Tác giả: Thoại Bản tiên sinh
[ChanhKien.org]
Trương Hữu Nhân vừa nhìn thấy phu nhân khóc như mưa như gió thì cuống cuồng không biết phải làm sao.
“Ây chà chà! Chà chà… Phu nhân… phu nhân nàng sao lại khóc vậy a…”
Dương Hồi không trả lời, hai hàng nước mắt cứ thế lăn xối xả trên đôi gò má ngọc ngà.
“Ây da, ây dà, đều là lỗi của ta cả, là lỗi của ta… phu nhân nàng đừng khóc nữa, nàng cứ đánh ta, mắng ta đi!” Trương Hữu Nhân hoảng quá rối rít dỗ dành.
“Chàng vừa rồi nói là thế nào? Chẳng lẽ thiếp còn chưa dốc lòng tận sức hay sao?! Chàng lại sỉ nhục thiếp như thế! Hu hu hu…” Dương Hồi vừa khóc nức nở vừa kể lể trách than.
“Ây da, ây dà, là tại ta… tại ta… ta có lỗi, ta có lỗi rồi… phu nhân đừng khóc nữa mà…” Trương Hữu Nhân vừa rối rít xin lỗi vừa dùng tay vỗ vỗ vào miệng của mình.
Lúc này, A Đào A Mặc đứng ở ngoài cửa đang ngây người giương mắt trân trân nhìn họ hồi lâu, thập phần khó hiểu. A Đào không nhịn được nữa buột miệng hỏi:
“Lão gia, phu nhân, các vị làm sao vậy?”
Dương Hồi và Trương Hữu Nhân nghe thấy có người ngoài cửa, lập tức đồng thanh, không hẹn cùng quát to:
“Đi ra!”
A Đào, A Mặc sợ quá vội vàng chạy mất.
Căn phòng bỗng chốc im ắng trở lại.
Trương Hữu Nhân rót một tách trà, đưa cho Dương Hồi.
Dương Hồi không nhận, giận dỗi quay đầu sang hướng khác. Trương Hữu Nhân lại vòng sang hướng đó, đưa trà cho cô.
Cô nhìn tách trà, quả thực cũng có chút khát nước, liền cầm lấy tách trà uống một hơi.
Trương Hữu Nhân cười nói:
“Phu nhân hết giận rồi chứ?”
Dương Hồi không trả lời.
Lúc này, Tịnh Nhi lên mời hai người xuống ăn cơm. Thấy mắt phu nhân đỏ hoe, còn sắc mặt của lão gia có phần ngượng ngùng gượng gạo, cô định quay người đi xuống, nhưng lại nghe Dương Hồi hỏi:
“Có chuyện gì à?”
“Ừm… đến giờ ăn rồi”. Tịnh Nhi nói xong bèn hấp tấp rảo bước rời đi.
Dương Hồi đi xuống lầu.
Trương Hữu Nhân đến từ đường, quỳ dưới bài vị thiên địa, lặng lẽ tự vấn về lỗi lầm của bản thân…
Dương Hồi cũng đang suy ngẫm lại, cô nghĩ:
“Gần đây mình bận rộn các việc, quên tu tâm tính, cho nên mọi việc mới không được suôn sẻ. Nếu không tu tâm tính, chẳng những tâm tính sẽ giáng hạ xuống thành người thường, mà ngay cả năng lượng của bản thân cũng sẽ giáng hạ mà trở thành người thường. Người thường năng lượng rất thấp, cho nên làm việc gì cũng sẽ gặp trắc trở can nhiễu…”
Trương Hữu Nhân đang quỳ trong từ đường, nghe thấy một vị Thần nói:
“Chẳng phải ngài đang tu nhẫn sao? Sao không tu cho cô ấy nữa? Bụng dạ ngài vẫn hẹp hòi lắm đó”.
…..
Một hôm, Phong Tiềm đang nghỉ ngơi trong cốc thì có tiểu đồng đến báo:
“Thượng thần, ngoài cửa có vị khách tới”.
Phong Tiềm từ từ mở mắt ra, hỏi:
“Ai vậy?”
Tiểu đồng đáp:
“Ngài ấy nói ngài ấy là Trương Hữu Nhân ở ốc đảo Trương Gia”.
Phong Tiềm vừa nghe thấy vậy liền tỉnh táo hẳn, ngẫm nghĩ một lát, rồi xỏ giày tất, mặc thêm áo khoác và nói:
“Mời ngài ấy đến trước đình ngồi nghỉ ngơi đi”.
“Trương lão gia, Thượng Thần nhà tôi có lời mời ngài”.
Trương Hữu Nhân vừa bước vào sân, mùi hương hoa cúc thơm ngào ngạt tỏa khắp sân đình. Ở giữa hồ trong làn nước xanh biếc màu ngọc bích tọa lạc mấy căn nhà tranh, lũ quạ xám đang đùa giỡn trong làn nước, bên cạnh hồ nước xanh biếc này lại là một rừng trúc xanh mướt mắt.
Anh ngồi trong một khoảng đình tao nhã. Bên cạnh đình có năm cây liễu lớn, chiếc đàn ngũ huyền cầm dựng tựa vào cây liễu.
Một lát sau, tiểu đồng bưng trà và món ăn nhẹ lên. Món ăn này có hình thức rất tinh tế đẹp mắt với hương thơm nhè nhẹ ngọt ngào, nước trà cũng thơm phức.
Trương Hữu Nhân đang nhấp trà bỗng nghe thấy tiếng đàn tranh vang lên, liền quay đầu nhìn, thấy một vị tiên sinh dáng vẻ nho nhã, vận bộ y suôn rộng, mái tóc dài đen như mực, đang ngồi dưới gốc liễu gảy đàn — người ấy chính là Phong Tiềm. Chỉ nghe anh ta vừa đàn vừa hát rằng:
“Thiên khung xanh thẳm ~ nhật nguyệt xoay vần ~
Cá Kình chim Phượng ~ đầm lớn ngụ cư ~
Biếc xanh sóng nước ~ tạ đình tiêu dao ~
Cúc vàng quanh cốc ~ tổ lạnh quạ hoang ~”
Trương Hữu Nhân đứng dậy, đi đến bên cạnh Phong Tiềm, chắp tay chào:
“Tiên sinh quả nhiên tài hoa xuất chúng”.
Phong Tiềm chậm rãi ngẩng đầu lên, nhưng lại mau chóng quỳ xuống, chắp tay hành lễ bái chào Trương Hữu Nhân.
Trương Hữu Nhân thấy Phong Tiềm thi lễ với mình trang trọng như vậy liền vội vàng đỡ dậy, nói:
“Nay ta đến tìm Thượng Thần là nhờ Thượng Thần trợ giúp ta một việc, lại thấy Thượng Thần hành lễ trịnh trọng như này với ta là vì sao?”
Phong Tiềm đáp:
“Một lạy này không phải vì sự việc hôm nay, mà là vì đời trước”.
Trương Hữu Nhân đỡ Phong Tiềm dậy, nói:
“Tiền trần vãng sự, chuyện xưa cảnh cũ, theo gió bay đi, huynh đài đừng bận tâm nữa”.
Thực ra, mãi đến ngày Trương Hữu Nhân và Dương Hồi cử hành đại lễ thành hôn, khắp nơi mới biết chuyện, và Phong Tiềm lúc đó cũng mới biết về lai lịch của A Trạch năm xưa.
Họ biết rằng vị Thiên đế kế vị tiếp theo trong Tam giới chính là Trương Hữu Nhân. Một số vị Thần biết về lai lịch của Trương Hữu Nhân và Dương Hồi, nhưng mãi đến khi họ cử hành một màn hôn lễ long trọng này, nhằm đặt định nền móng văn hóa hôn nhân cho đời sau, thì các vị Thần lúc đó mới tiết lộ nguồn gốc lai lịch của hai người.
Và Phong Tiềm mới biết rằng “Dao Chân” chính là Tây Vương Mẫu.
Cho đến bí mật về sự xuất hiện của chúng sinh trong Tam giới cách đây 130 triệu năm về trước, cũng là sau khi Trương Hữu Nhân kế vị ngôi Thiên đế trong Tam giới thì mới được công khai nói rõ ra.
Một số người có thể sẽ thắc mắc: Tại sao khi Dao Chân còn là Tư Pháp Thiên Thần, các vị Thần quan lúc đó, bao gồm cả Dao Chân, lại dường như hoàn toàn không biết sứ mệnh của bản thân và ý nghĩa chân chính của việc họ đến Tam giới này?
Bởi vì dùng thời gian ở Tam giới mà tính, đã quá xa xưa, chân tướng từ viễn cổ này, trong dòng sông thời gian đằng đẵng, trong sự luân hồi của chúng sinh, và trong sự hoán dời luân chuyển của các vị Thần chủ tể cai quản thiên địa đã dần dần bị mai một lãng quên.
Vào thời điểm đó, hơn 100 triệu năm trước, hầu hết các vị Thần quan tham gia vào bữa thịnh yến chấn động kia, đại đa số đều đã qua đời, và hầu hết trong số họ hiện nay đang nhập vai diễn dịch nhân vật của mình.
Ví như Tây Vương Mẫu Dao Khôn, một trong những vai diễn của cô là Tư Pháp Thiên Thần. Vậy với thân phận là Tư Pháp Thiên Thần – Dao Chân, bản thân cô khi ở trong vai diễn, cũng không hề biết được chân tướng. Mà vào lúc đó phần lớn các Thần quan ở trong các vai diễn của mình đều đã bị phong bế ký ức mà ở trong mê.
Nhưng cả Dương Hồi và Trương Hữu Nhân trong quá trình tu luyện của mình ở ốc đảo Trương Gia, những bí ẩn này một lần nữa lại được hiển lộ ra cho hai người họ. Những vị khách trong Tam giới, mục đích chân chính của họ khi đến Tam giới – ở trong cao tầng nơi Tam giới – một lần nữa sẽ lại được tiết lộ ra. Như vậy, chư Thần mới có thể ở trong hàng ngàn vạn năm cuối cùng này, đã toàn lực để diễn giải trọn vẹn nền văn minh của mảnh đất Thần Châu.
Mà hết thảy những diễn giải và sự đặt định này đều vì đoạn cuối cùng của cuối cùng này, giúp chúng sinh ở mức độ cao nhất đắc được Đại Pháp.
Phong Tiềm và Trương Hữu Nhân cùng nhau trò chuyện. Trương Hữu Nhân đến lần này, mục đích trên hết là để mời Phong Tiềm đến ốc đảo Trương Gia truyền dạy văn hóa.
Phong Tiềm nói:
“Trương Hữu Nhân đích thân đến mời ta, ta lại có thể không đi sao?”
Vì vậy, sau đó, Phong Tiềm đến ốc đảo Trương Gia đảm nhận chức vụ văn sư.
Sau đó, Trương Hữu Nhân lại đến thăm hỏi các Tiên gia bằng hữu, mong muốn họ bố trí để đến ốc đảo Trương Gia diễn dịch văn hóa.
Bởi vì công năng và ký ức của Dương Hồi đã ở trong trạng thái bị khóa, nên cách nhìn nhận của cô đối với mọi việc cũng giống như người thường. Cô và Trương Hữu Nhân, một người là tu luyện trong trạng thái bị khóa còn người kia tu luyện trong trạng thái mở, cho nên tư duy và phương thức suy xét vấn đề của họ không hề giống nhau.
Trương Hữu Nhân có bản sự, nguyên thần có thể ly thể, lại có công năng túc mệnh thông, đi nhiều biết rộng. Còn Dương Hồi thì ngay cả đằng vân cũng không biết.
Một ngày nọ, Dương Hồi hỏi Trương Hữu Nhân:
“Chàng đã bôn ba khắp tứ châu, đi tìm Tiên nhân đến ốc đảo Trương Gia truyền thụ Thiên đạo, nhưng Thiên đạo này làm sao có thể truyền nhập được xuống thế gian đây?”
Trương Hữu Nhân đáp:
“Sau khi chế độ được hoàn thiện, ta sẽ viết sách cho Chu thiên tử, để Chu thiên tử truyền ra thiên hạ và đến hậu thế đời sau”.
Dương Hồi nói:
“Thiếp có ý tưởng muốn nói với chàng”.
“Phu nhân hãy nói đi”.
“Tuy nói con dân của ốc đảo Trương Gia chỉ là bách tính thường dân, nhưng kỳ thực họ là những sinh linh nơi thượng giới. Chúng ta mời các Tiên hữu, cũng chính là các vị Thần minh đến trợ giúp. Hình thức văn hóa diễn giải ở ốc đảo Trương Gia này có phải đang quá cao siêu không? Có phải nó đang không phù hợp lắm với họ khi là phàm nhân rồi?”
Trương Hữu Nhân nghe vậy thì đăm chiêu suy nghĩ, nói:
“Nhưng nếu muốn để con người nơi đây đều có thể đắc Pháp thì đạo đức của thế gian tất phải cao siêu, như vậy tiêu chuẩn nền tảng đạo đức được đặt định ban đầu ắt phải cao siêu hơn nữa. Đạo mà ốc đảo Trương Gia đang thi hành, cần lưu lại để Đại Chu đảm nhiệm, cần lưu lại cho hậu thế, như vậy, tiêu chuẩn nơi ốc đảo Trương Gia này nhất định phải cao.
Nhưng quả thật như phu nhân nói, e rằng ý chí của phàm nhân không theo lên kịp”.
Dương Hồi lại nói:
“Vậy sao không làm thế này đi, chúng ta và Tây Kỳ, mỗi năm hãy chọn ra một bộ phận người dân để trao đổi hai bên. Mấy năm sau, lại đổi lại, để xem tâm, trí, đức, hành của hai nhóm người này biến đổi thế nào, rồi mới có thể cân nhắc ưu khuyết điểm của văn hóa chúng ta định truyền. Chàng thấy thế nào?”
Trương Hữu Nhân mừng rỡ gật đầu lia lịa, tấm tắc khen:
“Ý này của phu nhân tuyệt vời quá. Như vậy, Thiên đạo của Thần và văn hóa của con người mới có thể khéo léo dung hòa. Không chỉ các vị Thần có thể trực tiếp truyền xuống văn hóa, mà còn để con người có thể tiếp tục kế thừa mà không bị phá mê. Quả là phu nhân suy nghĩ chu đáo đó”.
Mặc dù lúc đó Tây Kỳ chưa thắng được Trụ Thương, nhưng các vị Thần và toàn bộ thiên đạo đều đã đứng về phía Tây Kỳ, cho nên, sự diệt vong của Trụ Thương là điều không còn nghi ngờ gì nữa mà chỉ là vấn đề thời gian và phụ thuộc vào lập trường của mỗi sinh mệnh mà thôi.
Tuy nói sau này Trụ vương cũng được phong Thần, nhưng đó là vì họ đều là diễn viên, mà hết thảy những màn biểu diễn này chính là đều để vào lúc cuối cùng, các sinh mệnh được sắp đặt vào đúng vị trí trong Đại Pháp.
Như vậy cũng chính là nói, lịch sử là diễn kịch, mà ngày nay, những sắp đặt thực sự, chính là mỗi sinh mệnh đều phải ở trong Đại Pháp của Vạn Vương chi Vương Vô Thượng Vương hoặc trong thái độ đối với Đại Pháp mà đề ra tiêu chuẩn tâm tính chân thực của bản thân. Thái độ đối với Đại Pháp của mỗi sinh mệnh sẽ quyết định tương lai của sinh mệnh đó. Cho nên, ngày nay, không còn vấn đề đóng vai “Trụ vương hay vai người xấu” nữa. Nếu anh làm những điều bạo ngược, thì chính là bản thân chân thực nhất của anh, anh vĩnh viễn là sinh mệnh tàn bạo nhất, và sẽ bị hồng thế to lớn của Chính Pháp triệt để đào thải hoàn toàn.
Bởi vì một số nghi lễ và chế độ vẫn chưa được hoàn thiện, cho nên không cần vội vã trao đổi người dân.
Còn việc cấp bách hiện nay của Dương Hồi là truyền dạy võ nghệ cho Tiễn nhi để cậu bé có thể hoàn thành thiên mệnh của mình.
Tuy Trương Tiễn bây giờ mới hơn một tuổi, nhưng sớm đã mang dáng dấp của cậu thiếu niên 16, 17 tuổi, nên việc luyện võ là không có vấn đề gì.
Nhưng điều khiến Dương Hồi phiền não lúc này chính là, nàng nói với Trương Hữu Nhân:
“Chàng xem, chàng có thể đằng vân đạp gió, nguyên thần ly thể, mọi thứ đều thuần thục dễ dàng. Nhưng chàng lại không có lấy chút thời gian rảnh để dạy võ nghệ cho Tiễn nhi. Độ Hà Tản Nhân lại đích danh gọi thiếp dạy nó, mà thiếp một chút thần thông cũng không có, chàng nói xem, thiếp dạy con thế nào đây??”
Trương Hữu Nhân cười nói:
“Phu nhân, sao nàng lại tự xem nhẹ bản thân mình như vậy? Khi Tây Kỳ bị vạn ma vây khốn, thì người được mời chính là nàng – vị đại nguyên soái này – ra trận! Lúc nàng phá Vạn Ma trận, chẳng phải cũng hoàn toàn không dùng đến thần thông đó sao? Người làm thầy, chẳng phải là truyền đạo, truyền thụ nghiệp vụ, giải đáp thắc mắc, nào cần phải hiển lộ thần thông gì đâu”.
Dương Hồi nghĩ một lát, thấy cũng có lý, bèn gật đầu nói:
“Ừ, cũng có lý nha, vậy để thiếp thử xem sao”.
(còn tiếp)