Trang chủ Right arrow Nghệ thuật Right arrow Văn học

Huyền mộc ký (4-53)

05-09-2025

Tác giả: Thoại Bản tiên sinh

[ChanhKien.org]

Lại nói, Dương Hồi và Trương Hữu Nhân đang rảo bước ở Ngọc Tuyền Sơn thì Lý Không Đồng đúng lúc đó tình cờ bay ngang qua trông thấy. Trong tâm Lý Không Đồng có chút nghi hoặc, lại ngửi thấy quanh núi Ngọc Tuyền có một luồng khí do sét đánh tỏa ra, liền từ trên mây hạ xuống, đi tìm sư đệ Ngọc Đỉnh.

“Ngọc Đỉnh, ta thấy Hữu Nhân và phu nhân anh ta đang tản bộ trên núi của đệ đó”, Lý Không Đồng nói.

“Ồ, là họ đến thăm cháu trai bên ngoại của họ bị thương trong lúc chiến đấu”, Ngọc Đỉnh nói.

“Cháu trai bên ngoại của họ á?”

“Phải, chính là môn đồ Dương Tiễn của ta đó!”

Lý Không Đồng có chút giật mình. Ông thấy ký ức của Ngọc Đỉnh đã bị năng lực thần thông nào đó can thiệp, nhưng lực lượng thần thông này quá mạnh mẽ thuần hậu nên anh ta không thể động vào, không thể thăm dò hay cải biến gì được.

Một luồng khói bụi khét lẹt do sét đánh xộc vào mũi Lý Không Đồng khiến anh ta đoán rằng nhất định có chuyện gì đó đã xảy ra trên núi Ngọc Tuyền.

Vậy là, anh ta liền sử dụng công năng túc mệnh thông để tìm kiếm, muốn tìm hiểu xem có chuyện gì vừa xảy ra ở đây…

Sau khi quan sát hồi lâu, Lý Không Đồng thở dài, than:

“Ôi chao, làm bậc phụ mẫu của chúng sinh, thật khó thay!”

“Đại sư huynh, huynh nói gì thế?” Ngọc Đỉnh hỏi.

“À, không có gì”, Lý Không Đồng tỏ vẻ bình thản đáp.

Lý Không Đồng cũng rảo bước đi bộ lên núi, tình cờ chạm mặt Trương Hữu Nhân và Dương Hồi.

Dương Hồi nhìn thấy Lý Không Đồng liền chào:

“Hân hạnh diện kiến đại sư huynh”.

Trương Hữu Nhân nhìn thấy Lý Không Đồng thì chắp tay chào:

“Quảng Thành Tử Chân Nhân!”

Lý Không Đồng mỉm cười đáp lễ: “Hiếm khi gặp được nhau, nay có dịp gặp hai người ở đây xin mời ngồi xuống nhấp ngụm trà”.

Lý Không Đồng nhấc ống tay áo lên, bên hồ lập tức xuất hiện nào là bàn trà, bầu trà và mấy tách uống trà…. Dưới bàn trà đặt mấy chiếc bồ đoàn. Bên cạnh bàn còn có tiểu đồng giúp pha trà và châm trà cho họ.

Ba người ngồi xuống. Trương Hữu Nhân tinh thần đã ổn định, nhưng Dương Hồi vẫn chưa thoát khỏi dư âm của sự việc không vui vẻ vừa rồi, thần tình buồn bã hiu hắt.

Lý Không Đồng nói:

“Sư muội, lúc trước khi muội tu đạo ở Ngọc Kinh sơn thì ta không ở đó. Khi muội chuyển sinh thành người, chúng ta mới có thể gặp nhau. Thực là duyên phận an bài”.

Dương Hồi cười nói:

“Quả thực là duyên phận. Đại sư huynh đã bao năm nay không ra khỏi núi, vậy mà mỗi lần xuất sơn, chúng ta đều gặp nhau”.

Lý Không Đồng cũng nói:

“Phải, ta đã sống ba mươi bảy vạn năm rồi, nhưng quá nửa thời gian đều dành để tu luyện ở trong động”.

Trương Hữu Nhân nghe vậy liền hỏi:

“Chân Nhân sinh ra cách đây ba mươi bảy vạn năm sao?”

Lý Không Đồng trả lời:

“Đúng vậy, ta sinh ra cách đây ba mươi bảy vạn năm trước, ta xuất sinh ở nhân gian, mà hơn nữa lại là nhân gian từ kỷ Dị Khoa”.

Dương Hồi hỏi:

“Từ kỷ Dị Khoa á?”

Lý Không Đồng đáp:

“Phải, chính là thời kỳ mạt kiếp của nền văn minh nhân loại lần đó. Bởi vì đó là thời kỳ mạt kiếp, nên lứa nhân loại thời đó sắp bị hủy diệt, sự việc gì cũng đều có, và còn thường xuyên xảy ra chuyện trẻ em bị mất tích. Sau khi ta sinh ra được bảy năm, ta cũng biến mất khỏi gia đình”.

Dương Hồi hỏi:

“Biến mất á?”

Lý Không Đồng nói:

“Cũng không hẳn là biến mất, do trong mệnh có cơ duyên tu luyện, nên ta được sư phụ mang đi tu luyện”.

Dương Hồi và Trương Hữu Nhân gật gật đầu.

Lý Không Đồng kể tiếp:

“Ta có thể tu luyện đến ngày nay, trở thành bậc Kim Tiên Đại Đạo, chính là một ân điển to lớn mà sư phụ dành cho, nhưng ta cũng muốn cảm tạ mẫu thân của mình”.

Dương Hồi cảm thấy có chút khó hiểu, cô nghĩ bụng, chắc đại sư huynh cảm tạ mẫu thân của mình vì đã ban cho huynh ấy nhục thân này.

Nhưng Lý Không Đồng lại nói:

“Ta muốn cảm ơn mẹ của mình, vì cái ân đối đãi nhạt tình với ta”.

Lý Không Đồng phóng tầm mắt hướng ra ngắm nhìn cảnh sắc núi non sông nước, rồi hồi tưởng lại:

“Lúc bấy giờ, chính là trong thời kỳ mạt kiếp của nhân loại. Con người ở thời kỳ này rất cực đoan, đối với tình cảm cũng rất cực đoan. Người ta đều rất dễ dàng vì bi lụy tình cảm mà phát điên, không màng lý trí. Khi đó, những người mẹ mất con đều bị thứ tình cảm nhi nữ giày vò đến sống cũng dở mà chết cũng không xong, có người thậm chí còn nghĩ cách quyên sinh.

Khi đó ta mới bảy tuổi, nhưng cũng đã khá hiểu chuyện, nên tình cảm với cha mẹ đương nhiên sâu nặng. Lúc ta tu luyện trong động, đã rất lo lắng suy tư và thương nhớ mẹ mình. Ta rất lo sợ mẫu thân ta vì quá nặng lòng với con cái mà sẽ làm điều dại dột tổn thương thân thể hay hại đến tính mạng bản thân. Dù sư phụ đã nhọc công, hết lời khuyên răn an ủi nhưng đối với ta vẫn chẳng ích gì.

Thấy con đường tu luyện sắp đứt đoạn chỉ vì một tấm lòng lo lắng cho mẹ, sư phụ bèn dẫn nguyên thần của ta ra ngoài, để ta đi nhìn mẫu thân một lần.

Ta phiêu diêu bay trở về quê nhà của mình, thấy cha mẹ đang thư thái nhàn nhã chụp ảnh giữa những khóm hoa. Lúc đó, có một vật gọi là máy ảnh, một phát minh công nghệ thời bấy giờ để phục vụ nhu cầu giải trí và giúp con người ghi lại những kỷ niệm của mình.

Ta nhìn thấy nét ưu tư đượm buồn trên khuôn mặt của cha, nhưng mẹ ta lại nói: ‘Tuy Tiểu Đồng biến mất, nhưng nó nhất định đã thoát khỏi thế giới thập ác này để đi tu Đạo rồi’.

Ta chợt nhớ đến lời mẹ dặn: Mẹ đặt tên cho ta là Không Đồng, chính là hy vọng ta ngày sau sẽ đạt được cảnh giới như chốn hư vô bao la mênh mang kia.

Trong thời mạt thế đó, mẹ ta không những không hề bị lụy bởi tình, mà còn cảm thấy vui mừng vì ta đã thoát ra khỏi chốn nhân gian hiểm ác.

Trong khoảnh khắc đó, tâm lo lắng cho mẫu thân của ta đã nhanh chóng tiêu tan, trong tâm hoàn toàn chỉ còn nghĩ về tu luyện.

Không Đồng, không vô đại đồng, hết thảy đều mênh mang vô tận, chắc hẳn là niềm mong mỏi da diết của mẫu thân ta”.

Sau khi nghe đại sư huynh giãi bày một hồi lâu, Dương Hồi liền hiểu ra, đây chính là điểm hóa của sư phụ, cô liền mỉm cười, như vừa gỡ được xuống một thứ cảm xúc đang đè nặng trong tâm, cô nói:

“Mẫu thân của đại sư huynh quả là một người mẹ phi thường”.

Lý Không Đồng cười, nhìn Dương Hồi rồi nói:

“Sau này khi đã tu xuất thần thông, ta vẫn không nhìn thấy nguyên thần của mẫu thân ta ở đâu, liền biết rằng, mẫu thân ta có lai lịch siêu phàm. Mãi đến ba mươi bảy vạn năm sau, ta mới được gặp lại bà ấy”.

Dương Hồi hỏi:

“Bà ấy giờ ở đâu? Bà ấy rốt cuộc là ai?”

Lý Không Đồng chỉ cười không nói, Dương Hồi cũng đoán đại sư huynh không tiện nói, nên cô không hỏi thêm gì nữa.

Trương Hữu Nhân ngồi đó nghe cuộc đàm thoại, cũng hiểu ra ý tứ nội dung câu chuyện này của Lý Không Đồng, chỉ là, anh cũng chỉ cười và không nói năng gì.

Lý Không Đồng ngước nhìn vầng thinh không xa thẳm, rồi nói tiếp:

“Đã không còn sớm nữa, ta vẫn còn có việc phải làm. Hữu Nhân, sư muội, hai người cứ từ từ thưởng trà, ta đi trước đây”.

Trương Hữu Nhân và Dương Hồi đứng dậy hành lễ, bái biệt Lý Không Đồng. Sau khi Lý Không Đồng rời đi, Dương Hồi và Trương Hữu Nhân cũng quay trở về ốc đảo Trương Gia.

Đoạn sự việc này, đến đây coi như đã khép lại.

Về phần Dương Hồi, khuôn mặt cô không bị già đi dù đã ngoài bốn mươi tuổi, trông chỉ như một thiếu phụ ngoài hai mươi tuổi. Tuy vậy, cô vẫn chưa tu xuất thần thông.

Một ngày nọ, Độ Hà Tản Nhân đến ốc đảo Trương Gia, trịnh trọng mời Trương Hữu Nhân và Dương Hồi đến thăm thú Bàn Đào viên.

Nhân lúc rảnh rỗi hiếm hoi, Trương Hữu Nhân đã đưa phu nhân Dương Hồi đến Côn Luân dạo chơi một chuyến.

Hoa đào trong vườn lúc này đang nở rộ. Mỗi cây đào đều cao lớn sum suê, sắc hồng tươi tắn, tràn đầy sức sống, diện mạo khắp nơi là sắc thắm, hương thơm lan tỏa khắp Côn Luân. Cành đào cao như cành trúc, rễ đào cắm sâu vào lòng đất, vững chãi hiên ngang.

Hai người chậm rãi tản bộ trong vườn, bất ngờ, những cánh hoa đào màu hồng phấn lả tả rơi xuống. Một làn gió trong lành thổi tới, khuấy lên làn sóng hoa phấp phới trong không trung, hương thơm lan ra ngào ngạt khắp vùng…

“Phu nhân, nàng nhìn kìa! Những trái đào non mới kết này trông giống như khuôn mặt trăng tròn tươi nhuận hồng hào của nàng vậy”. Trương Hữu Nhân vừa nói, vừa hướng mắt nhìn lên những trái đào.

Lúc này, Độ Hà Tản Nhân bước đến, tỉ mỉ quan sát những trái đào, rồi gật gù nhận xét:

“Những trái đào được kết ra lần này không dẹt như lần trước. Trái lại, chúng trông tròn trịa, căng mọng và có màu hồng phấn đẹp thật”.

Độ Hà Tản Nhân lại tiếp tục quan sát, rồi tấm tắc khen, giọng đầy ngưỡng mộ:

“Tốt, tốt, lần này còn tốt hơn! Lần này còn tốt hơn nữa!”

Ông chậm rãi tỉ mỉ rảo mấy vòng quanh vườn, thỉnh thoảng gật đầu tán thưởng, như phát hiện ra điều gì rất tâm đắc, cuối cùng, ông quay sang hỏi Dương Hồi:

“Lần này, vẫn gọi chúng là ‘Bàn Đào’ chứ?”

Dương Hồi suy nghĩ giây lát, đáp:

“Bàn Đào, ‘bám và đào’, ngụ ý là bám vào leo lên rồi đào thoát ra. Vậy chúng ta hãy cứ gọi chúng là ‘Bàn Đào’ đi”.

“Được”.

Những năm sau đó, Hữu Nhân và Dương Hồi tiếp tục suy ngẫm và thảo luận với các vị Thần về văn hóa, “lễ nhạc” của toàn bộ hệ thống văn hóa được thấm nhuần và xuyên suốt trong các diễn giải thí điểm ở ốc đảo Trương Gia, từ thời điểm đó, chúng cơ bản đã được hình thành.

Ví dụ, ngũ lễ trong Chu Lễ: Cát lễ (吉禮), Gia lễ (嘉禮), Tân lễ (賓禮), Quân lễ (軍禮) và Hung lễ (凶禮). Còn có đề cao chữ đức, tôn kính ngôi cao, gần gũi người thân, kính trọng người già, yêu thương con trẻ… và đủ mọi phương diện khác nữa. Toàn bộ xã hội ở ốc đảo Trương Gia khắp nơi đều phủ kín Lễ và Đạo.

Lễ nhạc, lễ và nhạc là không thể tách rời. Còn âm nhạc ở ốc đảo Trương Gia thì sao? Về cơ bản, nó kế thừa tiết tấu, âm luật, nhạc khí và nhạc lý trong âm nhạc của thời kỳ Viêm Hoàng Ngũ Đế.

Nhiều người biết Hoàng Đế là tổ tiên khai thủy ra nền văn minh nhân loại chúng ta, nhưng ít ai biết rằng Ngài còn là một bậc thầy về văn học nghệ thuật xuất sắc nhất, một nhà âm nhạc uyên thâm và sâu sắc nhất của chúng ta.

Đúng vậy, nên dùng từ “tối” (nhất) trong trường hợp này. Nếu không có vô số những nhạc khí, nhạc lý cho đến rất nhiều hình thức văn nghệ của Hoàng Đế đưa ra, nhân loại sẽ trở nên hoang dã và cộc cằn man rợ, thì còn nói gì đến nền văn minh nào nữa!

Các vị Thần đặt định văn hóa đến ốc đảo Trương Gia, đều là những chính Thần được Phục Hy đại đế phái xuất mà đến, mà Hoàng Đế chính là do Phục Hy Đại Đế chuyển sinh.

Nền văn hóa Thần truyền Trung Hoa chúng ta thật đáng trân quý biết bao!

Cho nên, đôi khi cảm thấy rằng được chuyển sinh làm người, tuy phải chịu đựng nhiều khổ ải to lớn, nhưng cũng chính là đã nhận được một sự may mắn vô cùng lớn lao.

May mắn là đến Tam giới thì nguyên thần vẫn đang ở đây, may mắn vì nền văn minh này được Thánh Chủ ân cần dẫn dắt, may mắn vì được đồng tại một thời kỳ với vị Vạn Vương chi Vương Vô Thượng Vương!

Trước mắt, nền văn minh lễ nhạc ở ốc đảo Trương Gia vẫn chưa được triều đại nhà Chu áp dụng hoàn toàn, bởi vì mọi thứ đều cần có quá trình. Mãi đến thời Chu Công, các nghi lễ của nhà Chu cơ bản mới hình thành.

Ví dụ như một số chế độ quy định hay chế độ quân binh, bởi vì ốc đảo Trương Gia không quá lớn, cũng không có chiến loạn, nên việc này chỉ cần Chu Thiên tử tự mình đi hoàn thiện. Tuy nhiên, Trương Hữu Nhân cùng chư Thần cũng sẽ xây dựng một số hình thức ở mức độ sơ khai.

Những chế độ như phong vương, tông pháp, canh điền, trang phục mấy bộ hay tước lộc ngôi vị… hiện nay đã bị người đời bẻ cong, đã lý giải thành méo mó lệch lạc rồi. Khái niệm “xã hội phong kiến” ngày nay thực ra chính là một từ để chỉ chế độ phân phong thời xa xưa.

Nói “xã hội phong kiến” là nói việc phân chia đất đai thổ nhưỡng thành từng vùng một, giữ lại vùng trung tâm ổn định và dễ kiểm soát nhất cho bản thân, còn vùng xung quanh thì phân phong cho thân tộc và công thần. Điều này cũng đúng với tư tưởng “thân thân” (gần gũi thân thích) và “tôn tôn” (tôn kính ngôi cao) trong quan niệm của nhà Chu. Rốt cuộc thì, “thân thân” và “tôn tôn” là lời lẽ mà các bậc quân vương thời xưa sử dụng để củng cố vương quyền.

Lời giải thích này thực chất là đứng trên góc độ của thuyết vô thần và vụ lợi cho bản thân mà phân tích, thực chất không phải là như vậy.

Mỗi triều mỗi đại đều có nguồn gốc riêng, đều là đại biểu cho một thể hệ thiên thể trên Thiên thượng. Dù là hoàng đế, hoàng thân quốc thích hay người trong hoàng tộc cũng vậy, tại sao họ lại đảm nhận vai diễn này? Tại sao họ sinh ra đã là huynh đệ tỷ muội của Thiên tử? Bởi vì nguồn gốc của họ không hề tầm thường, nguyên lai của họ có quan hệ đối ứng với thiên thể của triều đại đó, cho nên họ được phong vương cũng vậy, cắt đất phong hầu cũng vậy, đó là trong mệnh của họ đã mang theo phần trách nhiệm như thế trong triều đại đó. Nếu bạn đem đất đai đó phân chia cho dân thường, thì vì nguồn gốc của họ không nằm ở nơi đó, gốc rễ của họ không kết nối với thiên thể đó, nên họ cũng không cần phải gánh vác phần trách nhiệm này. Vậy thì phân đất cho họ làm gì?

Ngày nay, người ta đứng ở góc độ của thuyết vô thần mà phân tích hay phán xét cổ nhân, miêu tả người xưa xấu tệ hơn con người ngày nay, thậm chí còn ích kỷ tự tư tự lợi hơn.

Văn hóa của người Trung Quốc ngày nay sớm đã bị phá hủy rồi. Người Đại Lục ngày nay coi văn hóa Thần truyền như người mù sờ voi: cực kỳ hời hợt, hơn nữa còn hay lấy lòng dạ tiểu nhân mà đo lòng quân tử.

Những quan niệm văn hóa sơ khai nhất được cấp cho con người chủ trương là vô tư vô ngã. Tại sao người xưa xưng “Ngô” (Ta) thay cho “Ngã” (Tôi)? Chính là để dạy bạn đừng quá tự tư! Đừng quá coi trọng cái “Tôi”, vì tôi chính là “Vô” mà!

Vì vậy, nếu một nền văn minh như thế này được truyền thừa một cách trọn vẹn, thì con người dù làm việc gì cũng sẽ không chỉ nghĩ cho riêng mình, mà đều sẽ suy xét đến đạo đức, lễ nghi, liêm sỉ. Cách trị quốc của các bậc quân vương thời xưa cũng là như vậy.

Các chế độ, thể chế, lễ nhạc, đạo đức – chúng ta vừa rồi đại thể đã nhìn nhận khái quát từ “chính diện”. Giờ hãy thử nhìn xã hội này từ góc độ “phụ diện”.

Xã hội nhân loại là nằm ở tầng thấp của vũ trụ, do đó quy luật tương sinh tương khắc biểu hiện vô cùng rõ rệt, biểu hiện thiện ác cũng cực kỳ nổi trội. Con người chỉ khi biết thế nào là đau khổ thì mới biết trân quý hạnh phúc có được là không hề dễ dàng. Cho nên, dù tiêu chuẩn đạo đức có cao đến đâu, xã hội nhân loại vẫn sẽ tồn tại mặt phụ diện kia.

Thiển nghĩ, cũng nên đưa một vài dẫn chứng:

Sau khi ốc đảo Trương Gia đổi người dân với Tây Kỳ, tình trạng trộm cướp bắt đầu xuất hiện ở đây, điều này cũng tạm gọi là bình thường.

Bởi vì, văn hóa ở nhân gian muốn diễn giải toàn diện, nếu không có phường trộm cướp dường như cũng không thích hợp. Nhân gian này chính là như vậy.

Sau nhiều năm được gột rửa bởi lễ nghi văn hóa, giới “trộm cắp”, “cướp giật” hay “thổ phỉ” ở ốc đảo Trương Gia cũng có bộ quy tắc riêng. Ngay cả phường đạo chích cũng còn có “đạo” của chúng đó thôi!

Nghề nào cũng đều phải có quy tắc, nếu không, tất sẽ dẫn đến hỗn loạn.

Đạo tặc thổ phỉ ở ốc đảo Trương Gia có ba quy tắc chính:

Thứ nhất, không phá hoại kinh sách, không được làm tổn hại đến Đạo.

Anh có thể làm kẻ trộm nếu bất đắc dĩ không còn cách khác. Còn nếu anh chính là muốn đi ăn trộm, bản thân anh muốn tạo nghiệp, người khác chỉ có thể khuyến thiện, tư pháp chỉ có thể trừng phạt thân thể của anh, nhưng không thể quản được cái tâm của anh. Tất nhiên, anh vẫn là không được phép hủy hoại kinh sách hay các thư tịch liên quan đến tu luyện. Nếu tên trộm hay cướp kia phá hoại sách thẻ tre liên quan đến tu luyện thì tên đạo chích đó sẽ bị trục xuất khỏi phường “trộm cướp” không được chứa chấp nữa.

Không có tên trộm nào dám giao du với hắn, bởi hắn bị coi là “xui xẻo”, vì vậy, thủ lĩnh đạo chính sẽ đuổi hắn khỏi hội bởi vì sự phá hoại quy tắc điều luật của bang nhóm.

Thứ hai, không giết người tu luyện.

Anh cứ nhất định muốn làm kẻ cướp bóc thì cũng chẳng còn cách nào khác. Nhân lúc tư pháp ở ốc đảo Trương Gia chưa bắt được anh, đức của anh vẫn chưa bị tổn hết, anh vẫn cứ nhất định đi làm việc trộm cướp đó, thì chẳng ai có thể làm gì được.

Chỉ là, anh không được phép giết người tu luyện!

Nếu giết một người tu luyện, thì cả chính đạo hay tà đạo đều sẽ không đắn đo mà xuống tay giết chết anh.

Bởi vậy, đám thổ phỉ trộm cướp ở ốc đảo Trương Gia căn bản sẽ không làm việc này, chúng hiểu, theo luật pháp ở ốc đảo, đây chính là một tội ác tày trời, không chỉ liên lụy đến toàn bộ cửu tộc mà còn liên lụy đến cả chín đời trước và chín đời sau của người đó. Vì vậy, không ai dám làm điều ác này.

Thứ ba, những sự việc dơ bẩn không sạch sẽ phải tránh xa chùa chiền, miếu mạo, đạo quán hay từ đường.

Nếu muốn ăn trộm hay đột nhập cướp bóc, tuyệt đối không được thực hiện ở bên trong hoặc gần chùa miếu, đạo quán có liên quan đến tu luyện, cũng không được làm những việc này ở trong hay gần các từ đường thờ cúng tổ tiên Viêm Hoàng, Thần Nông…

Thời bấy giờ, ở ốc đảo Trương Gia chưa có Phật giáo, Đạo giáo nhưng các đạo quán miếu mạo thờ phụng Phật, Đạo, Thần lại có khá nhiều.

Nếu như tên cướp nào đó dám bất kính với Thần minh hoặc tổ tiên, ở nơi thần thánh tôn nghiêm thanh tịnh mà làm chuyện bậy bạ ô uế, thì những tên thổ phỉ khác cũng sẽ tránh xa hắn, vì bọn họ đều biết hắn sắp phải chịu báo ứng, ai cũng sợ bị vạ lây.

Sự thực đúng là như vậy. Làm thổ phỉ vốn đã ít đức, nếu lại phạm phải ba tội lớn nêu trên thì sẽ sớm hứng chịu trừng phạt, sẽ chết bất đắc kỳ tử.

Vì vậy, trong số ít những thổ phỉ đạo chích hiện diện ở ốc đảo Trương Gia, người ta thấy chúng cũng không phải là những kẻ quá xấu xa. Ở thế gian, thiện ác đồng tồn, nhưng dù ác cũng phải có tiêu chuẩn, nếu như quá ác, thì ngay cả việc làm con người ở nhân gian cũng là không thể, sẽ bị đánh hạ xuống địa ngục, chờ bị tiêu hủy triệt để.

Lấy một ví dụ như thế này.

Ốc đảo Trương Gia trước nay chưa từng có chiến tranh. Tuy nhiên, phản lý ở thế gian chính là thắng làm vua thua làm giặc, cho nên cần đặt định một chút văn hóa liên quan đến chiến tranh.

Vì vậy, trong lần trao đổi người dân giữa Tây Kỳ và ốc đảo lần này, chính là sẽ trao đổi một số người dũng cảm và thiện chiến. Để những cá nhân dũng cảm thiện chiến này sau đó sẽ nắm giữ một số chức quan nhỏ ở Tây Kỳ.

Khi đến Tây Kỳ, Trương Hữu Nhân chọn hai tòa thành nhỏ, một tòa là Tu Thành còn tòa kia là Đàm Thành, rồi chọn ra hai trong số những người chuyển đến đây để làm vương chủ cai quản hai thành, số còn lại làm phụ tá.

Hai tiểu tòa thành này tuy không lớn nhưng nằm đối diện nhau, cổng thành này nằm đối diện cổng thành kia.

Vì cổng đối diện nhau, vả lại còn là những người hiếu chiến, và đều giữ những vị trí quan chức nhỏ nên bên nào cũng cho rằng mình có bản sự xuất sắc hơn bên kia.

Bởi vậy, hai thành này rất dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột. Đương nhiên rồi, chính là sự việc nên được an bài như thế.

Các quan viên cai quản hai thành này trình lên Trương Hữu Nhân rất nhiều tấu chương, càng ngày càng nhiều, lời lẽ biểu đạt trong đó đều chất chứa sự bất mãn, than phiền và tranh cãi.

Trương Hữu Nhân triệu kiến tể tướng Phương Vân Kiều, tham vấn ý kiến ông ấy xem việc này nên giải quyết thế nào. Phương Vân Kiều cũng là Thần, đến đây để đặt định văn hóa, nên tạm thời đảm nhiệm chức tể tướng ở ốc đảo Trương Gia.

Phương Vân Kiều thưa:

“Đã vậy sao đảo chủ không để họ đánh nhau đi, như vậy có lẽ sẽ hóa giải được oán khí sân hận của cả hai bên”.

Trương Hữu Nhân gật gù như hiểu ra, liền nói:

“Cũng được”.

Sau đó, tể tướng liền sai sứ giả đi báo tin cho vị Vương của hai thành rằng cho phép hai bên được công thành, chiến đấu với đối phương.

Hai vị Vương của hai thành nghe vậy rất đắc ý, đúng lúc họ đang rất muốn chiến đấu, khí thế sục sôi bởi sự oán hận như ngọn lửa thiêu đốt trong tâm đã rất lâu rồi.

Tuy nhiên, ngay khi cả hai đang bên bờ vực chiến tranh, cuộc chiến đã sắp sửa bắt đầu, vị tể tướng đích thân lên trước trận tiền, đưa cho hai bên, mỗi bên một bản “Chiến sự lễ pháp” của ốc đảo Trương Gia. Để nói với hai bên rằng, có thể cho phép có chiến tranh, nhưng nhất định phải tuân thủ lễ pháp.

Đầu tiên, “chiến sứ”, vị sứ giả chiến tranh của mỗi bên, sẽ hỏi thăm tình hình sức khỏe của tướng lĩnh và vị Vương thành của đối phương.

Ngày thứ nhất, Tu Thành Vương thân thể có chỗ không được khỏe, nếu nhân lúc đối phương yếu đuối để thắng thì kể cũng oan uổng, không hợp với tinh thần võ học, nên không thể giao chiến.

Ngày thứ hai, con trai của Đàm Thành Vương đột nhiên ốm bệnh, cần lấy lễ pháp kính già yêu trẻ làm trọng, lại từ bản thân mình mà nghĩ cho người khác, trong tình thế như vậy mình sẽ thế nào, lại đành hoãn binh ngày nữa, vậy là lại không thể giao chiến.

Ngày thứ ba, chiến sứ bẩm báo với Tể tướng rằng Tu Thành Vương bệnh trạng sơ sơ không quá nghiêm trọng, còn con của Đàm Thành tuy ốm bệnh nhưng cũng chỉ là cảm lạnh, vẫn tràn đầy sức sống. Giờ không ai bị bệnh cả. Vậy hai bên đã có thể giao chiến được chưa?

Tể tướng lại nói: “Chưa được, phải đợi người già, phụ nữ và trẻ em trong thành thu dọn đồ đạc cẩn thận và rời khỏi thành đã, rồi đợi người trong đảo bố trí cho họ chỗ ăn ở và lương thực đâu đấy rồi hẵng hay”.

Ngày thứ tư, khi mọi việc đã được an bài đâu đấy ổn thỏa, lại hỏi vậy đã có thể giao chiến được chưa, nhưng lại vẫn chưa được. Vậy còn phải làm gì? Phải đem toàn bộ các bức tượng Phật, Đạo, Thần hoặc các bức tượng có liên quan di dời ra ngoài. Những pho tượng không thể di dời được thì phải phủ vải lên rồi quây rào lại để tránh làm hư hại pho tượng hoặc gây ra sự bất kính với Thần linh do sát khí sinh ra trong chiến trận.

Hai ngày này thật thú vị, xe ngựa của Tu Thành không đủ nên họ đến mượn Đàm Thành. Vải vóc của Đàm Thành không đủ thì họ phái người đến mượn của Tu Thành. Vì nóng lòng đẩy nhanh cuộc chiến, hai bên thành ra đã hỗ trợ lẫn nhau.

Bởi vì phụ nữ, người già và trẻ em tạm thời đã được sơ tán ra ngoài nên trong thành chỉ còn lại những đàn ông trưởng thành sinh sống làm việc. Việc dựng hàng rào bảo vệ, di chuyển tượng và bọc vải mất hai ngày nên cả hai thành ai nấy đều kiệt sức, vậy là hai bên đều nghỉ ngơi thêm một ngày nữa.

Đến ngày thứ bảy, cuối cùng trận chiến cũng đã có thể bắt đầu. Nhưng trước tiên, họ phải sửa soạn lễ vật dâng lên cúng bái Thần linh và tổ tiên, để báo cáo sự việc chiến tranh.

Sau khi cúng bái Thần linh và tổ tiên xong, họ phải khóa chặt cửa miếu và nhà thờ tổ để tránh bầu không khí chiến tranh phát tán làm phiền tổ tiên và các vị Thần linh.

Khi việc cúng bái hoàn thành thì đã đến trưa, mà buổi trưa còn phải nghỉ ngơi nên trận chiến sẽ dời lại sang buổi chiều.

Đến buổi chiều, tể tướng tuyên bố: “Cả hai thành đều có thể bắt đầu chiến đấu không khoan nhượng với đối phương!”

Điều này có nghĩa là hai thành đã có thể tận sức chiến đấu, lăn xả hết mình.

Trải qua bảy ngày vừa rồi, cả hai thành đều đã không còn mấy mặn mà với việc chiến đấu nữa, nhưng nếu không chiến đấu thì công sức bỏ ra để thực hiện các bước thủ tục vừa rồi chẳng phải là lãng phí thời gian oan uổng sao?

Vậy nên, cuộc chiến vẫn sẽ bắt đầu. Trải qua mấy ngày chiến đấu, Tu Thành đã giành chiến thắng. Tuy Đàm Thành bại trận, nhưng vì trận chiến được tiến hành dưới lễ pháp và sự công chính, minh bạch và công bằng, không hề có thủ đoạn hay quỷ kế lừa gạt, nên Đàm Thành đã tâm phục khẩu phục chấp nhận thất bại.

Hơn nữa, trong suốt cuộc chiến, không hề làm bị thương phụ nữ, trẻ em hay người già, cũng không hề làm tổn hại một pho tượng Thần nào, và cũng không xâm phạm chùa miếu thờ Phật hay Đạo quán.

Từ đó trở đi, mâu thuẫn giữa hai thành không chỉ được giải quyết rốt ráo mà còn được vun bồi khiến mối quan hệ hai bên ngày càng gắn bó. Đàm Thành Vương ngưỡng mộ sự kiềm chế và ý chí khiêm nhường “thắng không kiêu” của Tu Thành Vương, còn Tu Thành Vương lại ngưỡng mộ sự tôn trọng lễ nghi, giữ gìn luật lệ và ý chí chấp nhận “bại mà không oán” của Đàm Thành Vương.

Thật bất ngờ, cuối cùng, hai vị Vương đã kết nghĩa huynh đệ, hai thành trở thành “anh em”.

Đây chính là sức mạnh của “Lễ” trong văn hóa Thần truyền.

(còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/296965

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài