chính phía tây gọi là Ngoại Giang, (chú ý: cả công trình Đô Giang Yển chỉ phân tách con sông Mân Giang ở vị trí này, mà ngoài phần hạ lưu Đô Giang Yển, vẫn giữ nguyên dòng chảy của Mân Giang), cổng dẫn nước phần Nội Giang rộng 150m, cổng dẫn nước phần Ngoại Giang rộng 130m, cửa dẫn nước Nội, Ngoại Giang với độ rộng tỷ lệ khác nhau có thể khiến nước sông cũng được phân dòng theo tỷ lệ tương ứng.

Cấu trúc hai mặt bên của đê phân dòng nước được làm thành dạng đập kiên cố: gọi là đê nội kim cương và đê ngoại kim cương, độ dài lần lượt là 650m và 900m. Đập phân dòng nước có hình dạng như đầu cá, hướng về phía thượng nguồn Mân Giang, phía trước gọi là phân dòng Ngư Chủy. Ngư Chủy có hình bán nguyệt, bề mặt dốc. Tỷ lệ phân dòng nước: Mùa xuân lượng nước ít, cũng là lúc ruộng đồng cần nước cho tưới tiêu, lượng nước dẫn vào Nội Giang sáu phần, còn bốn phần dẫn vào Ngoại Giang; mùa hạ nước nhiều, mực nước dâng cao vượt qua Ngư Chủy, nên sáu phần nước sông được dẫn vào Ngoại Giang, bốn phần cho chảy vào Nội Giang. Ngoài ra còn dùng một vật do nhân công chế tác gọi là “mạ chu” để điều tiết (cũng có thể nói là tinh chỉnh) tỷ lệ lượng nước ở Nội, Ngoại Giang. Mạ chu do ba thanh gỗ lớn xếp thành giá ba chân dùng để giữ cố định những lồng tre dài được xếp đầy đá sỏi ở trong (gọi là trúc long), giúp cho trúc long thể ổn định ở trong lòng sông, nếu đem những mạ chu này liên kết thành một hàng ngang đặt giữa sông, bên ngoài mạ chu đặt những trúc long này, bên trong mạ chu dùng đá sỏi thậm chí có thể rải đất sét đặt chặt lên trên, thì có thể ngăn dòng nước, giảm được lượng nước của bên cần giảm. Thông thường vào tiết xuân, vật này được đặt để ngăn dòng nước ở Ngoại Giang, khi không cần dùng, chỉ cần cắt bỏ mạ chu là được.

Xem thêm về mạ chu và trúc long (nguồn internet)

4. Tự tách gạn cát đá (Phi Sa Yển)

Sự tích tụ cát đá ở lòng sông là một việc lớn cần giải quyết trong việc trị thủy ở sông, hồ, đặc biệt là địa thế đột ngột bằng phẳng của huyện Giang, khiến cát bùn càng dễ bị lắng đọng.

Cách nội đê kim cương về đầu phía Nam hơn 700m (tức đoạn dưới, phần đuôi của đê phân dòng) mở ra một cửa động, khoảng 240m, thiết kế một đập chắn cuốn nước ngắn, gọi là Phi Sa Yển, cách hạ lưu Bảo Bình Khẩu khoảng 120m. Ở bên bờ bên kia của Phi Sa Yển, có một mỏm đá đầu hổ nhô lên ở vùng Nội Giang, dưới tác dụng lực cản cũng như điều hướng của mỏm đá đầu hổ đối với dòng nước và cát đá, đã đẩy dòng sông chảy hướng về phía Ngoại Giang, thậm chí sinh ra các dòng nước xoáy, nước sông cuồn cuộn liền cuốn cát đá vượt qua Phi Sa Yển vào Ngoại Giang, khi thế nước lớn thì đến những khối đá lớn trên đê cũng có thể bị cuốn đi, khéo léo tạo ra và tận dụng động lượng của dòng nước xoáy (lực ly tâm)!

Vì để khống chế chính xác lượng nước ở Nội Giang, ở mỏm đá bên bờ sông đã khắc thêm ba hình người đá, trên ba hình người đá đó có khắc các ký hiệu cũng như nói rõ phương pháp khống chế lượng nước.

5. Hạn chế dòng chảy và đường thông (Bảo Bình Khẩu)

Bảo Bình Khẩu, nghe tên biết ý, chính là khá chật hẹp, kết cấu hình cổ chai, để hạn chế lưu lượng nước. Nó được xây dựng ở đầu cuối của Nội Giang, vị trí mà lượng nước dẫn vào Nội Giang đã giảm đi rất nhiều. Sau quá trình tách gạn cát, nước sông chảy ra sau khi bị hạn chế dòng đã rất hiền hòa đi thông qua Bảo Bình Khẩu dẫn đến khu tưới tiêu cho cả khu đông rộng lớn.

Bảo Bình Khẩu rộng ở hai đầu, thu hẹp ở giữa, trên rộng dưới hẹp, cửa vào rộng 70m, cửa ra rộng 40-50m, trên dưới phần cổ lọ thu hẹp rộng khoảng 20m, cao 19m, phần eo hẹp dài 36m.

6. Phòng hộ và tràn lũ (Đê chữ Nhân)

Có thể thấy, theo thiết kế vào mùa lũ sẽ có bốn phần lượng nước được điều tiết vào Nội Giang, nhưng khi thế lũ quá lớn, dù đã có Bảo Bình Khẩu hạn chế dòng chảy, nhưng nước lũ vẫn sẽ làm mực nước dâng cao, vậy nên mới cần đến Phi Sa Yển để gạn bớt cát đá và lượng nước, cũng như đê chữ Nhân (đập xả lý) phụ trợ xả lũ. Vị trí của đê chữ Nhân ở đầu Nam của Phi Sa Yển (hạ lưu), phía Tây Ly Đôi. Theo hiểu biết của tôi, tác dụng của đê chữ Nhân là: một là tác dụng phòng hộ, ngăn phòng nước trong Nội Giang chảy vào Ngoại Giang, ở đoạn từ Phi Sa Yển đến tận Bảo Bình Khẩu có thế năng nước, áp lực nước, lưu lượng nước rất lớn, Bảo Bình Khẩu lại cách cửa dưới Phi Sa Yển 120m, đồng thời do Bảo Bình Khẩu cản dòng nước, nên ở đoạn này hình thành một vùng nước xoáy (Phúc Long Đàm); hai là có lần xả lũ thứ hai (không để nước lại chảy ngược về Phi Sa Yển), xả lượng nước dư thừa men theo đê chữ Nhân vào Ngoại Giang (dòng chính của Mân Giang); ba là tránh ứ đọng, khiến bùn cát được gạn bỏ, tránh việc bùn cát làm ứ tắc, khiến nước sông chảy từ Bảo Bình Khẩu hướng về phía Đông huyện Quan không còn nhiều bùn cát, dòng nước rất trong sạch. Đê chữ Nhân phụ trợ cho Phi Sa Yển, cả hai đều không thể thiếu. Nếu nói đến tác dụng phòng hộ của đê chữ Nhân, thì hoàn toàn không phải là cấu trúc tường đê chắn cao theo cách “Nghiêm phòng tử thủ”.

7. Dẫn lưu (Đê bách trượng)

Trên tổng thể vẫn thuận theo hướng chảy của dòng sông, nên việc xây đê đập ở giữa sông hoặc hai bên dòng nước có thể khống chế và dẫn dòng nước và bảo vệ bờ sông. Ở bờ Đông thượng lưu của Ngư Chủy phân dòng xây dựng một đê bách trượng (đê cao trăm thước), tổng chiều dài gần 2000m, khiến nước lũ và bùn cát bị ép chảy qua Ngoại Giang, và bảo vệ bờ sông.

8. Tu sửa dọn dẹp bãi bồi (Tuế tu – tu sửa hằng năm)

Để công trình thủy lợi Đô Giang Yển đã tồn tại hơn 2000 năm mà vẫn có thể phát huy tác dụng, thì không thể thiếu “chế độ tu sửa hằng năm”. Cho dù việc gạn bỏ cát, gạn đá, gạn dòng rất có hiệu quả, nhưng qua năm tháng lâu dài cũng khó tránh việc bị tích tụ, làm lòng sông bị bồi đắp cao. Cân nhắc việc trị thủy an toàn, ổn định lâu dài, cha con Lý Băng lại định ra chế độ tu sửa nạo vét bãi bồi hằng năm, gọi là “tuế tu”. Tuế tu là vào mỗi mùa đông xuân nước cạn, vào những ngày nông nhàn, tiến hành dọn sạch lòng sông, tu sửa toàn đê. Từ lúc bắt đầu có sương giá, ở vị trí của phân dòng Ngư Chủy cho ngăn nước Ngoại Giang, để tu sửa Ngoại Giang; đến khoảng trước sau Lập Xuân, lại mở cửa dẫn Ngoại Giang, đóng kín cửa Nội Giang, để tu sửa Nội Giang; sau tiết thanh minh hoàn công.

Nguyên tắc của công việc tuế tu là “Thâm đào than, đê tác yển” (tức là nạo vét cát đá sỏi tích tụ ở lòng sông, làm thấp đi những cát đá sỏi gạn lọc ở Phi Sa Yển). Khi nạo vét thấp lòng sông, dòng nước tự nhiên sẽ khơi thông, không bị tràn vào hai bên bờ, phòng được việc dâng cao hằng năm. Vậy nạo vét lòng sông thấp đến tiêu chuẩn nào? Dưới chân núi bờ bên kia của Phi Sa Yển chôn một khối đá được chạm thành hình con tê giác (thần thú trấn nước), gọi là Thạch Tê (thời Minh được đổi tên thành Ngọa Thiết), bắt buộc phải nạo vét lòng sông đến khi nhìn thấy Thạch Tê thì mới tính là đạt tiêu chuẩn độ sâu.

Tương truyền vào lúc xây dựng Đô Giang Yển, cha con Lý Băng đã trị phục được một con nghiệt long làm mưa làm gió. Ở trên Ly Đôi có một tòa kiến trúc cổ, gọi là Phục Long Quan. Trên ngọn núi nằm phía Đông của phân dòng Ngư Chủy, còn có một ngôi chùa tên Nhị Vương miếu, trên tường có khắc Tam tự kinh của công tác trị thủy “Thâm đào than, đê tác yển”. Còn có tám chữ châm ngôn “Ngộ Loan Tiệt Giác, Phùng Chính Trừu Tâm”, tức là nói, nếu gặp nơi bờ sông uốn khúc, cần trừ bỏ các góc nhọn; tu chỉnh lại lòng sông, ở giữa lòng sông cần bằng phẳng thuận lợi, không được lồi lõm gồ ghề, không được có chướng ngại.

9. Thi công (dùng vật liệu có sẵn ở địa phương)

Công trình thủy lợi cực kỳ lớn Đô Giang Yển này lại dùng những vật liệu vô cùng đơn giản, toàn bộ là vật liệu sẵn có ở địa phương. Đê thì dùng những khối đá cuội lớn dưới lòng sông để xây, đến đoạn nào thì lấy đá ở đó mà xây thành đê, vừa có thể dọn sạch lòng sông, lại không cần vận chuyển xa. Dùng nan trúc dày đan biện thành lồng trúc (trúc long), bên trong xếp đá cuội theo từng lớp để làm đê dự phòng. Nan trúc ngâm trong nước không dễ bị mục nát, trúc ở vùng này chỗ nào cũng có. Theo như cách nói hiện nay, chi phí xây dựng cực thấp, nguyên liệu dùng ít, sản lượng nhiều. Một việc làm nhắm nhiều mục tiêu!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/270801

The post Bài viết kỷ niệm 20 năm Chánh Kiến – Thảo luận về văn minh 5000 năm Trung Hoa: Công trình thủy lợi Đô Giang Yển chí thiện chí mỹ (Kỳ 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (1): Lời tựahttps://chanhkien.org/2023/12/man-dam-trung-y-1-loi-tua.htmlFri, 15 Dec 2023 00:07:19 +0000https://chanhkien.org/?p=32083[ChanhKien.org] Giới thiệu vắn tắt về loạt sách trên mạng “Chánh Kiến” Loạt sách “Chánh Kiến” là dựa trên cơ sở các bài đăng tải trên “Chánh Kiến Net”, do nhóm biên tập Chánh Kiến căn cứ vào đề tài mà chỉnh lý, biên tập và bổ sung các tư liệu liên quan để hoàn […]

The post Mạn đàm Trung y (1): Lời tựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Giới thiệu vắn tắt về loạt sách trên mạng “Chánh Kiến”

Loạt sách “Chánh Kiến” là dựa trên cơ sở các bài đăng tải trên “Chánh Kiến Net”, do nhóm biên tập Chánh Kiến căn cứ vào đề tài mà chỉnh lý, biên tập và bổ sung các tư liệu liên quan để hoàn thành.

“Chánh Kiến Net” (Zhengjian.org) được thành lập vào tháng 12 năm 2000, tác giả của các bài viết đều là người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Những người tu luyện này có mặt ở gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, đến từ mọi ngành nghề, bao gồm các chuyên gia, học giả trong các lĩnh vực khác nhau và các nhân sĩ chuyên nghiệp cũng như sinh viên, công nhân và nông dân. Họ dùng thời gian dư ra sau những giờ làm việc, học tập và lao động bận rộn để tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, trong quá trình tự mình thực hành chân lý của vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn”, cả thân và tâm của họ đều được hưởng lợi, khai trí khai huệ và có được nhận thức hoàn toàn mới về nhân thể, sinh mệnh và vũ trụ. Những tư tưởng mới và tư duy mới của họ nhờ tu luyện mà được thăng hoa, họ đã dùng hình thức các loại văn bản và nghệ thuật khác nhau để đăng lên trang “Chánh Kiến Net”, mong muốn được giao lưu trao đổi với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp và bạn bè quan tâm đến việc khám phá những bí ẩn của vũ trụ, sinh mệnh và cơ thể người.

Nội dung của loạt sách “Chánh Kiến” bao gồm các lĩnh vực như sinh mệnh, tu luyện, văn hóa, lịch sử, khoa học, xã hội, gia đình, giáo dục, Trung y và môi trường. Kho sách với các đề tài rộng lớn này đã công bố những bí ẩn về lý do sinh mệnh vì cái gì mà đến (sinh ra), tại sao lại ra đi (mất đi); diễn giải những biến đổi to lớn của các thiên thể trong vũ trụ; tiết lộ về những nền văn minh tiền sử mà con người chưa biết đến; giải thích những lời tiên tri cổ xưa về ngày nay; xóa bỏ những hiểu lầm, bí ẩn của mọi người về Trung y thông qua những lời kể hùng hồn sống động; tái hiện những kỳ tích có thật về những người tu đạo xưa tu luyện thành tiên trong những câu chuyện sống động; cùng quý vị chèo thuyền du ngoạn trên biển sử, hướng dẫn quý vị đi qua năm nghìn năm lịch sử của đất nước Thần Châu; cùng quý vị ngâm thơ và thưởng thức những câu ca du dương êm dịu từ hàng ngàn năm của đất nước chúng ta ngày xưa; triển hiện chân tính và sự tinh túy của nghệ thuật; nhìn về tương lai của khoa học và văn hóa; mách bảo cho quý vị biết nguyên nhân thường xuyên xảy ra thiên tai nhân họa hiện nay. Tất nhiên, còn có những trải nghiệm thần kỳ và thể nghiệm siêu thường của những người tu luyện Đại Pháp…

Hy vọng loạt sách “Chánh Kiến” sẽ mở rộng tầm nhìn của quý vị, mang lại những gợi mở cho cuộc sống của quý vị.

Lời tựa

Nội dung của Trung y có thể được khái quát trong bốn chữ: “Lý, Pháp, Phương, Dược”. “Hoàng đế nội kinh” và “Thần Nông bản thảo kinh” là khởi nguyên của Lý, Pháp, Phương, Dược của Trung y.

Chương đầu tiên ‘khai tông minh nghĩa’ của “Hoàng Đế nội kinh” chính là dạy con người phải “hợp với Đạo” và theo các mức độ khác nhau của việc “hợp với Đạo”, có bốn loại hình mẫu người được miêu tả cụ thể: Một là “Chân Nhân”, họ có thể có tuổi thọ dài lâu vô hạn; thứ hai là “Chí Nhân”, họ có thể không ngừng kéo dài tuổi thọ và cũng được coi là một loại Chân Nhân; thứ ba là “Thánh Nhân”, họ có thể sống đến trên trăm tuổi; thứ tư là “Hiền Nhân”, họ cũng có thể tăng thêm tuổi thọ nhưng rất có hạn. “Thần Nông bản thảo kinh” chia 365 vị thuốc Trung dược thành ba loại: thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm, trong “thượng phẩm” có rất nhiều vị thuốc “dùng lâu dài, làm nhẹ cơ thể và kéo dài tuổi thọ” và có thể khiến người ta phi thăng. Vì vậy, hậu nhân mới có cách nói “y dược uyên thâm, rất gần với Tiên Đạo”. Có thể dự đoán rằng khi hai vị Viêm Đế và Hoàng Đế truyền lại Trung y và Trung dược, ước nguyện ban đầu của họ là hy vọng rằng mọi người sẽ theo bước chân của những bậc hiền nhân, thánh nhân, chí nhân và chân nhân, đồng hóa với Đạo và hưởng thụ cuộc sống vô tận. Y học như thế là y học giảng về “Đạo” và giảng về “Đức”, là cầu nối để những người có Đức bước vào Đạo.

Giả Nghị thời nhà Hán từng nói: “Nghe nói Thánh nhân thời xưa họ không ở trong triều đình, mà nhất định ở làm nghề bói toán và trị bệnh”. Câu nói này thể hiện lòng nhân từ của Nho gia. Sau khi được Phạm Trọng Yêm thời nhà Tống đề xướng thêm, thì Nho gia đã có cách nói “không làm được lương tướng, thì cũng là lương y”, đặt ra tiêu chuẩn cao nhất cho “Nho y” của Trung y và Trung y được gọi là “nhân thuật” (thuật nhân từ). Trung y như thế không thể lại nói về “Đạo” và “Đức” nữa, nhưng đối với người hậu thế đã mất “Đạo”, mất “Đức” mà nói thì tiêu chuẩn “nhân” vẫn còn rất cao. Nho y có học cho rằng các bậc đế vương, tướng, thầy, Tiên, Phật và các nhân vật nổi tiếng trị quốc cứu người, tế thế độ nhân, chẳng qua là tấm lòng cứu sống người. Cách nói như thế, khiến việc chữa bệnh và cứu người trở thành mục tiêu cuối cùng của y học, và nó khác với ước nguyện “dẫn nhân nhập Đạo” ban sơ của Viêm Hoàng.

Sự phát triển nhanh chóng của khoa học hiện đại không làm giảm số người mắc bệnh, cũng không làm giảm các loại bệnh tật, bởi vì khoa học hiện đại không có cách nào ngăn ngừa được “tâm bệnh” của con người. Những thành quả của khoa học hiện đại đã khiến con người nhận ra rằng tinh thần và cảm xúc của con người có tác dụng chi phối khó mà phán đoán được đối với thể trạng con người; tinh thần và thể xác của con người là một tổng thể không thể tách rời, “tâm” là chủ tể của “thân”. Trung y thời Trung Quốc cổ đại chủ yếu là xem xét bệnh tật từ tổng thể nên việc chẩn đoán và điều trị rất độc đáo, vì vậy hy vọng rằng khi mọi người có nhận thức lại mới về Trung y, y học hiện đại sẽ đi theo một con đường hoàn toàn khác.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

 

The post Mạn đàm Trung y (1): Lời tựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Hiệu quả của việc lan truyền “Cửu Bình” trên Internet (1)https://chanhkien.org/2023/12/hieu-qua-cua-viec-lan-truyen-cuu-binh-tren-internet-1.htmlThu, 30 Nov 2023 22:30:57 +0000https://chanhkien.org/?p=31952Tác giả: Nhất Tiễn Mai [ChanhKien.org] Như chúng ta đã biết, ở Trung Quốc đại lục, tất cả các phương tiện truyền thông đều bị chế độ độc tài ĐCSTQ kiểm soát một cách toàn diện, chế độ độc tài chuyên chế giống như xiềng xích, giam cầm tư tưởng, lời nói, việc làm của […]

The post Hiệu quả của việc lan truyền “Cửu Bình” trên Internet (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Nhất Tiễn Mai

[ChanhKien.org]

Như chúng ta đã biết, ở Trung Quốc đại lục, tất cả các phương tiện truyền thông đều bị chế độ độc tài ĐCSTQ kiểm soát một cách toàn diện, chế độ độc tài chuyên chế giống như xiềng xích, giam cầm tư tưởng, lời nói, việc làm của người dân, thậm chí cả việc kết hôn cưới hỏi, sinh con nuôi con, văn hóa đảng đã thẩm thấu vào mọi ngóc ngách của vùng đất Trung Hoa. Những người lớn lên ở Trung Quốc đại lục từ khi còn nhỏ đã sống trong môi trường bị tà linh cộng sản phụ thể, họ trôi nổi trong biển dục vọng một cách ngây ngô dại dột, trong mê mang, họ dùng những quan niệm hậu thiên biến dị để nhìn nhận và sống qua ngày, rất nhiều người đã hoàn toàn không có tiêu chuẩn thiện ác, hoàn toàn dùng những văn hoá đảng do tà linh nhồi nhét để suy nghĩ, tư duy, làm việc, làm người, văn hoá đảng đã huỷ đi đạo đức văn hoá truyền thống Trung Hoa được truyền thừa hàng ngàn năm, đã huỷ đi sự kính ngưỡng đối với Thần Phật trong tâm của mọi người, đã tạo ra rất nhiều đại diện tà ác của ĐCSTQ, quan chức tham nhũng, văn hoá đảng biến dị đã xuyên suốt mọi hình thái ý thức, khiến rất nhiều người làm việc xấu không chút đắn đo, đã đánh mất hoàn toàn lương tri tiên thiên.

Cửu Bình” của trang Đại Kỷ Nguyên (The Epoch Times) giống như một tiếng sấm giữa mùa xuân gây chấn động khắp vùng đất Trung Hoa, mọi người từ trong mê mang đã có được sự thức tỉnh ở trong tâm, như thể đã tìm thấy được chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc đời, phát hiện ra rằng chiếc chìa khoá này mới là bảo bối mở ra cánh cửa trong tâm, chứ không phải thế giới sặc sỡ khó lường đầy biến hóa trong trùng trùng nguy hiểm ở ngoài kia. Mọi người từ trong “Cửu Bình” đã cải biến tâm thái, từ đó cũng đã quyết định dùng lý trí để nắm bắt chìa khoá của vận mệnh, mở ra cánh cửa hy vọng mới của cuộc đời.

Người ta lan truyền những tin tức chân thực thu được trên Internet cho rất nhiều những bạn bè trên mạng với tốc độ nhanh nhất, giống như hàng vạn quả bom tạo ra phản ứng dây chuyền. “Cửu Bình” truyền nhập vào Trung Quốc đại lục thông qua nhiều kênh khác nhau, có thể nói là thách thức trước giờ chưa từng có đối với ĐCSTQ! Truyền thông Trung Quốc hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của chế độ độc tài ĐCSTQ, toàn quốc từ trên xuống dưới đều là độc tài, lời nói dối tràn ngập phô thiên cái địa, mọi người đã không cách nào có thể xem được tin tức chân thực phát sinh tại Trung Quốc từ truyền hình và báo chí. Bởi vì mọi người biết rằng cần phải thông qua Internet mới có thể thu nhận được những thông tin chân thực, kịp thời hơn so với việc thông qua báo chí và truyền hình, bởi vì tin tức ở đây vẫn là đáng tin cậy hơn nhiều.

Vì chính quyền ĐCSTQ luôn muốn hạn chế quyền tự do ngôn luận của công dân, do đó việc “ngôn luận quá mức” trên Internet đương nhiên gây ra sự sợ hãi trong chính quyền ĐCSTQ, đặc biệt là với sự truyền nhập của Cửu Bình, ĐCSTQ đã dùng các kênh khác nhau nhằm phong toả Internet, nhưng chân tướng của lịch sử thì không thể phong tỏa nổi, phúc âm của sinh mệnh cuối cùng cũng sẽ lan truyền khắp thiên hạ. Hơn nữa, có những quản trị mạng và đặc vụ internet, họ có nhiều cơ hội được thấy chân tướng ở trên Internet nhất, có một bộ phận người trong số họ đã bắt đầu thức tỉnh, không còn tiếp tục quản việc truyền bá chân tướng nữa, bởi vì họ biết rằng người truyền bá chân tướng là người có phúc phận nhất, họ cũng không muốn đánh rơi phúc phận ở trên thân của họ.

Trong số họ có người nói: “ĐCSTQ đáng lẽ sớm phải bị lật đổ, bởi vì nó quá xấu!” Có người hỏi: “Bạn có biết thời gian rảnh rỗi của tôi đều là làm gì không? Thời gian rảnh rỗi của tôi đều là đang làm việc lật đổ tà đảng Trung Cộng, tôi đem ‘Cửu Bình’ mà các bạn đưa cho tôi để truyền đi cho rất nhiều người khác, người quen biết hay không quen biết tôi đều truyền, nhưng mà, người phát ‘Cửu Bình’ ở trên mạng trong số các bạn không nhiều, tại sao không sớm truyền ‘Cửu Bình’ vào Trung Quốc? Như thế thì Trung Quốc cũng không có đen tối như vậy, chúng tôi sớm đã không quản việc này rồi, chúng tôi theo dõi internet 24 giờ cũng là việc rất nhàm chán, xem xong ‘Cửu Bình’, chúng tôi mới biết rằng việc chúng tôi làm là việc thương thiên hại lý”, anh ấy nói rằng anh ấy đã biết sau này phải làm như thế nào.

Đúng vậy! Có bao nhiêu sinh mệnh chưa bị mất lương tri muốn minh bạch chân tướng, bao nhiêu người Trung Quốc đang vật lộn trong biển khổ đen tối muốn có được hy vọng, chúng ta đang sống ở trong quốc gia tự do tín ngưỡng, có phải là đang rất cấp bách, không thể chậm trễ hay không, giữ vững một phần trách nhiệm mà lịch sử giao phó, khiến một quần thể cư dân mạng vô cùng lớn như Trung Quốc, hơn 94 triệu người dùng Internet xem “Cửu Bình” đã sớm minh bạch bản chất xấu xa của tà linh ĐCSTQ, cứu vãn bản thân, cũng là cứu vãn tương lai của dân tộc Trung Hoa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/32006

The post Hiệu quả của việc lan truyền “Cửu Bình” trên Internet (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tinh giải Luận Ngữ (1): Lời nói đầuhttps://chanhkien.org/2023/10/tinh-giai-luan-ngu-1-loi-noi-dau.htmlSat, 07 Oct 2023 03:36:52 +0000https://chanhkien.org/?p=31470[ChanhKien.org] Lời nói đầu “Luận ngữ” là điển tịch nổi tiếng của Nho gia, phần lớn những ghi chép trong sách là những cuộc đối thoại vấn đáp của Khổng Tử và các đệ tử với người đương thời, do các đệ tử của Khổng Tử và những đệ tử đời sau chỉnh lý biên […]

The post Tinh giải Luận Ngữ (1): Lời nói đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Lời nói đầu

“Luận ngữ” là điển tịch nổi tiếng của Nho gia, phần lớn những ghi chép trong sách là những cuộc đối thoại vấn đáp của Khổng Tử và các đệ tử với người đương thời, do các đệ tử của Khổng Tử và những đệ tử đời sau chỉnh lý biên soạn ra.

Hai từ “Luận ngữ” có nghĩa là từ ngữ luận đàm về đạo, nội dung bao gồm rất nhiều những giáo huấn cổ về việc lập thân hành sự, các phương diện như giáo hoá chính trị, tu dưỡng cá nhân, quy phạm đạo đức, giáo dục, triết học đều được viết ra một cách giản dị, súc tích và chân thành, xứng đáng là một bộ sách quý báu về trí huệ nhân sinh, bởi vậy từ cổ chí kim, “Luận ngữ” luôn là bộ sách quý kinh điển mà ai ai cũng đều phải đọc.

Nhận thấy giá trị tham khảo cho việc tu thân trị quốc và hàm dưỡng đạo đức của bộ sách này, Ban biên tập tài liệu giảng dạy Chánh Kiến đặc biệt chọn lọc ra những bài viết trong hơn 200 bài, chia thành ba tập thượng, trung, hạ, để phân tích và thảo luận chi tiết về nội dung từng bài. Ngoài việc giúp độc giả có thể cảm nhận được nội hàm phong phú trong các điển tích của cổ nhân, chúng tôi cũng hy vọng có thể gợi ý cho độc giả mở rộng tư duy, cũng như gợi mở trái tim thuần tịnh đã bị bụi trần che phủ từ lâu của con người hiện đại, đồng thời tìm lại bản tính thuần chân của chính mình thông qua việc bồi đắp những văn hoá truyền thống của cổ nhân.

Ngoài ra, cuốn sách này giải thích các đạo lý một cách đơn giản dễ hiểu và lựa chọn ra những bài viết có liên quan, qua đó sẽ giúp độc giả không bị khoảng cách về thời không mà có thể đắm mình trong văn hoá cổ điển đẹp đẽ, gợi mở chính kiến và thiện căn của sinh mệnh, làm sống dậy những tinh thần đạo đức và hy vọng mà con người hiện đại nên có. Rất mong bạn đọc ở các lĩnh vực có thể góp ý, chỉ giáo để chúng ta cùng nhau nỗ lực làm sâu sắc thêm cũng như phát huy văn hoá dân tộc Trung Hoa!

Trân trọng,

Ban biên tập tài liệu giảng dạy Chánh Kiến

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868

The post Tinh giải Luận Ngữ (1): Lời nói đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài tâm đắc về “Yểu điệu thục nữ” (1): Bước ra khỏi đầm lầy của ghen tuông, đố kỵhttps://chanhkien.org/2023/09/loat-bai-tam-dac-ve-yeu-dieu-thuc-nu-1-buoc-ra-khoi-dam-lay-cua-ghen-tuong-do-ky.htmlSun, 03 Sep 2023 04:49:49 +0000https://chanhkien.org/?p=31227Tác giả: Hiểu Lăng [ChanhKien.org] Lời tựa “Kinh Thi” viết rằng: “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”. Yểu điệu thục nữ ở đây không phải là cái mà con người hiện đại ngày nay cho là người phụ nữ có dung mạo, vóc dáng xinh đẹp nữ tính. Người xưa đánh giá về […]

The post Loạt bài tâm đắc về “Yểu điệu thục nữ” (1): Bước ra khỏi đầm lầy của ghen tuông, đố kỵ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hiểu Lăng

[ChanhKien.org]

Lời tựa

“Kinh Thi” viết rằng: “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”. Yểu điệu thục nữ ở đây không phải là cái mà con người hiện đại ngày nay cho là người phụ nữ có dung mạo, vóc dáng xinh đẹp nữ tính. Người xưa đánh giá về người phụ nữ, coi trọng “cái đẹp trong tâm gọi là ‘yểu’, cái đẹp bên ngoài gọi là ‘điệu’”. Yểu điệu, vốn là chỉ trong nội tâm có đức tính tốt đẹp, bề ngoài đoan trang xinh đẹp, ‘thục’ là có ý nghĩa đẹp và lương thiện. Do đó, yểu điệu thục nữ vốn là chỉ người con gái hiền thục, vẻ đẹp và đức hạnh song toàn, có bên trong phải có bên ngoài, bên ngoài thanh tú mà bên trong có trí huệ. Người con gái như vậy, mới có thể trở thành người bạn đời tốt mà người quân tử truy cầu.

Bước ra khỏi đầm lầy của ghen tuông, đố kỵ

Người ta thường nói ghen tuông, đố kỵ là bản tính của người phụ nữ, trước giờ tôi cũng nghĩ như vậy, và chưa nhận ra được sự nguy hại của ghen tuông, đố kỵ. Tuy nhiên, sau khi trải qua hàng loạt sự việc xảy ra giữa tôi và bạn trai mấy ngày nay khiến tôi nhận thức sâu sắc được rằng ghen tuông, đố kỵ tựa như một khối u ác trong nội tâm con người, nếu như không kịp thời gỡ bỏ, nó sẽ khuếch tán và lan rộng trong nội tâm của bạn, thậm chí khiến bản thân từ một con người vốn lương thiện, khoan hậu, thẳng thắn biến thành tự tư, hẹp hòi mà giả tạo.

Thành thật mà nói, tôi không muốn nhìn thấy bạn trai của mình giao thiệp hoặc kết bạn với những bạn gái trẻ. Do đó khi sự việc diễn ra không đúng với ý nguyện, bản thân liền cảm thấy trong tâm không thoải mái. Kỳ thực tôi biết rõ ràng là giữa họ với nhau cùng lắm chỉ là quan hệ xã giao rất đơn thuần, nhưng cái tâm ghen tuông đố kỵ của bản thân vẫn âm thầm quấy phá, muốn kiềm chế mà không được. Thứ “ghen tuông, đố kỵ” mạnh mẽ đó bùng cháy như ngọn lửa ở trong lòng tôi, từng dày vò khiến tôi không cách nào tập trung để làm bất cứ việc gì. Bình tĩnh lại, tôi biết rằng, đã đến lúc cần phải vứt bỏ nó. Nếu không, ở trong suy nghĩ chủ quan, vô căn cứ sẽ tạo ra những kẻ thù tưởng tượng, vừa gây tổn thương cho người khác vừa làm tổn hại bản thân. Bởi vì khi tâm lý ghen tuông, đố kỵ nảy sinh, thứ bạn dành cho đối phương sẽ không phải là lương thiện và tốt đẹp trong nhân tính, mà là căm phẫn bất bình, tra hỏi và nghi kỵ không ngừng. Kiểu tra hỏi và thiếu tin tưởng này sẽ khiến người thương yêu bạn cũng không cách nào chịu đựng được, kết quả cuối cùng nhận được chỉ có thể tạo thành sự chia rẽ và xa cách về tình cảm và tâm lý, khiến người đàn ông không thể chịu đựng được mà bỏ đi.

Trong những ngày trải qua sự dày vò của tâm đố kỵ ghen tuông đó, có một người bạn đã nhắc nhở tôi rằng đừng coi anh ấy như tài sản riêng của mình. Hãy suy nghĩ sâu hơn một chút, xác thực là như vậy, mỗi người đều được phân diễn đóng nhiều vai khác nhau trong xã hội, đàn ông thường có mạng lưới quan hệ rộng hơn, làm sao anh ấy có thể ở bên cạnh bạn cả ngày? Cũng có một số bạn bè thiện ý khuyên bảo tôi hãy buông bỏ “tình” xuống. Thân làm người tu luyện, tôi cũng hiểu đố kỵ, ghen tuông xuất phát từ “tình cảm” giữa nam và nữ, cái “tình” này nếu không thể xem nhẹ, bạn sẽ thường xuyên cảm thấy mình bị tổn thương dù là vô tình hay cố ý, sống như vậy rất mệt mỏi.

Gần đây đọc được bài viết “Luận về đố kỵ” của Francis Bacon có viết: “Trong các chủng loại tình cảm và ham muốn của nhân loại, có hai loại mê hoặc tâm trí con người nhất, đó chính là ái tình và đố kỵ. Hai loại cảm tình này đều có thể kích thích phát sinh ham muốn mạnh mẽ, tạo ra những hình ảnh hư giả và không có thật, lại có thể làm mê hoặc tâm linh của con người – nếu như quả thực có loại việc phù thủy, yêu thuật… Trong hết thảy tình cảm dục vọng của con người, “đố kỵ” có lẽ là thứ được tính là ngoan cố và dai dẳng nhất. Do đó, người xưa từng nói: Đố kỵ là thứ không biết mệt mỏi. Đồng thời cũng có người nhận thấy rằng, so sánh với những tình cảm khác, chỉ có ái tình và ghen tuông là khiến cho người ta suy nhược nhất. Đó là bởi vì không có thứ gì có thể so sánh về mức độ dai dẳng và làm tiêu hao sức lực như ái tình và đố kỵ. Nhưng đố kỵ xét cho cùng cũng là một loại tình cảm dục vọng thấp kém và hèn mọn, do đó nó là thứ thuộc về tố chất của ma quỷ”.

Đào sâu vào nguồn gốc của ghen tuông và đố kỵ, sau một phen rèn giũa tâm linh và rút ra được bài học sâu sắc, cuối cùng bản thân cũng đã sáng tỏ thông suốt. Lúc này, điều mà tôi muốn nói nhất với các bạn nữ là, bản thân là phụ nữ, nhất định phải giải thoát khỏi tâm lý nghi kỵ và ỷ lại vào người đàn ông, vượt qua chính mình, tìm ra tọa độ cuộc sống cho riêng mình. Hãy hỏi con người thật sâu thẳm trong nội tâm bạn xem bạn thực sự muốn gì, “ngô nhật tam tỉnh ngô thân” (Trích câu nói trong “Luận ngữ – Học nhi”, diễn nghĩa: Mỗi ngày ta phản tỉnh bản thân ba lần), thay vì mù quáng coi bạn trai hoặc chồng trở thành trụ cột cho cảm tình và tinh thần của bản thân. Con người sống trên đời, mỗi người đều có thế giới và trọng tâm cuộc sống của bản thân, anh ấy có những thứ của anh ấy, mà bạn, cũng nên có những thứ thuộc về mình. Nếu không, anh ấy khó có thể thời thời khắc khắc tập trung vào nhu cầu tình cảm của bạn, làm cho bạn vừa lòng ở mọi lúc mọi nơi, và như vậy bạn sẽ có cảm giác thất vọng. Cũng như trong cuốn sách “Triết học về hạnh phúc” của Bertrand Russell, khi bàn về đố kỵ đã nói: “… muốn giải thoát khỏi loại tuyệt vọng này, tìm kiếm con đường tươi sáng, con người văn minh phải mở rộng tấm lòng giống như mở rộng bộ não của mình. Anh ta phải học cách vượt qua bản thân, trong quá trình vượt qua bản thân, học được sự tiêu dao tự tại giống như vạn vật trong vũ trụ vậy”.

Phụ nữ, để có được tâm thái tự do, thoải mái, siêu nhiên, tất nhiên điều quan trọng nhất là phải có những thứ thuộc về tín ngưỡng tinh thần của bản thân. Nhờ vào lực lượng của tín ngưỡng, khiến bản thân học được phương thức suy nghĩ “tiên tha hậu ngã” trong quá trình giao thiệp với người khác, hiểu được buông bỏ và nhường nhịn, biến tình yêu cá nhân thành tình yêu vĩ đại ở nhân gian, và dần dần trong những điều vụn vặt của cuộc sống thường ngày làm được tiên tha hậu ngã, vô tư vô ngã, mới có thể siêu thoát khỏi những thứ ràng buộc vụn vặt ở thế tục, bước ra khỏi đầm lầy của ghen tuông.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/78438

The post Loạt bài tâm đắc về “Yểu điệu thục nữ” (1): Bước ra khỏi đầm lầy của ghen tuông, đố kỵ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1)https://chanhkien.org/2023/09/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-phan-1.htmlFri, 01 Sep 2023 04:28:36 +0000https://chanhkien.org/?p=31211Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Chương 1: Khởi nguyên của dân tộc Trung Hoa: Thần thoại về sáng thế Đối với vấn đề trời, đất và vạn vật từ đâu mà tới, người phương Tây cho rằng hết thảy đều do Thượng Đế tạo ra. Tại Trung Quốc thì có truyền thuyết về Bàn Cổ […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Chương 1: Khởi nguyên của dân tộc Trung Hoa: Thần thoại về sáng thế

Đối với vấn đề trời, đất và vạn vật từ đâu mà tới, người phương Tây cho rằng hết thảy đều do Thượng Đế tạo ra. Tại Trung Quốc thì có truyền thuyết về Bàn Cổ khai thiên lập địa. Căn cứ vào những ghi chép trong cuốn Tam Ngũ Lịch Ký của tác giả Từ Chỉnh người nước Ngô thời Tam Quốc ở Trung Quốc thì vũ trụ là do vị Thần Bàn Cổ sáng tạo ra, ông đã tạo ra trời, đất và vạn vật.

Sau khi trên địa cầu có trời, đất cùng vạn vật, Thiên thượng cử xuống một vị Thần tên Nữ Oa. Bà dùng Pháp lực, bắt đầu phỏng theo hình dạng của mình mà tạo nên người nam và người nữ.

Từ đó người Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên Trái Đất. Nhưng vì mới được Thần tạo ra, nên họ không biết nên ở đâu, không biết nên ăn gì, không biết tránh mưa tránh gió ra làm sao, không biết mắc bệnh phải làm thế nào. Vì thế, Thiên thượng lại cử xuống một số vị Thần. Các vị Thần ấy bắt đầu dạy cho con người một số kỹ năng sinh sống cơ bản, lại truyền cho con người một chút văn hóa ban sơ.

Những vị Thần này có Hữu Sào Thị dạy con người cách xây nhà, Toại Nhân Thị dạy con người cách dùng gỗ đánh lửa, Phục Hy Thị dạy con người đan lưới đánh cá, săn bắt, trồng trọt, nhóm lửa, dẫn dắt con người sống một cuộc sống định cư ổn định, cũng lập nên dòng họ Phục Hy Thị – dòng họ sớm nhất ở Trung Quốc, và Thần Nông Thị dạy con người cách tìm thức ăn và thảo dược có thể trị bệnh.

Cứ như vậy, người Trung Quốc thời viễn cổ dưới sự trợ giúp của Thần nhân mà chất lượng cuộc sống bắt đầu được nâng cao. Họ bắt đầu có nhận thức và năng lực nhất định để ứng phó với tự nhiên, đồng thời cũng có quy phạm hành vi cơ bản của nhân loại.

Chương 2: Con cháu Viêm Hoàng, dân tộc Hoa Hạ, dân tộc Hán và nền văn hóa xán lạn huy hoàng

Người Trung Quốc thường tự hào nói bản thân là “con cháu Viêm Hoàng”, tại sao lại có cách nói như vậy?

Tổ tiên người Trung Quốc ban đầu chủ yếu sinh hoạt ở lưu vực sông Hoàng Hà. Việc này tất nhiên có quan hệ với điều kiện tự nhiên phong phú của sông Hoàng Hà. Sau đó người ta mới bắt đầu dần dần di chuyển xuống phía Nam. Con người thời điểm đó sống cùng nhau thành một quần thể theo hình thức bộ tộc. Lúc ấy các bộ lạc đều tôn Thần Nông Thị làm chủ, tôn xưng ông là Viêm Đế và tiến cống bày tỏ lòng kính trọng với ông. Bộ tộc của Thần Nông Thị chủ yếu sinh sống tại vùng hạ lưu sông Hoàng Hà.

Tương truyền ở lưu vực sông Hoàng Hà, cũng chính tại vùng Đông Nam huyện Trác Lộc của tỉnh Hà Bắc ngày nay, có một bộ lạc dần dần trở nên lớn mạnh, chính là bộ lạc Hùng Thị. Trong bộ lạc này có một người họ Công Tôn tên Hiên Viên. Hiên Viên sau này được mọi người tôn là thủ lĩnh của bộ lạc, xưng là Hoàng Đế.

Sau đó, bộ lạc của Viêm Đế bắt đầu suy yếu, không còn năng lực thống trị các bộ lạc khác. Đặc biệt là ở vùng Hà Bắc, Hà Nam và Sơn Đông ngày nay có tộc Cửu Lê đứng đầu là thủ lĩnh Xi Vưu vô cùng hung bạo, không ai có thể thảo phạt hắn. Xi Vưu cùng Viêm Đế tranh giành vùng hạ du sông Hoàng Hà. Hai bên từng xảy ra một cuộc đại chiến, nhưng Viêm Đế bại trận, vì thế cùng Hoàng Đế kết thành liên minh. Hoàng Đế dẫn dắt người của hai bộ lạc đại chiến với Xi Vưu ở vùng ngoại ô của huyện Trác Lộc. Cuối cùng, Hoàng Đế giành được thắng lợi.

Sau đó, hai bộ lạc của Hoàng Đế và Viêm Đế xảy ra chiến tranh, Hoàng Đế lại giành được thắng lợi. Từ đó về sau, các bộ lạc tại Trung Nguyên đều tôn Hoàng Đế là chủ chung của thiên hạ, tức là Thiên tử, thay thế cho Viêm Đế. Ý nghĩa của Thiên tử chính là con của trời, được trời phú cho Thiên mệnh đi hành Thiên Đạo ở thế gian con người. Hoàng Đế trở thành vị đế vương đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc lấy vũ lực, và hình thức binh chinh thiên hạ để thần phục các chư hầu, thống nhất các bộ tộc Hoa Hạ. Cho nên dân tộc Trung Hoa đều tự xưng là “con cháu của Hoàng Đế”. Lại vì hai bộ lạc của Viêm, Hoàng hợp thành dân tộc Hoa Hạ, nên cũng xưng là “con cháu Viêm Hoàng”.

Hai bộ lạc Viêm, Hoàng dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế dần dần dung hợp thành dân tộc Hoa Hạ. “Hoa” có nghĩa là “màu sắc rực rỡ”, có ý chỉ trang phục của người Trung Nguyên màu sắc sáng sủa rực rỡ, biểu thị cho nền văn hóa phồn vinh. “Hạ” có nghĩa là “Đại”. Tộc Hoa Hạ có nghĩa là “Những người có văn hóa rất phồn vinh sống tại khu vực Trung Nguyên”. Lúc ấy ngoài dân tộc Hoa Hạ còn có các dân tộc khác sinh sống ở chung quanh. Người Trung Quốc hiện nay cũng dùng “Hoa Hạ” để gọi Trung Quốc.

“Con cháu Viêm Hoàng” lúc ban đầu chỉ dùng để chỉ dân tộc Hoa Hạ, cũng chính là dân tộc Hán. Hiện tại lại dùng để chỉ toàn bộ người Trung Quốc, bao gồm cả người Trung Quốc đang sống tại các quốc gia khác. Tiền thân của dân tộc Hán là chỉ dân tộc Hoa Hạ, cách xưng hô dân tộc “Hán” có từ khi Lưu Bang lập ra triều Hán.

Trước triều Hán là nhà Tần của Tần Thủy Hoàng. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã áp dụng một loạt các biện pháp, ví như: thống nhất tiền tệ và văn tự, thống nhất xác định địa khu cư trú, v.v… Những việc này đã đặt định ra nền tảng cho sự hình thành của dân tộc Hán.

Triều Tần diệt vong. Sau khi Lưu Bang thống nhất Trung Quốc, vì trước đây đã từng tự phong mình là “Hán Vương”, nên ông đem vương triều mà mình thành lập gọi là “Hán triều”, sử gia gọi là triều Tây Hán. Trong thời Tây Hán, Trung Quốc đã có thời gian phồn vinh tương đối lâu dài. Đặc biệt là trong thời của Hán Vũ Đế, nhà Hán đã trở thành một vương triều rất cường đại. Các quốc gia và dân tộc chung quanh đều gọi người dân của triều Hán là “Hán nhân” (người Hán), coi người Trung Quốc là người Hán. Chủ thể của người Hán lúc này vẫn là tộc người Hoa Hạ, nhưng cùng với việc nhà Tây Hán mở rộng bờ cõi, có rất nhiều người của các dân tộc khác cũng bị dung nạp trở thành con dân của triều Hán. Dân tộc Hán bắt đầu hình thành, tuy nhiên cách xưng hô Hán tộc vẫn chưa xuất hiện.

Vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, vì rất nhiều người thống trị đều là dân tộc thiểu số, nên họ gọi những người sống ở phương Bắc là “Hán nhân”. Tới thời kỳ Tùy Đường, “Hán” chủ yếu được dùng để chỉ đất đai nhà Đường và người nhà Đường. Vào triều Nguyên, việc dung hợp dân tộc diễn ra nhanh hơn. Thời kỳ đầu triều Minh thực hiện chính sách Hán hóa toàn diện. Triều Thanh thì thực hành chính sách dân tộc ba cấp bậc Mãn, Mông, Hán. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, “người Hán” chính thức xưng là dân tộc Hán. Hiện nay Trung Quốc có 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 92% tổng dân số, phân bố ở khắp nơi trong cả nước. 55 dân tộc còn lại, vì chỉ có khoảng hơn 90 triệu người, nên được gọi là các dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số có một triệu người gồm có Mông, Hồi, Tạng, v.v… khoảng 18 dân tộc. Họ phân bố ở các nơi trong cả nước, tỉnh Vân Nam là tỉnh có đông dân tộc thiểu số nhất. Trong số 55 dân tộc thiểu số này, ngoại trừ dân tộc Hồi sử dụng tiếng Hán, còn lại đều có ngôn ngữ của riêng mình, nhưng chỉ có số ít có chữ viết riêng.

Cứ như vậy, ở khu vực Hoa Hạ này, trong quá trình dung hợp các dân tộc, con cháu Viêm Hoàng trải qua mỗi triều mỗi đại, trong quá trình kéo màn diễn lên rồi lại hạ màn diễn xuống, mỗi triều đại lại vì hậu nhân mà để lại văn hóa do họ sáng tạo và mang đến. Từ đó tạo thành văn hóa Trung Quốc xán lạn đa dạng sắc màu. Ví như ở phương diện luân lý đạo đức xã hội có tư tưởng Nho gia của Khổng Tử. Ở phương diện chính tín và tu luyện, có Đạo của Lão Tử và văn hóa tu luyện của Phật gia. Ở lĩnh vực văn học, có thơ ca nhạc phủ thời Tiên Tần, Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, tiểu thuyết thời Minh Thanh, v.v… Ở lĩnh vực nghệ thuật, mỗi một triều đại đều có biểu hiện phong phú riêng, vô luận là âm nhạc, hý khúc, cũng như thư pháp, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, hang đá, gốm sứ và các lâm viên nghệ thuật, đều làm cho con người ngày nay tán thưởng mãi không thôi. Mà ở lĩnh vực khoa học kỹ thuật, các vương triều cổ đại không chỉ khiến thế giới kinh ngạc với tứ đại phát minh, mà ở các phương diện khác như y học, thiên văn học, nông nghiệp, thủy lợi, toán học, v.v… cũng đều có thành tựu nổi bật, đủ để khiến cho con người hôm nay cảm thấy hổ thẹn.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37817

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (01): Duyên phận với Mexico của tôihttps://chanhkien.org/2023/08/loat-bai-mexico-2012-01-duyen-phan-voi-mexico-cua-toi.htmlSun, 27 Aug 2023 06:03:31 +0000https://chanhkien.org/?p=31190Tác giả: Ngọc Bân [ChanhKien.org] Di tích thành cổ Teotihuacan và Kim tự tháp Thần Mặt Trời cách thành phố Mexico 40 dặm Trước nay tôi chưa hề muốn đến Mexico, nhưng một năm trở lại đây vì lý do công tác tôi đã đi Mexico tám lần. Lần đi đầu tiên rất miễn cưỡng, […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (01): Duyên phận với Mexico của tôi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngọc Bân

[ChanhKien.org]

Di tích thành cổ Teotihuacan và Kim tự tháp Thần Mặt Trời cách thành phố Mexico 40 dặm

Trước nay tôi chưa hề muốn đến Mexico, nhưng một năm trở lại đây vì lý do công tác tôi đã đi Mexico tám lần. Lần đi đầu tiên rất miễn cưỡng, sau đó thì lại yêu thích không thôi mảnh đất thần bí cổ xưa này…

1. Duyên khởi

Vào tháng 7 năm ngoái, vì thay đổi tính chất công việc, công ty cần cử tôi đến một công ty khác ở Mexico thực hiện một dự án. Hạng mục hợp tác này đã thực hiện được mấy tháng rồi. Các kỹ sư có chút thâm niên của công ty tôi lần lượt thay nhau đi. Các đồng nghiệp quanh tôi đều đã đi mấy lượt, đi thấy ngán luôn rồi, rất cần thêm người, cho nên tôi vừa mới vào, công ty lập tức quyết định cử tôi đi Mexico ngay. Thời gian đầu đến Mexico công tác tôi thật không thoải mái lắm, tuy nhiên đây là công việc của tôi, tôi quả thực không có lý do gì để từ chối. Công ty của Mỹ không như công ty của Trung Quốc, vị trí chơi nhiều làm ít quá ít ỏi. Nếu bạn ở vị trí này, người khác cũng phải xem cống hiến của bạn như thế nào, bạn mang lại được gì cho công ty.

2. Hai nguyên nhân chủ yếu khiến tôi không muốn đi Mexico

Đương nhiên là những tin tức tiêu cực về Mexico như các tập đoàn buôn ma túy trắng trợn, rất nhiều vụ bạo lực bắn giết mà báo đài thường xuyên đăng tải đều có ảnh hưởng đến tâm lý của tôi. Bạn bè tôi cũng đều nói với tôi rằng: “Anh đi đến đó làm gì, đáng sợ lắm”. Có điều may là công ty sắp xếp cho chúng tôi ở lâu dài tại khách sạn tốt nhất, trong khu vực an toàn nhất của thành phố Mexico, quả thực cũng rất an toàn. Tôi ban đầu không muốn đi chủ yếu còn có hai nguyên nhân sau:

Thị thực du lịch của Cục di dân Mỹ quốc cấp cho người không có hộ chiếu hoặc không có quốc tịch

Một là tôi xưa nay vẫn làm không được hộ chiếu Trung Quốc hợp lệ.

Hơn 10 năm trước, tôi ở trong nước luyện Pháp Luân Công bị liệt vào danh sách đen của Trung Cộng. Vừa mới tốt nghiệp không lâu, vì tiết lộ các việc Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công mà bị đưa vào nhà tù làm lao động khổ sai. Sau khi ra khỏi tù, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, tôi đến được nước Mỹ cũng thật không dễ dàng gì. Không có hộ chiếu Trung Quốc, muốn đi ra nước ngoài du lịch quả là rất rắc rối. Cho nên tôi bình thường không muốn đi khỏi nước Mỹ. Trước hết, mỗi lần ra khỏi Mỹ đều phải chi tiền gửi đến cục di dân xin cấp một cuốn sổ màu xanh gọi là Thị thực du lịch (Ảnh 2). Thời gian chờ đợi xin cấp Thị thực có khi đến mấy tháng. Mà thời hạn hiệu lực của loại thị thực du lịch này chỉ có một năm. Trên thực tế chỉ có thể dùng được nửa năm thôi, bởi vì đa phần nhập cảnh các nước đều yêu cầu hộ chiếu có hiệu lực nửa năm trở lên. Vì vậy hơn một năm trở lại đây tôi không thể không làm Thị thực du lịch thế này đến hai lần.

Ngoài ra, cho dù lấy được cuốn sổ xanh này rồi, rắc rối cũng vẫn còn không ít. Bởi vì rất nhiều người chưa được thấy cuốn sổ này bao giờ. Có người còn không biết cuốn sổ này có thể dùng thay cho hộ chiếu. Cho nên rất nhiều lần, khi tôi đi máy bay, xuất nhập cảnh hải quan, đều sẽ có một đống câu hỏi vặn vẹo tôi.

Có lần tôi đi từ Mexico về lại Mỹ, chỉ vì mang cuốn sổ xanh hiếm thấy này mà bị vặn hỏi đến bốn lần. Đầu tiên là tại sân bay Mexico dùng cuốn sổ này dò không ra thẻ lên máy bay. Sau khi giải thích hồi lâu với nhân viên công tác của công ty vận tải hàng không, nhân viên sân bay nói với tôi rằng, Mexico là quốc gia dân chủ, sẽ không làm ra cái chuyện như Trung Cộng làm, cô ấy giúp tôi lấy được thẻ lên máy bay. Bắt đầu đến đoạn kiểm tra an toàn, sau khi kiểm tra an toàn xong, một cảnh sát sân bay ngăn tôi lại kiểm tra hộ chiếu, tôi kính cẩn đưa cuốn sổ xanh ra. Cảnh sát nhìn thấy, trừng mắt nói: “Trò đùa gì đây?” Tôi giải thích cho anh ta cũng không ích gì. Anh ta gọi một cảnh sát khác đến, sau một hồi lại gọi một nhân viên sân bay đến. Tôi đem trải nghiệm bị Trung Cộng bức hại thế nào, quá trình lấy không được hộ chiếu ra sao nói một lượt bằng tiếng Anh (bởi mỗi lần ra nước ngoài đều phải nói cái này, tôi sớm đã học thuộc lòng như cháo chảy rồi). Do đó ba người họ tụm lại với nhau, chi li cha la nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi cũng không biết là họ đã nói gì, trong lòng có chút lo lắng, nhưng chớ có giữ tôi lại đây. Không lâu sau, viên cảnh sát ban đầu hỏi tôi mấy giờ máy bay cất cánh. Tôi nói 6 giờ sáng hơn cất cánh, anh ta thấy thời gian cũng không còn nhiều nữa. Do dự một lúc, anh ta trả lại tôi cuốn sổ xanh, khua tay để tôi đi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Sau đó xem tin tức trong ngày tôi mới biết, tối ngày hôm trước tập đoàn buôn ma túy thành phố Mexico và phía quân đội Mexico xảy ra cuộc đọ súng. Phía quân đội Mexico đã bắn chết tên cầm đầu của tập đoàn buôn ma túy. Cho nên, hai ngày liên tiếp sau đó, tình hình bên cảng khẩu sân bay đều rất căng thẳng. Chắc là viên cảnh sát đó lo rằng tôi và phần tử buôn ma túy cùng một hội. Cầm lại được thị thực du lịch, tôi mừng lắm, hồ hởi bước lên máy bay, kết quả khi lên máy bay lại bị nhân viên an ninh hỏi lại lần nữa. Cuối cùng lúc nhập cảnh hải quan Mỹ lại bị vặn hỏi lần nữa. Ài, trong một ngày bị vặn hỏi bốn lần, hỏi đến mức tôi hôm đó quả là gặp ai liền muốn nói là bị Cộng phỉ bức hại.

Lý do thứ hai tôi không muốn đi Mexico là mẹ của tôi phải làm sao đây.

Khi ấy mẹ tôi vừa mới từ Trung Quốc đại lục xa xôi vạn dặm lặn lội đến thăm tôi. Đây là lần thứ hai bà qua đây, lần thứ nhất bà qua đây cùng với bố. Vào lần thứ nhất qua, bố mẹ tính ở chỗ tôi nửa năm, nhưng sau lại chỉ ở một tháng rồi đi. Bởi khác biệt ngôn ngữ, xem ti vi không hiểu, không dám nhận điện thoại ở nhà, cũng không biết lái xe. Hằng ngày sau khi tôi đi làm, họ chỉ ở nhà chăm chăm mong tôi về nhà. Niềm vui lớn nhất chính là nghe thấy âm thanh tôi bước lên lầu sau khi tan ca về nhà. Cuối tuần tôi dẫn họ ra ngoài đi chơi một hai lần, bố mẹ rất thích nước Mỹ. Cảm thấy môi trường sống cũng tốt, con người cũng rất tốt, chỉ là quá cô đơn thôi.

Lần thứ hai này chỉ có mình mẹ qua, để bà một mình trong nhà trên đất Mỹ, bà sẽ sống sao đây? Lần trước còn có bố bên cạnh, lần này chỉ có mỗi mình bà, sẽ càng thêm khó khăn. Mắt của mẹ không được tốt lắm, vì những năm trước đây tôi bị Trung Cộng nhốt trong nhà tù, bà đã khóc gần mù mắt rồi. Nhưng mẹ tôi lại là một người phụ nữ Trung Quốc truyền thống, một lòng muốn hỗ trợ con trai mình làm tốt công việc. Tôi nói với bà về chuyện đi công tác này, bà không biết phải làm sao, tuy nhiên vẫn ủng hộ tôi đi Mexico. Tôi đã nhờ cậy mấy đồng tu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đến chăm sóc bà, khi tủ lạnh không còn đồ ăn thì lái xe đưa bà đi siêu thị mua đồ. Kết quả, mẹ lại sợ làm phiền người khác, hơn một tuần không nhờ đến họ, đến lúc cầm cự không được nữa mới phải đi siêu thị.

Mặc dù phiền phức nhiều như vậy, nhưng tôi vẫn phải đi Mexico. Vận mệnh con người thật không thể tự mình có thể chi phối được. Có câu nói: “Người trong giang hồ, thân bất do kỷ”. Đi Mexico một lần, hai lần, rồi ba lần… tôi đã dần dần yêu thích đất nước này. Trong giai đoạn này, mẹ tôi nhờ sự giúp đỡ của các đồng tu luyện Pháp Luân Công cũng có nhiều thụ ích, còn có cơ hội xem được Shen Yun (Thần Vận), sau đó còn hay nhìn thấy biểu tượng chữ Vạn “卍” xoay chuyển nữa. Những chuyện này đều là ngoài dự liệu của tôi. Rất nhiều sách thánh hiền của phương Đông phương Tây đều nói với chúng ta rằng đừng dùng quan niệm cố hữu để xem xét người và sự việc. Đừng phán đoán trước người khác, vạn sự tùy kỳ tự nhiên, tùy ngộ nhi an v.v.. Bởi vì điều con người nhìn thấy chỉ là bề mặt. Quả đúng như vậy đấy, tái ông mất ngựa (1), đâu biết được là họa hay phúc chứ.

3. Mexico, một đất nước thần kỳ

Mexico cũng có chỗ hấp dẫn tôi. Từ lâu đã nghe đến Mexico là trung tâm của nền văn minh cổ xưa rực rỡ trên khối đại lục châu Mỹ, văn minh Olmec, văn minh Maya trứ danh mà vô cùng thần bí trải rộng trên bán đảo Yucatan, còn có nền văn minh Toltec và văn minh Aztec đều lưu lại nơi đây dấu ấn đậm đà. Đồng thời cũng còn rất nhiều di tích mà rất có thể là của thời kỳ trước của nền văn minh nhân loại lần này, cũng chính là trước trận Đại hồng thủy của 6000 năm về trước, những gì lưu lại siêu việt cả văn minh hiện đại.

Đương nhiên chẳng liên quan gì với nền văn minh Maya được xem là thần bí nhất trong lịch sử văn minh nhân loại lần này. Nó có vẻ là đến từ Thiên thượng, vào lúc được xem là phồn thịnh huy hoàng nhất, lại bỗng dưng chấm dứt. Để lại cho thế giới mối nghi hoặc to lớn. Mà hậu duệ của người Maya hiện đại sớm đã mất đi trí huệ của tổ tiên. Lịch pháp Maya (Dương lịch) lấy một năm bằng 18 tháng, họ tính toán một năm trên Trái Đất là 365,2420 ngày, người hiện đại tính thành 365,2422 ngày, sai lệch chỉ 0,0002 ngày, chính là nói sai số của 5000 năm mới chỉ có một ngày. Năm Kim Tinh được tính toán trong lịch Kim Tinh của người Maya là 584 ngày, sai lệch trong 5000 năm chỉ có 700 giây (tức 11,6 phút) so với cách tính của người hiện đại. Trong cách tính giờ, người Maya có một thứ gọi là đơn vị thời gian Alautun tương đương 23040000000 ngày (tức hơn 63 triệu năm). Một đơn vị Alautun tương đương 20 Kalabtun cũng là 1152000000 ngày, mà một Kalabtun bằng 20 Pictun tức 57600000 ngày. Những đơn vị thời gian cự đại thế này, chỉ khi đo lường cự ly giữa các vì sao và hành trình di chuyển giữa các vì sao mới có thể cần dùng đến thôi.

Người Maya còn có một loại là “Lịch Tzolkin”. Loại lịch pháp này từ đâu mà đến, quả thực khiến người ta không giải thích nổi. Lịch phân một năm thành 13 tháng, mỗi tháng có 20 ngày. Loại lịch pháp này không phải là dựa theo sự vận hành của một thiên thể nào đó được quan sát thấy từ Trái Đất. Có người cho rằng, lịch pháp Tzolkin là do tổ tiên của người Maya căn cứ dựa theo phương pháp được định ra bởi một tinh cầu khác mà chúng ta cho đến nay vẫn chưa biết đến. Trong lịch pháp này ghi chép quy luật vận hành của “mùa Ngân Hà”, dựa theo lịch pháp Tzolkin thì Trái Đất của chúng ta hiện giờ đã ở trong kỷ Mặt Trời thứ 5, đây cũng là kỷ Mặt Trời cuối cùng. Trong giai đoạn thời kỳ của mùa Ngân Hà này, hệ Mặt Trời của chúng ta đang trong “Đại chu kỳ” đã diễn ra hơn 5100 năm rồi. Thời gian tính từ năm 3113 TCN cho đến năm 2012. Trong “Đại chu kỳ” này, Trái Đất cùng hệ Mặt Trời đang di chuyển qua một chùm tia Ngân Hà phát ra từ trung tâm của hệ Ngân Hà. Mà Trái Đất cần mất 5125 năm để đi qua hết chùm tia này. Đến hôm nay thì đã rất gần đến điểm kết thúc rồi. Trong khoảng thời gian 20 năm từ năm 1992 đến năm 2012, Trái Đất của chúng ta đã tiến vào thời kỳ cuối cùng của giai đoạn sau cùng của “Đại chu kỳ”. Người Maya cho rằng đây là thời kỳ vô cùng quan trọng trước khi “đồng hóa hệ Ngân Hà”. Họ gọi đây là “Kỳ canh tân của Trái Đất”. Trong thời kỳ này, Trái Đất cần đạt được sự tịnh hóa hoàn toàn. Mà sau “Kỳ canh tân” này Trái Đất sẽ đi ra khỏi chùm tia Ngân Hà và tiến nhập vào giai đoạn mới của “Đồng hóa hệ Ngân Hà”.

Người Maya còn dự ngôn rằng Thần sẽ còn quay lại. Dựa theo dự ngôn này của người Maya, khoảng chừng vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 sẽ là ngày kết thúc của văn minh nhân loại lần này. Sau đó, nhân loại sẽ tiến vào một nền văn minh hoàn toàn mới không có liên quan gì với nền văn minh lần này cả…

Ảnh chụp Mexico lúc hoàng hôn từ trên máy bay

Tôi nhìn xuống vùng đất Mexico trong ánh hoàng hôn từ trên máy bay, cái cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng xa xăm khiến tôi quên đi sự huyên náo của thế tục. Tôi thích sự tĩnh lặng như thế này. Không gian rộng lớn, màn đêm tĩnh mịch mang đến cho tôi linh cảm vô hạn. Được biết biểu diễn Thần Vận năm 2012 sẽ lần đầu ghé thăm Mexico, tôi muốn đem đặc điểm địa lý, phong tục tập quán con người, nền văn minh tiền sử của Mexico cùng tất cả những gì tôi nhìn thấy, nghe thấy, và những tâm tư suy nghĩ của mình, viết nên loạt bài “Mexico 2012” để tặng cho độc giả cùng bạn bè khắp nơi đến du lịch Mexico.

Nhớ đến lời của Rùa Đại Tiên trong bộ phim “Công phu Panda”: “Chẳng có chuyện gì là ngẫu nhiên cả. Tôi nghĩ số lượng người Hoa ở Mexico rất ít ỏi, nên đây có lẽ chính là sứ mệnh của tôi…”

(Còn tiếp)

Chú thích của người dịch:

(1)Tái ông mất ngựa: họa phúc khôn lường. Một ông già ở vùng biên giới bị mất ngựa, mọi người đến an ủi ông, ông bảo rằng: “Làm sao biết đó không phải là cái phúc?” Ít lâu sau, con ngựa của ông quay trở về kéo thêm một con ngựa nữa. Mọi người đến chúc mừng, ông bảo biết đâu đó lại là hoạ. Quả vậy, con trai ông vì cưỡi tuấn mã bị ngã què chân. Mọi người đến an ủi, ông bảo không chừng thế lại là phúc. Chẳng bao lâu, có giặc, trai tráng phải ra trận, riêng con ông vì tàn tật được ở nhà sống sót. Ví với chuyện không hay trong một hoàn cảnh nào đó có thể biến thành chuyện tốt.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/77479

The post Loạt bài Mexico 2012 (01): Duyên phận với Mexico của tôi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiểu thuyết thần thoại “Thương Vũ Kiếp”: Lời mở đầu: Nhân duyên Pháp giới (Phần 1) Thệ ước của chúng Thầnhttps://chanhkien.org/2023/08/loi-mo-dau-tieu-thuyet-than-thoai-thuong-vu-kiep-nhan-duyen-phap-gioi-phan-1-the-uoc-cua-chung-than.htmlMon, 21 Aug 2023 02:34:06 +0000https://chanhkien.org/?p=31146Tác giả: Bạch Vân Phi [ChanhKien.org] Chương đầu: “Nhân duyên Pháp giới” (Phần 1) “Thệ ước của chúng Thần” “Thương Vũ Kiếp” Đương thiên địa vô đạo, thương khung tận không Đương hắc bạch điên đảo, thiên lương luân táng Duy hữu Sinh mệnh truy cầu chân lý đích vĩnh hằng quang mang Hóa tác […]

The post Tiểu thuyết thần thoại “Thương Vũ Kiếp”: Lời mở đầu: Nhân duyên Pháp giới (Phần 1) Thệ ước của chúng Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Bạch Vân Phi

[ChanhKien.org]

Chương đầu: “Nhân duyên Pháp giới” (Phần 1) “Thệ ước của chúng Thần”

“Thương Vũ Kiếp”

Đương thiên địa vô đạo, thương khung tận không

Đương hắc bạch điên đảo, thiên lương luân táng

Duy hữu

Sinh mệnh truy cầu chân lý đích vĩnh hằng quang mang

Hóa tác đại bạch liên hoa

Tại lê minh đích hắc dạ trung

Nộ nhiên trán phóng

(Lời tựa “Thương Vũ Kiếp”)

Tạm dịch

Khi trời đất vô đạo, thương khung trống rỗng

Khi đen trắng điên đảo, lương tâm táng tận

Duy có

Các sinh mệnh truy tìm ánh sáng vĩnh hằng của chân lý

Hóa thành những đóa đại bạch liên hoa

Trong đêm tối trước bình minh

Bừng bừng khai nở

(Lời tựa “Thương Vũ Kiếp”)

Vũ trụ bao la, thương vũ vô tận, trong thời không rộng lớn vô hạn có vô lượng vô số tựa như cát sông Hằng những thiên thể, tất cả đều đang xoay vần theo quy luật của Tạo hóa.

Trong số đó, có một hạt bụi, được chúng Thần trong các thiên thể to lớn gọi là “Pháp giới”, khi chúng ta tiến nhập vào bên trong hạt bụi ấy, thì phát hiện hạt bụi này cũng là một vũ trụ to lớn vô ngần, to lớn đến mức tư tưởng con người không cách nào tiếp thu nổi. Dựa theo ngôn ngữ của Thần trong thể hệ này để hình dung, thì phạm vi của “Pháp giới” rộng lớn đến nỗi cho dù ánh sáng nơi nhân loại có dùng thời gian vô lượng “kiếp” cũng không cách nào xuyên qua được, “Tam giới” bao gồm cả địa cầu trong đó cũng nằm trong phạm vi thể hệ của “Pháp giới”, nhưng đứng tại cảnh giới này của “Pháp giới” mà quan sát “Tam giới” và địa cầu, thì thấy giống như một hạt bụi ở trong một hạt bụi bên trong hạt bụi bên trong hạt bụi… nhỏ bé đến mức cứ như là không tồn tại.

Bên trong Pháp giới có vô lượng vô số thế giới Thiên quốc, to lớn không gì sánh nổi, phân bố khắp nơi trong Pháp giới giống như những ngôi sao, trong số đó có chín thế giới hồng đại nhất, thù thắng tráng lệ nghiêm trang nhất mà lại có các đặc tính khác biệt của riêng mình, chiểu theo phương vị của tiên thiên bát quái được phân bố đều trong các thời không của Pháp giới, ở vị trí trung tâm Pháp giới là một thế giới Thiên quốc thần thánh và trang nghiêm nhất, gọi là “thế giới Pháp Luân”, tám thế giới còn lại lần lượt là: “thế giới Kim Sắc Quang Minh”, “thế giới Trang Nghiêm”, “thế giới Kim Lưu Ly”, “thế giới Thanh Tịnh”, “thế giới Kim Cương Vô Úy”, “thế giới Vô Cấu”, “thế giới Kim Liên Hoa” và “thế giới Thanh Hư”, chín thế giới to lớn nhất này là cội nguồn duy trì sự vận hành của Pháp giới, chúng đã tồn tại trong Pháp giới vô số vô số năm vũ trụ.

Thời gian đối với các sinh mệnh trong Pháp giới này mà nói, dường như không tồn tại, ở nơi đây là sự an lạc, thanh tịnh và cát tường vĩnh hằng.

Có một ngày, “thế giới Pháp Luân” ở trung tâm phát ra muôn vạn tia sáng tốt lành, theo đó là tám thế giới thần thánh theo phương vị bát quái cũng phát ra muôn ngàn tia sáng rực rỡ tương ứng, toàn bộ Pháp giới đã hoàn toàn được bao phủ trong ánh sáng rực rỡ, hằng hà sa số các thế giới khác trong Pháp giới đều rung động theo, tất cả các vị Phật, Đạo, Thần – chủ nhân của những thế giới này – lập tức biết rằng Pháp giới sắp xảy ra đại sự, Pháp Luân Thánh Vương của thế giới Pháp Luân sắp giảng về bộ Đại Pháp bất khả tư nghị, chỉ thấy rằng trong mỗi thế giới bên trong Pháp giới đều hoan hô nhảy múa, các Vương, các Chủ trong các thế giới ấy đều đồng thời phát ra những ánh quang huy thánh khiết, từ bên ngoài phạm vi Pháp giới nhìn vào, thì thấy toàn bộ Pháp giới đều ngập tràn ánh sáng.

Thế giới Pháp Luân triển hiện sự biến hóa thần thánh to lớn, trở nên vô cùng rộng lớn, tràn đầy toàn bộ Pháp giới, bao trùm hoàn toàn tất cả các thế giới nhỏ bé như các hạt bụi trong Pháp giới, nhưng không hề gây ra bất kể trở ngại gì đối với hết thảy vạn vật trong những thế giới nhỏ bé ấy, các vị Phật Đạo Thần trong các thế giới hạt bụi đó đều có thể nhìn thấy nhau, chào hỏi nhau, mà không hề can nhiễu lẫn nhau, chỉ thấy vô lượng thế giới Thần Phật ấy, vô lượng thù thắng trang nghiêm, vô lượng chủng loại chúng sinh, vô lượng hoan hỷ tán thán.

Trong ánh hào quang, đạo tràng của thế giới Pháp Luân trang nghiêm, thần thánh vô tỷ, muôn ngàn ánh sáng màu sắc rực rỡ, trong Liên Hoa Trì rộng lớn cũng lung linh ngập tràn màu sắc.

Thánh Vương vì chúng sinh trong Pháp giới đã giảng ra hết thảy Pháp lý mà chúng sinh không thể nghĩ bàn, sau đó nhập định thâm sâu, định trụ trong Phật quang rực rỡ, ánh sáng thiền định của Ngài chiếu xạ toàn bộ Pháp giới rộng lớn, Phật Đạo Thần và hết thảy chúng sinh cùng lúc nhập vào trạng thái thiền định này, cảnh tượng Pháp giới đột ngột trở nên tĩnh lặng quang minh.

Đột nhiên, từ trong Liên Hoa Trì của thế giới Pháp Luân nhẹ nhàng vang lên tiếng nhạc thần tiên, 99.999 đóa Thánh Liên Hoa bừng bừng khai nở, hương thơm đặc biệt ngào ngạt khắp nơi, đồng thời một đạo kim quang từ dưới hạ giới xuyên thẳng lên không trung hòa nhập vào không gian này, ánh sáng bao xung quanh 99.999 đóa Liên Hoa nhiều màu sắc, càng làm tăng thêm sự thần thánh quang minh.

Thánh Vương trong khi thiền định uy nghiêm tựa tòa kim sơn, trên đỉnh đầu từ trong vầng hào quang trí huệ hiện ra một bộ thánh điển, bìa ngoài của thánh điển là một Pháp Luân với ánh sáng chín màu đang xoay chuyển thay đổi biến ảo, phát phóng ra vô lượng vô tận các loại ánh sáng, như ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống mặt đất, từng lượt từng lượt luân phiên chiếu sáng thế giới của chúng sinh trong Pháp giới.

Thế giới của chúng Thần được gia trì trong thần uy này, chúng sinh lặng lẽ không nói lời nào, tĩnh lặng chờ đợi Thánh Vương xuất định.

Trong sự tịch lặng thần thánh, Thánh Vương bắt đầu mở thánh mục, nhẹ nhàng mỉm cười, ánh mắt từ bi phổ chiếu khắp chúng sinh trong Pháp giới, trong rung động nhẹ nhàng, một giọng nói vô cùng uy nghiêm và thần thánh từ trong Pháp giới rộng lớn chầm chậm truyền ra:

“Đại nạn của vũ trụ đang đến gần, ta sẽ hạ xuống từng tầng từng tầng, xuống đến tầng thấp nhất trong Pháp giới là nhân gian ở Tam giới, tại đó mà truyền Đại Pháp vũ trụ độ khắp cả thế gian con người và thiên thượng, Pháp chính càn khôn, cứu độ vô lượng chúng sinh vũ trụ, có ai nguyện đắc Pháp này, cùng ta hạ xuống nhân gian, cứu độ chúng sinh không?”

Thuận theo giọng nói của Thánh Vương vừa dứt, Pháp giới càng thêm tĩnh mịch, trở thành một cõi trầm mặc.

Trong tĩnh lặng, tầng tầng thiên thể vũ trụ bên dưới Pháp giới từng lớp một hiện ra trong tầm mắt của chúng Thần, chỉ thấy vô lượng vô số những vũ trụ và thiên thể bên dưới Pháp giới đều đang rệu rã xoay vần, chúng Thần đều đã nhìn thấy, những thiên thể này sắp chuyển vận đến giai đoạn cuối cùng trong quy luật “Thành, Trụ, Hoại, Diệt, Không” của vũ trụ. Đối diện với sự giải thể toàn bộ vào lúc tối hậu, chỉ nhìn thấy các sinh mệnh trong các tầng vũ trụ ấy đều đã mất đi sự an lạc và tường hòa, họ buồn phiền bất an, đặc biệt là ở tầng thấp nhất nơi địa cầu nhân gian trong Tam giới, nơi đây sóng đen cuồn cuộn, dơ bẩn cực kỳ, đạo đức sẽ hoàn toàn băng hoại vào thời khắc cuối cùng, đây chính là nơi sẽ bị giải thể đầu tiên vào thời mạt kiếp.

Nơi khóe mắt của các vị Thần đã tràn đầy những giọt lệ, những giọt lệ tựa như nước biển, hóa thành cơn Pháp vũ (mưa Pháp) từ bi, phiêu đãng bay vào nơi thiên thể ở hạ giới trong mạt kiếp, tịnh hóa hết thảy những buồn bực của sinh mệnh.

Song, không một vị Thần nào nguyện ý đi xuống.

Một sinh mệnh tầng tầng đi xuống, có nghĩa là tầng tầng của sinh mệnh đó bị rớt xuống, tầng tầng sinh mệnh chết đi, khi xuống đến nơi nhân gian trong Tam giới thì trong mắt chúng Thần, sinh mệnh này chính là đã hoàn toàn tử vong. Trong quy luật của vũ trụ, từ trước đến nay chỉ có những sinh mệnh đã bại hoại mới bị đẩy xuống từng tầng từng tầng vào hạ giới, khi đến nhân gian điều thuộc về sinh mệnh này chính là đã triệt để bại hoại, sau đó bị tiêu hủy, từ xưa đến nay chưa hề có sinh mệnh nào có thể quay trở về nơi thượng giới.

Trong Pháp quang tịch lặng, hào quang muôn trượng của Pháp điển trên đỉnh đầu của Thánh Vương chiếu rọi khắp thập phương, trong Liên Hoa Trì 99.999 đóa Thánh Liên tắm mình trong Pháp quang, rực rỡ lạ thường, Thánh Vương uy nghiêm mỉm cười, giọng nói từ bi và uy phong của Ngài lại lần nữa vang vọng toàn thể Pháp giới:

“Đại nạn sắp đến, có ai nguyện theo ta hạ xuống nhân gian, cứu độ chúng sinh không?”

“Đại nạn sắp đến, có ai nguyện theo ta hạ xuống nhân gian, cứu độ chúng sinh không?”

“Đại nạn sắp đến, có ai nguyện theo ta hạ xuống nhân gian, cứu độ chúng sinh không?”

Trong Phật âm mênh mông, 99.999 đóa Thánh Liên Hoa đủ màu sắc lại bừng lên ánh hào quang muôn màu rực rỡ, hòa quyện vào nhau, vô cùng tráng lệ.

Pháp giới vô cùng sáng chói, khắp nơi lần lượt chấn động.

Trong ánh sáng rực rỡ, có vị “Kim Lưu Ly Như Lai” của “thế giới Kim Lưu Ly” ở phương Đông, trang nghiêm bước xuống tòa Kim Sắc Lưu Ly Đại Bảo Liên Hoa, ngồi xuống dưới Thánh Vương, cà sa để trần vai phải, quỳ gối hợp thập nói: “Kim Lưu Ly nguyện cùng Thánh Vương hạ xuống nhân gian, con nguyện làm đệ tử của Thánh Vương, đắc Đại Pháp này, con nguyện kề vai sát cánh cùng Thánh Vương, bất luận tương lai nơi thế gian có bao hiểm ác, ác độc, con nhất định không từ bỏ Đại Pháp, con sẽ đi giáo hóa tứ phương, độ hóa người hữu duyên, con nhất định sẽ trợ giúp Thánh Vương hoàn thành việc cứu độ chúng sinh, nếu làm trái thệ ước này, Kim Lưu Ly nguyện bị hình thần toàn diệt, vĩnh viễn không quay về Pháp giới”.

Kim Lưu Ly Như Lai hiên ngang bước vào Đại Bảo Liên Hoa trong Liên Hoa Trì, chỉ thấy một Pháp Luân màu vàng kim bay ra từ Pháp điển với ánh hào quang muôn trượng trên đỉnh đầu Thánh Vương, hóa thành một bản thệ ước rực rỡ sắc vàng kim, tiến nhập vào thức hải (nơi sâu thẳm của tri thức rộng lớn) trong Nê Hoàn Cung của Kim Lưu Ly Như Lai.

Trong ánh sáng rực rỡ, có vị Kim Sắc Quang Minh Như Lai của “thế giới Kim Sắc Quang Minh” ở phương Nam, với tướng mạo phi phàm trang nghiêm, trong tay cầm viên Mani Bảo Châu sắc vàng kim, dâng lên trước Thánh Vương, cà sa để trần vai phải, quỳ gối hợp thập nói: “Kim Sắc Quang Minh nguyện ý trở thành đệ tử của Thánh Vương, nguyện đi theo Thánh Vương xuống nhân gian, nhân gian trong tương lai, sẽ là thời vô cùng độc ác, ai cũng không chịu nổi, con là đệ tử của Thánh Vương, nhất định sẽ truyền rộng Đại Pháp, nhất định sẽ nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành, tấm lòng con như viên Mani Bảo Châu sắc vàng này, thuần thiện vô tạp, không khởi tâm sân hận độc ác, lấy từ bi để hóa độ hết thảy chúng sinh, nếu làm trái thệ ước này, con nguyện bị hình thần toàn diệt, không quay về Pháp giới”. Nói xong, liền bước vào Đại Kim Sắc Quang Minh Bảo Liên Hoa trong Liên Hoa Trì. Pháp điển trên đỉnh đầu Thánh Vương phát ra Pháp quang muôn trượng, một Pháp Luân rực sáng ánh vàng kim hóa thành bản thệ ước, tiến nhập vào thức hải của Kim Sắc Quang Minh Như Lai.

Trong ánh sáng rực rỡ, có vị Kim Sắc Liên Hoa Như Lai đến từ thế giới Kim Sắc Liên Hoa ở phương Tây, mỗi bước đi dưới chân lại sinh ra một đóa hoa sen, bước đến ngồi xuống dưới Thánh Vương, cà sa để trần vai phải, quỳ gối hợp thập nói: “Kim Sắc Liên Hoa nguyện theo Thánh Vương, nguyện trở thành đệ tử của Thánh Vương, trong thời đại tương lai, khổ nạn vô biên, đặc biệt là nữ tử, khó có thể tu luyện, con nguyện rằng trong tương lai khi đắc Pháp, con sẽ dùng thân nhi nữ hóa độ hết thảy chúng sinh hữu duyên, cứu độ hết thảy người hữu duyên đến được bờ bên kia, nhược bằng làm trái với thệ ước này, nguyện vĩnh viễn đọa địa ngục, không trở về Pháp giới”. Nói xong, nhập vào tòa Liên Hoa sắc vàng trong Liên Hoa Trì, trong ánh sáng sắc vàng kim, Pháp Luân hóa thành bản thệ ước, nhập vào thức hải của Kim Sắc Liên Hoa Như Lai.

Trong ánh sáng rực rỡ, có vị Kim Cương Vô Úy Như Lai của thế giới Kim Cương Vô Úy ở phương Bắc, trang nghiêm bước xuống tòa Kim Cương Thấu Minh Đại Liên Hoa, đến ngồi xuống dưới Thánh Vương, cà sa để trần vai phải, quỳ gối hợp thập: “Kim Cương Vô Úy, nguyện trở thành đệ tử của Thánh Vương, nguyện theo Thánh Vương hạ xuống nhân gian, tương lai khi đạo đức thế gian suy đồi, trắng đen bất phân, yêu ma khắp chốn, tất sẽ có yêu tà mê hoặc con người mà phỉ báng Chính Pháp, đưa chúng sinh đọa đến địa ngục khổ ác, con nhất định sẽ dùng thần lực to lớn của Kim Cương Vô Úy mà thanh trừ chúng, hộ vệ Thánh Vương Chính Pháp, nhược bằng làm trái thệ ước này, thì thịt nát xương tan, không quay về Pháp giới”. Nói xong, Kim Cương Vô Úy Như Lai bước vào Đại Kim Cương Liên Hoa trong Liên Hoa trì. Trong tiếng sấm vang trời, từ Pháp điển tỏa ánh hào quang tứ phía bay lên một Pháp Luân trong suốt như kim cương, hóa thành bản thệ ước màu kim cương lấp lánh, nhanh như sấm chớp bắn vào thức hải của Kim Cương Như Lai.

Lại nói trong Pháp giới có đến 99.998 vị đại Thần, hoặc là các vị Như Lai sắc vàng rực rỡ, hoặc là các vị Đại Đạo thần thánh trang nghiêm, hoặc là các vị Thần Chủ trong trắng thánh khiết, các dạng hình thái nhiều vô kể, các loại hào quang muôn màu muôn vẻ, không cách nào diễn tả hết sự thần thánh, uy nghiêm, phát ra hồng thệ đại nguyện trước Thánh Vương, nguyện theo Thánh Vương hạ xuống nhân gian, trong vầng hào quang đại từ bi, Pháp Luân Thánh Vương lần lượt thọ ký cho chúng Thần trong Liên Hoa trì, trong Pháp giới mưa Pháp rơi lả tả, như hoa giăng khắp trời, hoàn vũ huy hoàng, toàn bộ quá trình này kéo dài 99.998 tiểu kiếp.

(Mời các bạn chú ý theo dõi chương tiếp theo “Nhân duyên Pháp giới” (Phần 2) “Pháp Liên cuối cùng”

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/42741

The post Tiểu thuyết thần thoại “Thương Vũ Kiếp”: Lời mở đầu: Nhân duyên Pháp giới (Phần 1) Thệ ước của chúng Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiếu niên thời không (01) : Trân quý cơ duyênhttps://chanhkien.org/2023/06/radio-chanh-kien-thieu-nien-thoi-khong-01-tran-quy-co-duyen.htmlMon, 05 Jun 2023 03:06:34 +0000https://chanhkien.org/?p=30349Biên soạn: Tịnh TrúcDẫn chương trình: Thuần Tử [ChanhKien.org] Xin chào các em thiếu niên thân mến, chị là chị Thuần Tử, người bạn mới của các em, bắt đầu từ hôm nay, chị Thuần Tử sẽ cùng các em bước qua những năm tháng thanh xuân, cùng nhau đi tìm về nơi cố hương […]

The post Thiếu niên thời không (01) : Trân quý cơ duyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Biên soạn: Tịnh Trúc
Dẫn chương trình: Thuần Tử

[ChanhKien.org]

Xin chào các em thiếu niên thân mến, chị là chị Thuần Tử, người bạn mới của các em, bắt đầu từ hôm nay, chị Thuần Tử sẽ cùng các em bước qua những năm tháng thanh xuân, cùng nhau đi tìm về nơi cố hương của tinh thần và tâm linh, cùng tìm kiếm ý nghĩa chân chính của đời người. Dưới đây chúng ta hãy cùng lắng nghe một câu chuyện nhé:

Câu chuyện sư tử đá mắt đỏ

Đó là câu chuyện từ rất xa xưa, ở một thôn trang nọ, người dân đạo đức đã trở nên rất bại hoại rồi, có thể nói là tệ đến không còn thuốc chữa nữa, do vậy ông Trời quyết định phải hủy đi thôn trang này. Vậy mà trong thôn này vẫn còn có một bà lão, trong thời loạn thế như vậy vẫn ngày ngày kiên trì thắp hương bái lạy trước tượng Phật, tu thân dưỡng đức. Không chỉ như vậy, bà lão lương thiện này còn rất sẵn lòng, vui vẻ giúp đỡ người khác, bất kể nhà hàng xóm láng giềng nào có việc, hễ có thể giúp được bà đều đi giúp. Thế mà những người được bà giúp lại còn làm hại bà, nhưng bà vẫn không hề từ bỏ bản tính lương thiện của mình. Do vậy ông Trời quyết định ban cho bà lão này một cơ duyên…

Một hôm, trong thôn xuất hiện một bà ăn mày, không những áo quần tả tơi mà toàn thân còn dơ dáy, bốc mùi ô uế, ai thấy bà đều phải bịt mũi tránh đường mà đi. Những kẻ vô lại trong thôn còn tay đấm chân đá người ăn mày, thậm chí đập nát cái bát xin cơm của bà. Bà ăn mày cứ thế bưng cái bát vỡ, loạng choạng bước đi xin ăn dọc đường, cuối cùng không thể chịu nổi nữa liền ngã xuống mê man. Bà lão chứng kiến cảnh này liền dìu người ăn mày vào nhà hết lòng chăm sóc. Lúc bà lão định đi lấy chút đồ ăn đem cho người ăn mày, thì xảy ra một chuyện kỳ diệu. Người ăn mày bỗng nhiên hiện hình Quan Âm Bồ Tát, váy áo trắng như tuyết, tướng mạo trang nghiêm, toả ánh hào quang rực rỡ. Thì ra người ăn mày này là do Quan Thế Âm Bồ Tát biến hóa thành. Bà lão vui mừng khôn xiết thành kính quỳ lạy Bồ Tát.

Quan Âm Bồ Tát nói với bà lão rằng: vì bà thiện lương nên muốn nói cho bà biết một thiên cơ, đại hồng thủy không lâu nữa sẽ nhấn chìm thôn trang này, khi nào mắt con sư tử đá ở cổng thôn biến thành màu đỏ thì chính là lúc đại hồng thủy sắp ập đến. Nói xong Quan Âm Bồ Tát liền biến mất.

Bà lão liền gấp rút chạy khắp thôn đem tin này nói cho người dân trong thôn, không ngờ hầu hết người trong thôn đều cười nhạo bà, và chẳng thèm để ý đến thông tin của bà. Những kẻ vô lại trong thôn thậm chí còn đùa cợt bà, vào ban đêm chúng bày ra trò đùa ác ý lấy thuốc nhuộm màu đỏ tô lên mắt con sư tử đá.

Hôm sau, bà lão phát hiện mắt con sư tử đá đã biến thành màu đỏ. Bà vô cùng hoảng sợ, hô hoán báo cho người dân trong thôn rằng hồng thủy sắp đến rồi, nhưng mấy kẻ vô lại kia lại còn cười ha hả nói với mọi người rằng do chúng dùng thuốc nhuộm bôi lên thôi. Nghe vậy, người trong thôn lại càng chẳng còn ai tin lời bà nữa. Không biết phải làm sao, bà lão đành một mình cô độc rời khỏi thôn. Không lâu sau, sấm sét vang dội, mưa lớn như trút xuống. Cả thôn trang đều bị nhấn chìm trong hồng thủy. Các thôn dân không tin lời bà lão đều bị hồng thủy nhấn chìm.

Bởi bà lão luôn ghi nhớ lời khuyến cáo của Quan Âm Bồ Tát, nhìn thấy mắt con sư tử đá biến thành đỏ liền lập tức rời khỏi thôn, không hề nghĩ rằng mắt sư tử đá đỏ là do bị nhuộm, tín ngưỡng kiên định vào Thần đã khiến bà có cơ duyên được cứu.

Các em thiếu niên thân mến, nghe xong câu chuyện trên, có phải các em cũng thấy thương tiếc cho những người không nghe lời khuyến cáo phải không? Nhưng các em có nghĩ rằng khi bản thân các em ở trong hoàn cảnh này, các em có nghe lời khuyến cáo của bà lão hay không, nắm lấy cơ duyên được cứu không? Khi học viên Pháp Luân Công nói với các em rằng: Chỉ cần thành tâm kính niệm chín chữ chân ngôn “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo”, thì có thể bình an tránh được dịch bệnh, có thể có tương lai tốt đẹp. Cơ duyên thường là như thế, nó thường xuất hiện trước mặt chúng ta mà chúng ta không để ý đến, nó đều là công bằng với mỗi người, then chốt là chúng ta có thể phát hiện ra nó hay không? Có thể nắm lấy nó hay không? Có thể trân quý nó hay không? Nhìn tổng thể lịch sử của nhân loại, chúng ta không khó tìm thấy những câu chuyện đáng kinh ngạc giống như thế. Vì thế, chị thật lòng mong các em đừng để bản thân lỡ mất cơ duyên được cứu, giống như nhân vật chính trong câu chuyện dưới đây, trở thành một sinh mệnh may mắn bắt được cơ duyên.

Vịt con xấu xí trở thành thiên nga trắng

Nhân vật chính của câu chuyện này tên là Lâm Y Lực, là một bé gái người Trung Quốc lớn lên ở Mỹ. Khi Y Lực 6 tuổi đã mắc một loại bệnh lạ về da, toàn thân và mặt mọc đầy những nốt mụn đỏ lấm tấm, sau đó càng ngày càng nghiêm trọng, những nốt mụn này chảy ra máu và mủ, khi thay áo lót ra thường thấy loang lổ các vết máu. Hơn nữa 98% các loại thực phẩm thường ngày cô bé đều không thể ăn được, hễ ăn vào thì bệnh càng nghiêm trọng hơn. Cô bé chỉ có thể ăn đi ăn lại cơm trắng, rau xanh, thịt heo, táo… chừng mười mấy loại thực phẩm, đến cả bột yến mạch, bánh mì, đậu phụ cũng không thể ăn.

Mẹ của cô bé nói rằng: dù cho khuynh gia bại sản cũng phải trị khỏi bệnh cho con gái. Bất kể thuốc đắt đỏ bao nhiêu, chỉ cần nghe nói có hiệu quả, mẹ của cô bé đều đi mua; bất kể thuốc đắng bao nhiêu khó uống bao nhiêu, Y Lực bé nhỏ đều không chút do dự mà nuốt xuống. Nhưng bệnh về da của Y Lực vẫn không hề có chút chuyển biến nào. Có bác sĩ thậm chí đã nói với mẹ của Y Lực rằng: “Bệnh của con gái cô e rằng sẽ theo cô bé cả đời”. Cứ thế mấy năm trôi qua, Y Lực đáng thương chịu đựng sự giày vò của bệnh tật, thân thể càng ngày càng yếu, không chỉ sắc mặt trở nên vàng xanh, tay chân mềm yếu, run rẩy, hơn nữa còn khắp người chảy máu và mủ, khiến cô bé đau đớn khó chịu toàn thân, mà còn khiến các bạn học đều tránh né. Y Lực đau khổ tột cùng, thậm chí còn tuyệt vọng hét lên trong đau khổ: “Tại sao con lại thảm hại như vậy? Con thà chết đi cho xong!” Nghe thấy tiếng hét tuyệt vọng, thảm thương ấy, mẹ của Y Lực trong lòng đau như dao cắt, ôm ghì lấy cô bé, cùng ôm nhau khóc…. bố của Y Lực trong lòng cũng vô cùng đau khổ.

Chính vào lúc cả nhà Y Lực đang nước sôi lửa bỏng thì Y Lực và mẹ may mắn gặp được bộ môn tu luyện Pháp Luân Công. Một hôm, mẹ Y Lực đang ở trong phòng khách xem băng ghi hình dạy công của Pháp Luân Công do một người bạn gửi đến, âm nhạc mỹ diệu và động tác thanh thoát khiến Y Lực say sưa, cô bé nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, động tác của công pháp này thật đẹp mắt”.

Mẹ cô bé hỏi: “Con có muốn luyện không?” – “Muốn ạ!” Thế mà không ai nghĩ rằng chính câu trả lời “Muốn ạ” này của Y Lực lại giúp cô “khổ tận cam lai”, đắc được cơ duyên hồi sinh!

Từ đó Y Lực và mẹ cùng nhau đọc «Chuyển Pháp Luân» (Cuốn sách chính của Pháp Luân Đại Pháp), luyện 5 bài công pháp của Pháp Luân Công, đồng thời dựa theo chuẩn tắc “Chân, Thiện, Nhẫn” trong sách để cải biến bản thân. Không biết tự lúc nào, Y Lực phát hiện tâm mình dần dần cởi mở trở lại, hiện tượng lở loét trên da của cô bé cũng đang có chuyển biến tốt. Sau 9 tháng tu luyện, bệnh viêm da của Lâm Y Lực đã hoàn toàn biến mất. Y Lực của ngày hôm nay đã trưởng thành, khí chất thanh cao, xinh đẹp, tự tin, là quản lý cho một cửa hàng kinh doanh đá quý ở Mỹ. Cảm kích ơn cứu mạng của Sư phụ Lý Hồng Chí, cô nói với mẹ: “Mẹ ơi, nếu như con không tu luyện Pháp Luân Công, con có lẽ không sống được đến ngày hôm nay, chính Pháp Luân Công đã cứu con! Sư phụ đã hồi sinh con!”

Pháp Luân Công còn được gọi là Pháp Luân Phật Pháp, do Đại sư Lý Hồng Chí sáng lập và công khai truyền ra tại Trường Xuân, Trung Quốc từ năm 1992. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện Pháp Luân Công đã nhận được hơn 3600 bằng khen, thư khen ngợi của các quốc gia trên khắp thế giới, phổ truyền rộng rãi toàn cầu trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cuốn sách chính của Pháp Luân Đại Pháp – cuốn «Chuyển Pháp Luân» cũng được dịch ra 40 thứ tiếng và xuất bản công khai trên toàn thế giới. Vô số người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đã được hưởng lợi ích cả thân lẫn tâm. Y Lực may mắn là một trong số đó, bởi vì cô đã nắm lấy cơ duyên này, vì thế cô đã hồi phục sức khỏe và được hạnh phúc. Ngày hôm nay, “Pháp Luân Đại Pháp hảo” đã trở thành nhận thức chung của những người có hiểu biết sâu sắc trên toàn thế giới.

Phần cuối của chương trình mời các em cùng thưởng thức bài hát «Cơ duyên», hy vọng qua câu chuyện hôm nay, các em hiểu được cần trân quý cơ duyên, hiểu được nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn của Pháp Luân Phật Pháp, có cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc.

Bài hát: Cơ Duyên

Soạn lời: Đóa Đóa Liên

Sáng tác nhạc: Tinh Tấn

Ca sỹ: Như Thủy

在迷中 你沉沦很多
Zài mí zhōng nǐ chén lún hěn duō
在人中 你尝尽苦乐
Zài rén zhōng nǐ cháng jìn kǔ lè
在世中 为名利茫然奔波
Zài shì zhōng wéi míng lì máng rán bēn bō
在心中 总有种无名的忧愁
Zài xīn zhōng zǒng yǒu zhǒng wú míng de yōu chóu
你来了 来听我说
Nǐ lái le lái tīng wǒ shuō
你走了 你明白许多
Nǐ zǒu le nǐ míng bái xǔ duō
要救你 是我对神的承诺
Yào jiù nǐ shì wǒ duì shén de chéng nuò
你得救 是我最大的快乐
Nǐ dé jiù shì wǒ zuì dà de kuài lè
今生结缘你和我
Jīn shēng jié yuán nǐ hé wǒ
听真相明白几多
Tīng zhēn xiàng míng bái jǐ duō
世间荣华带不走
Shì jiān róng huá dài bú zǒu
同化“真善忍”大法才是来世的嘱托
Tóng huà “zhēn shàn rěn ”dà fǎ cái shì lái shì de zhǔ tuō

Tạm dịch:

Trong mê lạc, bạn trầm luân biết mấy

Trong thân người, bạn nếm đủ khổ vui

Trong nhân thế, vì danh lợi bôn ba lạc lối

Trong cõi lòng, luôn ôm buồn lo không tên

Bạn đến rồi, hãy lắng nghe tôi nói

Bạn đi rồi, bạn hiểu ra nhiều điều

Cần cứu bạn, là lời hứa của tôi với Thần

Bạn được cứu, là niềm vui lớn nhất của tôi

Đời này bạn và tôi kết duyên

Nghe chân tướng hiểu được bao nhiêu

Vinh hoa thế gian không mang theo được

Đồng hóa Đại Pháp “Chân Thiện Nhẫn” mới là phó thác khi đến thế gian.

Các em thiếu niên thân mến, chương trình «Thiếu niên thời không – Radio Chánh Kiến» của ngày hôm nay đến đây là hết, chúng ta sẽ gặp lại nhau vào chương trình tuần tới nhé.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/271683

The post Thiếu niên thời không (01) : Trân quý cơ duyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Giải thích Chu Dịch, Bát Quái và chữ viết Thần truyền (1): Nguồn gốc của chữ Hánhttps://chanhkien.org/2023/06/giai-thich-chu-dich-bat-quai-va-chu-viet-than-truyen-1-nguon-goc-cua-chu-han.htmlSat, 03 Jun 2023 03:47:47 +0000https://chanhkien.org/?p=30319Tác giả: Đạo Sinh [ChanhKien.org] 1. Nguồn gốc của chữ Hán “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.” Dịch nghĩa: Cổng trời rộng lớn từ xưa tới nay mới khai mở lần đầu tiên, Bao nhiêu người tới nhân gian, bao nhiêu người có thể quay về. (Thiệu […]

The post Giải thích Chu Dịch, Bát Quái và chữ viết Thần truyền (1): Nguồn gốc của chữ Hán first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đạo Sinh

[ChanhKien.org]

1. Nguồn gốc của chữ Hán

“Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,

Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.”

Dịch nghĩa:

Cổng trời rộng lớn từ xưa tới nay mới khai mở lần đầu tiên,

Bao nhiêu người tới nhân gian, bao nhiêu người có thể quay về.

(Thiệu Ung – “Mai Hoa Thi”)

Trung Hoa đại lục, từ xa xưa đã được gọi là Thần Châu, là nơi được các vị Thần quan tâm và diễn giải nền văn hóa thần truyền. Trong các truyền thuyết lịch sử cổ xưa mà tổ tiên Hoa Hạ truyền từ đời này sang đời khác, các vị Thần đã từng đến trái đất hóa thân thành các vị cổ Thánh tiên vương của dân tộc Hoa Hạ, chẳng hạn như Hữu Sào thị, Toại Nhân thị, Phục Hy thị, Nữ Oa thị, Thần Nông thị… đã dẫn dắt tổ tiên Hoa Hạ qua nhiều nền văn minh nhân loại, trải qua hết kiếp nạn này đến kiếp nạn khác, từ thời kỳ tiền sử xa xưa, đã tiến nhập vào nền văn minh năm nghìn năm lần này, trong những năm tháng dài đằng đẵng này, đã từng bước từng bước kiến lập nên thể hệ văn hóa Thần truyền của Trung Hoa. Vào thời điểm đó nhân thần đồng tại ở trên trái đất, thần tích đại hiển, rất nhiều truyền thuyết mỹ diệu đã được lưu lại cho ngày nay, đã cảm hóa các thế hệ con cháu Viêm Hoàng.

Văn hóa Thần truyền Trung Hoa là văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nó bắt nguồn từ trí huệ của các vị Thần, nó tương thông cảm ứng qua lại với các vị Thần linh, có nội hàm bác đại thâm sâu và bí hiểm khó dò. Từ xưa đến nay có biết bao nhà hiền triết cổ đại đã đắm chìm trong đó, dốc hết một đời cũng không thể hiểu hết nội hàm của nó. Chữ Hán với tư cách là phương tiện chuyển tải và ghi chép lại văn hóa Thần truyền của Trung Hoa, đã xác định rằng nội hàm của chúng có thể đối ứng thông suốt với nhau, vì vậy nếu muốn tìm hiểu văn hóa Trung Hoa, trước tiên phải hiểu được chữ Hán, đây là nền tảng của văn hóa Trung Hoa, nếu không sẽ không cách nào hiểu được chân cảnh huyền diệu của văn hóa Trung Hoa. Bài viết này sẽ cùng mọi người ngao du trong vũ trụ ngôn từ, để tìm ra những thiên cơ và thần tích đang bị phủ bụi đằng sau những văn tự cổ xưa và thần bí nhất thế gian này.

Trước hết chúng ta hãy nói về sự ra đời của chữ Hán:

Trong các cuốn sách cổ như “Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Hoài Nam Tử”, “Thuyết Văn Giải Tự” v.v. đều ghi lại rằng: “Thương Hiệt, Sử quan của Hoàng Đế, đã sáng tạo ra chữ viết của Trung Hoa”. Việc Thương Hiệt sáng tạo ra chữ viết về sau đã trở thành một sự thực được cổ kim công nhận.

Trong các sách cổ như “Hoài Nam Tử” và “Xuân Thu Nguyên Mệnh Bao” nói: “Khi Thương Hiệt tạo ra chữ, ngô từ trên trời rơi xuống và ma quỷ khóc trong đêm.”

Trong cuốn “Lịch Đại Danh Họa Ký” giải thích: “Thương Hiệt sáng tạo ra chữ viết, đã tiết lộ bí mật của trời đất, cho nên ngô từ trên trời rơi xuống; khiến yêu ma quỷ quái không cách nào tàng hình được cho nên ma quỷ khóc trong đêm.”

Xem ra nguồn gốc của các chữ Hán rất lớn, đó là thiên cơ và bí mật được các vị Thần linh tiết lộ cho nhân loại, vậy thiên cơ nào được ẩn giấu sau các chữ Hán? Xin vui lòng xem các luận thuật dưới đây.

Trước tiên chúng ta hãy xem Thương Hiệt tạo ra chữ viết như thế nào:

Những cuốn sách cổ như “Xuân Thu Nguyên Mệnh Bao” và “Lịch Đại Danh Họa Ký” nói: “Thương Hiệt bẩm sinh có bốn con mắt, ông ngửa mặt quan sát thiên tượng, nhìn xuống vạn vật trên trái đất, quan sát các hoa văn và dấu chân của chim và thú, từ đó tạo ra các chữ”.

Tác giả đã thử so sánh, và phát hiện rằng những ghi chép về việc Thương Hiệt tạo ra chữ viết rất giống với những ghi chép về việc Phục Hy thị tạo ra Bát Quái thời viễn cổ:

“Chu Dịch • Hệ Từ Hạ” ghi rằng: “Cổ thánh vương Phục Hi ngẩng đầu quan sát thiên tượng, nhìn xuống xem địa lý, quan sát những đường vằn của chim thú, quan sát chính mình ở khoảng cách gần, quan sát vạn vật ở khoảng cách xa, từ đó đã sáng tạo ra Bát Quái, dùng nó để câu thông với các vị thần và thể hiện các tình trạng của vạn vật trong trời đất”.

Nếu như đem những ghi chép này so sánh với nhau, thì không khó để phát hiện ra rằng giữa chữ Hán và Chu Dịch Bát Quái có một mối liên hệ đặc biệt nào đó, có nguồn gốc rất rộng lớn.

Trong “Luận Thư Biểu” của Giang Thức, một vị quan nổi tiếng thời Bắc Ngụy dâng lên Tuyên Vũ Đế, viết: “Thương Hiệt đã quan sát các Quẻ Tượng trong Bát Quái của Phục Hy, quan sát các hoa văn của con rùa thiêng thời Hoàng Đế và dấu vết của chim thú mà sáng tạo ra chữ viết”.

Trong ghi chép này nói rằng khi Thương Hiệt tạo ra chữ viết đã tham chiếu đến Bát Quái của Phục Hy. Chúng ta hãy xem thêm:

Trong “Dịch Thông Quái Nghiệm” nói: “Phục Hy thị đã tạo ra “Dịch”, thời đó không có chữ viết cho nên lấy Quẻ Tượng để ghi lại mọi sự vật.”

Hóa ra trước khi chữ viết được tạo ra, Chu Dịch Bát Quái là thứ được sử dụng thay thế chữ viết để ghi lại các sự việc, bản thân Chu Dịch Bát Quái đã có chức năng của chữ viết.

“Kinh dịch • Hệ Từ Hạ” nói: “Phục Hy thị buổi đầu tạo ra Bát Quái, dùng để câu thông với các vị Thần và thể hiện tình trạng của vạn vật trong trời đất”. Trong Kinh Dịch cũng nói, chức năng của Bát Quái là dùng để câu thông với các vị Thần trong trời đất và ghi chép, mô tả vạn sự vạn vật trên thế gian, nó hoàn toàn có chức năng của chữ viết.

“Kinh dịch • Hệ Từ Hạ” cũng nói: “Sau khi tạo thành Bát Quái, hai cái chồng lên nhau tạo thành sáu mươi tư Tượng và trở thành Dịch, vạn vật trên đời đều bao gồm trong đó, không gì bị bỏ sót”.

“Kinh Dịch • Hệ Từ Hạ” còn nói: “Chữ viết hoàn toàn không thể biểu đạt hết những lời trong lòng, và ngôn ngữ cũng không thể hoàn toàn biểu đạt hết tư tưởng và ý cảnh. Chẳng lẽ vì vậy mà những tư tưởng khôn lường cao thâm của thánh nhân không thể biểu đạt được sao? Do đó thánh nhân đã thiết lập sáu mươi tư Tượng để biểu đạt đầy đủ tư tưởng và ý cảnh”.

Từ đó có thể thấy rằng sáu mươi tư Tượng của Bát Quái có thể được sử dụng để biểu đạt tư tưởng và ngôn luận, có thể khởi tác dụng như chữ viết, thậm chí ở một số phương diện còn vượt qua cả chữ viết, có thể biểu đạt những nội hàm mà chữ viết không thể biểu đạt được.

Tóm lại, trước khi chữ viết được tạo ra, mọi thứ đã được ghi lại bằng sáu mươi tư Tượng của Bát Quái. Hơn nữa, chữ viết được tạo ra là phỏng theo các nguyên lý của Chu Dịch, cơ chế của chữ và Chu Dịch là tương thông với nhau.

Vì vậy trước khi hiểu rõ chữ Hán, trước tiên phải biết rõ về Chu Dịch Bát Quái, nếu không sẽ không hiểu rõ nội hàm thực sự của chữ Hán. Chu Dịch Bát Quái là một trong những cội nguồn của nền văn minh Trung Hoa, nó đã được truyền thừa từ thời kỳ văn minh tiền sử xa xưa từ thế hệ này sang thế hệ khác nối tiếp cho đến ngày nay, đã kiến lập và đặt định ra nền tảng rất quan trọng cho nền văn hóa Trung Hoa. Tất cả các loại dự báo học thần bí trong văn hóa Trung Hoa về cơ bản đều được phát triển trực tiếp trên cơ sở của Chu Dịch Bát Quái. Đồng thời nó cũng là một trong Ngũ Kinh của Nho gia, đặt viên đá nền tảng cho tư tưởng của Nho gia.

Văn hóa Trung Hoa cao thâm khó dò, Chu Dịch Bát Quái là một trong những phần khó hiểu nhất của văn hóa Trung Hoa, từ thời cổ đại thường được gọi là vô tự thiên thư (cuốn Thiên Thư không có chữ), hàng ngàn năm qua, rất ít người có thể hiểu được chân cơ đằng sau nó, hiện nay lại càng không ai có thể hiểu được. Bài viết này sẽ giải thích cơ lý của Chu Dịch Bát Quái ở tầng thứ cá nhân, đồng thời kết hợp cơ lý của Chu Dịch Bát Quái để giải thích các chữ Hán, sẽ cố gắng hết sức dùng ngôn ngữ và ví dụ đơn giản nhất để diễn đạt ra, đồng thời để mọi người cùng khám phá Thiên cơ đằng sau văn tự Thần bí nhất trên thế gian này.

Chú thích:

Chu Dịch được lưu truyền từ thời tiền sử nên nó tồn tại trước chữ Hán. Tác giả cho rằng Phục Hy xưa kia đã tạo ra Bát Quái đồng thời với việc tạo ra Chu Dịch, nó chính là sáu mươi tư Quẻ, vì vậy trong bài viết dùng khái niệm sáu mươi tư Quẻ để chỉ Chu Dịch.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/239679

The post Giải thích Chu Dịch, Bát Quái và chữ viết Thần truyền (1): Nguồn gốc của chữ Hán first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 35): Quán Hoằng Văn trực tiếp chỉ đạo chính trị quốc giahttps://chanhkien.org/2023/06/dam-luan-ve-trinh-quan-chinh-yeu-phan-35-quan-hoang-van-truc-tiep-chi-dao-chinh-tri-quoc-gia.htmlFri, 02 Jun 2023 02:42:30 +0000https://chanhkien.org/?p=30318Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Nền văn minh rực rỡ của Trinh Quán chi trị có được là nhờ vào việc xem trọng đối với giáo dục Nho học, xem trọng đến mức tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả. Đó là kết quả của việc Thái Tông hiểu rõ thâm sâu các sách […]

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 35): Quán Hoằng Văn trực tiếp chỉ đạo chính trị quốc gia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Nền văn minh rực rỡ của Trinh Quán chi trị có được là nhờ vào việc xem trọng đối với giáo dục Nho học, xem trọng đến mức tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả. Đó là kết quả của việc Thái Tông hiểu rõ thâm sâu các sách kinh – sử của Nho học, đó quả là “Kinh quốc chi đại nghiệp, bất hủ chi thịnh sự” (sự nghiệp vĩ đại của quốc gia, việc làm thịnh sự ngàn đời). Chính vì thế địa vị của Nho học và Khổng Tử đã đạt tới đỉnh cao trong thời kỳ trị vì của hoàng đế Đường Thái Tông. Vì vậy việc chính giải và vận dụng Nho học cũng đạt đến đỉnh cao. Các nho sĩ lúc bấy giờ vì thế mà đều là những người kiến thức thông đạt, cực kì trí huệ, ngay thẳng chính khí mà cởi mở, họ đã cùng với Thái Tông khai sáng ra một cảnh tượng thịnh thế kì quan. Trước tiên chúng ta hãy xem một đoạn văn trong chương “Sùng Nho học” của sách “Trinh Quán Chính Yếu”, đây là đoạn ghi chép lịch sử về việc Đường Thái Tông chấn hưng Nho giáo.

Nho sinh ở quán Hoằng Văn ngày ngày cùng vua lấy kinh điển để luận chính sự

Đường Thái Tông lên ngôi không lâu bèn cho lập quán Hoằng Văn ở bên trái chính điện, tinh tuyển người thông hiểu Nho học khắp nước để họ kiêm nhiệm học sĩ quán Hoằng Văn cùng với chức vụ hiện tại, ban cho họ bổng lộc của quan ngũ phẩm, để họ luân phiên trực trong hoàng cung, khi Hoàng đế rảnh việc triều chính sẽ gọi vào nội điện, thảo luận điển tịch kim cổ, thương nghị chính sự, bàn việc lớn, đôi khi thảo luận đến nửa đêm mới thôi. Thái Tông lại xuống chiếu tuyển chọn con cháu của công khanh quý tộc, hiền thần lương tướng từ tam phẩm trở lên làm học sinh của quán Hoằng Văn.

Giải thích: Hoàng đế đích thân thực hành, đại chấn hưng Nho học

Đoạn văn trên nói đến việc Thái Tông vừa mới lên ngôi, bản thân ông nỗ lực thực hành, xem trọng giáo dục Nho học. Ông không chỉ thành lập quán Hoằng Văn, là trường học cao nhất của giới quý tộc, mà còn đặt trường học ở vị trí quan trọng và trung tâm nhất trong cung, để “Hoàng đế mỗi ngày thượng triều có thể ở bên trái chính điện cùng các quan đại thần nghe luận chính sự, xử lý các việc đại sự quốc gia”. Mục đích chính là nâng cao vị trí của giáo dục Nho học, khiến Nho học được coi trọng, được tôn kính ở mức trước nay chưa từng có.

Không chỉ như vậy, nếu Thái Tông chỉ đơn giản là đặt quán Hoằng Văn ở vị trí trung tâm cũng chỉ là cấp cho Nho học một địa vị hư danh, như vậy sẽ không thực sự hiểu rõ trí huệ và thực chất của Nho học, vậy sẽ không thể học tốt, cũng là không thực sự xem trọng, và càng không thể kiên trì mỗi lúc rảnh việc triều chính thì nghị luận việc chính sự, mời những giáo quan Nho sinh thảo luận về kinh điển văn học và lịch sử, vận dụng Nho học vào thực tế trị quốc.

Có thể thấy Thái Tông thực sự hiểu bản chất của Nho học là kiến thức trị quốc do tổ tiên truyền lại, phi thường quan trọng, không lạc vào hình thức, không để việc coi trọng Nho học như là việc làm để lấy hư danh xem trọng văn hóa giáo dục. Ông thực sự phát tự nội tâm xem trọng giáo dục Nho học, như vậy, việc bản thân ông có thể ngày ngày cùng các học giả thảo luận như vậy, giúp tinh tấn học vấn trị quốc, không ngừng thu được trí huệ từ những bậc đại Nho và Nho sinh có kiến thức này, linh hoạt nắm vững học vấn, trực tiếp có thể áp dụng những kiến thức này vào trong chính sự hàng ngày, để giải quyết vấn đề khó khăn trong việc trị quốc.

Thái Tông càng học càng sử dụng nhiều, thì ông càng hiểu Nho học là kinh quốc đại nghiệp (sự nghiệp vĩ đại của đất nước), vì vậy ông tự nhiên ý thức được rằng càng là bậc hoàng thân quý tộc, con cháu của các quan lớn thì càng cần phải lĩnh ngộ lời giáo huấn của Nho học, bởi vì phần lớn những người đó sẽ nối nghiệp cha anh của mình trở thành người quản lý quốc gia trong tương lai, nếu không có học vấn, không có trí huệ kiến thức và yếu lĩnh làm người thì họ không có cách gánh vác trách nhiệm nặng nề đó, dần dần, sẽ khiến quốc gia bị loạn.

Từ đoạn văn này, chúng ta sẽ hiểu rõ, các quan viên của triều Đường, phần nhiều là qua giáo dục Nho học, đây cũng chính là nguyên nhân vì sao Thái Tông cùng Ngụy Trưng và các quan đại thần hễ thương nghị chuyện triều chính quốc gia, dù là liên quan đến phương diện nào, cũng đều trích dẫn kinh điển để thảo luận rồi đưa ra quyết định. Câu nói trích dẫn kinh điển, không phải là có ý châm biếm, bởi vì người đời sau có một bộ phận dần dần học những giáo điều, không thể lĩnh ngộ được bản chất của kinh điển, vì vậy câu nói ấy mới trở thành lời thành ngữ, đặc biệt là hôm nay, lại biến thành lời châm biếm mỉa mai. Nguyên gốc câu nói ấy không phải nghĩa như vậy.

“Phần Điển” là khởi nguồn của Nho học

“Phần Điển” (坟典) chính là “Tam Phần” và “Ngũ Điển”. Chữ “Phần” (坟) này không phải là nghĩa phần mộ, thời cổ đại từ dùng để chỉ phần mộ là chữ phần phồn thể (墳) này, nguyên văn hai từ này có hai ý nghĩa khác nhau. Trọng điểm của chúng ta không phải là bàn luận và giải thích ý nghĩa của Hán tự các triều đại, không phải là nghiên cứu học thuật, mà tôi muốn nói đến rằng người xưa khi tạo chữ là có nội hàm, chữ này từ đầu đã là như vậy, không phải do giản hóa mà ra. Đối với Nho sinh thời cổ đại thì những cuốn sách được tôn kính nhất và lâu đời nhất chính là “Tam Phần” và “Ngũ Điển”, đây chính là cuốn sách sử ghi chép lại những chuyện xưa thời Tam Hoàng Ngũ Đế, và chính là khởi nguồn của Nho học. Vì vậy “Phần” (坟) là có quan hệ đến văn hóa và văn minh nhân loại, thế nào mà nó lại lẫn lộn với phần mộ được?

Phần (坟), phía bên trái là bộ thổ (土), bên phải là bộ văn (文), vậy đương nhiên đại diện cho nền văn hóa được truyền lại cho nhân loại. Là văn hóa nào? Đó chính là văn hóa tu đạo, làm người và trị quốc. Điều cốt lõi nhất là những giá trị quan mà nhân loại nên có. Thổ (土) đại diện cho thổ địa, đại diện cho cảnh giới nơi nhân loại sinh tồn, đồng thời, thời cổ đại là không có văn tự, chỉ dựa vào truyền thuyết kể lại về khởi nguyên của con người là do Nữ Oa dùng thổ “đất” tạo ra con người, còn Trung Quốc gọi là Thần Châu, cũng gọi là Trung Nguyên, hàm ý là trung tâm và nguồn gốc của văn minh nhân loại, đại biểu cho nhận thức của các học giả cổ đại đối với văn hóa nhân loại bắt nguồn từ Thần truyền và lấy Trung Nguyên là cốt lõi để truyền cấp cho nhân loại xung quanh. Cho nên văn minh (文) thổ địa (土) chính là văn minh của con người, cấu thành nên chữ Phần (坟), đây mới là hàm nghĩa thực sự và nguồn gốc nên có của chữ “phần”. Từ lúc tạo chữ đã định ra như thế. Vì thế “Tam Phần” và “Ngũ Điển” chính là kinh điển của văn minh nhân loại, không hiểu hàm nghĩa chân chính của những cuốn sách này, sẽ không hiểu được bản chất và lai lịch của Nho học, sẽ biến thành giáo điều. Cho nên, những nhà đại Nho thời cổ đại đầu tiên là phải đọc những cuốn sách này. Cho dù rất nhiều nội dung đã thất truyền, nó vẫn được Khổng Tử chỉnh lý và xuất bản rất nhiều.

Ví dụ như cuốn “Thượng thư” (尚书, còn được gọi là Kinh Thư) do Khổng Tử chỉnh lý, đã lưu lại rất nhiều nội dung của “Phần Điển”. Vì vậy cuốn sách này được gọi là sách sử thời thượng cổ, trở thành kinh điển Nho học. Thượng (尚) chính là thượng (上), hai chữ này đồng âm đồng nghĩa, đó là cuốn sách lịch sử ghi chép về các hoàng đế cổ đại, là đạo lý đáng được ngưỡng mộ và tuân theo nhất, vì vậy nó đã trở thành điển phạm về trị quốc và làm người. Ví dụ như “Nghiêu điển” và “Thuấn điển” mà mọi người đều quen thuộc (“Nghiêu điển” và “Thuấn điển” là hai chương trong sách “Thượng thư”), chính là phần ghi chép lại sự tích của Thuấn đế và Nghiêu đế.

Về “Tam Phần”, trong lời nói đầu của sách “Thượng thư” của Khổng An Quốc vào thời nhà Hán có viết lại như sau: “Tam Phần là sách chép những công việc đời Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế, lời lẽ trong đó là đại đạo. Ngũ Điển là sách chép những công việc đời Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân (Đế Khốc), Đường Nghiêu và Ngu Thuấn, lời lẽ trong đó là thường đạo. Bát Tác là sách ghi chép về học thuyết bát quái, phải tìm tòi ý nghĩa của nó. Cửu Khâu là sách ghi chép về Cửu Châu, khâu có nghĩa là tụ họp, ghi chép về Cửu Châu, những sinh vật ở từng nơi, phong tục trong sách đó”.

Kiến giải này xuất phát từ Khổng Tử, đây là nhận thức bản chất đối với Tam Phần Ngũ Điển và các thư tịch cổ xưa. Khổng Tử đã chính lý những cuốn cổ thư này, từ đó khai sáng ra dĩ đức vi chính và nền giáo dục dùng nhân nghĩa để xử thế, tất nhiên những kiến giải đó là đến từ việc ông nghiên cứu những sử liệu cổ xưa trong quá trình ông chỉnh lý sách “Thượng thư”. Từ đó lưu truyền lại cho con cháu các đời sau.

Cũng chính là nói, Tam Phần, giảng ra đạo lý của cảnh giới cao vượt trên sự hiểu biết của người thường, cho nên, rất ít người có thể hiểu nắm bắt được, chỉ người tu luyện chân chính mới có thể hiểu được, chẳng phải Hoàng đế tu đạo mà bạch nhật phi thiên, đắc đạo thành Thần đó sao? Cho nên, học vấn này chính là kiến thức của tu đạo, ở trong không gian giữa Thần và người, những thứ đó thuộc về đại đạo cao nhất gần với Thần nhất. Cũng bởi nguyên nhân này, mà không thể lưu lại những thứ thực chất. Rất nhiều điều đã bị thất truyền. Còn Ngũ Điển thì được lưu lại nhiều hơn, vì điều giảng trong đó là những điều mà con người rất dễ dàng nắm bắt và lý giải, thuộc về thường đạo, đó là văn hóa và giá trị quan chủ yếu để con người noi theo. Ví dụ như đạo hiếu trị quốc, giáo hóa đạo đức nhân luân, nó xuất phát từ thực tiễn của Thuấn Đế.

Tự cổ trên làm dưới theo, Thái Tông nỗ lực thượng tôn Nho học, nắm vững chữ đức để ứng dụng Nho học, đầu tiên là quy chính bản thân, tiếp đó là quy chính tầng lớp quan lại và quý tộc, như vậy tự nhiên bách tính sẽ noi theo, quốc gia sẽ mười phần chính khí. Nhờ đó đã mang đến cho nền giáo dục của Nho học một thời kỳ thịnh vượng trước đó chưa từng có. Ở phần sau chúng ta sẽ đến đoạn tiếp theo: Khổng Tử được Thái Tông tôn làm Thánh nhân, có địa vị cao nhất trong lịch sử.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/251543

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 35): Quán Hoằng Văn trực tiếp chỉ đạo chính trị quốc gia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Du du tự tại (1): Chữ Hán và nhân sinhhttps://chanhkien.org/2023/05/du-du-tu-tai-1-chu-han-va-nhan-sinh.htmlWed, 24 May 2023 02:26:36 +0000https://chanhkien.org/?p=30221[ChanhKien.org] 1. Học chữ Hán có thể mở mang tầm nhìn, tiến nhập vào thế giới rộng lớn Học chữ Hán, mỗi người sẽ tiến vào thế giới trừu tượng, là một cây cầu quan trọng để tiến vào thế giới tư duy của người khác; chữ Hán giúp chúng ta có thể đi vào […]

The post Du du tự tại (1): Chữ Hán và nhân sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

1. Học chữ Hán có thể mở mang tầm nhìn, tiến nhập vào thế giới rộng lớn

Học chữ Hán, mỗi người sẽ tiến vào thế giới trừu tượng, là một cây cầu quan trọng để tiến vào thế giới tư duy của người khác; chữ Hán giúp chúng ta có thể đi vào thế giới cổ đại, thế giới bên ngoài và thế giới trừu tượng. Hiểu văn tự để học tập cũng giống như thủy thủ Popeye ăn rau chân vịt vậy, sau khi học được văn tự, công lực sẽ tăng lên nhiều lần.

Một người có thể nắm vững được chữ Hán, thì cả cuộc đời người ấy sẽ thay đổi, vì thế khi đối diện với môi trường bên ngoài người ấy có thể mở ra rất nhiều con đường khác nhau để phát triển bản thân. Nắm vững năng lực chữ Hán rất quan trọng, xét từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học cho đến phát triển văn tự, thì học chữ Hán có thể kích thích liên kết và phát triển thần kinh não, đây là một loại học tập rất tốt. Hình, âm và nghĩa của chữ Hán có liên hệ về không gian và thứ tự, không chỉ có liên hệ về bố cục mà còn có liên hệ về chỉnh thể. Khi chúng ta nhận diện chữ Hán trong quá trình đọc và lý giải, thì toàn bộ não đều hoạt động. Cho nên học chữ Hán sẽ nâng cao năng lượng học tập, nâng cao tiềm năng lý giải của mình, lại có thể mở mang tầm nhìn, tiến vào thế giới rộng mở.

2. Chữ Hán khiến cho nhân sinh phong phú hơn

Chữ Hán vốn là thứ rất đẹp. Chúng có nguồn gốc rất lâu dài, một chữ Hán sẽ gắn liền với một giai đoạn lịch sử cổ xưa. Trong quá trình học và sử dụng chữ Hán, tự nhiên sẽ tiếp xúc được với rất nhiều thành ngữ, câu chuyện lịch sử và truyền thuyết dân gian. Những điển cố tràn đầy màu sắc và trí tuệ nhân sinh này khiến cho nhân sinh càng thêm phong phú.

3. Chữ Hán vượt trở ngại của thời gian

Hình của chữ Hán là cố định như nhau, nhưng âm chữ Hán lại không ngừng thay đổi tùy theo thời gian và không gian. Tuy âm thay đổi nhưng chữ đó lại không thay đổi, vẫn bảo lưu đầu mối, do đó kết cấu chữ Hán vẫn luôn luôn cố định, cho nên chúng ta vẫn có thể đọc hiểu được những điều từ 3000 năm trước. Đặc điểm này của chữ Hán là điều mà bất cứ văn tự nào khác trên thế giới đều không đạt được.

4. Phương pháp học tập chữ Hán thú vị và có hiệu suất

Rất nhiều người thường lý giải sai rằng: cảm thấy học chữ Hán rất khó. Kỳ thực nếu có thể dùng phương pháp tốt, năng động để dạy trẻ em học chữ Hán thì không cần trẻ em phải viết chữ đến mỏi tay, viết phát sợ. Phương pháp như vậy không đúng. Khi hướng dẫn trẻ nhỏ, có thể giảng giải cho chúng rằng, chúng ta sẽ sử dụng phương pháp khác, sinh động và nghệ thuật hơn, bởi vì vốn chữ Hán là thứ rất đẹp. Độ cân bằng, thay đổi, kích cỡ và khoảng cách của chữ Hán so với các văn tự khác đều mang lại cho chúng ta cảm giác đẹp đẽ. Cho nên làm sao để hoạt bát và sinh động dạy cho trẻ em, khiến chúng mong muốn học mới là điều quan trọng.

Khi học thì cần nhiều sự trợ giúp từ bên ngoài, cho nên việc trình chiếu hình ảnh sẽ có tác dụng dẫn dắt rất lớn, như thế sẽ biết chữ đó được viết theo trình tự nào, từ đó sẽ có ấn tượng sâu sắc, đương nhiên sẽ có thể rất nhanh chóng nắm vững sự liên quan của các câu chuyện đằng sau mỗi chữ đó.

Tôi nhận thấy bộ “Du du tự tại” này được biên soạn rất tốt, rất công phu, có thể thu hút hứng thú của trẻ em, có thể dẫn dắt trẻ em một cách sinh động hoạt bát học tập chữ Hán, khiến cho những người mới bắt đầu học sẽ lĩnh hội được cái đẹp của chữ Hán, du du (thong dong nhàn nhã dạo chơi) trong thế giới của Hán tự.

Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu trung ương Đài Loan: Tăng Chí Lãng

Học vị chuyên môn:

Tiến sỹ Tâm lý học nhận thức Đại học Pennsylvania, Mỹ.

Chuyên gia Tâm lý học nhận thức và thần kinh ngôn ngữ học, có nhiều nghiên cứu về ngôn ngữ học và văn tự.

Nguyên Bộ trưởng Bộ giáo dục.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/32725

The post Du du tự tại (1): Chữ Hán và nhân sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Vănhttps://chanhkien.org/2023/04/tai-lieu-giang-day-van-hoa-so-cap-thien-tu-van.htmlFri, 28 Apr 2023 00:39:47 +0000https://chanhkien.org/?p=29939Ban biên tập Tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến [ChanhKien.org] Ghi chú của người biên tập: Nhằm hoằng dương văn hóa Thần truyền Trung Quốc, thanh trừ ảnh hưởng của văn hóa tà đảng, các đệ tử Đại Pháp trong lĩnh vực giáo dục dùng chính kiến tu xuất được từ trong Đại […]

The post Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ban biên tập Tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến

[ChanhKien.org]

Ghi chú của người biên tập: Nhằm hoằng dương văn hóa Thần truyền Trung Quốc, thanh trừ ảnh hưởng của văn hóa tà đảng, các đệ tử Đại Pháp trong lĩnh vực giáo dục dùng chính kiến tu xuất được từ trong Đại Pháp, bắt đầu biên soạn một bộ tài liệu giảng dạy Văn hóa chính thống Trung Quốc. Bởi vì mới cất những bước đi đầu tiên nên khó tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi mong được các đệ tử Đại Pháp trên toàn thế giới, nhất là đệ tử Đại Pháp trong lĩnh vực giáo dục, tham dự và góp ý. Chúng tôi chân thành hy vọng rằng, những đồng tu dùng tài liệu giảng dạy này có thể phản hồi cho chúng tôi những vấn đề gặp phải trong khi đứng lớp và những ưu khuyết điểm của giáo trình, nhằm giúp chúng tôi không ngừng sửa chữa nâng cao, làm cho giáo trình ngày càng đầy đủ và hoàn chỉnh. Đồng thời, chúng tôi cũng hoan nghênh các đồng tu có nguyện ý tham dự sáng tác biên tập tới gia nhập ban biên tập, để cùng nhau biên soạn hoàn thành giáo trình này.

◇◇◇ ◇◇◇ ◇◇◇

Hướng dẫn đọc (câu chuyện về Thiên Tự Văn)

Trước thời kỳ mạt của nhà Thanh, “Thiên Tự Văn”, “Tam Tự Kinh”, “Bách Gia Tính” là tài liệu cơ bản về giáo dục vỡ lòng dành cho trẻ em Trung Quốc, chúng được gọi chung là “Tam, Bách, Thiên”. Bởi vì văn tự ngắn gọn thiết thực, dễ thuộc, cho nên được xã hội đương thời tiếp nhận rộng rãi và trở thành sách mà trẻ em nhất định phải đọc. Bởi vậy, tại thời đại đó, người đi học nói chung đều từng đọc qua những cuốn này. Tới nay, dù không còn là sách học của bậc tiểu học nhưng vẫn còn rất nhiều cha mẹ khuyến khích con cái đọc những cuốn này và coi đây là sách đọc ngoại khóa.

Trong ba cuốn trên, “Thiên Tự Văn” xuất hiện sớm nhất, ước chừng cách ngày nay hơn 1500 năm. Bản “Thiên Tự Văn” mà chúng ta học ngày nay là do Chu Hưng Tự thời Nam Bắc triều biên soạn. Tương truyền, Lương Vũ Đế vì muốn dạy các hoàng tử viết chữ nên đã ra lệnh lấy 1000 chữ không trùng lặp trong các thư pháp của Chung Dao và Vương Hi Chi rồi in khắc ra để các hoàng tử tập viết theo. Sau khi các chữ này được in khắc ra, Lương Vũ Đế thấy rằng chúng lộn xộn không theo thứ tự, các hoàng tử muốn học tập theo thì rất khó, nên đã nghĩ tới việc chiểu theo phương pháp thanh vận mà biên soạn lại các chữ này thành câu văn có ý nghĩa, nhằm giúp các hoàng tử học tập. Thế là vua triệu kiến Chu Hưng Tự – một người có tài học vấn – rồi nói: “Khanh có tài văn chương, hãy gieo vần giúp ta!” Sau khi Chu Hưng Tự nhận lệnh, ông đã vắt óc suy nghĩ, chỉ trong thời gian một buổi tối mà đã biên soạn xong, nghe nói vì vậy mà râu tóc Chu Hưng Tự bạc hết. Lương Vũ Đế sau khi xem qua thì khen ngợi không ngớt, bởi vì Chu Hưng Tự đã đem 1000 chữ hỗn loạn không trật tự kia biên soạn thành một áng văn tuyệt diệu vừa có thể đọc thuộc làu làu lại còn mang ý nghĩa sâu xa.

Do trong “Thiên Tự Văn” không có một chữ nào bị lặp lại, mà còn đều là những chữ thông dụng, cho nên sau khi học được 1000 chữ này, đối với một người bình thường thì từng ấy chữ cũng coi như đủ dùng trong cuộc sống thường ngày; hơn nữa kết cấu và các nét viết của những chữ này có thể nói là tiêu biểu của chữ Hán; nên rất đỗi tự nhiên mà trở thành một tài liệu tốt để dạy trẻ viết chữ, ngay cả rất nhiều nhà thư pháp nổi tiếng trong các thế hệ cũng thích viết chúng. Cho dù thời đại có chuyển biến thế nào, tri thức truyền thống của Trung Quốc trước sau vẫn là tài sản trân quý nhất; mặc dù “Thiên Tự Văn” chỉ vỏn vẹn 1000 chữ, nhưng lối viết tinh xảo, vế đối tinh tế, khí thế hùng hồn, dễ đọc dễ nhớ, nội dung bao hàm thiên văn, địa lý, tự nhiên, lịch sử, giai thoại về các nhân vật, quy chế pháp luật, đạo đức luân lý và đạo lý “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, là cuốn sách hay hiếm có.

Bản giáo trình này tổng cộng chia làm 60 bài, nội dung mỗi bài gồm các phần Nguyên văn, Bính âm, Chú âm, Âm Hán – Việt, Chú thích, Lời dịch tham khảo, Câu chuyện văn tự, Suy ngẫm và thảo luận, còn có những hoạt động ngữ văn thú vị và sinh động. Hy vọng các em thiếu nhi mới học chữ Trung Quốc có thể nắm được văn tự và lĩnh hội được vẻ đẹp của chữ Hán thông qua loạt bài này; đồng thời từ những kiến thức về thiên văn địa lý, những sự tích về nhân vật lịch sử, những đạo lý về đối nhân xử thế, cùng những phương pháp tu dưỡng phẩm hạnh được dạy trong mỗi bài mà định hình nên nguyên tắc làm người; qua đó nhận thức được văn hóa Trung Hoa bác đại tinh thâm của chúng ta.

Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp

Thiên Tự Văn (1)

Nguyên văn

天地玄黃(1) 宇宙洪荒(2) 日月盈昃(3) 辰宿列張(4)

Bính âm

天(tiān) 地(dì) 玄(xuán) 黃(huáng)

宇(yǔ) 宙(zhòu) 洪(hóng) 荒(huāng)

日(rì) 月(yuè) 盈(yíng) 昃(zè)

辰(chén) 宿(xiù) 列(liè) 張(zhāng)

Chú âm

天(ㄊㄧㄢ)地(ㄉㄧˋ) 玄(ㄒㄩㄢˊ) 黃(ㄏㄨㄤˊ)

宇(ㄩˇ) 宙(ㄓㄡˋ) 洪(ㄏㄨㄥˊ) 荒(ㄏㄨㄤ)

日(ㄖˋ) 月(ㄩㄝˋ) 盈(ㄧㄥˊ) 昃(ㄗㄜˋ)

辰(ㄔㄣˊ) 宿(ㄙㄨˋ) 列(ㄌㄧㄝˋ) 張(ㄓㄤ)

Âm Hán – Việt

Thiên Địa huyền hoàng

Vũ trụ hồng hoang

Nhật nguyệt doanh trắc

Thần tú liệt trương.

Chú thích

(1) Thiên 天 Địa 地 Huyền 玄 Hoàng 黃 là cảnh tượng được hình dung vào thời viễn cổ khi địa cầu mới được sinh ra. Lúc ấy, thiên thể mới đang được tổ hợp tạo thành, giữa thiên và địa là một cảnh hỗn độn nóng rực. Do khí quyển bị thiêu đốt mà bầu trời lẫn lộn hai màu đỏ đen, biến hóa khó lường, cho nên gọi đó là “Thiên huyền”. Đại địa vì bị thiêu đốt mà trở nên khô vàng, cho nên gọi đó là “Địa hoàng”.

Cổ nhân gọi không gian la liệt các vì sao trên đầu là “Thiên” (Trời), cũng gọi nơi Thần linh trú ngụ là Thiên, do đó đối với “Trời” thì phi thường kính sợ.

“Địa” 地 chính là địa cầu (Trái Đất) mà nhân loại đang ở, một trong chín đại hành tinh của Thái Dương hệ (hệ Mặt Trời), là nơi cung cấp vật chất cho rất nhiều sinh mệnh.

“Huyền” 玄: màu đen có lẫn màu đỏ thì được gọi là “huyền”, sau này “huyền” thường được dùng để chỉ màu đen; “huyền” còn bao hàm sự thâm áo vi diệu, khó đo lường giải thích, như trong cuốn “Lão Tử” viết “Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn”.

“Hoàng” 黃: là một loại màu sắc, tựu chung với màu đỏ và màu lam thì được gọi là “Tam nguyên sắc” (ba màu gốc, ba màu cơ bản). “Hoàng” cũng là một họ lớn của Trung Quốc; “Hoàng Đế” là thủy tổ chung của dân tộc Trung Hoa.

(2) Vũ 宇 Trụ 宙 Hồng 洪 Hoang 荒 là nói, khi đó địa cầu có một đoạn thời gian rất dài bị chìm ngập trong hồng thủy, khắp nơi đều hoang vu thê lương.

“Vũ” 宇 là sự hình dung của cổ nhân về không gian bao la vô hạn, chỉ Trên, Dưới cùng bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc.

“Trụ” 宙 có nghĩa là từ xưa đến nay, ý chỉ thời gian.

Hai chữ “vũ trụ” 宇宙 hợp lại, có hàm ý là không gian lớn vô hạn và thời gian dài vô hạn.

“Hồng” 洪 có nghĩa là “đại” (to lớn), khi làm danh từ thì mang nghĩa là “đại thủy” (lũ lụt).

“Hoang” 荒 là cỏ dại mọc đầy đất, hễ là vùng đất không có hoặc không thể trồng bất cứ loại cây gì thì được gọi là đất hoang.

(3) Nhật 日 Nguyệt 月 Doanh 盈 Trắc 昃 là nói cho chúng ta biết rằng Mặt Trời và Mặt Trăng chuyển động trên bầu trời, do chịu ảnh hưởng của việc Trái Đất tự xoay quanh trục của chính nó nên có hiện tượng Mặt Trời mọc – Mặt Trăng lặn và trăng tròn – trăng khuyết.

“Nhật” 日 là Thái Dương (Mặt Trời), nó là một hằng tinh (hằng tinh là một thiên thể cố định bất động, không thay đổi vị trí, có thể tự phát ra ánh sáng rất mạnh và nóng), chiếu sáng cả hệ Mặt Trời bao gồm Trái Đất ở bên trong. Ngoại trừ hệ Mặt Trời này của chúng ta, tại hệ Ngân Hà trong vũ trụ còn có sự tồn tại của vô số hệ Mặt Trời khác, do khoảng cách quá xa, đôi mắt thường của nhân loại chúng ta không nhìn thấy được.

“Nguyệt” 月 là Mặt Trăng, nó là vệ tinh quay quanh Trái Đất chúng ta, hơn nữa lại là nhân tạo! Nhưng đó là do nhân loại tiền sử xa xưa đã phóng lên. Khoa học kỹ thuật hiện tại của chúng ta còn làm chưa được, điều này cũng chứng minh rằng trước nền văn minh nhân loại kỳ này của chúng ta, trên Trái Đất đã từng xuất hiện những nền văn minh khác và được gọi chung là văn minh tiền sử.

“Doanh” 盈 là chỉ tình trạng tràn đầy và dư thừa, cổ nhân gọi Mặt Trăng vào đêm 15 âm lịch mỗi tháng là “doanh nguyệt”, cho nên “doanh” còn có ý là “viên” (tròn).

“Trắc” 昃 là chỉ Mặt Trời ngả về Tây, cổ nhân nhìn thấy Mặt Trời buổi sáng xuất hiện từ đường chân trời phía Đông, rồi từ từ leo lên trên, đến chính ngọ (giữa trưa, 12:00 trưa) thì Mặt Trời ở ngay trên đỉnh đầu của chúng ta. Nhưng hễ qua chính ngọ thì Mặt Trời bắt đầu hạ về phía Tây, giống như kiểu rơi xuống. Kỳ thực, Mặt Trời là một hằng tinh, nó không hề di động, là vì Trái Đất tự quay quanh trục nên tạo thành giả tượng, tưởng rằng Mặt Trời mọc rồi lặn. Cho nên có cách nói “Nhật trung tắc trắc”, tức là khi Mặt Trời tới trung ngọ (chính ngọ) thì ắt ngả về Tây (ý chỉ sự vật sự việc lên tới cực thịnh rồi sẽ suy, tương tự câu “vật cực tất phản”).

(4) Thần 辰 Tú 宿 Liệt 列 Trương 張 ý chỉ những vì tinh tú lớn nhỏ khác nhau lấp đầy bầu trời vô biên vô tế.

“Thần” 辰 nghĩa là “tinh thần” (tinh trong chữ “tinh tú”, thần trong chữ “giờ thần”), là tên gọi chung của các vì sao trên trời. “Thần” còn là cách gọi thời gian thời cổ đại, buổi sáng từ 7:00 – 9:00 là giờ Thần (giờ Thìn), khi mở rộng nghĩa thì “thời khắc” cũng được gọi là “thời thần”.

“Tú” 宿 có ba cách phát âm là “sù” (túc), “xiù” (tú) và “xiǔ” (âm Hán – Việt cũng là túc).

Khi đọc là “xiù” (tú) thì ý chỉ các vì “tinh tú”. Người Trung Quốc cổ đại tập hợp một số ngôi sao lại gọi là tú, phương Tây gọi là chòm sao, như Cơ Tú là do bốn ngôi sao hợp thành.

Còn khi đọc là “sù” (túc) thì là chỉ nơi có thể nghỉ ngơi; như “túc xá” (ký túc xá, nhà ở tập thể).

Còn nếu là “xiǔ” thì bằng nghĩa với từ “dạ” (đêm), ví như “chỉnh túc vị miên” (cả đêm chưa ngủ).

“Liệt” 列, là trưng bày, phô bày.

“Trương” 張 ý là phân bố; “Liệt trương” 列張 chính là trưng bày phân bố.

Ý nghĩa văn bản

Bốn câu trên là đoạn mở đầu của toàn bộ cuốn “Thiên Tự Văn”. Nó kể về hoàn cảnh lúc khai thiên tịch địa, vũ trụ vừa mới sinh ra và sự vận hành, sắp xếp của Mặt Trời, Mặt Trăng cùng các ngôi sao, đó là điều mà người Trung Quốc cổ đại quan sát vũ trụ thấy được.

Lời dịch tham khảo

Vào lúc Trái Đất mới sinh ra, bốn bề Trái Đất được bao quanh bởi một thể khí màu đỏ đen hỗn độn không rõ và biến ảo khó lường, còn đại địa (mặt đất) là một vùng khô vàng. Khắp nơi đều là lũ lụt, phóng mắt nhìn đều là cảnh hoang vu. Trải qua một đoạn thời gian rất dài, không gian giữa thiên và địa dần sáng tỏ, lúc này có thể nhìn thấy Mặt Trời, Mặt Trăng vận hành rất có quy luật trên bầu trời. Cứ đến đêm 15 (âm lịch), Mặt Trăng sẽ lại sáng và tròn. Còn Mặt Trời hễ qua giữa trưa là bắt đầu dần ngả về hướng Tây, hiện tượng này chưa từng thay đổi. Vô số vì sao phân bố trên bầu trời rộng lớn vô hạn, hoặc tốp năm tốp ba, hoặc một mình đơn lẻ, lấp lánh ánh quang khiến con người say mê ngắm nhìn, mang đến suy tư vô hạn cho nhân loại.

Suy ngẫm và thảo luận

Phạm vi của vũ trụ lớn cỡ nào?

Đối với nhân loại mà nói thì Trái Đất tương đối lớn, bán kính của nó ước chừng 6371,2 km, nhưng còn chưa bằng 1% bán kính của Mặt Trời. Trong khoảng cách từ Mặt Trời đến sao Diêm Vương – hành tinh xa nhất trong Thái Dương hệ, ước chừng có thể đặt vừa hai triệu cái Trái Đất. Mà Mặt Trời chỉ là một hằng tinh trong hệ Ngân Hà. Trong hệ Ngân Hà khổng lồ, ước chừng có hơn 100 tỷ hằng tinh lớn như Mặt Trời, thậm chí có hằng tinh còn lớn hơn Mặt Trời mấy nghìn lần. Từ đó có thể thấy hệ Ngân Hà khổng lồ biết bao.

Sách tham khảo: “Thiên Tự Văn”, “Tam Dân Thư Cục”, “Kiều Giáo Song Chu San”, “Kiều Vụ Ủy Viên Hội”.

Dịch từ:

http://big5.zhengjian.org/node/41430

The post Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Huyền mộc ký (1-01)https://chanhkien.org/2023/03/huyen-moc-ky-1-01.htmlSun, 05 Mar 2023 04:24:45 +0000https://chanhkien.org/?p=29743Tác giả: Thoại Bản tiên sinh [ChanhKien.org] Sâm giới, tọa lạc nơi sâu thẳm trong thương vũ. Đó là một thế giới mỹ hảo và rộng lớn, sinh mệnh nơi đó đều là Thần. Nơi đây, hoa, điểu, trùng, ngư, cầm thú nhiều vô số; sông suối biển hồ phân thành bảy màu sắc: đỏ […]

The post Huyền mộc ký (1-01) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thoại Bản tiên sinh

[ChanhKien.org]

Sâm giới, tọa lạc nơi sâu thẳm trong thương vũ. Đó là một thế giới mỹ hảo và rộng lớn, sinh mệnh nơi đó đều là Thần.

Nơi đây, hoa, điểu, trùng, ngư, cầm thú nhiều vô số; sông suối biển hồ phân thành bảy màu sắc: đỏ – cam – vàng – lục – lam – chàm – tím, mỗi màu sắc đều trong suốt, lấp lánh và mỹ diệu vô cùng; thổ nhưỡng nơi này không phải là đất và đá, mà do ba loại vật chất là vàng, bạc và kim cương cấu thành…

Đây là một thế giới kỳ diệu và hạnh phúc, người dân nơi đây cư trú trong những khu rừng sâu, nhà của họ đa phần đều được làm từ vàng trên núi. Thức ăn của họ làm từ lá cây, lá cây trong Sâm giới không phải là loại lá thông thường, nó có thể biến hóa thành các món ăn khác nhau. “Điểm diệp thành hào” là tiên pháp mà mỗi sinh mệnh trong Sâm giới đều biết, chính là chỉ cần chọn ra một lá, nhẹ nhàng bứt xuống tức thì lá cây sẽ biến thành một đĩa cao lương mỹ vị. Các sinh mệnh trong Sâm giới cả ngày làm bạn với non xanh, hạc tiên, không gì câu thúc được họ, tiêu dao tự tại không biết đã bao nhiêu năm rồi…

Khi ấy, người ta chỉ thấy một thiếu nữ mặc váy màu xanh lục từ nơi xa cưỡi mây bay đến, theo sau nàng là Thần Long ngũ sắc, người thiếu nữ này tên là Bích Dao.

Bích Dao là một tiểu cô nương sống trong rừng, gương mặt trẻ trung như một bé gái, xinh đẹp khả ái, rất thích nô đùa và vô cùng hoạt bát.

Hôm nay, Bích Dao cùng chúng bạn chơi đá cầu, Thần Tiên chơi đá cầu so với phàm nhân thì khác xa rất nhiều, chỉ nhìn thấy họ mỗi lần đá cầu đều làm ra trong không trung một động tác ưu mỹ đẹp đẽ, động tác của ai ưu mỹ hơn thì quả cầu sẽ hô lên một tiếng “Hảo”. Cảnh tượng bảy tám vị nữ Thần Tiên thi đá cầu trong không trung như vậy so với những bức bích họa Tiên nữ phi thiên trong động đá Đôn Hoàng thì còn đẹp hơn gấp mấy tầng trời.

Quả cầu nhìn thấy động tác của Bích Dao ưu mỹ, dứt khoát, không kìm được bèn hô lên mấy lượt: “Oa! Đẹp quá! Đẹp quá!…”

Quả cầu này thực là “thật thà” quá đi mất, chỉ khen một mình Bích Dao, điều này khiến cho các nữ Thần Tiên khác không khỏi sản sinh chút ganh tỵ.

“Quả cầu thối, chúng ta không đẹp chút nào sao! Mi chỉ khen một mình Bích Dao…”

Quả cầu ngượng nghịu mỉm cười, đáp nhỏ: “Thì đúng là chỉ có tư thế của Bích Dao là đẹp nhất, các chị có gì không phục cơ chứ…”

Nghe thấy vậy vị Thần Tiên đem lòng đố kỵ, tức giận kéo chúng bạn bay đi!

Mọi người đều cảm thấy rất khó xử, duy chỉ có Bích Dao không như vậy, cô cũng không tức giận, chỉ có đôi mắt là trầm tư nhìn về phía các Tiên nữ đang bay đi. Mọi người không hiểu được vì sao một tiểu nha đầu hoạt bát thích vui cười như Bích Dao lại để lộ ra một đôi mắt buồn thăm thẳm đến như thế.

Bỗng có tiếng gọi: “Bích Dao…Bích Dao…”

Bích Dao từ từ định thần lại, giấu đi ánh mắt buồn khi nãy, nở nụ cười khe khẽ: “Mọi người đều đã mệt cả rồi, chúng ta đi Tử Y Hồ tắm một chút đi, nước ở đó ngọt phải biết đấy…”

Quả thực trận cầu khi nãy đã khiến mọi người thấm mệt, ai nấy đều thấm đẫm mồ hôi, thế nên tất cả đã cùng đi tới Tử Y Hồ, vừa tắm mát vừa vui đùa thật náo nhiệt. Thần Long ngũ sắc ngồi bên hồ dùng chân vuốt ve chiếc đuôi của mình, thanh nhàn đến mức sắp ngủ thiếp đi được…

Bên này mặc dù rất thanh nhàn, nhưng phía xa bên kia lại có một vị Thần đang đứng trước đường hầm thời không, dáng vẻ vô cùng lo lắng, đó chính là “Liên Ba tướng quân”. Liên Ba tướng quân là vương trong tầng thứ 13 của Sâm giới, lúc này, tướng quân cần lên tầng trời chủ để gặp Pháp Vương nhưng nãy giờ lão Tiên cai quản đường hầm thời không lại làm khó không cho tướng quân qua.

Liên Ba tướng quân nói: “Lão Tiên à, cầu xin ông cho tôi vào, thực sự là tôi đang có việc gấp tìm tôn chủ!”

“Tướng quân có việc thì nên bẩm báo lên trên, ngài thuộc về tầng trời thứ 13, trừ khi tôn chủ triệu tập, bằng không thì không thể tự ý lên tầng trời chủ đâu…”

Vì sao lão Tiên lại gọi ngài Liên Ba là “tướng quân”? Bởi vì năm đó Liên Ba cùng Pháp Vương bình định Sâm giới, trảm yêu trừ ma, là đại tướng quân trừ tà của Pháp Vương, chiến công hiển hách, tuy nhiên đây là sự tình rất lâu rất lâu về trước rồi. Vị Thần Tiên này cũng là một vị lão Thần Tiên, vậy nên vẫn gọi ngài ấy là “tướng quân”. Sau khi bình định Sâm giới, Pháp Vương phong ngài làm Liên Ba Vương, trưởng quản tầng trời thứ 13.

“Lão Tiên ơi! Đây là đại sự liên quan đến an nguy của chúng sinh Sâm giới!!”

“Thôi được, tướng quân vào đi, tầng trời chủ không có cửa, sau khi rời khỏi đường hầm, tập trung thần trí nhảy vọt một cái là có thể đến nơi”.

Lời của lão Tiên vừa dứt, Liên Ba tướng quân chỉ nói một câu: “Đa tạ!” rồi vung vạt áo bào một cái hướng lên phía trước tiến thẳng vào đường hầm thời không.

Liên Ba tướng quân tay nắm chặt lấy một cành cây đã bị cháy thành than trắng, sau khi bay ra từ đường hầm thời không, ngài nhún chân một cái bay thẳng lên tầng trời chủ của Sâm giới, sau đó vội vàng bay về nơi đang phát ra ánh sáng ngũ sắc đằng xa…

Lại nói một chút về sự tình bên này. Vào đúng lúc Thần Long ngũ sắc đang ngủ gà ngủ gật thì đột nhiên cảm thấy từ đằng xa một luồng khí hướng về phía mình mà thổi tới với tốc độ rất nhanh, Thần Long vội vàng mở to mắt nhìn, đây chẳng phải là Liên Ba tướng quân hay sao! Hai người họ vốn biết nhau rất rõ.

Thần Long ngũ sắc thiên tính vốn tinh nghịch, thích trêu đùa, nhìn thấy Liên Ba tướng quân vội vã như vậy liền muốn dập đi ngọn lửa đang cháy trên cành cây mà tướng quân mang theo.

Thần Long ngậm một ngụm nước hồ trong miệng, đợi Liên Ba tướng quân bay gần tới liền lấy hơi phun mạnh ra, bị bất ngờ Liên Ba tướng quân trở tay không kịp, chỉ nghe thấy tướng quân hét lớn:

“Đừng đùa nữa!! Lúc này là lúc nào rồi!”

Lời này của tướng quân khiến Tiểu Long bị dọa phát khiếp, nó biết rằng có chuyện không hay nên vội thò đầu xuống Tử Y Hồ tìm Bích Dao.

Ánh nắng trên hồ Tử Y lúc này thật đẹp, tia sáng chiếu xuyên xuống mặt nước màu tím thẫm làm gợn lên những tia sáng long lanh, trông giống như tinh hà đang lấp lánh vậy.

Lúc này Bích Dao đang tắm trong hồ, Thần Long ngũ sắc bèn bay lên trên mặt hồ rồi đột nhiên nói với chủ nhân (chỉ Bích Dao) của mình mấy lời mà người khác nghe không hiểu gì.

Chỉ thấy rằng Bích Dao dùng đôi tay ngọc ngà của mình vẫy nhẹ một cái, một làn gió nhẹ bay tới hóa thành một chiếc váy tiên từ từ rơi xuống vừa vặn khớp với thân người của cô, mỹ nhân xuất ra khỏi hồ.

Y phục của Thần Tiên trong Sâm giới đều được làm từ “thanh phong” (cơn gió nhẹ). Mọi người biết rằng y phục làm bằng tơ tằm rất mịn màng trơn nhẵn, mặc lên vô cùng thoải mái, đó là bởi vì sợi tơ tằm rất thanh mảnh. Còn “thanh phong” thì mịn màng đến thế nào nữa? Độ mịn của y phục được làm từ gió có thể nghĩ đến sẽ biết được: khi y phục tiếp xúc với da thì cảm tưởng như có như không, nặng nhẹ tùy ý, hình dạng và màu sắc của nó thì chỉ cần trong tâm động một niệm là có thể hóa thành, vô cùng tự nhiên phóng khoáng, y phục của Thần Tiên này, dùng ngôn ngữ của phàm nhân để hình dung thì có chút khó khăn.

Trở lại chuyện chính. Bích Dao thong thả bước ra từ trong Tử Y Hồ thì bắt gặp Liên Ba tướng quân mồ hôi nhễ nhại.

Liên Ba tướng quân đưa mắt nhìn xung quanh, thấy có mấy Tiên nữ cũng vừa xuất ra khỏi Tử Y Hồ, còn có cả chim, khỉ, sóc, bọn họ đều đang chăm chú nhìn vào tướng quân và Bích Dao, không biết có chuyện gì xảy ra.

Tướng quân đưa mắt nhìn Bích Dao, muốn nói gì đó mà không cất lời, sau đó tướng quân thần sắc trang trọng, không nói gì, chỉ thấy tướng quân đưa thân cây đã cháy thành than trắng cho Bích Dao xem.

Nhìn thấy nó, Bích Dao đột nhiên thất kinh biến sắc, vội vàng hỏi:

“Ngài phát hiện ra nó ở đâu vậy?”

“Trong rừng Dục Cảnh tầng trời thứ 13”.

“Có bao nhiêu?”

“…13 cây”.

Phong thái khí định thần nhàn của Bích Dao khi nãy bỗng biến mất hoàn toàn, nghe xong câu này của tướng quân, thần sắc vốn đang kinh hãi của nàng lại càng thêm phần kinh khiếp.

Thần Tiên và các loài động vật đứng bên cạnh nhao nhao hỏi Bích Dao: “Người này là ai vậy? Nàng làm sao thế?… Cây gậy bị cháy chẳng phải sẽ hóa thành tro đen sao, tại sao lại cháy thành tro trắng thế này?”…

Bích Dao không trả lời, cô lặng lẽ giơ tay lật tay áo của mình sang một bên, chỉ nhìn thấy tất cả sinh linh bên Tử Y Hồ khi nãy nghe được câu chuyện của họ đều bị hút vào bên trong. Bích Dao đem theo họ cưỡi mây mà bay đi…

Tất cả Thần Tiên trong chiếc váy vô cùng kinh ngạc, tiểu cô nương Bích Dao này tại sao lại có pháp lực lớn đến vậy, có thể đem theo được chúng ta? Cô ấy muốn đem chúng ta đi đâu? Người trong hình dạng một vị tướng quân khi nãy là ai? Ông ấy đến tìm Bích Dao làm gì?

Trong con mắt của Thần Tiên nơi đây, Bích Dao chỉ là một tiểu cô nương chưa đến tuổi trưởng thành, trước giờ vẫn sống ở trong rừng, rất đỗi bình thường. Nói rằng người trong rừng đều là Thần Tiên thì quả không sai, Thần Tiên có thần thông, bất kể Thần Tiên nào trong số họ đều có thể nắm lấy địa cầu trong lòng bàn tay, thế nhưng sinh mệnh trong cùng tầng thứ với họ thì họ không động vào được. Một Thần Tiên chưa trưởng thành sẽ không thể đem theo được những Thần Tiên đã trưởng thành và cũng không thể nào nắm giữ họ trong một chiếc tay áo như thế này. Vậy, làm thế nào Bích Dao làm được việc này?

Còn nữa, tướng quân không phải đang cần tìm Pháp Vương có việc gấp đó sao? Tại sao lại tìm đến tiểu cô nương bình thường này? Trừ phi…

Bích Dao đem theo rất nhiều người xuyên mây phá sương mà bay đi, chỉ nhìn thấy đằng sau đám mây mỏng phía trước có ánh sáng lấp lánh, đột nhiên Bích Dao đưa tay phất nhẹ tay áo, tất cả sinh linh đều nhất loạt rơi xuống một đám mây mềm như sợi bông ở bên dưới.

Cảnh tượng hiện ra trước mắt khiến họ kinh ngạc đến sững cả người. Trong phút chốc họ đã đến được vương cung của Sâm giới.

Lúc này, tiểu hầu tử (khỉ) mở to đôi mắt: “Mẹ tôi nói rằng, phòng trong vương cung đều được xây bằng ngọc, mặt đất được lót bằng tường vân (đám mây cát tường), trong không khí phảng phất mùi của hoa sơn trà, quả nhiên là điều chân thật!”

Thật vậy, tường trong vương cung đều làm từ ngọc, óng ánh trong suốt; nền vương cung đều được trải bằng tường vân, mềm mại mà không bị tản mất; ánh sáng đều có màu của ngọc lưu ly, rất trong sáng và tường hòa; không khí nơi đây ngào ngạt mùi hương của hoa sơn trà… Cả vương cung nguy nga lộng lẫy, cao quý mà thanh nhã.

Tiểu sóc nhìn thấy bức hoành phi treo trên cửa liền thuận miệng đọc ra bốn chữ: “Hồng Diểu Chính Sâm!”

Lúc này, các chú chim mới “chi chi cha cha” lên tiếng: “Tôi biết rồi! Tôi biết rồi! Đây là đại điện mà Pháp Vương thượng triều! Hồng Diểu Chính Sâm Điện! Không ngờ chúng ta lại đến được nơi đây!”

Lúc này, 18 vị Thần hộ Pháp đứng thành hai hàng chỉnh tề cùng cúi đầu lên tiếng: “Cung nghênh Pháp Vương hồi cung!”

Mọi người mơ màng như ở trong mộng, đứng sững cả ra ở đó, trong đầu họ là cả một khoảng trắng: “Pháp Vương ở đâu vậy?”

Khi ấy, Bích Dao từ từ bước lên bảo tọa lấp lánh ánh sáng của thạch anh, trong phút chốc biến thành hình dạng của Nữ Vương.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279402

The post Huyền mộc ký (1-01) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Hữu đức tự nhiên hương: Nữ đức tu thânhttps://chanhkien.org/2023/02/huu-duc-tu-nhien-huong-nu-duc-tu-than.htmlFri, 17 Feb 2023 03:09:15 +0000https://chanhkien.org/?p=29678Tác giả: Lan Nhược [ChanhKien.org] Tôn Trung Sơn từng nói “Nhìn người phụ nữ biết được sự thái bình, an nguy của thiên hạ, nhìn người mẹ biết được sự hưng suy của gia đình”. Nam giới đều kỳ vọng kết hôn với người phụ nữ dung mạo và phẩm hạnh câu toàn; con cái […]

The post Hữu đức tự nhiên hương: Nữ đức tu thân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lan Nhược

[ChanhKien.org]

Tôn Trung Sơn từng nói “Nhìn người phụ nữ biết được sự thái bình, an nguy của thiên hạ, nhìn người mẹ biết được sự hưng suy của gia đình”. Nam giới đều kỳ vọng kết hôn với người phụ nữ dung mạo và phẩm hạnh câu toàn; con cái mong ước mẹ mình hiền đức, ôn nhu; cha mẹ hy vọng con gái của mình dịu dàng, trí huệ. Những mong muốn này của con người từ xưa đến nay chưa bao giờ thay đổi, duy chỉ có một thứ biến đổi chính là con người hiện đại đã thay đổi chuẩn tắc và phương pháp giáo dục người con gái, xã hội hiện đại đã không còn biết thế nào là hiền thục, lương thiện, trí huệ, không biết làm thế nào để bồi dưỡng cho bé gái hiểu biết đúng đắn về trợ giúp chồng, dạy bảo con, hiếu kính bề trên nữa rồi.

Bắt đầu từ kỳ này, tác giả chia làm bốn loạt bài để cùng bạn đọc tìm hiểu kỹ việc giáo dục phụ nữ trong văn hóa truyền thống.

Từ xưa đã có rất nhiều sách liên quan đến nữ giáo (giáo dục phụ nữ), nữ đức (đức hạnh của phụ nữ).

Nữ đức cũng gọi là khôn đức [1], đất là khôn, nuôi dưỡng và chứa đựng vạn vật. Trong lịch sử rất nhiều cuốn sách cổ như “Nữ giới”, “Nữ huấn”, “Nữ hiếu kinh” và “Nữ nhi kinh”… đã mô tả cụ thể hình tượng nữ tính mẫu nghi thiên hạ của khôn đức như thế nào, làm thế nào để bồi dưỡng những đức tính lương thiện của người phụ nữ như “ôn, lương, cung, kiệm” (ôn hòa, lương thiện, cung kính, tiết kiệm).

Chúng tôi có thể mô tả ngắn gọn như sau:

(1) Tu thân

(2) Giúp chồng

(3) Dạy con

(4) Hiếu thân

(5) Hòa thích

(1) Tu thân

“Nữ hữu tứ hạnh, nhất viết phụ đức, nhị viết phụ ngôn, tam viết phụ dung, tứ viết phụ công… U nhàn trinh tĩnh, thủ tiết chỉnh tề, hành kỷ hữu sỉ, động tịnh hữu pháp, thị vị phụ đức. Trạch từ nhi thuyết, bất đạo ác ngữ, thời nhiên hậu ngôn, bất yếm ư nhân, thị vi phụ ngôn. Quán hoán trần uế, phục sức tiên khiết, mộc dục dĩ thời, thân bất cấu nhục, thị vị phụ dung. Chuyên tâm phưởng tích, bất hiếu hí tiếu, khiết tề tửu thực, dĩ cúng tân khách, thị vị phụ công hỹ. Thử tứ giả, nữ nhân chi đại công, nhi bất khả phạp chi giả dã.”

(Trích trong sách “Nữ giới” – Đông Hán Ban Chiêu)

Tạm dịch [2]:

“Trong đời sống hằng ngày, phụ nữ có bốn quy phạm hành vi cần phải có là phụ đức, phụ ngôn, phụ dung và phụ công. Tao nhã, hiền thục, thanh khiết, trầm tĩnh, cung kính, cẩn thận, giữ tiết tháo, cử chỉ đoan chánh, tâm biết hổ thẹn, lời nói, việc làm đều có quy củ, phù hợp lễ nghi, đây chính là phụ đức.

Lựa lời mà nói, không nói lời khó nghe, cho dù là lời tốt cũng phải chọn thời điểm thích hợp mới nói ra, sẽ không khiến người phản cảm, đây chính là phụ ngôn.

Y phục dù cũ hay mới cũng phải giặt cho sạch sẽ, phục sức tươi sáng thanh khiết, tắm gội đúng lúc, giữ thân thể sạch sẽ, đây chính là phụ dung.

Chuyên tâm may vá, dệt vải, không nói đùa cười cợt với người khác, chuẩn bị rượu và thức ăn ngon, tiếp đãi khách chu đáo, đây chính là phụ công.

Làm được bốn điều này thì người phụ nữ đã lập được đại công, và những điều này cũng không thể thiếu.”

1) Những câu văn cổ ở trên đều rất rõ ràng, dễ hiểu. Ở đây, tôi sẽ nói cụ thể hơn về “phụ ngôn”. Là người tu luyện, chúng ta đều biết về tầm quan trọng của việc tu khẩu. Yêu cầu được đặt ra đối với lời nói của phụ nữ trong văn hóa truyền thống chính là sự gợi mở cho chúng ta.

Người xưa có câu: “Một người nếu có thể giảng đạo lý cho người khác bằng tâm thái vui vẻ, ôn hòa thì dù là người có tính cách kiên cường như đá cũng cảm động mà tự thay đổi. Nếu nói những lời chanh chua, cay nghiệt, làm tổn thương người khác thì tai họa sẽ mạnh mẽ như lửa lớn thiêu rụi cỏ trên bình nguyên, vô phương cứu vãn”. Người xưa còn có câu: “Miệng người nếu có thể thường đóng giống như cửa nhà, không dễ dàng đa ngôn loạn ngữ, thì lời nói ra sẽ bền lâu. Lời người nói ra như bát nước đổ đi không thể lấy lại”. Từ đó có thể thấy người xưa rất nghiêm khắc yêu cầu người phụ nữ nói năng thận trọng.

Sách “Thượng Thư – Mục Thệ” có câu: “Gà mái nếu giống như gà trống dậy sớm gáy vang thì đó là điềm báo gia đạo suy tàn”.

Là người phụ nữ tính tình dịu dàng, thong dong, càng nhiều lời thì càng tổn thất, chi bằng kiệm lời. Người giỏi biết kiềm chế, nhất định phải thận trọng hơn.

2) Trong giáo dục của người xưa còn có một yêu cầu rất quan trọng nữa đối với người phụ nữ là “ti nhược”, “ti” chỉ sự khiêm nhường, “nhược” chỉ sự mềm yếu; khiêm nhường và mềm yếu là đại biểu cho đức hạnh quan trọng nhất của người phụ nữ. Ti nhược ở đây chính là chỉ “hậu đức tải vật” (đức dày chứa đựng vạn vật), nhược thể hiện rõ ràng phẩm hạnh “thượng thiện nhược thủy” [3]. Nếu như người phụ nữ xưa không làm được khiêm nhường, thiện lương, mềm yếu thì cũng chính là mất đi nữ đức.

Người xưa sau khi sinh hạ con gái ba ngày, thì đặt con ngủ ở dưới giường, lấy con thoi dệt vải bằng đất nung cho con làm đồ chơi. Để bé gái ngủ ở dưới giường thể hiện rằng con gái nên biết yếu mềm, khiêm nhường, dùng con thoi dệt vải làm đồ chơi thể hiện bé gái cần phải có đức tính lao động cần cù, giữ đạo cần kiệm trong gia đình.

Còn rất nhiều yêu cầu cụ thể khác như: đối đãi với người khác phải khiêm nhường, cung kính, không thể sơ suất với bất kỳ ai. Gặp việc tốt thì luôn nhường người khác hưởng, bản thân không tranh đua. Làm điều tốt cho người khác cũng không được khoe khoang, gặp việc ủy khuất cũng không tranh biện. Thời thời khắc khắc dè dặt cẩn thận, kính nể phục tùng.

Hằng ngày dậy sớm nhất, chăm lo việc nhà, quét dọn nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng không bụi bẩn, làm cơm canh thơm ngon vừa vị, thu xếp bản thân sạch sẽ chỉnh tề. Mỗi đêm sắp xếp cho người trong nhà nghỉ ngơi hết rồi mình mới đi nghỉ.

Những cô gái được bồi dưỡng theo cách này thì làm sao có thể không làm cho gia đình thịnh vượng và hạnh phúc chứ? Trước những yêu cầu trên thì người hiện đại chỉ có trố mắt không nói nên lời! Cái tôi bị phóng đại hoàn toàn không thể chấp nhận được việc đặt bản thân vào vị trí thấp nhất, nhưng vì các nữ đồng tu chúng ta đang tu luyện Đại Pháp, các yêu cầu này đối với chúng ta là hoàn toàn có thể từ từ làm được. Sự phục hưng của văn hóa truyền thống bắt đầu từ việc chúng ta hiểu biết về văn hóa truyền thống, thực hành văn hóa truyền thống và truyền bá văn hóa truyền thống, mỗi người đều là một hình mẫu sống động về người phụ nữ dịu dàng, hoàn mỹ, tài năng, đức độ cho thế nhân noi theo.

Người xưa yêu cầu về đạo đức rất rõ ràng cụ thể, tuy nhiên nhìn suốt quá trình lịch sử, những cô gái thật sự có thể đáp ứng các yêu cầu trên quả là rất ít. Nhưng chúng ta đang trong tu luyện Đại Pháp, tự mài giũa bản thân thành những nữ đệ tử Đại Pháp đoan trang, dịu dàng với tâm hồn thuần tịnh, trong sáng, hoàn toàn không phải là điều xa vời không thể đạt được.

3) Trong các sách cổ có đặt ra rất nhiều yêu cầu cho người phụ nữ để đạt được “nhàn tĩnh”, như trong “Nữ luận ngữ” yêu cầu phụ nữ khi đi đường không được nhìn ngang liếc dọc, lúc ngồi không được lắc lư đầu gối, phải ngồi khép hai đầu gối, càng không thể bắt chéo hai chân. Khi đứng không được lay động quần, nói chuyện không được cao giọng để lộ răng lợi. Thời xưa, vi phạm bất kỳ mục nào ở trên sẽ bị xem là “tiện tướng” (tướng mạo ti tiện). Ngoài ra, yêu cầu khi thích thú không được cười lớn, lúc phiền não không được cao giọng. Không tuân thủ bị coi là “khinh tướng” (tướng mạo tùy tiện). Hai từ “khinh tiện” này làm tổn thương nhất đến hình tượng đứng đắn của người phụ nữ.

“Nữ nhi kinh” cũng viết:

“Tu nữ dung, yếu chính kinh, nhất thân đả phẫn thậm phi khinh. Trà yên mạt phấn do tiểu sự, trì thể đoan trang hữu trùng tình. Quang sơ đầu phát tịnh tẩy kiểm, chỉnh khiết tự thị hảo nghi dung. Y phục bất tất lăng la đoạn, thoa miên y phục yếu can tịnh. Y giá y phục tu đáp phối, y tương điệp bản mạc loạn ủng.”

Tạm dịch: “Tu nữ dung, cần ngay chính, ăn mặc trên thân phải nghiêm trang. Tô son trát phấn là chuyện nhỏ, giữ thân đoan trang mới trọng yếu. Tóc chải gọn gàng, mặt mày sạch sẽ, chỉnh tề tự nhiên dung nhan đẹp. Y phục không cần bằng gấm lụa, quần áo vải bông giữ sạch sẽ. Y phục treo giá phải thành bộ, quần áo trong hòm chớ loạn tung.”

Thời xưa, những phụ nữ có giáo dưỡng đều được yêu cầu động tác phải nhàn tĩnh, tâm thái tường hòa, chuyển động dịu dàng, uyển chuyển. Cử chỉ đoan trang, cung kính. Lễ tiết thời xưa có nguồn gốc từ các nghi lễ nhà Chu, bao gồm năm hệ thống nghi thức chính là “Cát lễ, Gia lễ, Tân lễ, Quân lễ, Hung lễ”. Chỉ một “Gia lễ (lễ chúc mừng)” thôi cũng bao hàm lễ ẩm thực, lễ tân xạ (bắn cung), lễ khánh hạ (chúc mừng) v.v. Mỗi lễ tiết nếu phân ra còn bao gồm vô số chi tiết. Đều có những yêu cầu rất cụ thể đối với phụ nữ trong mỗi trường hợp về cách đứng, ngồi, đưa tay, cầm chén trà ra sao, cách di chuyển, điều chỉnh ngữ điệu âm thanh và nét mặt nụ cười như thế nào.

Trong hoàn cảnh hiện nay, bắt chước hoàn toàn người xưa là điều không thể, nhưng nắm bắt và học tập tinh thần cùng âm điệu của các lễ nghi lớn vẫn rất cần thiết.

Mọi người trên thế giới đều biết vẻ đẹp của Shen Yun, mỗi nét nhăn mày, mỗi nụ cười, mỗi động tác, cử chỉ của các nghệ sĩ Shen Yun trên sân khấu hoàn toàn phù hợp với lễ pháp văn hóa truyền thống. Mỗi cử động tay chân, mỗi động tác nhíu mày ngước mắt, mọi nơi mọi lúc đều thể hiện cảnh giới thuần chân, thuần thiện đạt tới thuần mỹ. Kỳ thực, vạn pháp quy tông, dù chi tiết có phức tạp đến đâu, nhưng là người tu luyện Đại Pháp, khi thân tâm chúng ta lúc nào cũng chứa đầy “Chân, Thiện, Nhẫn” thì mọi hành động sẽ phù hợp nhất với lễ pháp.

Các nghệ sĩ Shen Yun đã trình diễn những hình tượng mỹ hảo và truyền thống nhất trên sân khấu. Chẳng phải chúng ta cũng đang diễn giải những hình ảnh thuần chân và mỹ hảo nhất của các đệ tử Đại Pháp cho người thường trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta sao? Chỉ là sân khấu có đòi hỏi cao hơn, không được phép cẩu thả, một chút xíu bất cẩn sẽ khiến “khán giả” có chướng ngại trong tâm, ảnh hưởng đến việc họ cùng chúng sinh của họ được cứu độ.

Thế gian con người lại là một sân khấu còn đòi hỏi khắt khe hơn, mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều có Đại Pháp trong tâm, nếu lấy các nghệ sĩ Shen Yun làm hình mẫu, trong người thường việc chúng ta “biểu diễn” xuất ra một “Shen Yun” đủ ôn lương cung kiệm hoàn toàn không phải là điều xa vời. Thử nghĩ, nếu chúng ta mở rộng sân khấu Shen Yun đến nơi người thường, mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều trình diễn tốt trong mỗi từng việc nhỏ hằng ngày, nếu tất cả chúng ta đều làm rất tốt thì diễn xuất “Shen Yun” được mở rộng và phóng đại vô hạn, do tất cả các đệ tử của Sư tôn cùng biểu diễn, sẽ là một lễ hội trình diễn vô cùng hoàn mỹ!

Ngôn ngữ cơ thể của các nữ nghệ sĩ Shen Yun là hình mẫu cho các nữ đệ tử Đại Pháp noi theo. Dù động hay tĩnh, dù nói hay im lặng đều ung dung, chừng mực. Chuẩn tắc lễ nghi nghiêm túc, đứng đắn của các nữ đệ tử Đại Pháp được thể hiện ở khắp mọi nơi, như những đóa tịnh liên vươn lên từ bùn dơ mà không vấy bẩn. Với Đại Pháp trong tâm, chúng ta có thể luôn nhắc nhở bản thân rằng không khó để làm điều đó. Trong thời kỳ hỗn thế mạt kiếp này, hình ảnh những nữ đệ tử Đại Pháp như vậy sẽ triển hiện ra chân tướng Đại Pháp tốt đẹp hơn nữa.

Về yêu cầu tu thân của phụ nữ xưa hôm nay chỉ nói đến đây, trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn về những ghi chép trong các sách cổ về vai trò của phụ nữ trong mối quan hệ vợ chồng và việc người phụ nữ làm thế nào để tương trợ chồng.

Hẹn gặp lại trong phần tiếp theo.

Ghi chú:

[1] Khôn: quẻ khôn trong bát quái, tượng trưng cho đất, nữ giới, phái nữ

[2] Tham khảo bản dịch trên trang web nuduc.com

[3] Lão Tử giảng: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lơi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo” (Đạo Đức Kinh). Ý nghĩa là: nước là thiện nhất. Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, luôn tìm đến ở chỗ mọi người ghét cho nên gần với Đạo. Theo Lão Tử, “nước” có bảy cái thiện, đó là: “cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện dung, sự thiện năng, động thiện thì”. Về chi tiết, xin tham khảo bài viết sau:

https://www.ntdvn.net/van-hoa/httpsdrivegooglecomfiled1d0z9l87gmvnoryw427i8qv5apnzh-hp8view-17918.html

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279112

The post Hữu đức tự nhiên hương: Nữ đức tu thân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (1) – Lời mở đầuhttps://chanhkien.org/2023/01/kham-pha-phong-thuy-loi-mo-dau.htmlThu, 12 Jan 2023 07:45:49 +0000https://chanhkien.org/?p=29526[ChanhKien.org] LỜI MỞ ĐẦU Ở các nước châu Á, có rất nhiều người yêu thích phong thủy. Họ đã học được một số lý luận phong thủy từ sự lưu truyền và từ những thư tịch cổ, trải qua nhiều năm miệt mài theo đuổi và chứng nghiệm, họ phát hiện rằng phong thủy xác […]

The post Khám phá phong thủy (1) – Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

LỜI MỞ ĐẦU

Ở các nước châu Á, có rất nhiều người yêu thích phong thủy. Họ đã học được một số lý luận phong thủy từ sự lưu truyền và từ những thư tịch cổ, trải qua nhiều năm miệt mài theo đuổi và chứng nghiệm, họ phát hiện rằng phong thủy xác thực có thể khởi được một số vai trò nhất định. Các nhà khoa học phương Tây cũng đã phát hiện rằng Trái Đất có hiện tượng năng lượng luân chuyển và dòng địa điện (dòng điện dưới lòng đất), điều này trùng hợp với lý luận phong thủy. Rất nhiều công ty lớn của phương Tây và giới nhà giàu Đông Nam Á thậm chí với mỗi sự việc đều thỉnh mời thầy phong thủy về tư vấn hỏi han.

Nguồn gốc của phong thủy là từ Trung Quốc, điều này đã được công nhận rồi. Có một câu nói dân gian ở Trung Quốc: “Một là mệnh, hai là vận, ba là phong thủy, bốn là tích lũy âm đức, và năm là đọc sách”. Ba điều đầu tiên là Thiên định, hai điều sau là do con người. Tác dụng của phong thủy được quy vào Thiên định, vượt xa cách nói đọc sách có thể thay đổi số mệnh.

Trong lịch sử 5000 năm Trung Hoa, phong thủy đã thâm nhập vào cuộc sống sinh hoạt của con người và trở thành một phần trọng yếu. Từ đế vương, tướng lĩnh cho đến bách tính bình dân, từ hoàng cung đại viện cho đến đường phố làng mạc, hầu như ai ai cũng đã từng tiếp xúc với phong thủy. Cho dù là tuyển chọn địa điểm bố trí kinh đô, thiết kế xây dựng thành phố, hay là định hướng âm trạch dương trạch (âm trạch là mộ, dương trạch là nhà ở), bài trí đồ đạc trong nhà, v.v., đều muốn tìm người xem phong thủy, bói toán vận mệnh, để đạt được Thiên nhân hợp nhất, cầu lành lánh dữ.

Thuận theo vận động công nghiệp hóa trong hàng trăm năm qua, phong thủy cùng với văn hóa truyền thống Trung Hoa dường như càng ngày càng rời xa chúng ta, và trong tiềm thức con người xem điều đó giống như là “lạc hậu”. Nhưng thực sự có phải như vậy hay không? Mong bạn nhất định hãy đọc một chút bài viết này của chúng tôi, tin rằng nó có thể cung cấp cho bạn những cảm thụ và nhận thức khác.

Phong trào văn nghệ Phục hưng thịnh hành ở châu Âu vào thế kỷ 16 trong ánh hào quang của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại đã thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp hiện đại và cả nền văn minh hiện đại, đồng thời mang đến cho chúng ta một xã hội hiện đại với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Chúng tôi tin rằng sự trở lại của văn hóa truyền thống Trung Hoa cũng sẽ mang đến cho con cháu Hoa Hạ một tương lai tươi sáng. Chúng tôi hy vọng rằng có thể tiến hành một số nghiên cứu và thảo luận với đông đảo những người yêu thích phong thủy, thảo luận về “phong thủy” của văn hóa truyền thống Trung Hoa ở phương diện nhất định, dựa vào đó để thúc đẩy sự phục hưng và phồn thịnh của văn hóa Trung Hoa, mang phúc âm đến cho dân chúng các nước trên thế giới.

Những gì được mô tả trong bài viết này cũng chỉ là trong một phạm vi Thiên Địa nhất định và cũng là do giới hạn của tầng thứ tu luyện của chúng tôi, nếu có chỗ thiếu sót hoặc hiểu lầm, mong được lượng thứ. Nếu có thể giao lưu chỉ ra chỗ thiếu sót, xin chân thành cảm ơn. Bài viết này được nhiều người trong cùng lĩnh vực góp ý và trích dẫn, tại đây, xin biểu thị lòng cảm tạ.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/154818

The post Khám phá phong thủy (1) – Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện (1)https://chanhkien.org/2022/12/but-ky-tu-luyen-1.htmlSat, 31 Dec 2022 03:16:44 +0000https://chanhkien.org/?p=29447Tác giả: Chân Ngu [ChanhKien.org] Sau hơn 20 năm tu luyện, tôi từ một sinh mệnh nhỏ bé vô tri đã trở thành một đệ tử Đại Pháp đang đi trên con đường của Thần, trong quá trình từ từ giác ngộ của sinh mệnh, con xin khấu tạ sâu sắc hồng ân cứu độ […]

The post Bút ký tu luyện (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chân Ngu

[ChanhKien.org]

Sau hơn 20 năm tu luyện, tôi từ một sinh mệnh nhỏ bé vô tri đã trở thành một đệ tử Đại Pháp đang đi trên con đường của Thần, trong quá trình từ từ giác ngộ của sinh mệnh, con xin khấu tạ sâu sắc hồng ân cứu độ của Sư tôn!

“Phật ân hạo đãng”, không lời nào tả xiết. Nhiều năm tu luyện như vậy, tôi đã thể ngộ được rất nhiều điều cảm khái, thể ngộ được sự triển hiện của tầng tầng Pháp lý, đó là những điều không thể diễn tả thành lời, giống như đại dương không thể được đổ đầy bởi bể cá. Nhìn lại con đường vừa đi qua, tôi bèn thu thập những gì đã thể ngộ được trong hai năm qua, sắp xếp ra một số phần để chia sẻ với các đồng tu.

Đây chỉ là những thể ngộ nhỏ bé ở tầng thứ hữu hạn của cá nhân, chia sẻ với mọi người để “Phao chuyên dẫn ngọc”, có gì chưa thỏa đáng mong các đồng tu từ bi chỉ rõ.

1

“Nhẫn là chìa khoá của đề cao tâm tính. Nhẫn mà uất hận, uỷ khuất, hay đẫm lệ là cái nhẫn của người thường với chấp trước vào tâm lo nghĩ, hoàn toàn không hề nảy sinh uất hận, không cảm thấy uỷ khuất thì mới là cái Nhẫn của người tu luyện.” (Thế nào là nhẫn, Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Tôi ngộ ra rằng Nhẫn kỳ thực chính là lấy tâm can và dung lượng của mình để chịu đựng. Dung lượng càng lớn, sức chịu đựng càng lớn thì càng có thể nhẫn, khi dung lượng đã đầy thì không còn chịu được nữa, sẽ bùng nổ hoặc sụp đổ.

Cũng giống như cái ao, dung lượng của nó nhỏ, ném một viên đá nhỏ vào đó, thì nước cả ao có thể bị khuấy động; trong khi đó dung lượng của đại dương lớn, nên dù có thả một quả bom nguyên tử xuống đáy biển, thì cũng không có thay đổi trên bề mặt. Tu luyện là quá trình từng bước mở rộng dung lượng của bản thân, dung lượng càng lớn thì sức chịu đựng càng lớn, nội hàm càng lớn, cảnh giới và trí tuệ càng lớn.

Sau khi cố nhẫn một lần, dung lượng sẽ nở ra một chút, lần sau lại gặp khảo nghiệm, nếu lại cố nhẫn thì dung lượng sẽ lại mở rộng thêm một chút nữa, cứ như thế dung lượng sẽ nở ra thêm từng chút một, sẽ càng ngày càng có thể nhẫn được nhiều hơn, đây là một quá trình tu luyện. Nhưng quá trình này quá chậm, đây chỉ là con đường tu luyện theo tiểu Đạo tiểu Pháp trước đây. Tu luyện Đại Pháp là con đường lớn thông lên trời, trực chỉ nhân tâm, có thể một bước lên trời.

Nếu dung lượng ban đầu là cái bể cá, sau nhiều lần khảo nghiệm và cố nhẫn, dung lượng có thể mở rộng to như một cái ao, lại qua nhiều lần khảo nghiệm khác, lại nhiều lần cố nhẫn, thì lại từ từ mở rộng, sau vô số lần khảo nghiệm và cố nhẫn, cuối cùng dung lượng được mở rộng lớn ra như đại dương, nhưng nó vẫn còn hạn chế. Đại dương lớn đến đâu thì suy cho cùng vẫn có biên giới, rồi sẽ có ngày nó sẽ đầy. Nếu đi thẳng đến biên giới của nó để bắt đầu, thì đó có thể là Đại Đạo thông thiên, biên giới này chính là cái “tư”.

Nếu lúc đầu ta đâm thủng đáy của bể cá, khi đó dung lượng của nó sẽ là vô tận vô biên, có thể chứa toàn bộ nước của Trái Đất, vĩnh viễn không bao giờ đầy. Cá nhân tôi cho rằng đây là điểm khác biệt giữa tu luyện Đại Pháp và bất kỳ môn tu luyện nào khác trong lịch sử. Chúng ta cần phải tu thành đại giác ngộ vô tư vô ngã, trực tiếp bắt đầu từ ranh giới này, bắt đầu từ cái “tư”, trực chỉ nhân tâm. Nếu hoàn toàn buông bỏ bản thân, xả bỏ mọi thứ, vì tất cả chúng sinh và Đại Pháp mà xả bỏ tư ngã, thì sẽ không còn ranh giới nữa.

Vì vậy sau khi xả tận thì không phải là tan biến không còn tồn tại nữa, mà là hoàn toàn quay trở về với Đại Pháp, trở thành một lạp tử của Đại Pháp, có đầy đủ lực lượng của Đại Pháp, bất kỳ sinh mệnh nào trong vũ trụ đều không thể động chạm và lay chuyển được. Nếu trực tiếp xả tận chính mình, không còn tự ngã, thì cũng sẽ không còn tồn tại vấn đề nhẫn nữa, càng không còn tồn tại ủy khuất và oán hận nữa. Những cảm giác như ủy khuất, tức giận, v.v. là do bản thân mình đã bị động chạm đến, nếu không còn cái tư thì sẽ không có bất kỳ sinh mệnh nào có thể động đến được, đối với tất cả sinh mệnh mà nói, bạn là “vô”, không có cách nào động tới và đoán ra được. Điều này giống như đâm thủng một bể cá, nó không còn ranh giới, không còn dung lượng, đồng thời nó có thể chứa mọi thứ, là nhất thể với Đại Pháp, quy về trong Đại Pháp, dùng Đại Pháp mà chịu đựng, vật gì có thể lẩn tránh?

Đương nhiên điều này là cực kỳ khó thực hiện, bởi vì mọi thứ trong vũ trụ cũ đều được kiến lập trên cơ điểm của cái tư, người thường cũng đều lấy tự ngã làm trung tâm, cả đời đều là vị tư mà sống. Nhưng điều đó cũng không khó, bởi vì chúng ta có Sư phụ có Đại Pháp, kỳ thực đó chính là vấn đề của quan niệm và cơ điểm, một khi quan niệm này thay đổi, cơ điểm được đặt đúng, nó sẽ hoàn toàn khác. Đơn giản, nhưng cũng khó nhất, khoảng cách chỉ trong một niệm. Bạn có thể vì chúng sinh và Đại Pháp mà xả tận mọi thứ không?

2

“Gốc của tôi gắn trên vũ trụ, ai có thể động tới chư vị, người ấy có thể động đến tôi; nói thẳng ra, người ấy có thể động đến vũ trụ này.” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân).

Tôi ngộ ra rằng: năng lực của một sinh mệnh không phụ thuộc vào tầng thứ cao thấp hay kích cỡ lớn nhỏ, mà phụ thuộc vào việc liệu anh ta có hoàn toàn đồng hóa với Pháp, hoàn toàn đứng trong Pháp hay không. Nếu một sinh mệnh hoàn toàn đồng hóa với Pháp, hoàn toàn không có tự ngã, không có cái tư, thì người đó chính là một lạp tử của Đại Pháp, một bộ phận cấu thành của Đại Pháp, người đó có lực lượng của Đại Pháp, cho dù những sinh mệnh tầng thứ cao đến đâu trong vũ trụ đều không thể lay chuyển được, bởi vì nếu lay chuyển được anh ta thì tương đương với lay chuyển được Đại Pháp của vũ trụ, tương đương với lay chuyển toàn bộ vũ trụ, không một sinh mệnh nào có thể có khả năng này.

3

Khi vẽ một hình tròn, cho dù có vẽ lớn đến đâu thì không gian bên trong hình tròn cũng là hữu hạn, và không gian bên ngoài hình tròn là vô hạn.

Nếu chọn ở bên trong vòng tròn thì chính là tự ràng buộc mình trong một không gian hữu hạn, vĩnh viễn sẽ không vượt quá vòng tròn này; nếu chọn ở bên ngoài vòng tròn, thì sẽ nhảy ra khỏi sự trói buộc này, sẽ có không gian vô hạn.

Mỗi sinh mệnh đều vẽ ra một vòng tròn cho mình, sẽ bảo vệ mình trong đó, đồng thời cũng vây khốn mình ở trong đó, vòng tròn này chính là “tư”. Nhưng sinh mệnh chỉ chăm chăm “bảo hộ” của vòng tròn này, mà không biết rằng mình đang bị “vây khốn” trong đó, là vì sự sáng suốt của sinh mệnh cũng bị vây hãm bởi vòng tròn.

Trong vũ trụ cũ, mọi sinh mệnh ở tầng thứ cao đều từ trong Đại Pháp của vũ trụ mà chứng ngộ ra một bộ các thứ của mình. Nhưng vì cơ điểm đều là vị tư, nên những gì mỗi sinh mệnh chứng ngộ ra đều hình thành một “vòng tròn”. Thế là trong vũ trụ hình thành những “vòng tròn” lớn lớn nhỏ nhỏ khác nhau, có vòng tròn được bao bọc bởi vòng tròn, có vòng tròn được xếp chồng lên vòng tròn… chỉ là sinh mệnh tầng thứ càng cao thì vòng tròn này hình thành càng tròn và càng to, nhưng dù tròn bao nhiêu to bao nhiêu đều là có biên giới. Có ranh giới thì có định số và có điểm kết thúc, không thoát khỏi, tức là không thể viên dung bất phá.

Cũng chính vì vòng tròn này đã cách ly bản thân với Đại Pháp của vũ trụ, do đó cũng không thể tiếp xúc, câu thông với Đại Pháp của vũ trụ, không thể thu hoạch được trí huệ vô tận viên dung bất phá để tu sửa bản thân từ Đại Pháp được, vì vậy cũng không thể sửa chữa sự sai lệch xuất hiện giữa bản thân và vũ trụ, do đó không thể thoát khỏi túc mệnh (số mệnh) của thành -trụ – hoại – diệt, cuối cùng cựu vũ trụ sẽ đi đến hủy diệt.

4

Vô vô vô không vô đông tây

Vô thiện vô ác xuất liễu cực

Tiến tắc khả thành vạn vạn vật

Thoái khứ toàn vô vĩnh thị mê

Diễn nghĩa:

Không ‘vô’, không ‘không’, không gì cả

Không ‘thiện’ không ‘ác’, vượt khỏi [khái niệm] các cực

Tiến, có thể [diễn hoá] thành vạn vật

Lui, toàn bộ [tất cả] trở lại thành ‘vô’, vĩnh viễn là ‘mê’, là ẩn đố vĩnh viễn không giải được

(“Hồng Ngâm 2”)

Cá nhân tôi ngộ ra rằng trong vũ trụ mới trong tương lai, các đệ tử Đại Pháp của chúng ta là những sinh mệnh đặc biệt thù thắng nhất trong tất cả chúng sinh. Sư tôn đã ban cho chúng ta tất cả những năng lực mà chúng sinh trong vũ trụ không thể có được:

Chúng ta có thể biến mất không để lại dấu vết ở tất cả các tầng vũ trụ nơi bản thân đang ở, khiến tất cả các sinh mệnh trong vũ trụ đều không tìm thấy dấu vết của chúng ta; chúng ta cũng có thể từ không sinh ra trong tất cả các tầng thứ của vũ trụ, khiến tất cả sinh mệnh không thể nhìn thấy chúng ta từ đâu đến.

Đây là điều mà trong cựu vũ trụ, bất luận sinh mệnh tầng thứ cao bao nhiêu đều không dám tưởng tượng về năng lực vô hạn mà Sư tôn đã ban tặng cho chúng ta.

Nhưng những năng lực này là do Sư phụ tạo ra cho chúng ta trong quá trình trợ Sư Chính Pháp. Trong quá trình trợ Sư Chính Pháp hiện nay, nếu có thể vì chúng sinh mà xả tận tự ngã, vì Đại Pháp mà xả tận mọi thứ trong sinh mệnh, thì đó là sẵn sàng vô tư, vô lậu, sẽ hoàn toàn trở thành “vô”. Đã thu hoạch được năng lực do Sư tôn ban tặng. Sau khi xả tận trở thành “vô”, thì không hề biến mất trong vũ trụ. Sinh mệnh trong vũ trụ trong quá khứ bởi vì không biết Đại Pháp của vũ trụ nên không thể trở thành “vô”. Đệ tử Đại Pháp chúng ta sau khi xả bỏ để trở thành “vô”, chúng ta đều quy về trong Đại Pháp, bởi vì chúng ta là vì Đại Pháp, vì chúng sinh trong vũ trụ mà xả tận, nên sau khi xả tận mọi thứ, chúng ta sẽ quy về Đại Pháp, hoàn toàn hòa tan với Đại Pháp, trở thành một lạp tử của Đại Pháp, trở thành một phần của Đại Pháp. Chúng ta sẽ trở thành “cầu nối” câu thông giữa các sinh mệnh trong vũ trụ và Đại Pháp trong vũ trụ mới ở tương lai, duy trì sự viên dung bất hoại của vũ trụ mới trong tương lai, đây là một vinh dự đặc biệt mà không một sinh mệnh nào có thể tưởng tượng được.

“Vật chất và tinh thần chúng là nhất tính” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân).

Sau khi chúng ta vì chúng sinh và Đại Pháp xả tận mọi thứ trong sinh mệnh, chúng ta sẽ có được năng lực này, sẽ có thể biến mất không còn dấu vết trong tất cả các tầng thứ của vũ trụ, trở thành “vô”, trở thành “mê” của các sinh mệnh trong vũ trụ, lúc này chúng ta đã ra khỏi vũ trụ và vật chất, trở thành một lạp tử của Pháp, là một phần của Pháp. Đồng thời chúng ta cũng có thể từ hư không tạo thành mọi thực thể ở bất kỳ tầng thứ nào, vào bất kỳ lúc nào, bởi vì Pháp có tất cả các quyền năng và có thể tùy tâm nhi hóa. Chúng ta chính là những lạp tử của Pháp do Sư phụ tạo ra và thành tựu trong thời kỳ Chính Pháp, là cơ chế để duy hộ sự trường tồn bất hoại, viên dung bất phá của vũ trụ mới trong tương lai, là Thần bảo vệ của vũ trụ mới trong tương lai.

Sư tôn đã ban quá nhiều cho chúng ta, cho nên cựu thế lực mới tật đố với chúng ta như vậy, chúng sinh trong vũ trụ mới hâm mộ chúng ta như thế, họ đều muốn trở thành đệ tử Đại Pháp. Nhưng điều mà chúng ta gánh vác cũng to lớn như thế, muốn đạt được mức độ thù thắng như vậy, để đạt được những điều mà Sư tôn ban cho thì chúng ta phải hoàn toàn đồng hóa với Pháp trong quá trình trợ Sư Chính Pháp hiện nay, làm những gì mà Sư tôn bảo, cần phải đạt được yêu cầu và tiêu chuẩn cao như thế, kém một chút cũng không được. Bởi vì chúng ta không đạt được tiêu chuẩn cao như vậy, vũ trụ mới trong tương lai sẽ không đạt tiêu chuẩn, mọi thứ sẽ bị hủy hoại. Nếu có một điểm mà chúng ta không thể xả tận, thì điểm này không thể đồng hóa với Đại Pháp, nó sẽ trở thành sợi dây níu giữ chúng ta, trở thành nguồn ô nhiễm cho vũ trụ mới trong tương lai, sẽ không thể có được những năng lực thù thắng và vĩ đại này của Sư tôn ban tặng, cũng không thể trở thành đệ tử Đại Pháp.

Chúng ta đã trợ Sư chính Pháp, chúng ta đã xả tận cái tôi của mình trong quá trình này, chúng ta là những lạp tử Đại Pháp mà Sư tôn tạo ra và thành tựu. Đại Pháp bất hoại, thì chúng ta bất hoại, Đại Pháp bất hủy, thì chúng ta bất hủy. Đây là một vinh diệu mà không một sinh mệnh nào trong vũ trụ cũng không dám tưởng tượng. “Phật ân hạo đãng”, chúng ta vĩnh viễn không thể báo đáp được, chỉ có thể dũng mãnh tinh tấn, làm tốt ba việc, không phụ công ơn của Sư tôn!

5

Không nên tạo dựng hình ảnh của bạn trong lòng người khác, đó là việc của người khác, không liên can đến bạn. Bạn có một hình ảnh trong trường không gian của mọi người, tuy là hình ảnh của bạn, nhưng nó lại là thứ thuộc về người khác, “tùy tâm nhi hóa”, không liên quan gì đến bạn. Trong chiếc gương trong trường không gian của mọi người đều có thể phản ánh một hình ảnh, những gì bạn phải làm là tu bản thân trở nên kiền tịnh, vô tư, nếu soi gương thấy mặt bẩn, bạn chỉ cần lau sạch mặt là được, không nên đưa tay ra lau gương cho người khác, đó không phải là đồ của bạn, đừng làm những điều thừa, nó sẽ chỉ trở nên càng lau càng đen. Đối mặt với những lời vu cáo hãm hại và hiểu lầm, nó cũng giống như một cơn gió nhẹ thổi qua, bạn là người trong sạch thì sẽ đối mặt một cách thẳng thắn vô tư, trong gương của người khác dù có bẩn đến đâu thì gương bẩn đó vẫn là của người khác.

Đó là những gì tôi ngộ được trong quá trình vượt qua một ma nạn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/156867

The post Bút ký tu luyện (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ấu Học Quỳnh Lâm bút đàm (1): Thất chính và Tam tàihttps://chanhkien.org/2022/12/au-hoc-quynh-lam-but-dam-1-that-chinh-va-tam-tai.htmlFri, 30 Dec 2022 10:51:18 +0000https://chanhkien.org/?p=29446Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Giới thiệu về cuốn sách Ấu Học Quỳnh Lâm Ấu Học Quỳnh Lâm được xuất bản vào cuối triều Minh và đầu triều Thanh, là cuốn sách nổi bật nhất trong số nhiều sách giáo khoa nhập môn. Lúc bấy giờ có người nói: “Học xong Tăng Quảng (Tăng Quảng […]

The post Ấu Học Quỳnh Lâm bút đàm (1): Thất chính và Tam tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Giới thiệu về cuốn sách Ấu Học Quỳnh Lâm

Ấu Học Quỳnh Lâm được xuất bản vào cuối triều Minh và đầu triều Thanh, là cuốn sách nổi bật nhất trong số nhiều sách giáo khoa nhập môn. Lúc bấy giờ có người nói: “Học xong Tăng Quảng (Tăng Quảng Hiền Văn) sẽ biết cách nói chuyện, học xong Ấu Học (Ấu Học Quỳnh Lâm) thì có thể đi khắp thiên hạ”, điều này có thể cho thấy mức độ được coi trọng của cuốn sách. Nội dung của nó trên từ thiên văn và thần thoại, dưới đến địa lý và nhân văn, đề cập đến quy tắc nhân luân và đạo trị quốc, bao quát hết thảy vạn tượng, rất phong phú, có thể nói đây là một cuốn bách khoa toàn thư đơn giản để trau dồi các tài năng toàn diện, bởi vì nó bắt nguồn từ vũ trụ quan to lớn thiên nhân hợp nhất của cổ nhân, nội hàm rộng lớn, thần bí xa xưa, khiến mọi người không thể bỏ qua. Người lớn thời đại chúng ta ngày nay đọc xong sẽ vô cùng kinh ngạc và thán phục, thật khó để tưởng tượng những đứa trẻ thời cổ đại, lại có thể tiếp thụ nền giáo dục trí tuệ vĩ đại như vậy, thật xứng đáng là người dân Thần Châu đại quốc hùng mạnh với nền văn minh năm nghìn năm.

Ấu Học Quỳnh Lâm ban đầu được gọi là Ấu Học Tu Tri, về tác giả cuốn sách có thuyết cho rằng nó được biên soạn bởi Trình Đăng Cát (tự Doãn Thăng) ở Tây Xương vào cuối thời nhà Minh, một thuyết khác cho rằng được biên soạn bởi Tiến sĩ Khâu Tuấn đời Minh. Vào thời Càn Long nhà Thanh, Trâu Thánh Mạch bổ sung và đổi tên là Ấu Học Cố Sự Quỳnh Lâm, gọi vắn tắt là Ấu Học Quỳnh Lâm.

Do nội dung phong phú của Ấu Học, chúng tôi sẽ chọn các chương thích hợp và giới thiệu tới mọi người, để độc giả có thể hiểu được sự bác đại tinh thâm của văn hóa truyền thống Trung Quốc, sống lại niềm tự hào và tự tin về một nền văn minh cố quốc.

Nguyên văn chữ Hán

混沌初開,乾坤始奠。氣之輕清上浮者為天,氣之重濁下凝者為地。日月五星,謂之七政;天地與人,謂之三才。

Bính âm

Hùn dùn chū kāi, qián kūn shǐ diàn. Qì zhī qīng qīng shàng fú zhě wéi tiān, qì zhī zhòng zhuó xià níng zhě wéi dì. Rì yuè wǔ xīng, wèi zhī qī zhèng; tiān dì yǔ rén, wèi zhī sān cái.

Âm Hán Việt

Hỗn độn sơ khai, càn khôn thủy điện. Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi thiên, khí chi trọng trọc hạ ngưng giả vi địa. Nhật nguyệt Ngũ tinh, vị chi Thất chính; Thiên địa dữ nhân, vị chi Tam tài.

Giải nghĩa từ ngữ

(1) 混沌 (Hỗn độn): trạng thái trước khi trời đất chưa được khai mở.

(2) 乾 (Càn): Trời, thuộc Dương.

(3) 坤 (Khôn): Đất, thuộc Âm.

(4) 奠 (Điện): Định, đặt định.

(5) 凝 (Ngưng): Sự kết tụ.

(6) 五星 (Ngũ tinh): dùng để chỉ năm ngôi sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

(7) 政 (Chính): sự vận hành của nhật nguyệt và ngũ tinh là cội nguồn và tham chiếu để hình thế của nhân loại, quốc gia, chính sự được rõ ràng, rành mạch, có trật tự, nên được gọi là “chính”.

(8) 才 (Tài): tài năng.

Bản dịch tham khảo

Khi trời và đất chưa được hình thành thì ở trạng thái một khối hỗn mang, khi sự hỗn mang tách ra thì trời và đất được hình thành. Khí trong nhẹ bốc lên tạo thành bầu trời, khí đục nặng chìm xuống và ngưng kết lại tạo thành mặt đất. Mặt Trời, Mặt Trăng, Sao Kim, Sao Mộc, Sao Thủy, Sao Hỏa và Sao Thổ được gọi là Thất chính; Thiên, Địa, Nhân (Trời, Đất, Con người) được gọi là Tam tài.

Đọc sách luận bút

Tổ tiên người Trung Quốc cho rằng mảnh đất của họ là Thần Châu, là Trung Nguyên, là trung tâm của nền văn hóa Thần truyền. Bản thân là hậu duệ của Nữ Oa, thiên địa vạn vật đều do Thần tạo ra, con người và văn hóa đều do Thần truyền lại, nên được gọi là văn hóa Thần truyền. Biết rằng tất cả những thứ của nhân loại đều đến từ Thiên thượng. Vì vậy, tư tưởng cơ bản mà cuốn sách Ấu Học Quỳnh Lâm phản ánh chính là quan niệm về vũ trụ quan truyền thống, quan niệm về thiên nhân hợp nhất. Mãi cho đến trước cách mạng văn hóa, quan niệm của người Trung Quốc đều là như thế, nên từ đời sống, lịch sử, văn hóa đến trị quốc, đều xuyên suốt nhất thể với trời đất, tin rằng tất cả mọi thứ của con người đều tương ứng với trời đất; từ bách tính đến Thiên tử, cũng đều hiểu việc tôn trọng và hành xử theo lẽ trời, hình thành kính úy trời đất, trọng đức hành thiện, có trật tự rõ ràng, làm theo phong thái đại quốc về lễ nghĩa.

Do đó mọi người thời bấy giờ đều biết đạo lý của Âm Dương Ngũ hành. Đoạn này là phần mở đầu nói về nguồn gốc của thiên địa vạn vật, nhằm trình bày cụ thể cho trẻ em những kiến thức cơ bản nhất về thiên địa và nhân văn có liên quan mật thiết đến đời sống mà con người trực tiếp nhìn thấy được như Âm Dương, Ngũ hành và Tam tài, để con người không quên nguồn gốc và sứ mệnh của bản thân được Trời ban cho. Do đó, người Trung Quốc từ xa xưa đã sống với tư tưởng vĩ đại, trí tuệ tuyệt vời và nền văn hóa bác đại tinh thâm, họ tuyệt đối sẽ không bao giờ tách rời thiên nhiên đất trời.

Cái gọi là Nhật nguyệt và Ngũ tinh, theo cách nói ngày nay chính là trung tâm của hệ Mặt Trời, Ngũ tinh đại biểu cho Ngũ hành, Mặt Trời và Mặt Trăng đại biểu cho Âm Dương, Âm Dương Ngũ hành tạo thành vạn sự vạn vật trong vũ trụ, các bậc thánh vương thời xưa quản lý đất nước đều phải ngưỡng vọng (ngước lên nhìn) thiên văn thiên tượng, thông hiểu thiên ý và đạo Âm Dương Ngũ hành, thuận theo thiên ý mà cai quản muôn dân và đất nước, làm người cần phải luôn tuân theo đạo lý Ngũ thường “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”.

Và biểu hiện bên ngoài trực tiếp nhất là học theo sự sắp xếp của nhật nguyệt ngũ tinh, khiến cho trong quốc gia thì quân thần ai ở vị trí ấy, người nào thực hiện bổn phận trách nhiệm người ấy, thuận theo thiên ý mà làm, mọi người đều biết rằng trên đầu ba thước có Thần linh, nhờ đó quốc gia ở trong thời kỳ hưng thịnh của vương triều, đạo đức tổng thể được duy trì trong trạng thái nhân đức và có trật tự khá cao.

Vì vậy theo Tam tài thiên địa nhân thì con người cần hợp với trời đất làm một, trực tiếp thể hiện rõ vũ trụ quan Thiên nhân hợp nhất, cho rằng con người là do trời đất sinh ra, cũng cho thấy loài người có tài trí liên thông với trời đất. Vì vậy người Trung Quốc từ xưa đến nay không bao giờ dám làm trái thiên ý, không dám muốn gì làm nấy, cũng rất biết quý trọng sinh mệnh, cho rằng số mệnh của con người liên quan đến Trời. Vì vậy nền văn hóa năm nghìn năm nhờ kính thiên trọng đức mà được huy hoàng xán lạn, được thế giới tôn là nền văn hóa của thiên triều.

Kể chuyện

Bàn Cổ khai thiên tịch địa

Tương truyền, thuở sơ khai chưa có trời đất và vạn vật, trong vũ trụ khắp nơi đều là một vùng hỗn độn, giống như một quả trứng tròn. Trong khối vật chất tròn đó đã thai nghén ra người sáng tạo thế giới là Bàn Cổ.

Bàn Cổ đã ngủ trong khối vật chất tròn đó suốt 18.000 năm. Khi tỉnh dậy, ông thấy trước mặt là một khối đen kịt, ông duỗi tay đạp chân thì quả trứng tròn bị vỡ. Khí Dương nhẹ trong bốc lên biến thành bầu trời xanh cao rộng; khí Âm nặng đục hạ xuống và biến thành đất rộng bao la. Kể từ đó, vũ trụ được phân chia thành trời và đất.

Bàn Cổ đứng sừng sững giữa trời đất. Từ đó về sau, bầu trời mỗi ngày tăng cao thêm một trượng, mặt đất mỗi ngày dày thêm một trượng, và Bàn Cổ mỗi ngày cũng cao thêm một trượng. Cứ như thế thời gian lại trôi qua 18.000 năm, trời không thể cao hơn được nữa, đất không thể dày hơn được nữa, bản thân Bàn Cổ đã trở thành một người khổng lồ dài chín vạn dặm đội trời đạp đất, nâng đỡ trời và đất khiến chúng không quay trở lại tình trạng hỗn mang khi xưa.

Sau khi Bàn Cổ khai thiên tịch địa, giữa trời đất chỉ có một mình ông ấy. Trời đất tùy theo tâm trạng của ông mà thay đổi. Khi ông cao hứng thì muôn dặm không có mây, khi ông tức giận thì thời tiết u ám; khi ông khóc thì trời mưa, rơi xuống mặt đất tụ lại thành sông, hồ, biển; khi ông thở dài thì trên mặt đất nổi cuồng phong; khi ông nháy mắt thì bầu trời xuất hiện những tia chớp; khi ông ngáy thì trên không trung vang lên tiếng sấm ầm ầm.

Không biết đã trải qua bao nhiêu năm, giữa trời và đất không còn cần đến Bàn Cổ nữa, và Bàn Cổ nằm trên đất. Cơ thể của ông đã tạo cho vũ trụ có hình dạng, đồng thời cũng tạo ra các vật chất trong vũ trụ. Đầu của ông biến thành Đông Sơn, chân biến thành Tây Sơn, thân biến thành Trung Sơn, cánh tay trái biến thành Nam Sơn và cánh tay phải biến thành Bắc Sơn. Năm ngọn núi thần thánh này định ra bốn góc và trung tâm của mặt đất hình vuông. Những ngọn núi đó mỗi một ngọn chống đỡ một góc trời.

Bàn Cổ đã sử dụng cơ thể của mình để biến thành trời đất vũ trụ.

Nữ Oa tạo ra con người

Một nữ Thần xuất hiện giữa trời và đất tên là Nữ Oa.

Một ngày nọ, Nữ Oa tìm thấy một hồ nước trong vắt, bà dùng nước hòa với hoàng thổ (đất sét vàng), chiểu theo hình dáng bản thân để nặn ra những hình người đất nhỏ gồm cả nam lẫn nữ. Bà thổi một luồng khí vào những tượng người này, vừa đặt chúng xuống mặt đất, những tượng đất này lập tức sống động, có thể chạy nhảy, nói chuyện cười vui.

Nữ Oa rất chăm chỉ mỗi ngày dùng hoàng thổ để tạo ra nhiều người đất nhỏ, nhưng nặn bằng tay vẫn quá chậm, vì vậy Nữ Oa đã nhúng sợi dây vào trong bùn vàng, sau đó chỉ cần kéo sợi dây ra khỏi bùn, sau khi những giọt bùn văng xuống đất, tất cả lập tức biến thành những người sống to nhỏ khác nhau.

Tuy nhiên, tuổi thọ của những con người nhỏ bé này khá ngắn ngủi, vì không muốn để con người tuyệt chủng, người mẹ nhân từ này của nhân loại đã thiết lập mối quan hệ hôn nhân cho loài người, cho phép họ phối đôi với nhau để sinh con đẻ cái, tiếp tục sinh sôi nảy nở từ thế hệ này đến thế hệ khác.

(Chú thích: Phỏng theo sách giáo khoa văn hóa truyền thống Ấu Học Quỳnh Lâm của zhengjian.org, thêm phần luận bút, để hiểu nội dung của văn bản)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/247809

The post Ấu Học Quỳnh Lâm bút đàm (1): Thất chính và Tam tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đồng thoại (1): Đệ Đệ và lão sơn yêuhttps://chanhkien.org/2022/12/dong-thoai-1-de-de-va-lao-son-yeu.htmlMon, 19 Dec 2022 07:10:21 +0000https://chanhkien.org/?p=29409Tác giả: Mai Đóa Đóa [ChanhKien.org] (Chú thích của người dịch: trong nguyên tác, Đệ Đệ (Tiểu Đệ Đệ) là chỉ một đứa trẻ, em bé trai. Tại đây chúng tôi trực tiếp gọi là Đệ Đệ như một tên riêng để thuận tiện cho việc diễn đạt câu văn) Trong một khu rừng nọ […]

The post Đồng thoại (1): Đệ Đệ và lão sơn yêu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mai Đóa Đóa

[ChanhKien.org]

(Chú thích của người dịch: trong nguyên tác, Đệ Đệ (Tiểu Đệ Đệ) là chỉ một đứa trẻ, em bé trai. Tại đây chúng tôi trực tiếp gọi là Đệ Đệ như một tên riêng để thuận tiện cho việc diễn đạt câu văn)

Trong một khu rừng nọ có rất nhiều cây cối, hoa cỏ và các loài động vật nhỏ.

Nhà của Đệ Đệ nằm ở trên một ngọn núi nọ.

Ngày ngày Đệ Đệ lớn lên trong tiếng cười nói vui vẻ.

Không biết từ khi nào trong hang động sau lưng núi bỗng xuất hiện một lão sơn yêu (yêu quái già trên núi).

Khi Đệ Đệ lên núi hái dâu, lão sơn yêu nói: “A ha! Là một em bé, mùi vị sẽ ngon lắm đây!”

Nói rồi lão vươn đôi tay dài đầy gai góc của mình qua khe nứt của hang động và kéo Đệ Đệ rơi thẳng xuống dưới.

“Ý! Sao mình lại rơi xuống đây nhỉ? Ông ơi, ông đã đỡ cháu phải không? Xem này! Cháu không bị thương chút nào cả, cảm ơn ông đã nắm chặt hai chân của cháu.” Đệ Đệ vui mừng cảm ơn lão không ngớt.

Thấy vậy, lão sơn yêu đứng thần người ra một lúc rồi lắp bắp nói: “Ồ! Ồ! Đúng vậy, đúng vậy! Là ta đã đỡ cháu đó.”

“Ông ơi, ông là khách mới tới vùng núi này phải không?” – Đệ Đệ mở to mắt hỏi lão sơn yêu một cách đầy hiếu kỳ.

“Khách…vị khách? Ồ…ta, ta vừa tới, là khách, là khách…” Vừa nói xong, lão sơn yêu lập tức cảm thấy rất hối hận. Tại sao phải nói mình là khách chứ, là khách thì có thể tùy tiện ăn thịt chủ nhà không chứ?

Nhìn thấy gương mặt non nớt của Đệ Đệ, lão sơn yêu thầm nuốt nước bọt vào trong, khi đó bụng lão liền phát ra những tiếng kêu “ọt ọt”.

“Ông ơi! Ông đói rồi sao? Cháu nghe thấy bụng ông kêu kìa!”

“Đúng vậy! Đúng vậy! Ta đói lắm rồi”, tròng mắt của lão đảo qua đảo lại, lão nghĩ trong lòng: “Đúng vậy, ta là khách, làm gì có chuyện chủ nhà lại để cho khách đói được, chủ nhà phải mời khách ăn chứ, ăn một ngón tay nhỏ, một đốt ngón tay, một chút vậy không có gì là quá to tát nhỉ”.

Thật là một ý hay! Lão sơn yêu vui vẻ gãi tai nói: “Ta đến làm khách nơi này của cháu, đã đi một quãng đường dài, quả thực rất đói rồi, cháu hãy đưa…” Lão định nói “đưa ngón tay của cháu cho ta ăn”, nhưng khi lão chưa nói hết câu, Đệ Đệ liền bật cười nói: “Ông ơi! Ông muốn ăn dâu cháu hái phải không? Dâu trong núi này ngọt lắm, ông hãy mau nhắm mắt lại và mở to miệng ra nhé, cháu sẽ đút cho ông ăn”.

Cái gì? Dâu tây? Lúc này lão sơn yêu mới nhìn thấy trong tay Đệ Đệ đang cầm một túi dâu được lá cây bọc bên ngoài.

Đệ Đệ thấy lão sơn yêu nhìn chằm chằm vào đôi tay của mình, liền bật cười nói: “Hi hi! Ông ơi, cháu sẽ không bỏ đá vào miệng ông đâu, ông hãy mau nhắm mắt lại đi, nhắm mắt lại để ăn dâu, hương vị của dâu sẽ ngọt tận vào trong tim ông đấy…”

Đệ Đệ trèo lên người lão, dùng tay che mắt lão lại. Khi bàn tay mềm mại, ấm áp của Đệ Đệ chạm lên gương mặt khô cứng của lão đã khiến nó rung nhẹ lên một cái. Gương mặt của lão từ trước đến giờ chưa từng được một thứ gì mềm và ấm như vậy chạm vào. Làm da thô cứng ấy dưới bàn tay của Đệ Đệ đã đột nhiên trở nên mềm hơn, đôi tay nhỏ ấy thật là ấm áp quá! Lão sơn yêu đã thật sự nhắm mắt lại và há to miệng chờ Đệ Đệ đút dâu cho lão.

Đệ Đệ vui mừng khen lão: “Ai da! Ông thật đúng là một ông lão biết nghe lời!”

Lão sơn yêu vui khôn tả, cả đời này đây mới là lần đầu tiên lão nhận được lời khen. Lão biết rằng bản thân mình không được mọi người yêu mến, em bé nhà ai mà không nghe lời thì mẹ nó sẽ nói: “Con mà không nghe lời nữa, lão sơn yêu sẽ bắt con đi ăn thịt đấy!” Đúng vậy, lão sơn yêu chẳng khách khí với ai, bắt được gì liền ăn thứ nấy, mọi người đều sợ lão, cũng rất hận lão, nhưng lão chẳng thèm để ý đến những điều đó, là lão sơn yêu mà, trời sinh ra đã hung ác như vậy. Thế nhưng đến hôm nay lão sơn yêu mới biết, thì ra làm một “ông lão biết nghe lời” quả không tệ chút nào.

Lúc đó, một ngón tay của Đệ Đệ khẽ đụng phải miệng lão, nếu như là trước đây, ngón tay nào chạm đến miệng là lão sẽ cắn liền, nhai ngấu nghiến, nhai ngón tay côm cốp như đậu Hà Lan vậy, ngon phải biết. Nhưng hôm nay, làm một “ông lão biết nghe lời” thì làm sao có thể cắn ngón tay của người khác được, phải thật “ngoan” mới đúng chứ.

Đệ Đệ đặt trái dâu vào miệng lão. Oa! Hương vị của trái dâu trong núi này thật là tuyệt vời. Lão sơn yêu ăn một cách ngon lành.

“Có ngon không ông?” Đệ Đệ nhìn lão một cách đầy vui vẻ, đồ của mình khiến người khác thích thú, đối với Đệ Đệ mà nói thì thật là một chuyện đáng vui mừng lắm thay.

“Ồ! Không tệ!” Lão sơn yêu cười tít mắt gật đầu. Trời ạ! Không ngờ rằng lão sơn yêu lại biết cười cơ đấy!

Lão sơn yêu từ trước tới nay chưa từng nở nụ cười, bởi vì da thịt của lão rắn như đá nham thạch, mà đã là đá nham thạch thì làm sao cười được chứ?

Điều này thật sự kỳ lạ quá! Lẽ nào vị ngọt của quả dâu khi thấm đến tận tim sẽ khiến cho người ta học được cách mỉm cười hay sao? Lão sơn yêu sau khi học được cách mỉm cười thì lúc cười lên thật trông giống như một ông lão thực sự.

Khi học được cách cười thì trong lòng dường như chỉ muốn cười mãi thôi! Lão sơn yêu đột nhiên trở nên nũng nịu, lão nhắm mắt lại, há to miệng và nói: “Còn dâu không? Đút cho ta thêm nữa đi!”

“Còn chứ! Ông ơi! Sau khi ăn xong dâu, chúng ta đi xem hoa đỗ quyên được không? Chỉ cần nhìn thấy loài hoa ấy ông sẽ biết được rằng ngọn núi của chúng ta đẹp đến nhường nào, khắp nơi đều là một màu hồng thắm, vô cùng đẹp mắt!” Điều đẹp nhất trong núi đương nhiên sẽ khiến cho vị khách trở nên yêu thích.

“Được, được! Đi xem hoa đỗ quyên! Đi xem hoa đỗ quyên!”

Cả đời này, lão sơn yêu chưa từng xem ngắm bất kỳ loài hoa nào. Tuy nhiên, Đệ Đệ đã nói là nên đi xem, lời của một đứa trẻ chẳng lẽ sẽ không đúng sao?

Từ đó về sau, trong núi không còn lão sơn yêu nào nữa, chỉ có một ông lão thường xuyên xuất hiện… Đệ Đệ đã giúp cho lão sơn yêu học được cách mỉm cười và sau khi tĩnh lại lão đã quên đi quá khứ trước đây của mình.

Trong thế giới của trẻ nhỏ, vốn dĩ là không có lão sơn yêu mà.

Nếu một ngày bạn nhìn thấy một ông lão và một đứa trẻ đang vui vẻ hái quả trong rừng, thì không ai khác chính là hai người họ.

Lời cuối truyện:

Cảm ngộ của tác giả: Thiện có thể giải thể tà ác.

Nếu như chúng ta có thể tu đến cảnh giới thuần chân, thuần thiện, đạt được yêu cầu này trong những cảnh giới khác nhau, thì sẽ hóa giải được cái ác trong những cảnh giới khác nhau.

Thiết nghĩ rằng trạng thái của sinh mệnh lúc ban đầu, cũng giống như bạn nhỏ Đệ Đệ này vậy, ngay cả đến khái niệm về cái ác cũng không có, sự thuần thiện chẳng phải có thể hóa giải hết thảy tà ác hay sao?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279135

The post Đồng thoại (1): Đệ Đệ và lão sơn yêu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhân vật Thiên cổ anh hùng Trung Quốc – Đường Thái Tông (1): Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụhttps://chanhkien.org/2022/10/nhan-vat-thien-co-anh-hung-trung-quoc-duong-thai-tong-1-thai-tong-xuat-the-quan-quyen-than-thu.htmlSun, 09 Oct 2022 08:47:10 +0000https://chanhkien.org/?p=29159Tác giả: Tổ nghiên cứu Nhân vật Thiên cổ anh hùng của văn hóa thần truyền huy hoàng 5000 năm [ChanhKien.org] Thiên cổ anh hùng Đường Thái Tông (1): Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ Ba vị Thánh quân Nghiêu, Thuấn, Vũ từ sau trận Đại hồng thủy cuồn cuộn ngất trời lần […]

The post Nhân vật Thiên cổ anh hùng Trung Quốc – Đường Thái Tông (1): Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tổ nghiên cứu Nhân vật Thiên cổ anh hùng của văn hóa thần truyền huy hoàng 5000 năm

[ChanhKien.org]

Thiên cổ anh hùng Đường Thái Tông (1): Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ

Ba vị Thánh quân Nghiêu, Thuấn, Vũ từ sau trận Đại hồng thủy cuồn cuộn ngất trời lần trước đã khai sáng nền văn minh Thần truyền 5000 năm của nhân loại lần này, giáo hóa nhân dân, trọng đức sùng đạo. Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế nhất thống thiên hạ, mở mang bờ cõi, khâm định thể chế quốc gia, xác lập thể hệ văn hóa tư tưởng. Trong thời Tam Quốc, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền, Gia Cát Lượng, Chu Du cùng nhau diễn vở kịch lớn thiên thu, giải thích một cách tròn đầy về nội hàm của chữ “Nghĩa”. Những nhân vật anh hùng thiên cổ này tuy không ở cùng một thời đại, nhưng đều tận hết sức vào việc khai sáng, bảo hộ văn hóa Thần truyền, cũng đã kết duyên với các chúng sinh đến từ các tầng trời khác nhau, diễn dịch một triều đại mới với một nền văn hóa mới. Từng màn từng màn kịch lớn, kinh thiên động địa, chấn động quỷ Thần, oanh oanh liệt liệt, chiếu rọi khắp cả gầm trời. Năm 280, Tam quốc quy về nhà Tấn, Hoa Hạ nhất thống tạm thời. Nhưng hợp tan dời đổi, rất nhiều các sinh mệnh nơi Thiên quốc đều muốn được bước lên sàn diễn Trung Nguyên góp mặt một lần trong sân khấu lớn của lịch sử này. Sử gọi là “bát vương loạn Tấn” (loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra năm 291 – 306), Ngũ Hồ Thập lục quốc, Tống – Tề – Lương – Trần, sóng gió liên miên, chiến loạn lại nổi lên. Lại thêm 300 năm khói lửa nữa, sáu triều đại lại rút khỏi vũ đài. Đến năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên dựng lập nên triều đại nhà Tùy, bắt đầu màn diễn “Thế cuộc Tùy Đường”.

Từ Tùy Văn Đế đến Tùy Dạng Đế, cho đến Lý Uyên, Lý Thế Dân khởi binh ở Thái Nguyên (năm thứ 13 niên hiệu Đại Nghiệp, năm 617), chỉ mấy chục năm ngắn ngủi, thiên hạ đại loạn, tiếng nói phản đối nổi lên khắp nơi, chiến loạn lại bắt đầu. Thiên triều Đại Tùy mở màn hạ màn, màn diễn đó lại gần đến hồi chót. Từ cổ loạn thế xuất anh hùng. Thiên thượng ngay lúc này ắt sẽ an bài Đại Giác Giả hạ thế xoay chuyển càn khôn, an bang định quốc, chào đón người mới, mở ra văn hóa mới của một triều đại mới. “Binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc”, ắt không tránh khỏi cảnh binh đao loạn lạc. Mấy hồi chinh chiến đã đưa tiễn những chúng sinh thiên triều Đại Tùy đã kết duyên xong chuyển sinh đến vùng đất khác. Trên vùng đất Trung Thổ, lại mở ra một thiên triều hoàn toàn mới, một màn kịch lớn chấn động cổ kim lại bắt đầu lên sàn diễn.

Thái Tông Đại Đường bắt đầu từ năm 16 tuổi đã biết cầm quân đi đầu, làm gương cho binh sĩ, cưỡi ngựa bắn cung, xông pha chiến đấu, thống lĩnh ba quân, không sức mạnh nào có thể địch nổi, đánh tan giặc cướp, bình định Trung Nguyên, nhất thống thiên hạ.

Sau khi lên ngôi, Thái Tông dẫn dắt thần dân khai sáng thời hoàng kim Trinh Quán thịnh thế thiên hạ an hưởng thái bình, xưa nay chưa từng có. Thái Tông văn võ song toàn, trí huệ hơn người. Với tư cách là Hoàng đế, ông hạ mình cầu hiền, lắng nghe can gián, chỉ dùng người hiền năng, Đạo trị quốc của ông được hậu thế tôn sùng. Với tư cách là tướng quân, ông dẫn quân đánh đâu thắng đó, chiến công hiển hách, uy danh vang xa. Là một thi nhân, ông chuyên cần sáng tác, tạo nên thể ngâm, mở ra sự phồn thịnh văn nhã suốt 300 năm của triều đại nhà Đường.

Trong 23 năm Thái Tông tại vị, nền chính trị quốc gia trong sạch, kinh tế phồn vinh, xã hội an định, võ nghệ hưng thịnh. Văn hóa nghệ thuật, thi từ ca phú, chói lọi huy hoàng, rực rỡ như mặt trời trên bầu trời. Đại Đường vĩ đại, cường thịnh xưa nay chưa từng có, muôn nước đến chầu, là quốc gia hưng thịnh giàu mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ.

Thái Tông đã đẩy nền văn minh Trung Hoa 5000 năm đến đỉnh cao, khiến văn hóa Thần Châu rạng rỡ tột cùng. Thời Trinh Quán thịnh Đường, dưới sự duy hộ của đích thân Thái Tông, ba tôn giáo lớn là Nho, Thích, Đạo đều hưng thịnh, không chỉ con dân Hoa Hạ tu Đạo, tu Phật, kính Trời tín Thần, mà còn đem văn hóa Thần truyền Trung Hoa lan tỏa ra thế giới, khiến cho các quốc gia lân cận cho đến các quốc gia vùng miền khác trên thế giới đều chịu ảnh hưởng của văn hóa Thần truyền Đại Đường một cách sâu sắc. Đến nay, rất nhiều con phố người Hoa ở các nước trên thế giới đều gọi là “phố Đường Nhân”, thành tích thái bình thịnh trị thời Trinh Quán mãi được hậu thế truyền tụng.

Vương triều Đại Đường, quân chủ làm chủ thiên hạ, chấn động đến những vùng xa xôi tám phương, tấm lòng rộng mở như biển cả dung nạp trăm nghìn sông này, phong thái khoáng đạt tự tin, Đại Đường thịnh thế huy hoàng vô cùng, lớn mạnh vô cùng, vinh quang vô cùng, kiêu hãnh nhìn khắp cổ kim.

Chân dung Đường Thái Tông, màu trên lụa, trước đây là bộ sưu tập của Nam Huân Điện cố cung Bắc Kinh, nay thuộc Bảo tàng Cung điện Quốc gia ở Đài Bắc. (Ảnh: Phạm vi công cộng)

Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ

Ngày Mậu Ngọ, tháng 12 năm thứ 18 niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy (ngày 28 tháng 1 năm 599), Lý Thế Dân, Hoàng đế Thái Tông của Đại Đường đản sinh ở biệt quán Võ Công (thuộc phạm vi Hàm Dương, Thiểm Tây ngày nay). Khi đó có hai con rồng chơi đùa ở bên ngoài cổng dịch quán, ba ngày mới đi (Cựu Đường Thư – Thái Tông Thượng).

Người xưa thường xưng Hoàng đế, quân vương là Thiên tử hoặc chân mệnh Thiên tử, nói rằng họ vốn không phải là sinh mệnh thông thường, vốn không phải người bình thường có thể tùy tiện trở thành bậc đế vương được! Thân là thiên tử, “phụ thiên mẫu địa dĩ dưỡng nhân“ (Trời là cha, đất là mẹ nuôi dưỡng con người), cho thấy hết thảy của thế gian con người, họ đều phải gánh vác. Họ phải kế thừa mệnh Trời, coi sóc vạn vật trong thiên hạ, giải trừ nguy hại cho chúng, dùng đức hạnh xứng với trời đất của mình để thống nhất lòng người và các khu vực lẻ tẻ tự làm theo ý mình ở các nơi, khiến mỗi người mỗi việc đều được sắp đặt đâu vào đấy, yên vui với thân phận của mình, nhờ thế mà thiên hạ an định và thái bình.

Vậy nên, mỗi một lời nói hành vi, nhất cử nhất động của Hoàng đế đều là tấm gương cho người trong thiên hạ noi theo. Chính bởi vì họ thân ở địa vị cao như vậy, mà không tự coi là sở hữu của tự thân, gánh vác trọng trách nặng nề như vậy, lại không dám chậm trễ chút nào, Thần sẽ ban cho vinh diệu, trao cho thiên hiệu và quyền bính Thần thánh chí tôn.

Hai con rồng nô đùa khi Thái Tông giáng sinh, lấy phương thức thần kỳ, an lành, đặc thù để tỏ rõ với thiên hạ rằng có kỳ nhân giáng sinh.

Thái Tông Văn vũ Đại thánh Đại quảng hiếu Hoàng đế, tên húy là Thế Dân, là con thứ của Cao Tổ Lý Uyên. Mẹ là Thái Mục Hoàng hậu, Đậu thị. Khi Cao Tổ nhậm chức ở Kỳ Châu, Thái Tông mới bốn tuổi, một vị thư sinh tự nhận là giỏi xem tướng, khi nhìn thấy Cao Tổ thì nói: “Ngài là quý nhân, hơn nữa còn có quý tử”. Khi nhìn thấy Thái Tông thì nói: “Dung nhan rồng phượng, tướng mạo hệt như mặt trời, đến năm 20 tuổi, ắt có thể tế thế an dân”. Lý Uyên nghe xong thấy đây rõ ràng tỏ rõ Thái Tông Lý Thế Dân sau này sẽ trở thành Hoàng đế! Lời này nếu như truyền ra bên ngoài, há không phải mang đến họa diệt môn sao! Cao Tổ sợ thư sinh để lộ lời nói ra bên ngoài, liền sai người truy sát, nhưng thư sinh không biết đã đi đâu mất. Cao Tổ tin là thiên Thần, bởi vậy tiếp thu ý “tế thế an dân”, đặt là tên của Thái Tông Lý Thế Dân”.

Như lời của vị thầy tướng, thân thế của Thái Tông quả thực không hề tầm thường, trong “Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh Tự” (Bài tự khắc trên chuông chùa Đại Hưng Thiện), Thái Tông hé lộ thân phận của mình, là Kim Luân Thánh Vương giáng sinh trong hoàng thất, tấm lòng bao dung thiên hạ, phổ độ chúng sinh (Tạm dịch): “Hoàng đế Đạo nghiệp Kim Luân, tâm nơi lầu vàng, che phủ vạn phương, đi thuyền khắp tam giới. Muốn dùng nhạc mây hòa, cùng với tiếng trống Pháp để hoằng dương giáo hóa. Tiếng nhạc Nhã tụng thịnh thế đi theo với Phạn âm Phật Pháp vang xa”. Năm Trinh Quán thứ 9 (năm 635), trong “Độ tăng ư thiên hạ chiếu” (Chiếu độ tăng nhân khắp thiên hạ), Thái Tông cũng bày tỏ rõ: “Trẫm Khâm Nhược Kim Luân, cung kính theo mệnh ngồi ngôi báu, dùng Đức chí thượng giáo huấn muôn dân, không nơi xa xôi nào không nghĩ đến, phép tắc của bậc đại Thánh, không nơi tối tăm nào không xem xét tới, muốn cho người người đều không phải khổ não, nhà nhà đều no đủ, nhân nghĩa, trường thọ, các nguyện cầu duyên ẩn đều linh ứng, che chở hết thảy sinh linh. Ngũ phúc phủ khắp trên diện rộng, tam tai chấm dứt chốn thế gian”.

Thánh chủ Đại Đường khi vừa mới sinh ra đã khác hẳn người thường. Thái Tông “khi mới được sinh ra là không biết khóc”. Dường như hết thảy của nhân gian đều vâng theo sai khiến dưới thiện hóa vô tư vô ngã của ông. Thuở thiếu thời, Thái Tông thông minh dị thường, nhìn xa trông rộng, nắm bắt thời cơ hành sự quyết đoán, ôm chí lớn mà không câu chấp những việc nhỏ nhặt, tuổi đời còn nhỏ, lo xa nghĩ rộng, đương thời không ai có thể đoán ra được tâm trí của ông.

Thái Tông ứng nghiệm lời của thầy tướng, từ năm 18 tuổi khuyên cha khởi binh, mở đầu một đời phi phàm tế thế an dân của mình. Sau khi lên ngôi, chỉ trong thời gian mấy năm, các nước Hoa Hạ chia năm xẻ bảy, chiến loạn không ngừng suốt gần 400 năm đã được thống nhất dưới vương triều Đại Đường.

Ngày Kỷ Tỵ 26 tháng 5 năm thứ 23 niên hiệu Trinh Quán (ngày 10 tháng 7 năm 649), Thái Tông Lý Thế Dân lâm bệnh mất ở điện Hàm Phong, cung Thúy Vy, hưởng thọ 51 tuổi, an táng ở Chiêu lăng. Năm 674 (năm đầu niên hiệu Thượng Nguyên thời Đường Cao Tông) thêm thụy hiệu là Văn Võ Thánh Hoàng Đế. Năm 749 (Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Bảo, Đường Huyền Tông) thêm tên thụy là Văn Võ Đại Thánh Hoàng Đế. Năm 754 (năm thứ 13 niên hiệu Thiên Bảo) thêm tên thụy là Văn Võ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu Hoàng Đế.

“Tân Đường Thư” khen Thái Tông rằng: “Quân chủ có thể tế thế an dân giống như Thái Tông đây thật khó có người thứ hai! Hạ Vũ có thiên hạ, truyền 16 đời quân vương, trong đó Thiếu Khang có công trung hưng vương triều. Thành Thang nhà Thương có thiên hạ, truyền đến 28 đời quân vương, người hưng thịnh nhất trong đó, chỉ có ba người hiệu xưng “tam tông” (Thái Giáp, Võ Đinh, Tổ Ất). Chu Võ Vương có được thiên hạ, truyền vị 36 đời quân vương, ngoài công lao trị vì đáng được kể đến như Thành Vương, Khang Vương và Tuyên Vương ra, còn những quân chủ khác đều không đáng khen ngợi”. Dù rằng ghi chép trong “Kinh Thi”, “Thượng Thư”, đôi lúc có những chỗ thiếu sót, nhưng ba đời Hạ, Thương, Chu trị vì thiên hạ hơn 1700 năm, truyền thừa hơn 70 vị quân vương, nhưng những vị trác tuyệt trong đó mà hậu thế có thể thấy rõ, chẳng qua chỉ có sáu bảy vị quân vương này mà thôi. Quân chủ có thể mở ra thời hoàng kim có thể nói thật khó có được vậy!

“Cựu Đường thư” đánh giá rằng: “Sử thần nói: Thần thấy Văn Hoàng đế phát tích rất nhiều điều kỳ lạ, thông minh Thần vũ. Sử dụng đề bạt người, vật một cách vô tư, không bè đảng, người có chí đều được sử dụng hết tài năng… Nghe lời can gián quyết đoán chẳng nghi hoặc, theo việc thiện tự nhiên mau lẹ, có thể nói ngàn năm chỉ có duy nhất một người mà thôi”.

Ngô Căng trong lời tựa của “Trinh Quán chính yếu” nói: “Nền chính trị giáo hóa thời Thái Tông, có thể thấy rõ tốt đẹp đủ đầy, chấn động cổ kim, xưa nay chưa từng có vậy”.

Dịch từ: https://www.epochtimes.com/gb/16/6/8/n7977710.htm

The post Nhân vật Thiên cổ anh hùng Trung Quốc – Đường Thái Tông (1): Thái Tông xuất thế, quân quyền Thần thụ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Nhân vật anh hùng thiên cổ Trung Quốc] Vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (1): Hồng thủy ngập trời, Phục Hy sáng thếhttps://chanhkien.org/2022/09/nhan-vat-anh-hung-thien-co-trung-quoc-vua-nghieu-thuan-vu-1-hong-thuy-ngap-troi-phuc-hy-sang-the.htmlWed, 14 Sep 2022 05:24:50 +0000https://chanhkien.org/?p=29099[ChanhKien.org] Lời nói đầu Trung Quốc, thời cổ được gọi là Thần Châu, tức là mảnh đất của những vị Thần. “Bàn Cổ khai thiên địa”, “Nữ Oa tạo ra loài người”, “Phục Hy vẽ Bát quái”, “Thần Nông nếm trăm loài thảo dược”, “Thương Hiệt tạo chữ”, những truyền thuyết này đã triển hiện […]

The post [Nhân vật anh hùng thiên cổ Trung Quốc] Vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (1): Hồng thủy ngập trời, Phục Hy sáng thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Lời nói đầu

Trung Quốc, thời cổ được gọi là Thần Châu, tức là mảnh đất của những vị Thần.

“Bàn Cổ khai thiên địa”, “Nữ Oa tạo ra loài người”, “Phục Hy vẽ Bát quái”, “Thần Nông nếm trăm loài thảo dược”, “Thương Hiệt tạo chữ”, những truyền thuyết này đã triển hiện ra cho chúng ta một bức tranh lịch sử rõ nét. Sáng Thế Chủ tuần tự từng bước từ sáng thế, tạo ra con người, tạo nên môi trường sinh tồn và sinh sống cho con người, rồi truyền cho con người văn hóa để giáo hóa con người, từ đó quy phạm hành vi đạo đức của con người. Từ cơ sở đó, Sáng Thế Chủ đã an bài các vị Thần Phật hạ thế để truyền Pháp độ nhân, hướng dẫn con người tu luyện, đã tạo nên văn hóa tu luyện cho con người để con người phản bổn quy chân, quay về với thiên quốc.

Từ những ghi chép cổ xưa cho thấy, Sáng Thế Chủ đã khai sáng ra tam giới nơi con người tồn tại. Từ rất xa xưa, Bàn Cổ đã nhận sứ mệnh của Sáng Thế Chủ để sáng tạo ra tiểu vũ trụ có rất nhiều thiên hà, trong đó có hệ Ngân Hà này của chúng ta.

Tiếp theo đó, một số vị Thần đã dựa theo hình tượng của bản thân để tạo ra con người sinh sống trên Trái Đất này của chúng ta. Có ghi chép nói rằng, Nữ Oa đã dựa trên hình tượng của bản thân Bà rồi dùng bùn đất để tạo nên con người. Kinh Thánh cũng có ghi chép rằng, Thượng Đế đã dựa trên hình tượng của Ngài rồi dùng bùn đất tạo ra con người. Trong các nền văn hóa khác nhau đều đề cập đến việc các vị Thần khác nhau đã tạo nên những chủng người khác nhau, đồng thời họ cũng tạo nên vạn vật trong trời đất để làm cho thế giới nơi con người sinh sống thêm phồn vinh, đa dạng.

Thế giới tự nhiên lúc mới được tạo ra rất khắc nghiệt, ở đó toàn là gió gào chớp giật. Cần phải làm cho mưa rơi như thế nào, tuyết bay ra sao v.v. để phù hợp với con người? Qua biết bao nhiêu niên đại điều chỉnh, các vị Thần mới dần dần thuần phục được giới tự nhiên để tạo ra môi trường sinh tồn và sinh sống phù hợp. Khi bốn mùa xuân hạ thu đông phân định rõ rệt thì con người bắt đầu có thể an cư lạc nghiệp.

Con người lúc mới được tạo ra cũng giống như một đứa trẻ sơ sinh, điều gì cũng không biết, họ không có chút nhận thức nào về môi trường tự nhiên, cũng không có năng lực thích ứng với tự nhiên và xã hội. Lúc này, Thần phải trực tiếp bảo hộ con người, tạo ra môi trường sinh tồn và sinh sống cho con người, bồi dưỡng cho con người năng lực sinh tồn, dần dần làm phong phú nội hàm tư tưởng của con người, khiến cho họ có thể tự lập được.

Tộc Hữu Sào dạy con người lên cây làm tổ, tránh mưa gió, ngăn các tác hại từ môi trường.

Khi tộc Toại Nhân “dùng đá để lấy lửa”, là cột mốc đánh dấu việc con người đã tự biết lấy lửa, từ đó kết thúc thời kỳ lấy lửa từ trời. Trong thần thoại Hy Lạp cổ có câu chuyện Thần Prometheus lấy trộm lửa trao cho con người. Phục Hy có Thần lực rất lớn, ông trông lên quan sát trời, trông xuống quan sát đất, từ đó vẽ ra Bát quái, đã lưu lại cho con người công cụ để câu thông với Thần. Tức là, Bát quái ngay từ đầu vốn đã có những thần thông kỳ diệu để câu thông với trời đất và tự nhiên.

Trong thời kỳ Phục Hy còn phát sinh trận đại hồng thủy hủy diệt. Theo ghi chép của Sở Bạch Thư thì trận hồng thủy này rút đi để lại là một mặt đất hỗn độn, thế là Phục Hy tiến hành sáng thế, quy chính bốn mùa trên mặt đất cùng sự vận hành của Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, điều hòa âm dương.

Đến thời Thần Nông, dần theo sự sinh sôi đông lên của con người thì nhu cầu về lương thực cũng tăng lên, khi này Thần Nông đã dạy con người trồng cấy, truyền dạy rộng cách trồng ngũ cốc, chế tạo lưỡi cày, khai sáng ra thời đại con người biết trồng cấy. Thần Nông còn được người đời sau gọi là Thần Ngũ cốc. Ông dùng cây cuốc màu đỏ đào các loài thảo mộc, nếm thử trăm loài thảo dược, từ đó bắt đầu có y dược, vì thế ông còn được tôn xưng là Dược Vương. Thần Nông khai sáng ra chợ để trao đổi hàng hóa, khai sáng ra việc thông thương buôn bán.

Tranh Thần Nông hái thuốc của Liêu Dật

Tiếp theo là đến thời đại của Hoàng Đế, mở màn cho lịch sử 5000 năm huy hoàng.

Hoàng Đế bình định thiên hạ, thống nhất và dung hợp các bộ lạc Hoa Hạ, trở thành chủ chung của thiên hạ. Đây là lần thống nhất đầu tiên của các dân tộc, bộ lạc và thị tộc của Trung Hoa, mở ra thời đại “văn trị võ công”, thể hiện đạo lý “binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc”. Hoàng Đế đặt ra bách quan, chế ra các điển chương, kiến lập nên rường cột của xã hội con người, tạo ra y phục, tàu xe, chữ viết, can chi, nhạc cụ, y học, lịch pháp và cách trồng dâu nuôi tằm v.v., khai sáng ra nền văn minh nhân loại huy hoàng. Hoàng Đế còn là người tu Đạo, về sau ông đắc Đạo cưỡi rồng bay về trời, từ đó tôn định nên văn hóa tu luyện khiến con người có thể tu luyện đắc Đạo thành Thần.

Ông được con người tôn xưng là thủy tổ của dân tộc Trung Hoa.

“Thương Hiệt tạo chữ” là một sự việc huy hoàng trong lịch sử loài người. Có ghi chép rằng, Thương Hiệt là một sử quan của Hoàng Đế, “sinh ra đã biết chữ, lại thông hiểu Hà đồ Lạc thư, hiểu rõ biến đổi của trời đất, trông lên quan sát hình thế của họa đồ Sao Khuê, trông xuống quan sát vẩy cá lông chim, hình dạng núi sông và quan sát bàn tay ngón tay người mà tạo ra chữ”. Hoài Nam Tử – Bản kinh có ghi chép: “Xưa Thương Hiệt tạo chữ, mà trời đổ mưa, quỷ khóc ngày đêm”. Chữ Hán là văn tự hình tượng, là chữ tượng hình, âm của chữ và hình của chữ đối ứng với thiên tượng, có thể câu thông với tín tức của trời, đất, con người và Thần. Từ những văn vật tìm được trong lòng đất, đã nhận dạng được hơn 5000 chữ giáp cốt, đó đều là những văn tự vô cùng thành thục. Đa phần các văn tự được khắc trên mai rùa, xương động vật, các dụng cụ bằng đồng, đồ gốm hoặc trên những miếng ngọc đều là những ghi chép về việc tế tự hoặc các quẻ bói, lý do là văn tự vào thời đó được dùng để ghi chép lại thiên tượng, lễ tế Thần hoặc kính ngưỡng Thần. Cũng tức là, văn tự trước thời nhà Chu là dùng để ghi chép lại những việc liên quan đến “Thần”, mà không phải dùng để ghi chép lại việc liên quan đến “người”.

Thời Chuyên Húc, xảy ra một sự việc “cắt đứt con đường thông giữa trời và đất”, tức là đoạn tuyệt mối liên hệ trực tiếp giữa con người và Thần, từ đó con người dần dần rời xa Thần.

Thời Nghiêu Đế xảy ra một trận đại hồng thủy, chỉ có một số ít người sống sót. Theo sự an bài của Sáng Thế Chủ, ba vị thánh quân là Nghiêu, Thuấn, Vũ đã tiếp nối các đời trước khai sáng nên vũ đài lớn ở Thần Châu. Họ là những người mở đường cho nền văn minh của con người sau trận đại hồng thủy, là những người sáng tạo nên một thế giới mới.

Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, là bước hoàn thiện cho vũ đài lớn ở Thần Châu này. Việc thống nhất chữ viết, thống nhất kích cỡ xe trong thời Tần Thủy Hoàng đã khai sáng thể chế văn hóa nghìn năm cho Thần Châu, tôn định nên thế cục chính trị nghìn năm cho Trung Hoa. Hán Vũ Đế trục xuất bách gia, đã sửa đổi tận gốc và đặt định nên nền văn hóa chính thống bên ngoài dùng Nho bên trong dùng Đạo, thiên nhân hợp nhất, từ trên nền móng thể chế của nhà Tần, đã kiến lập nên khung thể chế chính trị ổn định tồn tại mãi cho đến nhà Thanh sau này.

Lịch sử Trung Quốc là một triều đến một triều đi, diễn nên từng màn kịch lịch sử xúc động lòng người, triển hiện ra từng bức tranh lịch sử triều dâng sóng dậy, để lại vô số những câu chuyện buồn vui cảm động lòng người. Vũ Đế định ra chín châu sau đó là triều đại của vua Thang kế nghiệp, nhà Tần thôn tính sáu nước lại đến nhà Hán đăng cơ. Tranh giành Trung Nguyên, anh hùng lớp lớp xuất hiện, một triều đại kết thúc là một triều đại mới lên đài, không ngừng tôn định nên nội hàm văn hóa Trung Hoa lấy đạo đức làm trung tâm.

Quá trình 5000 năm văn hóa Thần truyền là quá trình Thần bồi luyện, thành tựu con người, là công trình vĩ đại để tạo ra kết cấu tư tưởng của con người. Mỗi triều đại đều mang theo đặc sắc của chúng sinh những thiên quốc khác nhau để hạ thế kết duyên, tất cả đều mang theo đặc điểm văn hóa riêng của tự mình, đều có những việc tự bản thân họ cần phải làm cũng như sứ mệnh phải hoàn thành. Sự bác đại tinh thâm tích lũy trong văn hóa 5000 năm đã tỏa ra ánh hào quang chói lọi.

Văn hóa truyền thống Trung Hoa là nền văn hóa mà Sáng Thế Chủ an bài cho các dân tộc trên mảnh đất Thần Châu cùng nhau sáng tạo nên qua các thời kỳ lịch sử.

Chương 1: Hồng thủy ngập trời, Phục Hy sáng thế

Phục Hy là thủy tổ của văn minh lần này của chúng ta. Phục Hy thuận theo chỗ huyền diệu của tạo hóa vũ trụ, phù hợp với thiên địa tự nhiên, noi theo trời phỏng theo đất để khai sáng ra tân vũ trụ, làm cho trời và đất tách nhau ra, bốn mùa và các vì sao tuần tự có thứ tự. Theo Lộ Sử ghi chép: “Mẹ của Phục Hy là Hoa Tư, sống ở bến sông Hoa Tư, thường cùng Thúc Cơ đến chơi ở bên bờ sông Phần. Thấy có dấu bàn chân khổng lồ, bà liền ướm thử, trong lòng cảm thấy xung động, rồi có cầu vồng vây quanh, từ đó mang thai, 12 năm sau sinh ra Phục Hy. Phục Hy sinh ra ở Cừu Di, lớn lên ở Khởi Thành”.

“Tam Hoàng bản kỷ” trong Sử ký viết: “Thái Hạo Bào Hy họ Phong, kế vị Toại Nhân, nối mệnh trời lên làm vua. Mẫu thân là Hoa Tư, ướm chân vào vết chân người khổng lồ ở đầm Lôi Trạch, vì thế có mang sinh ra Bào Hy ở Thành Kỷ. Ông có Thánh đức, ngửa lên xem tượng ở trời, cúi xuống xem khuôn mẫu ở đất, xem xét đặc điểm các giống điểu thú và cái nên chăng của đất, gần thì lấy ở trong thân người ta, xa thì lấy ở các loài vật, lúc đó mới bắt đầu vạch ra tám quẻ để thông thấu được với cái đức của Thần linh, biện biệt được cái tình của vạn vật”.

Trong Tấn thư – Ngũ hành chí của Lý Thuần Phong viết rằng: “Phục Hy nối mệnh trời lên làm vua, tiếp nhận “Hà đồ” mà thiên thượng ban, vạch ra “Bát quái”, Long Mã dâng “Hà đồ”, Bạch Quy dâng “Lạc thư”. Bát quái diễn ra tận cùng cái lý của âm dương thái cực, triển hiện ra đại đạo tiên thiên, “Bát quái” vốn đã có những thần thông kỳ diệu để câu thông với trời đất và tự nhiên, để lại cho con người phương tiện để kết nối với Thần, giúp con người có thể nhận được những chỉ dẫn và trợ giúp của Thần”. Dựa theo miêu tả trong “Kỳ môn độn giáp”: “Long Mã là tinh phách của trời đất, nó có hình dáng đầu rồng thân ngựa vẩy rồng, cho nên gọi là Long Mã. Long Mã cao 8 thước 5 tấc, cổ dài, có cánh, lội nước không chìm. Khi Thánh nhân tại vị, nó cõng hình vẽ xuất hiện ở sông Mạnh Hà”.

Thời Phục Hy trời đất xảy ra một biến động cực lớn, đó là trận đại hồng thủy hủy diệt nhấn chìm thế giới trong nhiều năm, chỉ có những người sống ở trên dãy núi Côn Lôn mới được sống sót. Thời kỳ này, ở các nơi trên thế giới đều có những truyền thuyết tương tự nhau, cách thời đại của chúng ta hiện nay khoảng 10.000 năm, như truyền thuyết Phục Hy và em gái nhờ một quả hồ lô mà thoát nạn hồng thủy, hay như truyền thuyết về sự hủy diệt của đại lục Atlantis và đại lục Mu.

Sau khi hồng thủy rút đi, trời và đất không phân tách, rơi vào trạng thái hỗn độn, khi này đã xuất hiện thần tích Phục Hy sáng thế. Sở Bạch Thư ghi lại quá trình Phục Hy sáng thế như sau: “Thời thượng cổ có một con rồng lớn được gọi là Phục Hy, sinh ra ở Lôi Trạch, sống ở sông Hoài Thủy. Lúc đó trời đất, ngày đêm còn chưa phân tách, thế giới ở trong tình trạng hỗn độn mông muội, chỉ là một khoảng tối đen mênh mông, không còn bất cứ điều gì tồn tại. Chỉ có gió mưa tích tụ, hồng thủy tràn lan. Phục Hy hợp hôn với Nữ Oa sinh ra bốn người con trai. Bốn người con trai này là bốn vị Thần cai quản bốn mùa và bốn phương. Con trai cả là Thanh Can cai quản mùa xuân và phương Đông, con trai thứ hai là Chu Tứ Thiện cai quản mùa hạ và phương Nam, con trai thứ ba là Liệu Hoàng Nan cai quản mùa thu và phương Tây, con trai thứ tư là Huề Mặc Can cai quản mùa đông và phương Bắc. Bốn vị Thần mở mang, sửa sang lại trời và đất, quản lý các vì sao, làm cho trời và đất tách nhau ra, bốn mùa và các vì sao tuần tự có thứ tự”.

Vũ trụ non sơ vừa được tạo ra thì lại bị mất cân bằng. “Thời gian trôi quá nhanh, Mặt Trời và Mặt Trăng không phù hợp với sự sống. Cửu châu không bằng phẳng, toàn là núi non trùng điệp, thấy thế bốn vị Thần bèn ra tay, làm cho trời cân bằng lại”. Dùng tinh hoa của năm loại mộc là thanh mộc, xích mộc, hoàng mộc, bạch mộc, hắc mộc để chống đỡ cho mặt đất đã bị phá hủy, sửa chữa vá lại mái trời. “Sửa sang lại bốn cực”, chỉnh sửa lại vũ trụ bị mất cân bằng. Sau thời Phục Hy, là đến Nữ Oa kế vị làm chủ chung thiên hạ. Cộng Công không phục, phát động cuộc phản loạn, Nữ Oa lệnh cho Chúc Dung thảo phạt, Cộng Công bị thua, tức giận húc đầu vào núi Bất Chu, làm núi bị sập, cột chống trời bị gãy, làm đứt dây níu đất, trời bị lệch về phía Tây Bắc, khiến cho Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao bị chuyển dời vị trí. “Bốn cực bị phá, cửu châu tách ra, trời không còn toàn vẹn để che chở, đất không còn tròn vẹn để nâng đỡ; lửa cháy bừng bừng không tắt, nước dâng ầm ầm không ngừng”. Nghĩa là, trời đã sập đất đã lở, lửa lớn bùng lên, hồng thủy tràn lan, loài chim bay phơi xác khắp nơi, loài thú chạy ngổn ngang khắp đất. Trời không thể che chở toàn bộ cho đất, đất không thể nâng đỡ hoàn toàn cho muôn vật, hỏa hoạn bùng không dứt, hồng thủy cuồn cuộn không dừng. Nữ Oa “luyện đá ngũ sắc để vá trời” tiếp nối lại bốn cực, diệt hắc long để cứu Ký Châu, lấy tro cây sậy để ngăn hồng thủy, đã quy chính trật tự vận hành của trời đất, nhờ thế mà con người được an cư lạc nghiệp.

Phục Hy nối mệnh trời làm vua, đứng đầu trăm vua nên gọi là Hy Hoàng. Vào dịp đầu năm, ông đi về phía Đông, đến núi Thái Sơn lập đàn tế trời đất, khai sáng ra lễ Phong thiện Thái Sơn (lễ tế trời đất ở núi Thái Sơn) cho người ở lưu vực sông Hoàng Hà.

Trải qua hàng nghìn năm, đến thời kỳ của vua Nghiêu, trời đất lại một lần nữa phát sinh biến hóa to lớn, trận đại hồng thủy quy mô toàn thế giới gần như đã hủy diệt văn minh nhân loại. Vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ đã tiếp nối các đời trước, một lần nữa khai sáng thế giới mới.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.epochtimes.com/b5/16/3/28/n7467618.htm

The post [Nhân vật anh hùng thiên cổ Trung Quốc] Vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (1): Hồng thủy ngập trời, Phục Hy sáng thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thành Cát Tư Hãn (1): Giáng sinh nơi thảo nguyên, trưởng thành trong tuyệt cảnhhttps://chanhkien.org/2022/08/thanh-cat-tu-han-1-giang-sinh-noi-thao-nguyen-truong-thanh-trong-tuyet-canh.htmlThu, 04 Aug 2022 23:15:36 +0000https://chanhkien.org/?p=28868[ChanhKien.org] Mục lục: Lời tiên tri của tổ tiên Dị tượng khi Thiết Mộc Chân ra đời Những bài giáo huấn đầu tiên và mệnh đế vương Duyên định mệnh gặp Hoàng hậu Phụ thân gặp nạn Trong nghịch cảnh tôi luyện ý chí kiên cường Vào thế kỷ 13, khi triều đại Nam Tống […]

The post Thành Cát Tư Hãn (1): Giáng sinh nơi thảo nguyên, trưởng thành trong tuyệt cảnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Mục lục:

The post Thành Cát Tư Hãn (1): Giáng sinh nơi thảo nguyên, trưởng thành trong tuyệt cảnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiên cổ anh hùng Hàn Tín (1): Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tàihttps://chanhkien.org/2022/08/thien-co-anh-hung-han-tin-1-long-om-chi-lon-an-than-giau-tai.htmlThu, 04 Aug 2022 00:39:12 +0000https://chanhkien.org/?p=28856[ChanhKien.org] Vào những năm cuối thời nhà Tần, cục diện hỗn loạn, quần hùng khắp nơi tranh giành thiên hạ. Đúng lúc ấy Hàn Tín bước lên vũ đài, chỉ trong vòng 5 năm đã bình định sơn hà, một lần nữa thống nhất Trung Nguyên. Nhà Hán có thể làm chủ giang sơn, công […]

The post Thiên cổ anh hùng Hàn Tín (1): Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Vào những năm cuối thời nhà Tần, cục diện hỗn loạn, quần hùng khắp nơi tranh giành thiên hạ. Đúng lúc ấy Hàn Tín bước lên vũ đài, chỉ trong vòng 5 năm đã bình định sơn hà, một lần nữa thống nhất Trung Nguyên. Nhà Hán có thể làm chủ giang sơn, công lao đều thuộc về Hàn Tín.

Hàn Tín đã trở thành huyền thoại “bách chiến bách thắng”, ngay cả Bá vương Hạng Vũ từng được đánh giá là “thiên cổ không có người thứ hai” cũng đành ngậm ngùi trở thành bại tướng dưới tay Hàn Tín.

Là bậc đại căn khí vạn năm khó gặp, Hàn Tín ôm hoài bão bá vương, sẵn sàng nhẫn nhục, không nổi giận một cách vô cớ, và là một minh chứng hoàn hảo về người có tâm đại nhẫn.

Hàn Tín được hậu thế ca ngợi là “quốc sĩ vô song, binh Tiên chiến Thần” (nhân tài kiệt xuất, dụng binh và chiến đấu như Thần). Khả năng bày binh bố trận của ông đã đạt tới Thánh giới Tiên cảnh, tựa như thiên mã lướt gió tung mây, một mạch từ trên trời hạ xuống, động tác tuy nhẹ nhàng nhưng lại có sức nặng vạn cân. Cách dụng binh thần kỳ của Hàn Tín trong lịch sử không có người thứ hai. Tài năng phi phàm của ông khiến hậu thế ca ngợi không ngớt. Mỗi cuộc chiến do ông chỉ huy đều là bản thiên anh hùng ca hào tráng, mưu lược và nghệ thuật quân sự của ông xuất Thần nhập hóa, lưu danh ngàn đời.

Chân dung Hàn Tín. (Ảnh: Bộ sưu tập Thanh Điện)

Mời quý đọc giả đón xem loạt bài về Thiên cổ anh hùng Hàn Tín:

Phần 1: Hàn Tín – Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tài

Phần 2: Hàn Tín – Tài năng không gặp thời

Phần 3: Hàn Tín – Trong tuyệt vọng tìm thấy lối thoát

Phần 4: Hàn Tín – Một tay gây dựng cơ đồ nhà Hán

Phần 5: Hàn Tín – Trận chiến Bối Thủy

Phần 6: Hàn Tín – Một lòng trung thành

Phần 7: Hàn Tín – Tứ diện Sở ca

Phần 8: Hàn Tín – Công cao át chủ

Phần 9: Hàn Tín – Oan khuất ở nhà chuông


Phần 1: Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tài 

Hàn Tín là người Hoài Âm, Giang Tô, sinh ra trong lúc gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Sử sách không ghi chép tượng tận về gia thế của ông, chỉ biết rằng thuở nhỏ ông và mẹ trải qua những tháng ngày cơ cực, phải nương tựa vào nhau mà sống. Bởi trong nhà cất giữ binh thư và bảo kiếm, cho nên từ nhỏ Hàn Tín đã có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều sách binh pháp. Cuốn “Giám Lược – Tần Ký” do Minh Lý Đình Cơ biên soạn viết: “Hàn Tín chính là hậu duệ của Hàn Quốc”, có thể nói tổ tiên của ông cũng từng là tầng lớp quý tộc.

Sau khi mẹ qua đời, cuộc sống càng thêm gian nan, Hàn Tín thường không có cơm ăn. Bởi nghèo khó túng thiếu, ông bị người khác khinh miệt và nhục mạ, cũng có khi phải nhận sự bố thí của người ngoài. Trong lịch sử có rất nhiều điển cố liên quan đến thuở hàn vi của Hàn Tín, như “Xương Đình chi khách” (làm khách nhà Xương Đình), “Thần xuy nhục thực” (thổi cơm sáng ăn ngay trên giường), “Khố hạ chi nhục” (chịu nhục chui háng), “Nhất phạn thiên kim” (Bát cơm ngàn vàng), “Năng khuất năng thân” (biết co biết duỗi), v.v.

Chuyện kể rằng, đình trưởng đình Nam Xương biết Hàn Tín không phải kẻ tầm thường, dù hiện tại nghèo khó nhưng mai sau nhất định sẽ là bậc xuất chúng, bởi vậy đình trưởng đặc biệt chú ý đến Hàn Tín và thường mời ông tới nhà dùng cơm. Nhưng vợ của đình trưởng lại tỏ ra không mấy thoải mái, dần dà bà sinh lòng chán ghét bèn nghĩ cách đuổi ông đi. Bà cho mọi người ăn sáng sớm và yêu cầu người nhà nhanh chóng đem nồi niêu bát đĩa thu dọn sạch sẽ. Hôm ấy như thường lệ, Hàn Tín đến nhà đình trưởng đúng giờ, nhưng chờ đợi ông là một chiếc bàn trống trơn, ngay cả một chút cơm thừa canh cặn cũng không còn. Kể từ đó, ông không còn đặt chân tới nhà đình trưởng thêm lần nào nữa. Hai câu thành ngữ: “Xương Đình chi khách” và “Xương Đình lữ thực” (nghĩa là “làm khách nhà Xương Đình”) đều ra đời từ đây.

Ngoài việc học hành, mỗi khi rảnh rỗi Hàn Tín thường ra sông buông câu. Có một bà lão thường đem quần áo ra sông giặt (người đời sau gọi bà là Phiêu mẫu), rất cảm thông với cảnh ngộ của Hàn Tín nên thường chia đồ ăn của mình cho ông. Hàn Tín vô cùng cảm kích, thề rằng sẽ báo đáp ân tình của bà lão. Sau này khi Hàn Tín áo gấm hồi hương, quả nhiên đã biếu tặng Phiêu mẫu rất nhiều bạc tiền để báo đáp ân nghĩa năm xưa. Thành ngữ “Nhất phạn thiên kim” (Bát cơm ngàn vàng) cũng từ đây mà ra, ý tứ là nhận một giọt ân huệ sẽ báo đáp bằng cả một dòng.

Tranh cuộn “Một bữa cơm của Vương tôn” trong “bức họa Tứ Kiệt Tứ Cảnh” của Minh Tạ Thời Thần, minh họa cho câu chuyện Hàn Tín nhận cơm của Phiêu Mẫu. (Ảnh: Phạm vi công cộng)

Những ghi chép đầu tiên về Hàn Tín là “Hoài Âm hầu liệt truyện” trong “Sử Ký”, kể rằng thuở thiếu thời Hàn Tín là một kẻ ‘ăn không ngồi rồi’. Thực ra, Hàn Tín có tham vọng thống nhất thiên hạ, bình định giang sơn. Nhà Hán học Vương Minh Thịnh của triều đại nhà Thanh đã viết trong quyển 5 của “Thập Thất Sử Thương Các”: “Lúc (Hàn Tín) chịu nhục sống nương nhờ, dựa trên những tri thức thường ngày, qua thời gian dài nghiền ngẫm tỉ mỉ, ông đã tìm ra cách để ‘chiến tất thắng, công tất thủ’ (đánh ắt thắng, tấn công ắt lấy được), ngay cả khi phải đối mặt với hàng trăm vạn quân sỹ”. Ông không chỉ thuộc làu binh thư mà còn am hiểu tường tận về nhiều lĩnh vực, như thiên văn địa lý, quy định pháp luật cũng như quân sự thường thức… không gì là không minh tỏ. Ngoài việc thuộc các điển cố trong lịch sử như Bắc Lý Hề phò trợ Tần xưng bá, Hàn Tín còn biên soạn binh thư, chỉnh lý các điều lệnh pháp luật trong quân đội, minh chứng rằng ông có kiến thức phong phú, học thức uyên bác, tuyệt nhiên không phải là một kẻ du thủ du thực.

Lúc Hàn Tín chưa thành danh có một điển cố nổi tiếng gắn liền với ông, gọi là “chịu nhục chui háng”. Dù rằng khi đó Hàn Tín thiếu cơm thiếu áo, nhưng với chí khí cao xa, khát vọng to lớn, ông thường đeo bên mình một thanh bảo kiếm. Trong thành Hoài Âm có kẻ vô lại là con trai của một đồ tể, cậu ta muốn làm nhục Hàn Tín nên đã chặn đường ông ở trên một con phố náo nhiệt và nói: “Ngươi đeo bảo kiếm làm gì? Đeo bảo kiếm thế có dám sát nhân không? Dám sát nhân thì hãy chặt đầu ta đi, còn không, thì hãy chui qua háng ta”. Đối mặt với lời khiêu khích bất ngờ này, Hàn Tín điềm tĩnh nhìn thẳng vào đối phương một hồi lâu mà không chút sợ hãi, cuối cùng, ông thản nhiên cúi người chui qua háng của kẻ vô lại kia.

Bức vẽ “Hàn Tín chịu nhục chui háng” của Thanh Nhâm Bá Niên. (Ảnh: Phạm vi công cộng)

Đại tông sư văn học Tô Thức trong “Hoài Âm hầu miếu ký” đã miêu tả cảnh giới không ngại danh tiếng bị vấy bẩn (“nhục thân ô tiết”) để nuôi chí lớn anh hùng (“súc anh hùng chi tráng đồ”) của Hàn Tín thời niên thiếu: “Ứng Long là Thần bởi giỏi biến hóa, biết lúc nào nên duỗi. Mùa hạ bay lên trời, tựa như một linh vật, đông đến lại nằm cuộn tròn trong bùn nhơ để tránh tai họa… Tướng quân chính là cam chịu danh tiếng bản thân bị ô nhục, để ở ẩn che giấu tài năng, chí hướng như chim tước cất cánh, như báo vươn mình. Được phong Sở Vương, báo đáp ơn Phiêu mẫu. Ôm thao lược bá vương, nuôi hoài bão to lớn của bậc anh hùng. Hoài bão bình định thiên hạ bốn phương, chí hướng to lớn không gì sánh bằng, bởi vậy mà chịu nhục chui háng”.

Người thản nhiên chịu nhục chui háng có thể chia thành hai kiểu người: Một là người tinh thần sa sút, thích an phận, thường gọi là kẻ “nhát gan”, còn một là người có chí hướng vô cùng cao xa, biết co biết duỗi, tùy cơ ứng biến, là người vì mang sứ mệnh to lớn mà nhẫn nhục. “Thời xưa, được gọi là anh hùng hào kiệt chắc chắn phải là bậc có khí tiết hơn người, có thể nhẫn điều mà người thường không thể nhẫn. Thất phu một khi bị sỉ nhục, liền không chịu nổi rút kiếm ra giao đấu, đây không phải là hành động dũng cảm. Bậc đại dũng trong thiên hạ, khi gặp chuyện bất ngờ sẽ không hoang mang sợ hãi, không vô cớ nổi giận. Làm được vậy là do người đó có hoài bão vô cùng to lớn, chí hướng cao xa” — (Trích đoạn văn chú thích về sự hoàn mỹ của hành động “chịu nhục chui háng” của Hàn Tín trong “Lưu Hầu truyện” của Tô Thức).

Người đời cho rằng việc “Hàn Tín chịu nhục chui háng” là thể hiện cho tâm thái của bậc vĩ nhân. Tại nơi xảy ra sự việc này năm đó, người Hoài Âm đã xây dựng một cây cầu đặt tên là “Khố Hạ kiều” (cầu chui háng) để tưởng nhớ Hàn Tín, bậc anh hùng có hoài bão vô cùng to lớn, tấm lòng khoan dung độ lượng, kiến thức sâu rộng mà những kẻ tiểu nhân không thể so bì.

(Đón xem Phần 2: Hàn Tín – Tài năng không gặp thời)

Bản gốc: https://www.epochtimes.com/gb/16/4/11/n7544501.htm

Tổ nghiên cứu về các nhân vật thiên cổ anh hùng của 5000 năm văn hóa Thần truyền.

The post Thiên cổ anh hùng Hàn Tín (1): Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mật mã phương Đông (Quyển 1 – Lời mở đầu)https://chanhkien.org/2022/03/mat-ma-dong-phuong-quyen-1.htmlThu, 10 Mar 2022 09:41:22 +0000https://chanhkien.org/?p=28426[ChanhKien.org] Lời dẫn: Chữ Hán là mật mã của văn minh phương Đông, là cầu nối liên hệ giữa thiên thể, vũ trụ và nhân thể, là con đường tâm linh câu thông Thiên Địa Nhân Thần, là chiếc chìa khoá vàng mà Sáng Thế Chủ chuẩn bị cho chúng ta để giải khai ẩn […]

The post Mật mã phương Đông (Quyển 1 – Lời mở đầu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Lời dẫn:

Chữ Hán là mật mã của văn minh phương Đông, là cầu nối liên hệ giữa thiên thể, vũ trụ và nhân thể, là con đường tâm linh câu thông Thiên Địa Nhân Thần, là chiếc chìa khoá vàng mà Sáng Thế Chủ chuẩn bị cho chúng ta để giải khai ẩn đố lịch sử từ hàng nghìn năm cho đến những niên đại xa xôi hơn nữa, triển hiện cho chúng ta chân tướng vũ trụ và nhân sinh. Bộ sách đưa độc giả quay lại quá trình lịch sử diễn biến phát triển của chữ Hán, đồng thời triển hiện cho độc giả căn nguyên nội hàm mang Thần tính ở tầng thâm sâu hơn của chữ Hán. Sở dĩ chúng tôi không sử dụng phương pháp tượng hình đơn giản trước đây để tìm hiểu chữ Hán, là bởi vì tuy làm vậy cũng có thể liên kết chữ Hán với hình tượng cụ thể, nhưng cũng vì vậy mà hạn chế con người ở biểu tượng của sự vật, không thể trực tiếp đạt tới bản chất sản sinh ra chữ Hán – Nội hàm Thần tính ở tầng thâm sâu hơn mà Thần đã gửi gắm vào chữ Hán, mà đây mới chính là căn nguyên sự tinh túy và trường tồn của chữ Hán.Với sự an bài một cách có hệ thống của Thần, chữ Hán đã được truyền cho con người, mỗi nét bút trong chữ Hán đều thể hiện trí huệ vô lượng và lòng từ bi hồng đại của Sáng Thế Chủ.

Do tu vi của bản thân tác giả có hạn, những điều đề cập trong cuốn sách cũng chỉ thể hiện được một chút xíu nội hàm Thần tính bác đại tinh thâm của chữ Hán mà thôi, chỉ là một chút nhận thức nông cạn trong phạm vi vũ trụ cực nhỏ này, chỉ là một giọt nước trong biển cả bao la, hi vọng có thể là chút gợi ý để mọi người cùng có thêm nhiều ý kiến bàn luận. Tác giả trong quá trình nhận thức khó tránh khỏi những sơ hở và sai sót, kính mong quảng đại độc giả từ bi chỉ ra những thiếu sót, xin chân thành cảm ơn!

Quyển 1 – Mục lục:

Phần I. Bối cảnh sản sinh ra chữ Hán

1. Khai thiên tịch địa, vũ trụ quan trong văn hóa Thần truyền

2. Thần tạo ra con người, sinh mệnh quan trong văn hóa Thần truyền

3. Phản bổn quy chân, giác ngộ quan trong văn hóa Thần truyền

4. Thần tính quan thiên nhân cảm ứng, thiên nhân hợp nhất

5. Ma tính thời loạn thế là quan niệm bại hoại ăn mòn Thần tính

Phần II. Đối ứng của chữ Hán trong thế giới vũ trụ

1. “Vũ trụ như quả trứng”, càn khôn xem chính chuyển

2. Bàn về Lạc Thư

3. Góc nhìn chính diện về Hệ Mặt Trời trong Hệ Ngân Hà

4. Đối ứng của Hệ Mặt Trời và Lạc Thư

5. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa

6. Nguy cơ âm dương phản bối và lối thoát bằng tu luyện thăng hoa

7. Chính kiến và tà kiến

8. Lịch sử nhân loại là thể hiện diễn hóa của quy luật thiên đạo

9. Chữ Hán trong tầng thứ vũ trụ và đối ứng với Lạc Thư

10. Kết cấu và hình thức thể hiện nội hàm của chữ Hán

11. 10 nét viết cơ bản của chữ Hán

12. Chính thể truyền thần, biến dị nhập ma (Chữ chính thể truyền thụ ý chỉ của Thần, chữ giản thể đưa con người theo ma quỷ)

Phần III. Chữ Hán và sự quy chính quan niệm

1. Quay lại Thần tính, giá trị quan vĩnh hằng của sinh mệnh

2. Trí huệ vũ trụ thông suốt

3. “Ngã” – nhận thức bản thân từ một góc độ khác

4. Tự dĩ truyền Thần, văn dĩ tải Đạo

5. Bàn về mật mã 8341

Tuyên bố về bản quyền của cuốn sách:

Phụ lục 1: Bảng đối chiếu một chữ giản thể với nhiều chữ chính thể

Phụ lục 2: Bảng tổng hợp chữ giản thể (bản năm 1986)

Dẫn nhập

Chữ Hán truyền tải lịch sử văn minh 5000 Trung Hoa, ghi chép lại nhận thức của người xưa về vũ trụ thiên đạo, thế giới và con người, thể hiện Thần tính vĩ đại. Nội hàm Thần tính bác đại tinh thâm trong chữ Hán chính là nguồn gốc của văn minh Trung Hoa. Trong thời đại thượng cổ, con người dùng phương thức truyền miệng để giao lưu, thắt nút dây để ghi nhớ sự việc. Sau này, Hoàng đế mới lệnh cho sử quan Thương Hiệt tạo ra chữ. Vì vậy, văn tự đã trở thành một trong những phát minh sớm nhất và quan trọng nhất của dân tộc Trung Hoa. Có thể nói rằng cho đến ngày nay, con người vẫn đang sử dụng những “văn vật” cổ xưa nhất ấy. Chữ Hán truyền tải văn minh và lịch sử, đem theo sự kỳ vọng, trí huệ và sự ký thác của tổ tiên, trở thành những viên ngọc sáng chói rực rỡ trong dòng sông lịch sử 5000 năm, giống như những vì sao dày đặc trong dải Ngân hà chiếu rọi lên vũ trụ, soi sáng từng ngọn núi từng con sông trên vùng đất Thần Châu, đem đến cho con người ánh sáng quang minh, đem đến những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết, đem đến sự thuần tịnh của vũ trụ, đem đến hy vọng và phúc âm của Thần, và những thánh cảnh vô cùng mỹ hảo nơi thế giới thiên quốc.

Sử quan Thương Hiệt tạo ra chữ viết là để ghi chép điều gì và nói với hậu nhân điều gì? Vào thời kỳ đầu của nền văn minh, mọi thứ đều đang trong trứng nước, trong trạng thái nguyên thuỷ, cuộc sống vô vàn khó khăn, văn tự còn chưa có mà đã có sử quan chuyên trách, con người thời đó đã rất có ý thức về lịch sử! Rốt cuộc sự việc gì lại quan trọng như vậy, cần phải gấp rút ghi lại để truyền cho các thế hệ hậu nhân vậy? Đây là sự việc mà tổ tiên xem là trọng đại nhất. Vậy tại sao phải lưu lại cho hậu nhân? Lịch sử chính là liên quan đến sự thật, kinh nghiệm hoặc những bài học quan trọng. Tuy nhiên, giai đoạn lịch sử đó mà ngày nay chúng ta được học lại gần như chỉ là thần thoại. Vậy những câu chuyện thần thoại này có liên quan gì tới những sự thật, kinh nghiệm hay những bài học lịch sử quan trọng đây? Hiển nhiên rằng, hết thảy điều này đều ẩn chứa trong bản thân chữ viết, bởi vì văn tự vốn dĩ được sinh ra để ghi chép lại giai đoạn lịch sử ấy, mỗi chữ đều là sự biểu đạt trực tiếp nhất, chân thực nhất và cũng là nguyên bản nhất đối với lịch sử. Chữ viết vào thời kỳ sơ khai nhất đa phần đều trực tiếp miêu tả vũ trụ, thiên địa, vạn sự vạn vật, quy luật vận động, diễn hóa của nó và các sự kiện gắn với nó. Mặc dù gọi là chữ viết, nhưng kỳ thực chúng trông giống với những “bức tranh” tả thực hơn, ví dụ các loài chim, thú, côn trùng, cá chỉ cần nhìn hình tượng thể hiện qua chữ thì có thể biết các chữ này mang nội hàm gì. Loại chữ “được vẽ ra” này rất dễ nhận biết, rất thích hợp để lưu truyền và sử dụng. Tuy nhiên, không phải mọi điều đều có thể dùng hình tượng để vẽ ra, vậy nên xuất hiện những phương pháp tạo chữ khác dựa trên cơ sở tượng hình, đó là: phương pháp hội ý, chỉ sự, hình thanh, chuyển chú, giả tá, cũng gọi là “Lục thư”. Chữ giáp cốt là thể chữ được khắc trên mai rùa và xương thú, xuất hiện vào thời kỳ nhà Thương, đây được coi là chữ viết cổ của Trung Quốc mà về cơ bản đã hình thành một thể hệ hoàn chỉnh. Cùng với sự phát triển lịch sử, hệ thống chữ viết ngày càng trở nên hoàn thiện, nội hàm cũng ngày càng đa dạng và phong phú.

Về dụng cụ viết chữ (như dao, bút cứng, bút lông) và vật liệu viết chữ (như mai rùa, xương thú, đồng, gốm, đốt tre, thân cây, lụa, giấy v.v..) tất cả đều ảnh hưởng trực tiếp đến đường nét và hình dạng của chữ, cuối cùng đường nét được định hình lại thành các nét chấm, nét ngang, nét sổ, nét phảy, nét gập, nét hất, nét móc mà ngày nay chúng ta quen thuộc, mỗi chữ được viết trong một ô vuông. Trong thời kỳ này xuất hiện ba sự kiện quan trọng. Một là, Mông Điềm tạo ra bút lông, một công cụ viết chữ rất thuận tiện ra đời. Hai là, Thái Luân thời Đông Hán phát minh ra giấy, đã tạo thuận tiện cho việc ghi chép chữ. Ba là, kỹ thuật in ấn xuất hiện vào thời nhà Tống, giúp quy phạm thống nhất kiểu chữ và quy cách trình bày, khiến cho văn hóa được truyền bá ngày càng rộng rãi. Nhìn từ thể chữ mà nói, thì chữ viết đã trải qua một quá trình đại thể như sau: chữ giáp cốt, chữ kim, đại triện, tiểu triện, thảo thư, lệ thư, khải thư, hành thư. Mặc dù trên phương diện chữ viết có những thể chữ khác nhau, tuỳ từng địa phương lại có các cách đọc khác nhau đối với cùng một chữ, nhưng ý nghĩa của chữ viết vẫn tương đối ổn định, không thay đổi nhiều. Vì vậy đối với cùng một chữ thì con người đều có thể phân biệt và lý giải nó, nên không ảnh hưởng đến việc sử dụng chữ Hán ở các vùng khác nhau.

Nhìn từ bề mặt, thì chữ viết cũng dần dần tách khỏi hình tượng cụ thể ban đầu khi tạo chữ, bước vào quá trình phân loại hóa, trừu tượng hóa, nghĩa lý hóa. Đây là quá trình diễn hoá của chữ viết từ ngoài vào trong, từ hình tượng đến nghĩa lý. Nó liên quan chặt chẽ đến việc con người nhận thức đối với sự vật ngày càng phong phú và tư tưởng ngày càng phức tạp. Lâu nay, loại chữ viết này chủ yếu được sử dụng trong các dân tộc mà chủ thể là người Hán, nên được gọi là chữ Hán. Sự xuất hiện của khải thư là biểu tượng cho sự phát triển đỉnh cao của chữ Hán, lúc đó chữ Hán đã đạt được nội hàm phong phú, thần hình (nội dung và hình thức) đầy đủ, cách sử dụng chuẩn mực. Trong quá trình truyền thừa và dùng chữ Hán, người sử dụng từ quan lại đến bình dân, lại thêm yếu tố vùng miền khác nhau dẫn đến chữ Hán có những biến đổi khác nhau, từ đó xuất hiện các loại phương ngôn (ngôn ngữ địa phương), vì vậy chữ Hán cũng đã nhiều lần được chỉnh lý. Ví dụ, chữ đại triện được sử quan thời nhà Chu chỉnh lý hay chữ tiểu triện được Lý Tư chỉnh lý vào thời nhà Tần v.v.. Vào thời Đông Hán, Hứa Thận đã thu thập, chỉnh lý chữ Hán trên quy mô lớn và viết nên tác phẩm “Thuyết văn giải tự” để lưu truyền lại. Vào thời nhà Thanh, bộ “Khang Hy tự điển” được coi là tác phẩm kinh điển có quy mô rất lớn. Ảnh hưởng sâu rộng nhất là việc Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất thiên hạ đã quy định “Thư đồng văn” (lấy thể chữ tiểu triện của nhà Tần làm thể chữ thống nhất, bãi bỏ những thể chữ không hợp với văn tự nhà Tần), đưa ra chuẩn mực thống nhất cho việc sử dụng chữ Hán, quy định này có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với việc phát triển và truyền bá văn hóa Trung Hoa. Triều Đường là thời kỳ phát triển đỉnh cao của văn minh Trung Hoa, cũng là thời đại phát triển rực rỡ của các nhà thư pháp như Trữ Toại Lương, Âu Dương Tuân, Nhan Dương Khanh, Liễu Công Quyền. Những tác phẩm thư pháp của họ đã trở thành hình mẫu cho hậu nhân, thông qua các hình thức như bia văn, thư tín, thư thiếp, v.v.. đã lưu lại một lượng lớn các tác phẩm thư pháp, thể hiện được những đặc điểm trong quy tắc viết chữ Hán: nghiêm ngặt, cẩn trọng, liên kết chặt chẽ, tính thẩm mỹ cao, khiến cho con người cảm thán không ngớt. Ngày nay, khi xem những tác phẩm thư pháp này, dường như chúng ta vẫn thấy được phong thái lễ nghi của thời đại văn minh vĩ đại xưa kia, thấy được tinh, khí, thần chứa đựng cả vũ trụ thiên địa mà thời đại đó hàm chứa, thấy được những con người của thời đại đó quang minh, chính đại, thuần tịnh đứng trên mảnh đất Thần Châu. Chữ Hán thể hiện tinh thần của văn minh Trung Hoa, thể hiện phong cách của con dân xứ Thần Châu, thể hiện phong tục cổ xưa của nền văn minh 5000 Trung Hoa.

Thế nhưng vào thế kỷ trước, dưới sự tràn lan của tư tưởng vô thần, chữ Hán đã nhiều lần bị giản lược trên diện rộng mà trở nên biến dị. Quá trình truyền thừa nội hàm Thần tính, truyền thừa văn hóa truyền thống và quy phạm đạo đức truyền thống của văn minh Trung Hoa đã bị đứt đoạn. Đây là sự tàn phá mang tính hủy diệt đối với văn minh Trung Hoa. Một khi phủ định sự tồn tại của Thần, con người sẽ mất đi tín ngưỡng truyền thống, nền tảng đạo đức và sự ước thúc của lương tri. Chỉ qua mấy chục năm ngắn ngủi, đạo đức xã hội đã bước đến bờ vực của sự phá hủy toàn diện, một đất nước Trung Hoa lễ nghi chi bang được người đời kính trọng đã không còn, đã gần như biến mất khỏi ký ức của con cháu Viêm Hoàng. Chữ Hán bị mất đi Thần tính, văn hóa dân tộc cũng mất đi cội nguồn gắn với Thần, mất đi cốt cách nội hàm và thần thái đỉnh thiên lập địa, còn đâu ánh sáng huy hoàng rực rỡ. Khi văn tự của một dân tộc trở nên bại hoại, thì nền văn minh tương ứng chắc chắn cũng theo đó trở nên u ám và biến mất. Văn minh Trung Hoa đã bị “cắt đứt sinh mệnh” như vậy!

Việc khôi phục Thần tính của chữ Hán đã trở thành nhu cầu bức thiết để tìm về văn minh Trung Hoa truyền thống, thức tỉnh sinh cơ của dân tộc, tái hiện văn minh huy hoàng. Các dân tộc trên toàn thế giới hầu hết đều bắt đầu từ thần thoại, trong truyền thuyết của các dân tộc đều bảo lưu cùng một ký ức về trận đại hồng thủy trong thời kỳ thượng cổ: chính là nói rằng đại hồng thủy đã hủy diệt nhân loại đạo đức bại hoại của thời kỳ trước, sau khi trận đại hồng thuỷ huỷ diệt thế giới, nền văn minh mới lại được phát triển dưới sự trợ giúp của Thần, trở thành ký ức chung của các dân tộc. Trung Quốc có chuyện Bàn Cổ khai thiên tịch địa, Công Công húc đầu vào núi Bất Chu làm gãy trụ chống trời, Nữ Oa tạo ra con người, luyện đá vá trời, Hoàng Đế đại chiến với Xi Vưu, Đại Vũ trị thủy, và những câu chuyện thần thoại vô cùng phong phú khác. Phương Tây có truyền thuyết về Thượng đế tạo ra con người, con thuyền Noah, truyền thuyết tiên tri của Mosheh. Ở châu Mỹ lại có truyền thuyết của người Maya: “Thần đi rồi, Thần sẽ trở lại”. Quả thực là quá nhiều không đếm xuể. Các dân tộc trên thế giới ngẫu nhiên lại có cùng chung những truyền thuyết về trận đại hồng thủy vào thời thượng cổ, điều đó nói lên một số sự thật rằng: con người là do Thần tạo ra, Thần vì con người mà đặt ra những tiêu chuẩn làm người, nếu như con người sa đọa thì sẽ bị Trời diệt, văn minh của xã hội nhân loại luân hồi theo chu kỳ như vậy. Đồng thời điều này cũng chứng tỏ rằng: các dân tộc trên thế giới vào thời kỳ thượng cổ là thời đại nhân Thần cùng tồn tại. Trong mấy nghìn năm ngắn ngủi, nhân loại thời kỳ đầu chưa có khoa học như ngày nay, nhưng rất nhiều tri thức văn minh thượng cổ vượt xa nhận thức của con người hiện đại chính là Thần trực tiếp truyền thụ cho con người, ví như học thuyết về kinh mạch của Trung y, châm cứu, Thái cực, Hà đồ, Lạc thư, Chu dịch, Bát quái, tu luyện v.v… đều có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn minh Trung Hoa. Các dân tộc trên thế giới ngay từ thời đầu đều đã có tín ngưỡng vào Thần, tại những thời kỳ khác nhau ở phương Đông xuất hiện những tín ngưỡng đối với Thần và Đạo, ở Ấn Độ xuất hiện tín ngưỡng đối với Phật Thích Ca Mâu Ni, ở phương Tây xuất hiện tín ngưỡng đối với Thượng đế. Những chính tín vào Thần Phật chính thống này đã giúp cho đạo đức của xã hội nhân loại được duy trì trong suốt mấy nghìn năm, khiến con người không vì đạo đức suy đồi quá nhanh mà bị Thần đào thải. Thần tạo ra con người ở giữa trời và đất, con người được cấu thành từ những vật chất trong vũ trụ, vì vậy con người chính là một bộ phận của vũ trụ thiên địa. Từ xưa đến nay, vật đổi sao rời, chúng ta muốn biết được mối liên hệ giữa con người và Thần, giữa con người và vũ trụ thiên địa thế nào? Con người như thế nào mới được coi là người? Nếu con người chỉ đơn giản là sinh ra và chết đi, vậy thì con người làm sao thể nghiệm được ý nghĩa cuối cùng sự tồn tại của chính mình? Con người vẫn luôn đi tìm đáp án cho câu hỏi: Tôi từ đâu đến, sẽ đi về đâu? Và làm sao để đi về nơi đó?

Trong lịch sử từ xưa đến nay, rất nhiều người muốn thông qua giải mã chữ Hán, nghiên cứu những bí mật ở bên trong đó, hy vọng có thể có được đáp áp cho câu hỏi mà cả đời vất vả tìm kiếm. Ví như việc nghiên cứu quá trình lịch sử phát triển của chữ Hán, nghiên cứu đặc điểm âm, hình, ý của chữ Hán, nghiên cứu từ vựng phong phú của chữ Hán, nghiên cứu từ các mặt kinh tế, văn hoá v.v.. người ta đã triển khai rất nhiều công trình nghiên cứu từ các góc độ, phương diện khác nhau. Gần đây, còn xuất hiện phương thức nghiên cứu khảo cổ trong các ngôi mộ cổ và văn vật cổ. Mặc dù vậy, những nghi vấn từ trước vẫn không hoàn toàn có được câu trả lời hoàn hảo, ngược lại còn phát hiện ra càng nhiều những ẩn đố của lịch sử hơn nữa. Ví dụ như những văn vật khai quật được từ di chỉ Tam Tinh Đôi, những văn vật thể hiện cho đặc điểm của một nền văn minh độc đáo tìm thấy trong di chỉ này hoàn toàn không có mối liên hệ gì với các nền văn minh mà con người biết được trong thời điểm hiện tại. Nó dường như xuất hiện từ trên không trung vậy, nó ở nơi đó mà quan sát bộ mặt đầy vẻ ngỡ ngàng của con người hiện đại. Phương thức nhận thức theo chủ nghĩa thực chứng biểu tượng hóa của con người hiện đại dường như không có tác dụng trước di chỉ Tam Tinh Đôi. Nhưng khi thay đổi một góc nhìn khác chúng ta phát hiện rằng, Thần đã thông qua quá trình diễn hóa lịch sử mấy nghìn năm đem nội hàm Thần tính dung nhập vào trong chữ Hán, đồng thời truyền cấp chữ Hán cho con người để câu thông với thiên địa, nhân thần, vũ trụ và vạn sự vạn vật, rất có thể trong chữ Hán, Thần đã sớm ban cho con người tất cả các đáp án.

Những điều mà Thần truyền cấp cho con người là thể hiện của Thần tính, vô cùng thần thánh và mỹ hảo. Nếu con người rời xa Thần tính thì sẽ như người mù sờ voi, khó có thể nhìn thấy được bản chất chân chính đó. Chúng ta cần phải khiêm tốn, bắt đầu giải mã nội hàm Thần tính của chữ Hán từ trong bối cảnh lớn của lịch sử khi Thần khai sáng ra vũ trụ, từ đó mới có thể tìm ra nguồn gốc căn nguyên của ẩn đố chữ Hán, hiểu được căn nguyên vì sao con người lại làm người. Mỗi nét bút cấu thành nên chữ Hán chắc chắn sẽ là chìa khóa căn bản nhất và trực tiếp nhất để giải khai bí ẩn nghìn năm này. Khi giải mã Thần tính trong chữ Hán, chúng tôi phát hiện ra rằng chữ Hán đúng là thứ văn tự nồng hậu, hấp dẫn nhất thế giới, tràn đầy trí huệ vô lượng của Thần, tràn đầy sự từ bi và bảo hộ vô lượng của Thần đối với con người, tràn đầy sự che chở ấm áp của Thần đối với con người. Vào thời kỳ đầu sáng thế, Thần không chỉ dự liệu được trùng trùng khó khăn và nguy hiểm mà sinh mệnh có thể phải đối mặt, mà Thần còn chỉ cho con người phương thức thoát khỏi những nguy hiểm đó trong từng nét bút. Thần đã tận lực tất cả để khải ngộ con người, phúc âm của Thần truyền qua thời- không lịch sử lâu dài, từ thời viễn cổ đã không ngừng thức tỉnh con người trở về với Thần. Trầm luân trong hồng trần thế gian, con người đã trở nên hờ hững đến nỗi không còn nghe thấy, không còn nhìn thấy sự từ bi của Thần nữa. Vậy mà, Thần vẫn không từ bỏ hy vọng vào con người, vẫn không ngừng từ bi điểm ngộ giúp con người giải khai những mật mã lịch sử mà Thần từ lâu đã ẩn giấu bên trong chữ Hán, trải qua tất cả những khó khăn trong tu luyện để tìm thấy chìa khóa có thể khởi ngộ nhân tâm, từ đó con người một lần nữa lại có được cơ duyên giác ngộ…

Chỉ khi nhìn về thương khung thì những bí ẩn trong lịch sử nhân loại mới được giải khai; chỉ khi kính ngưỡng đối với Thần Phật thì những nguy nan của nhân loại mới được Thần từ bi hóa giải; Thương Hiệt tạo chữ, dùng từng nét chữ ghi chép một cách chân thực về văn minh nhân loại lần này từ thời ban sơ, giai đoạn lịch sử của dân tộc Trung Hoa thời thượng cổ. Năm tháng trôi qua, rất nhiều điều chân thật vào thời ban sơ đã biến mất trong ký ức của con người, tuy nhiên, chỉ cần chữ Hán vẫn còn tồn tại, chúng ta vẫn còn cơ hội thông qua từng nét mà tìm lại vũ trụ thiên địa, con người và sự việc trong giai đoạn lịch sử đó, trong chính kiến tái hiện quang minh. Chữ Hán là mật mã của văn minh phương Đông, giải mã chữ Hán sẽ lý giải được thiên cơ của vũ trụ, hiển lộ được căn nguyên của Thần tính trong văn minh phương Đông, phục hưng truyền thống và văn hóa Thần truyền, vùng đất Thần Châu đại địa sẽ chào đón một kỷ nguyên mới sinh cơ bừng bừng. Chúng ta hãy bắt đầu bàn từ vũ trụ, thiên địa và con người!

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/267516

The post Mật mã phương Đông (Quyển 1 – Lời mở đầu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Tiếu đàm phong vânhttps://chanhkien.org/2021/10/loat-bai-tieu-dam-phong-van.htmlSat, 09 Oct 2021 07:39:14 +0000https://chanhkien.org/?p=27939Tác giả: Chương Thiên Lượng Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 1 Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 2 Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 3 Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 4 Tập 2 – Tai họa bất ngờ – phần 1 […]

The post Loạt bài: Tiếu đàm phong vân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chương Thiên Lượng

Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 1

Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 2

Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 3

Tập 1 – Phong vân khó lường – phần 4

Tập 2 – Tai họa bất ngờ – phần 1

Tập 2 – Tai họa bất ngờ – phần 2

Tập 2 – Tai họa bất ngờ – phần 3

Tập 2 – Tai họa bất ngờ – phần 4

Tập 3 – Ma nạn trùng trùng- phần 1

Tập 3 – Ma nạn trùng trùng- phần 2

Tập 3 – Ma nạn trùng trùng- phần 3

Tập 4 – Kinh văn vĩ vũ – phần 1

Tập 4 – Kinh văn vĩ vũ – phần 2

Tập 4 – Kinh văn vĩ vũ – phần 3

Tập 5 – Binh gia Tôn Vũ – phần 1

Tập 5 – Binh gia Tôn Vũ – phần 2

Tập 5 – Binh gia Tôn Vũ – phần 3

Tập 6 – Khoái ý ân cừu – phần 1

Tập 6 – Khoái ý ân cừu – phần 2

Tập 6 – Khoái ý ân cừu – phần 3

Tập 7 – Thạch ốc nuôi ngựa – phần 1

Tập 7 – Thạch ốc nuôi ngựa – phần 2

Tập 7 – Thạch ốc nuôi ngựa – phần 3

Tập 8 – Ngô Việt Tranh Bá -phần 1

Tập 8 – Ngô Việt Tranh Bá -phần 2

Tập 8 – Ngô Việt Tranh Bá -phần 3

Tập 8 – Ngô Việt Tranh Bá -phần 4

Tập 9 – Tam gia phân tấn – phần 1

Tập 9 – Tam gia phân tấn – phần 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

The post Loạt bài: Tiếu đàm phong vân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nhật ký tu luyện (Tiểu Mai)https://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nhat-ky-tu-luyen-tieu-mai.htmlTue, 09 Mar 2021 18:00:52 +0000https://chanhkien.org/?p=27291Tác giả: Tiểu Mai [Chanhkien.org]   Nhật ký tu luyện: Một thời thơ ấu khác thường Nhật ký tu luyện: Những thay đổi trong thân thể tôi Nhật ký tu luyện: Một mối quan hệ tiền duyên Nhật ký tu luyện: Chiếc thẻ xanh huyền diệu Nhật ký tu luyện: Người hùng của con trai

The post Loạt bài: Nhật ký tu luyện (Tiểu Mai) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Mai

[Chanhkien.org]

 

Nhật ký tu luyện: Một thời thơ ấu khác thường

Nhật ký tu luyện: Những thay đổi trong thân thể tôi

Nhật ký tu luyện: Một mối quan hệ tiền duyên

Nhật ký tu luyện: Chiếc thẻ xanh huyền diệu

Nhật ký tu luyện: Người hùng của con trai

The post Loạt bài: Nhật ký tu luyện (Tiểu Mai) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nhật ký tu luyện (Kim Cang Tiếu)https://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nhat-ky-tu-luyen-kim-cang-tieu.htmlTue, 09 Mar 2021 17:58:23 +0000https://chanhkien.org/?p=27290Tác giả: Kim Cang Tiếu [Chanhkien.org]   Nhật ký tu luyện: Thần trông coi thời gian ôi, xin cho tôi thêm thời gian! Nhật ký tu luyện: Đồng tu, phần Thần mau tỉnh lại đi! Nhật ký tu luyện: Một ngày bình thường Nhật ký tu luyện: Tại sao coi cuộc bức hại này quá […]

The post Loạt bài: Nhật ký tu luyện (Kim Cang Tiếu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Kim Cang Tiếu

[Chanhkien.org]

 

Nhật ký tu luyện: Thần trông coi thời gian ôi, xin cho tôi thêm thời gian!

Nhật ký tu luyện: Đồng tu, phần Thần mau tỉnh lại đi!

Nhật ký tu luyện: Một ngày bình thường

Nhật ký tu luyện: Tại sao coi cuộc bức hại này quá nghiêm trọng?

Nhật ký tu luyện: Mọi thứ đều là sự phản ánh tâm tính của chúng ta

Nhật ký tu luyện: Những thứ không nhìn thấy là có tồn tại

Nhật ký‎ ‎tu luyện: Thiên mục và công năng

Nhật ký tu luyện: Dùng chính niệm để diệt trừ tà ác và cứu độ chúng sinh

Nhật ký tu luyện: Một học viên nên nhìn sự việc bằng chính niệm

Nhật ký tu luyện: Thế Vận Hội, ai quan tâm?

Nhật ký tu luyện: Thăng tiến trong việc giảng sự thật

Nhật ký tu luyện: Chúng ta là một chỉnh thể, không phải là các cá nhân đơn lẻ

Nhật ký tu luyện: Uy đức và lòng từ bi của một vị Thần

Nhật ký tu luyện: Danh, lợi, tình trên con đường tu luyện

Nhật ký tu luyện: Những người đang bị tà ác điều khiển, xin tỉnh thức!

The post Loạt bài: Nhật ký tu luyện (Kim Cang Tiếu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Tu luyện bút kýhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-tu-luyen-but-ky.htmlTue, 09 Mar 2021 17:54:00 +0000https://chanhkien.org/?p=27289Tác giả: Thiên Chân [Chanhkien.org]   Tu luyện bút ký: Chia sẻ về việc học Pháp Tu luyện bút ký: Lơ đễnh và buồn ngủ Tu luyện bút ký: Khảo nghiệm sinh tử

The post Loạt bài: Tu luyện bút ký first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Chân

[Chanhkien.org]

 

Tu luyện bút ký: Chia sẻ về việc học Pháp

Tu luyện bút ký: Lơ đễnh và buồn ngủ

Tu luyện bút ký: Khảo nghiệm sinh tử

The post Loạt bài: Tu luyện bút ký first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Gia đình thần tiên của Na Nahttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-gia-dinh-than-tien-cua-na-na.htmlTue, 09 Mar 2021 17:13:23 +0000https://chanhkien.org/?p=27287  Tác giả: Dương Ninh [Chanhkien.org]   Gia đình thần tiên của Na Na: (Phần 1) Mở đầu Gia đình thần tiên của Na Na: (Phần 2) Mọi thứ trên thiên giới đều dùng Đức để trao đổi Gia đình thần tiên của Na Na: (Phần 3) Bối Bối, tiểu anh hài

The post Loạt bài: Gia đình thần tiên của Na Na first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
 

Tác giả: Dương Ninh

[Chanhkien.org]

 

Gia đình thần tiên của Na Na: (Phần 1) Mở đầu

Gia đình thần tiên của Na Na: (Phần 2) Mọi thứ trên thiên giới đều dùng Đức để trao đổi

Gia đình thần tiên của Na Na: (Phần 3) Bối Bối, tiểu anh hài

The post Loạt bài: Gia đình thần tiên của Na Na first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháphttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-trai-nghiem-trong-dinh-hien-trang-cac-sinh-menh-phan-boi-dai-phap.htmlTue, 09 Mar 2021 17:09:57 +0000https://chanhkien.org/?p=27286Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương thuật lại [Chanhkien.org]   Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp (1) Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp (2) Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp (3)

The post Loạt bài: Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương thuật lại

[Chanhkien.org]

 

Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp (1)

Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp (2)

Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp (3)

The post Loạt bài: Trải nghiệm trong định: Hiện trạng các sinh mệnh phản bội Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phươnghttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-chia-se-kinh-nghiem-tu-luyen-cua-tieu-de-tu-tay-phuong.htmlTue, 09 Mar 2021 17:07:27 +0000https://chanhkien.org/?p=27284Tác giả: Viết lại bởi cha của tiểu đệ tử Tây phương [ChanhKien.org]   Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương (1/4)  Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương (2/4)  Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương […]

The post Loạt bài: Chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Viết lại bởi cha của tiểu đệ tử Tây phương

[ChanhKien.org]

 

Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương (1/4) 

Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương (2/4) 

Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương (3/4) 

Bài chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương (4/4) 

The post Loạt bài: Chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của tiểu đệ tử Tây phương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục https://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-trai-nghiem-trong-dinh-luyen-nguc.htmlTue, 09 Mar 2021 17:03:49 +0000https://chanhkien.org/?p=27283Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương thuật lại, đồng tu phiên dịch và chỉnh lý [ChanhKien.org]   Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục  (1) Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục (2)

The post Loạt bài: Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục  first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương thuật lại, đồng tu phiên dịch và chỉnh lý

[ChanhKien.org]

 

Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục  (1)

Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục (2)

The post Loạt bài: Trải nghiệm trong định: Luyện Ngục  first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thểhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-giang-trach-dan-dan-ap-phap-luan-cong-khien-dcstq-giai-the.htmlTue, 09 Mar 2021 16:56:50 +0000https://chanhkien.org/?p=27281Tác giả: The Epoch Times [Chanhkien.org]   Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (1): Nguyên nhân Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (2): Vụ lừa dối thế kỷ Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (3): Vàng đen […]

The post Loạt bài: Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: The Epoch Times

[Chanhkien.org]

 

Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (1): Nguyên nhân

Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (2): Vụ lừa dối thế kỷ

Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (3): Vàng đen

Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (4): Kỵ hổ nan hạ hổ

Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể (5): Ngày giải thể đến gần

The post Loạt bài: Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công khiến ĐCSTQ giải thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồnghttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-dieu-nhin-thay-khi-thien-dinh-dai-chien-voi-bo-xuong-rong.htmlMon, 08 Mar 2021 19:08:41 +0000https://chanhkien.org/?p=27280Tác giả: Long Phượng Trình Tường [Chanhkien.org]   Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng (1) Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng (2) Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng (3)

The post Loạt bài: Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Long Phượng Trình Tường

[Chanhkien.org]

 

Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng (1)

Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng (2)

Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng (3)

The post Loạt bài: Điều nhìn thấy khi thiền định: Đại chiến với bộ xương rồng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian kháchttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-dieu-ma-mot-hoc-vien-tay-phuong-nhin-thay-tai-khong-gian-khac.htmlMon, 08 Mar 2021 19:06:19 +0000https://chanhkien.org/?p=27279Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương [Chanhkien.org]     Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (1) Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (2) Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (3) Điều […]

The post Loạt bài: Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương

[Chanhkien.org]

 

 

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (1)

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (2)

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (3)

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (4)

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (5)

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (6)

Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác (7)

The post Loạt bài: Điều mà một học viên Tây phương nhìn thấy tại không gian khác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sửhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-quan-diem-cua-toi-ve-mot-so-an-bai-trong-lich-su.htmlMon, 08 Mar 2021 19:01:24 +0000https://chanhkien.org/?p=27278Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Washington D.C. [Chanhkien.org]    Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sử (Phần 1)Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sử (Phần 2)

The post Loạt bài: Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Washington D.C.

[Chanhkien.org] 

 

Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sử (Phần 1)
Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sử (Phần 2)

The post Loạt bài: Quan điểm của tôi về một số an bài trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Ghi chép cuộc sốnghttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-ghi-chep-cuoc-song.htmlMon, 08 Mar 2021 18:57:48 +0000https://chanhkien.org/?p=27277  Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org]   Ghi chép cuộc sống: Lời mở đầu Ghi chép cuộc sống: Tiếng trống trận uy phong Ghi chép cuộc sống: Con đường trở về Trời Ghi chép cuộc sống: Trời bảo vệ Trung Hoa Ghi chép cuộc sống: Câu chuyện về sự nhẫn nhịn Ghi chép cuộc sống: […]

The post Loạt bài: Ghi chép cuộc sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
 

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

 

Ghi chép cuộc sống: Lời mở đầu

Ghi chép cuộc sống: Tiếng trống trận uy phong

Ghi chép cuộc sống: Con đường trở về Trời

Ghi chép cuộc sống: Trời bảo vệ Trung Hoa

Ghi chép cuộc sống: Câu chuyện về sự nhẫn nhịn

Ghi chép cuộc sống: Đại Vũ trị thủy

 

The post Loạt bài: Ghi chép cuộc sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Trần duyên nhã tưhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-tran-duyen-nha-tu.htmlMon, 08 Mar 2021 18:54:25 +0000https://chanhkien.org/?p=27276Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org]   Trần duyên nhã tư: Giữ mãi thanh xuân Trần duyên nhã tư: Phiêu bạt nơi chân trời Trần duyên nhã tư: Tận hưởng sự cô đơn Trần duyên nhã tư: Thành tâm thành ý Trần duyên nhã tư: Mỉm cười trong cõi hồng trần Trần duyên nhã tư: Học […]

The post Loạt bài: Trần duyên nhã tư first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

 

Trần duyên nhã tư: Giữ mãi thanh xuân

Trần duyên nhã tư: Phiêu bạt nơi chân trời

Trần duyên nhã tư: Tận hưởng sự cô đơn

Trần duyên nhã tư: Thành tâm thành ý

Trần duyên nhã tư: Mỉm cười trong cõi hồng trần

Trần duyên nhã tư: Học cách trân quý

The post Loạt bài: Trần duyên nhã tư first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Ai khống chế sinh mệnh con ngườihttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-ai-khong-che-sinh-menh-con-nguoi.htmlMon, 08 Mar 2021 18:49:32 +0000https://chanhkien.org/?p=27275Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [Chanhkien.org]   Ai khống chế sinh mệnh con người — Phần I Ai khống chế sinh mệnh con người—Phần II

The post Loạt bài: Ai khống chế sinh mệnh con người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org]

 

Ai khống chế sinh mệnh con người — Phần I

Ai khống chế sinh mệnh con người—Phần II

The post Loạt bài: Ai khống chế sinh mệnh con người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Chúng ta là mù màu?https://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-chung-ta-la-mu-mau.htmlMon, 08 Mar 2021 18:48:22 +0000https://chanhkien.org/?p=27274Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Mỹ [Chanhkien.org]   Chúng ta là mù màu? (I) Chúng ta là mù màu? (II) Chúng ta là mù màu? (III)  

The post Loạt bài: Chúng ta là mù màu? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Mỹ

[Chanhkien.org]

 

Chúng ta là mù màu? (I)

Chúng ta là mù màu? (II)

Chúng ta là mù màu? (III)

 

The post Loạt bài: Chúng ta là mù màu? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốchttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nguyen-ly-8020-y-nghia-va-nguon-goc.htmlMon, 08 Mar 2021 18:46:42 +0000https://chanhkien.org/?p=27273Tác giả: Tiểu Nham [Chanhkien.org]   Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 1) Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 2) Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 3) Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 4) Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần […]

The post Loạt bài: Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Nham

[Chanhkien.org]

 

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 1)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 2)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 3)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 4)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 5)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 6)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 7)

Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 8)

The post Loạt bài: Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡnghttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-dcstq-dung-thuyet-vo-than-de-buc-hai-tu-do-tin-nguong.htmlMon, 08 Mar 2021 18:45:07 +0000https://chanhkien.org/?p=27272Tác giả: Âu Dương Phi, bình luận viên Minh Huệ “Thẩm phán của thiên sứ”, tranh của Uông Vệ Tinh [Chanhkien.org]   ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (1) ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (2) ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức […]

The post Loạt bài: ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Âu Dương Phi, bình luận viên Minh Huệ

“Thẩm phán của thiên sứ”, tranh của Uông Vệ Tinh

[Chanhkien.org]

 

ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (1)

ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (2)

ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng (3)

 

The post Loạt bài: ĐCSTQ dùng “thuyết vô thần” để bức hại tự do tín ngưỡng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nhân sinh cảm ngộhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nhan-sinh-cam-ngo.htmlMon, 08 Mar 2021 18:43:21 +0000https://chanhkien.org/?p=27271Tác giả: Quán Minh [Chanhkien.org]   Nhân sinh cảm ngộ: Trừ bỏ dục vọng Nhân sinh cảm ngộ: Cười như những đóa hoa Nhân sinh cảm ngộ: Lòng biết ơn là một mỹ đức Nhân sinh cảm ngộ: Minh sư như đèn sáng Nhân sinh cảm ngộ: Người tu luyện là ánh vàng kim trong […]

The post Loạt bài: Nhân sinh cảm ngộ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quán Minh

[Chanhkien.org]

 

Nhân sinh cảm ngộ: Trừ bỏ dục vọng

Nhân sinh cảm ngộ: Cười như những đóa hoa

Nhân sinh cảm ngộ: Lòng biết ơn là một mỹ đức

Nhân sinh cảm ngộ: Minh sư như đèn sáng

Nhân sinh cảm ngộ: Người tu luyện là ánh vàng kim trong vũ trụ

Nhân sinh cảm ngộ: Tâm thuần thiện chuyển thù thành bạn

Nhân sinh cảm ngộ: Ngọn đèn bất diệt trong tâm

Nhân sinh cảm ngộ: Thế giới rộng mở khi ta buông bỏ tự ngã

Nhân sinh cảm ngộ: Quân tử không che giấu khuyết điểm

Nhân sinh cảm ngộ: Có mất ắt có được

Nhân sinh cảm ngộ: Hành vi phản ánh nhân tâm

Nhân sinh cảm ngộ: Tâm tật đố hại mình hại người

Nhân sinh cảm ngộ: Từ bi là cao thượng nhất trên thế gian

Nhân sinh cảm ngộ: Giữ vững cao quý trong tâm

Nhân sinh cảm ngộ: Tự trách mình hay trách người khác

The post Loạt bài: Nhân sinh cảm ngộ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Mạn đàm về nền khoa học mớihttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-man-dam-ve-nen-khoa-hoc-moi.htmlMon, 08 Mar 2021 18:42:05 +0000https://chanhkien.org/?p=27270Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [Chanhkien.org] Mạn đàm về nền khoa học mới (Phần 1) Mạn đàm về nền khoa học mới (Phần 2)  

The post Loạt bài: Mạn đàm về nền khoa học mới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org]

Mạn đàm về nền khoa học mới (Phần 1)

Mạn đàm về nền khoa học mới (Phần 2)

 

The post Loạt bài: Mạn đàm về nền khoa học mới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Thế giới khác trong một giọt nướchttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc.htmlMon, 08 Mar 2021 18:38:25 +0000https://chanhkien.org/?p=27269[Chanhkien.org]   Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 1) Cuộc phỏng vấn với tiến sĩ Masaru Emoto Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sống Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 3) Lời bình luận của nhà vật lý về khám phá tinh thể […]

The post Loạt bài: Thế giới khác trong một giọt nước first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

 

Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 1) Cuộc phỏng vấn với tiến sĩ Masaru Emoto

Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sống

Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 3) Lời bình luận của nhà vật lý về khám phá tinh thể nước phản ánh tư tưởng

Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 4) Những hình ảnh mỹ lệ và bí ẩn

Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 5) Ấn tượng từ nước suối

Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 6) Nước chảy và nước tĩnh

The post Loạt bài: Thế giới khác trong một giọt nước first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sửhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-tranh-ve-trong-hang-da-thoi-tien-su.htmlMon, 08 Mar 2021 18:36:20 +0000https://chanhkien.org/?p=27268Tác giả: Xue Jing [Chanhkien.org]   Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử (Phần 1) Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử (Phần 2) Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử (Phần 3)

The post Loạt bài: Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Xue Jing

[Chanhkien.org]

 

Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử (Phần 1)

Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử (Phần 2)

Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử (Phần 3)

The post Loạt bài: Tranh vẽ trong hang đá thời tiền sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Vén bức màn văn minh tiền sửhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-ven-buc-man-van-minh-tien-su.htmlMon, 08 Mar 2021 18:34:10 +0000https://chanhkien.org/?p=27267Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến [Chanhkien.org]    Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 2) Dấu chân tiền sử Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 3) Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ tiền sử Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 4) Hoạt động hàng […]

The post Loạt bài: Vén bức màn văn minh tiền sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến


[Chanhkien.org] 

 

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 2) Dấu chân tiền sử

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 3) Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ tiền sử

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 4) Hoạt động hàng không của người tiền sử

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 6) Những di tích dưới đáy đại dương

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 7) Những phát hiện khảo cổ đủ để thay đổi sách giáo khoa hiện đại

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 11) Dầu mỏ và Thuyết Tiến hóa

The post Loạt bài: Vén bức màn văn minh tiền sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cốihttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi.htmlMon, 08 Mar 2021 18:29:01 +0000https://chanhkien.org/?p=27266Tác giả: Ben Bendig [ChanhKien.org]   Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cối (1) Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cối (2)

The post Loạt bài: Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cối first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ben Bendig

[ChanhKien.org]

 

Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cối (1)

Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cối (2)

The post Loạt bài: Tri giác nguyên sinh – Đời sống bí mật của cây cối first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>