Trang chủ Right arrow Nghệ thuật Right arrow Văn học

Huyền mộc ký (4-56)

18-09-2025

Tác giả: Thoại Bản tiên sinh

[ChanhKien.org]

“Báo gấm! Báo gấm!”

Trương Hữu Nhân gọi thất thanh hai tiếng “Báo gấm” khi đang ngủ mơ, rồi không kịp xỏ giày, hoảng hốt đẩy cửa chạy ra ngoài.

Hôm đó đúng ngày mười lăm tháng tám, ở trong sân, Ngọc Trác đang múa dưới ánh trăng vàng.

Khi đang nhảy múa, cô nhìn thấy lão gia, lúc này đang mặc áo ngủ, chân không giày, từ trong phòng cuống quýt chạy vụt ra.

Ngọc Trác cũng cảm thấy phát hoảng, vội vàng chạy tới hỏi:

“Lão gia, có chuyện gì vậy?”

Trương Hữu Nhân bấy giờ mới định thần lại, thấy rằng vừa rồi mình chỉ là gặp ác mộng mà thôi.

Nhận ra hành động của mình, anh ta bần thần ngước nhìn các vì tinh tú trên bầu trời, chăm chú quan sát trời sao, trong tâm dần trấn tĩnh trở lại.

Lúc này, tất cả thị nữ và thê thiếp đều chạy ùa ra, họ tưởng rằng vừa có việc gì đó phát sinh.

Trương Hữu Nhân thấy đông người như thế đang hiếu kỳ, vội vàng nói:

“Không việc gì, không việc gì, chỉ là nằm mơ thôi”.

Lúc này, Ngọc Trác nhìn thấy lão gia đi chân trần, máu đang rỉ ra từ dưới lòng bàn chân. Cô la lên:

“Ôi! Lão gia, chân ngài sao lại chảy máu thế kia?”

Trương Hữu Nhân nhấc chân lên xem, thấy lòng bàn chân mình bị cứa rách và chảy máu do vấp phải viên đá có cạnh sắc.

Ngọc Trác lo lắng nói:

“Lão gia, trong phòng thiếp có băng gạc, để thiếp đưa ngài vào phòng băng bó lại nhé!”

Trương Hữu Nhân ngẩng đầu lên, thấy mọi người đều đang nhìn anh ta, chờ đợi câu trả lời.

Trương Hữu Nhân cụp mi mắt xuống, chậm rãi đáp:

“Được”.

Ngọc Trác dìu lão gia vào phòng.

Mọi người đều tròn xoe mắt ngạc nhiên…

Suốt bao năm nay, đây là lần đầu tiên lão gia bước vào phòng của một người thiếp. Ngọc Trác mừng rỡ, nhanh nhảu dìu lão gia ngồi xuống giường, rồi tiến hành băng bó vết thương.

Sau khi băng vết thương xong, Ngọc Trác thưa:

“Lão gia, đêm đã khuya, ngài lại bị thương nữa, e rằng sẽ không tiện đi lại…”

Trương Hữu Nhân gật gù ra hiệu đồng ý, rồi ngẩng đầu nhìn bầu trời sao bên ngoài khung cửa.

Ngọc Trác thấy lão gia ngước lên ngắm nhìn bầu trời về đêm, liền bắt chuyện với ông:

“Hôm nay là rằm tháng tám, là ngày mặt trăng tròn nhất đó.

Nghe nói trên dãy Côn Luân Sơn có một hồ nước tên là Nhược Thủy, nước trong hồ ánh lên màu đỏ thắm bởi ánh vàng rực rỡ của trăng rằm phản chiếu lên, tuyệt diệu vô cùng.

Nếu được múa ở bên hồ nước ấy thì đời này của thiếp cũng đủ mãn nguyện rồi”.

Trương Hữu Nhân nghe Ngọc Trác nói vậy liền bật cười lớn:

“Ha ha, Côn Luân, Nhược Thủy, ha ha ha”.

Ngọc Trác vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Từ khi phu nhân rời khỏi nhà, hiếm khi nào lão gia lại vui vẻ như này. Hôm nay đến phòng cô, sau khi nghe cô nói chuyện, có vẻ tâm trạng lão gia đã vui vẻ trở lại rồi.

Ngọc Trác liền nói tiếp:

“Hôm nay trăng đẹp quá, để thiếp múa cho lão gia xem nhé!”

Trương Hữu Nhân không trả lời mà nhìn ra ngoài cửa sổ, ngâm nga mấy câu ca dao.

Ngọc Trác nghĩ:

“Lão gia ngâm ca dao, chắc là muốn mình múa phụ họa đây mà”.

Vậy là, ở trong phòng, Ngọc Trác bắt đầu khiêu vũ dưới ánh trăng vàng lấp lánh lúc này đang nghiêng nghiêng rọi vào qua khung cửa.

Trương Hữu Nhân ngâm nga hát:

“Trăng khuya vằng vặc chiếu ~
Gió mát thổi hiu hiu ~
Mặt nước như gương sáng ~
Lòng thư thái vui tươi ~
Nụ cười ai rạng rỡ ~
Trong như tiếng chuông ngân ~

Vầng sáng kia lẻ loi ~ trong trẻo ~
Làn sóng kia rất đỗi ~ êm đềm ~
Bầu trời sao sâu thẳm mà trống trải ~
Dù trống trải nhưng ẩn chứa hữu tình ~ a”

Lúc này, Trương Hữu Nhân ngâm xong, lại ngước lên ngắm nhìn vầng thinh không dày đặc những vì tinh tú, lặng lẽ không nói lời nào.

Ngọc Trác cuối cùng cũng kết thúc điệu múa của mình, cô dè dặt nói với Trương Hữu Nhân:

“Đêm đã khuya, lão gia, xin mời ngài đi nghỉ thôi”.

Trương Hữu Nhân đáp:

“Được”.

Nói xong, liền gục đầu xuống ngủ, chẳng mấy chốc đã ngáy khò khò.

Thấy lão gia ngủ nhanh như vậy, Ngọc Trác chỉ đành lặng lẽ ngồi bên bàn suốt cả đêm…

Ngày hôm sau, Trương Hữu Nhân thức dậy. Ngọc Trác vào phòng lão gia lấy áo khoác ngoài rồi giúp Trương Hữu Nhân thay đổi y phục. Sau đó, Ngọc Trác cùng Trương Hữu Nhân rời khỏi phòng.

Tuy gia nhân và những người thiếp khác ai nấy đều đang bận rộn quét dọn, lấy nước, làm cơm, nhưng không khí trong nhà sáng nay dường như rất khác thường.

Trương Hữu Nhân liếc nhìn bọn họ, rồi nói với Ngọc Trác:

“Đêm qua cô vất vả rồi, hôm nay không cần phải làm việc nữa”.

Ngọc Trác mừng rỡ nói:

“Vâng, thưa lão gia”.

Đúng lúc này, Phương Vân Kiều đi vào tìm Trương Hữu Nhân có việc. Sau khi Trương Hữu Nhân cùng Phương Vân Kiều vào chính đường, mấy người bên ngoài chẳng khác nào nồi nước sôi, sốt sắng túm tụm vào một góc, bàn tán xôn xao…

Một lúc sau, Phương Vân Kiều từ trong phòng bước ra, Tịnh Nhi gọi to:

“Phương đại nhân! Phương đại nhân! Xin hãy dừng bước!”

Phương Vân Kiều quay lại nhìn, thấy Tịnh ma ma, liền hỏi:

“Tịnh ma ma, bà có việc gì?”

“Phương đại nhân, phu nhân lúc nào mới có thể trở về?”

“Sớm thôi, khoảng hơn nửa năm nữa. Có chuyện gì vậy?”

“Phương đại nhân, phu nhân có thể về sớm hơn được không?”

“Sớm ư? Chắc khó đấy. Phu nhân luôn giữ lời, lời hứa nặng ngàn vàng mà, nếu bà ấy nói ba năm thì chính là ba năm”.

“Ài dà, Phương đại nhân, ngài nói xem, phu nhân hồi đó chỉ là động tâm lúc mơ ngủ mà thôi, không làm gì cả. Có gì mà to tát chứ, nên về sớm chút cũng có sao đâu!”

Phương Vân Kiều hiểu ý Tịnh Nhi, bèn nói: “Tịnh ma ma, theo luật ở ốc đảo Trương Gia, thê thiếp không được phép dựng lập làm chính cung, không cần quá lo lắng”.

“Vậy ngài nói xem lão gia thế nào lại…”

Phương Vân Kiều mỉm cười ngắt lời Tịnh Nhi, nói: “Tâm của một vị đế vương, sâu xa kín đáo, nào ai có thể dò biết được”.

Nói xong, liền quay đầu rời đi.

Tịnh Nhi cảm thấy bồn chồn, buồn bực đứng ngồi không yên, cô nghĩ:

“Mình có nên đi tìm phu nhân, nói với cô ấy chuyện này để cô ấy quay về sớm không nhỉ?”

Nhưng nghĩ một hồi, ở đó thâm sơn cùng cốc, bản thân lại có tuổi rồi, không được như phu nhân vẫn giữ được thân thể trẻ trung khỏe mạnh. Đi tìm không khéo chẳng tìm được mà lại ngã gãy tay gãy chân ở đấy thì hỏng.

Vậy là, cô liền gọi một con bồ câu đưa thư tới, bảo nó ngửi quần áo của Dương Hồi rồi gửi nó mang cho cô một phong thư.

Hôm đó, Dương Hồi đang ngồi tĩnh tọa trong núi thì một con bồ câu trắng bay tới, sà xuống đậu lên đùi cô.

Cô cúi đầu nhìn, hóa ra là thư nhà, liền mở ra xem, trong thư viết rất dài, rằng:

“Phu nhân…

E rằng lão gia sẽ phụ bạc cô thôi! Đêm đó… (chỗ này bỏ qua cả vạn chữ không nêu ra ở đây)

Phu nhân à! Hãy sớm quay về nhé!

Tịnh Nhi”

Lá thư dài mà hơn nữa còn vô cùng “chi tiết”, không chỉ với từng tiểu tiết, mà cả những tiểu tiết chính bản thân Tịnh Nhi chưa từng nhìn thấy cũng có trong thư. Nào là, hai người họ bước vào phòng như thế nào, sau khi vào phòng, Ngọc Trác rửa chân, cởi áo, mời trà, khiêu vũ cho Trương Hữu Nhân xem như thế nào… Rồi cảnh Trương Hữu Nhân tươi cười vui vẻ, hai người cùng nhau ca hát nhảy múa ra sao… Cứ như thể mọi thứ là do chính mắt cô trông thấy vậy.

Đọc xong thư, Dương Hồi cảm thấy khó hiểu:

“Sao Trương Hữu Nhân mà Tịnh Nhi miêu tả lại khác xa Trương Hữu Nhân mà mình đã biết mấy chục năm qua? Đây có phải là Trương Hữu Nhân không?”

Cô nhìn khung cảnh nơi thâm sơn cùng cốc, nơi gần như biệt lập với thế gian này, mỉm cười lẩm bẩm:

“Sao càng ở trong núi sâu lại càng thấy không an tịnh thế này?”

Phải, kể từ khi cô tiến vào nơi núi sâu này, ngược lại cô càng cảm thấy bất an. Không chỉ những nỗi lo toan vụn vặt của bảy năm gian khổ cứ liên tục ngập tràn tâm trí, mà giờ đây ngôi nhà của cô cũng chẳng còn thực sự bình yên nữa.

Vậy là vì sao đây? Là bởi vì cô đã tinh tấn.

Cô nghĩ, nếu như không trả lời thư của Tịnh Nhi, sợ rằng cô ấy sẽ cố chấp không buông, cho rằng mình không đọc nó, hoặc cho rằng mình đã gặp chuyện gì đó rồi, và sẽ lại sai người đi tìm, quấy nhiễu việc tĩnh tu của mình. Nhưng nếu mình trả lời, thì lại không có bút mực gì ở đây để viết.

Một miếng vải rách có thể làm mảnh lụa, một hòn đá nhọn có thể làm bút, nhưng còn mực thì sao? Hay dùng máu làm mực?

Cô nghĩ một hồi, thấy nó không đáng.

Vậy là, cô lật ngược bức thư rồi cuộn nó lại. Khi nhận được thư, những dòng chữ hướng vào trong. Cô lật ngược thư và quấn lại, sao cho những dòng chữ hướng ngược ra ngoài, rồi buộc trở lại vào chân chim bồ câu.

Khi Tịnh Nhi nhìn thấy bức thư, sẽ hiểu ra cô ấy đã xem thư, vậy là được rồi.

Và như vậy, Dương Hồi lại tiếp tục nhập định đả tọa. Từ đó trở đi, cô thường xuyên tiến vào trạng thái nhập định thâm sâu…

Việc này đại khái kéo dài khoảng ba tháng. Chỉ còn ba tháng nữa, cô ấy sẽ bước ra để trở về nhà.

Cho đến một ngày, một trận mưa cực lớn ào ào trút xuống nơi đây.

Tiếng mưa lộp độp rào rào rơi xuống, vừa nặng hạt lại vừa dồn dập.

Hang động nơi Dương Hồi tu luyện nằm ở vùng trũng thấp, nhưng bởi vì cửa động vừa rộng vừa tròn, trong động cao ráo rộng rãi nên cô đã chọn nơi này tá túc.

Trước đây đã từng có mưa, cũng có lúc động bị ngập nước nhưng không quá nhiều.

Nhưng hôm nay, mưa lại vô cùng lớn. Chẳng mấy chốc, nước tràn vào trong động rồi dâng nhanh đến ngực Dương Hồi.

Đã vậy, cơn mưa vẫn chưa có dấu hiệu ngớt, vẫn tuôn xối xả, kèm theo sấm chớp giật đùng đùng.

Rất nhanh, nước đã ngập đến cổ Dương Hồi.

Dương Hồi lúc này vẫn đang ngồi đả tọa, bắt đầu cảm thấy khó thở. Cô vươn cổ lên khi nước sắp ngập đến mũi.

Lúc này, cô chợt có cảm giác “tâm sợ hãi” của bản thân đã nổi lên, cùng lúc, “tâm tham” cũng nổi lên.

Tâm tham là thế nào? Cô đã ngồi lâu như thế, đã không muốn đứng dậy, cảm thấy thời gian rất quý báu và chỉ nên dùng nó cho việc tu luyện.

Còn tâm sợ là sao? Nếu như cô không đứng dậy, nước sẽ ngập vào vào mũi cô, khi đó sẽ không thể hít vào thở ra, như thế có thể sẽ chết đuối.

Đến hiện nay cô vẫn chưa xuất thần thông, nếu không đứng dậy, cô thực sự sẽ bị chết đuối.

Có người có thể sẽ nói, vậy thì đứng dậy thôi, sống sót trước đã, rồi tìm một hang động khác để tiếp tục luyện là được! Sống sót cũng là vì tu luyện đó thôi!

Ha ha, quan niệm đạo đức của người xưa và người nay khác nhau nhiều lắm.

Con người hiện nay không thực sự lý giải được sự kiên định dứt khoát không thỏa hiệp đối với tín ngưỡng của người tu luyện. Họ không ký một chữ vào khế ước nào, nhưng cũng nhất định không nói một lời “bất luyện” nào, dù chết cũng không nói lời nào.

Người thời nay không lý giải được, trên miệng nói “bất luyện”, nhưng sau đó họ vẫn luyện! Họ ký văn bản, thoát hiểm rồi, sau đó lại luyện! Có gì to tát chứ?

Quan niệm của cổ nhân lại khác hoàn toàn.

Khi chuyện sinh tử và việc tu luyện phát sinh xung đột, họ sẽ không nghĩ rằng, mình cứ thoát hiểm trước đã, sau đó lại tu tiếp, hay là nói, mình hôm nay nhảy thoát khỏi nguy hiểm chính là để ngày sau tiếp tục tu luyện. Người xưa không hề nghĩ như thế.

Dương Hồi thấy nước ngập đến mũi mình, cô quả thực đã đứng dậy.

Cô nhặt hòn đá sắc nhọn bên cạnh rồi đứng dậy, khắc lên bức tường đá để lưu lại một chấp trước cuối cùng:

Tử.

Sau khi khắc xong, cô ném viên đá đi, rồi tiếp tục ngồi xếp bằng, từ từ nhắm mắt lại. Lúc này, nước đã dâng đến đỉnh đầu cô.

Nhưng Dương Hồi vẫn không nhúc nhích. Cô nhắm mắt lại, cứ ngồi như thế và chìm trong làn nước, cũng không rõ cô ấy còn sống hay là đã chết.

Thực ra, chỉ có núi Toại Thâm mới có mưa; còn ở ốc đảo Trương Gia thì không. Mưa càng lúc càng lớn, tiếng sấm sét cũng càng lúc càng dữ dội, đột nhiên, một trận lũ quét ập đến Toại Thâm Sơn.

Bùn và đất đá cuồn cuộn tràn xuống, ập vào trong động…

Trưa hôm sau, mưa đã tạnh, cầu vồng rực rỡ xuất hiện trên bầu trời.

Nước trong động cũng ồ ạt trào ngược trở ra, nhưng Dương Hồi đã biến mất.

Cửa động hình tròn giờ trở thành hình bán nguyệt, nửa động còn lại bị lấp đầy bởi bùn đất và cát sỏi.

Thân thể Dương Hồi giờ đây đã bị chôn sâu trong lòng đất…

Một hôm, Phương đại nhân được tuyên gọi, yêu cầu đến gặp Trương Hữu Nhân.

Trương Hữu Nhân hỏi:

“Mấy hôm trước, nghe nói ty Giáo dục định tổ chức tiệc chiêu đãi, muốn mời tất cả các vị là Trưởng ty Giáo dục, văn sư, võ sư, những vị góp công từ ngày khai mở văn hóa ở ốc đảo đến đây dự tiệc, có đúng vậy không?”

“Đúng vậy, cũng là để mọi người cùng nhau giao lưu chia sẻ kinh nghiệm”.

“Ừm, vậy thì tốt quá. Mấy vị văn sư võ sư những năm đó nay tuổi tác đều đã cao rồi”.

“Ờ, đúng vậy”.

“Thời đầu ở ốc đảo này, là ai nhậm chức Trưởng ty Giáo dục nhỉ?”

Phương Vân Kiều ngẫm nghĩ giây lát, khóe miệng nhếch lên như đang cười, trả lời:

“Ui dà, thần quả là cũng không nhớ rõ”.

“Nghĩ lại chút xem, quả tình, ta cũng muốn gặp họ”.

Phương Vân Kiều bặm môi lại, như cố che giấu nụ cười, cố ý như vắt óc suy nghĩ, nói:

“Là ai nhỉ? Là ai… Ài dà, thời đầu đặt định văn hóa ở ốc đảo, lúc đó, vi thần còn chưa đến đây, đảo chủ, ngài chắc hẳn sẽ biết rõ hơn thần, phải không?”

Trương Hữu Nhân vuốt vuốt chòm râu, nói:

“Sao ta nhớ được? Đã nhiều năm như vậy rồi”.

Lúc này, tình cờ Tịnh Nhi đang đi ngang cửa, nghe thấy Trương Hữu Nhân gọi:

“Tịnh ma ma!”

Tịnh Nhi bước vào phòng, thưa:

“Lão gia, cho gọi có việc gì?”

Trương Hữu Nhân hỏi:

“Trông ngươi có vẻ bần thần sốt ruột sao ấy, có chuyện gì không?”

Tịnh Nhi đáp:

“Không có gì, nô tì đang vội làm cơm, sợ cơm trong nồi bị khê!”

Trương Hữu Nhân đành nói:

“Ừm, vậy ngươi đi đi”.

Tịnh Nhi phân vân quay người chuẩn bị rời đi, khi đi ngang qua bên cạnh Phương đại nhân, cô cảm thấy ông ấy hình như đang cười thầm.

Tịnh Nhi khá ngạc nhiên. Vẻ mặt kia của Phương đại nhân là thế nào nhỉ? Sao hôm nay bỗng nhiên lão gia lại gọi cô vào phòng…

“Đảo chủ, nếu không còn việc gì nữa, thần xin phép rời đi trước”, Phương Vân Kiều bẩm.

“Được rồi, ông đi trước đi”, Trương Hữu Nhân đáp.

Phương Vân Kiều mím môi rồi bỏ đi.

Tịnh Nhi lúc này đang vừa nhóm lửa vừa suy nghĩ, bỗng cô nhớ ra!

Ba năm rồi! Ba năm đã trôi qua rồi! Đã đến lúc đón phu nhân trở về!

Vậy là, cô vội vã đi tìm Trương Hữu Nhân.

“Lão Mặc! Lão gia đâu? Chẳng phải vừa rồi ông ấy còn ở đây sao?” Tịnh Nhi hỏi A Mặc.

“Tôi không biết đâu, lúc trở về tôi đã không thấy ông ấy rồi!” A Mặc nói.

“Ông ấy vừa ra ngoài mới đây thôi mà, không biết đã đi đường nào rồi nữa”, A Đào gãi đầu gãi tai nói.

Nhưng Trương Hữu Nhân lúc này, đã một mình tìm đến Toại Thâm Sơn.

Biết động này là nơi Dương Hồi tu luyện, anh ta bèn đứng ở cửa động gọi lớn:

“Đã đến kỳ hạn ba năm rồi, nàng ra ngoài đi”.

Anh ta đợi rất lâu nhưng không thấy hồi âm, trong động cũng im ắng không có tiếng gì vọng ra.

Vây nên Trương Hữu Nhân bèn tiến vào.

Anh ta vừa tiến vào, liền nhìn thấy có nhiều chữ khắc trên vách động.

“Sân hận, lo âu, bi thương, sợ hãi, khủng hoảng…”

“Nghĩ ngợi, vui mừng, danh vọng, lợi lộc, hoài nghi…”

Trương Hữu Nhân đọc những chữ trên vách đá, đến đoạn:

Gì nữa đây? “Bánh nướng”? “Đùi gà”?

…………….

Trương Hữu Nhân ngạc nhiên nhìn thấy tên của một số món ăn được khắc trên vách động, cảm thấy có chút kỳ lạ, rồi anh ta đọc tiếp:

“Chồng như mãnh thú, kính nhưng tránh xa”.

Trương Hữu Nhân cười trừ, lẩm bẩm:

“Ha ha, Dương Hồi này, nàng viết linh tinh gì thế?”

Thấy trong động không có ai, Trương Hữu Nhân bèn đi loanh quanh ở cửa, chờ Dương Hồi trở về.

Chờ đợi một hồi lâu, vẫn không thấy bóng dáng Dương Hồi đâu, Hữu Nhân liền đi quanh một vòng, rồi nhìn quanh ngọn núi, dường như núi này đã bị bỏ hoang từ lâu, không có vết tích nào của con người. Trong tâm anh ta cảm thấy có điều gì đó không ổn, bèn quay lại động, chăm chú xem kỹ những chữ Dương Hồi khắc trên vách đá, cố gắng tìm ra dòng chữ mới viết gần đây.

Anh ta tiến sâu hơn vào trong động, bỗng nhìn thấy một chữ “tử” rất lớn. Chữ “tử” này dường như là dòng chữ được khắc cuối cùng.

Trong tâm chấn kinh, anh ta kêu lên:

“Chết thật rồi sao?!”

Anh nhanh chóng đi ra khỏi động, ngước lên quan sát bầu trời, thiên tượng không có gì bất thường, chứng tỏ phu nhân vẫn an toàn.

Thế là, anh ta lại quay trở vào trong động, đi đến gần chữ “tử”, dùng thiên mục để tìm kiếm Dương Hồi.

Thực ra, Dương Hồi lúc này đang ở ngay dưới chân anh, vậy mà anh ta lại đứng ngay trên đầu Dương Hồi để tìm cô ấy…….

(còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/297040

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài