Tác giả: Thoại Bản tiên sinh
[ChanhKien.org]
Lại nói về Dương Hồi khi đang truyền thụ võ nghệ cho Trương Tiễn.
Một ngày nọ, vào lúc cô đang ngồi đả tọa, trong định bỗng thấy tiến đến một ngọn núi. Trên tấm bia đá trước núi có khắc hai chữ rất lớn:
Côn Luân
Nguyên thần của cô từ trong núi này chậm rãi bay lên, nhìn thấy bốn bề non xanh nước biếc, yến oanh ca hót líu lo, khiến trong lòng cô dâng lên cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm.
Liền sau đó, làn gió nhẹ mang theo mùi hương hoa đào thoang thoảng thổi tới, cô liền theo luồng gió thơm phiêu đãng bay về phía tỏa ra mùi hương hoa đào kia.
Dòng chữ “Bàn Đào Viên” hiện ra trước mắt, trái tim cô bất chợt run lên, vừa định quay trở lại thì nghe thấy một giọng nói từ khu vườn vọng tới:
“Các tiểu Tiên nữ! Mẫu thân đến thăm các con này!”
Cô quay lại nhìn, hóa ra là Độ Hà Tản Nhân, liền tiến đến chào.
Cũng lúc đó, có bảy nàng tiên bay lượn phía sau Độ Hà Tản Nhân, y phục của họ là bảy màu sặc sỡ đỏ, cam, vàng, lục, chàm, lam, tím.
Độ Hà Tản Nhân chào Dương Hồi:
“Phu nhân, vườn đào cũ của ngài, chúng ta chăm sóc như này đã đủ chu đáo chưa?”
Dương Hồi nhìn những cành đào dày đặc hoa nở liền khen:
“Cát Thanh Hân Phúc Thư Linh Khiếu, Thập lý di phương Côn Luân đào” (Dịch nghĩa: Phước lành trong sáng tràn linh khiếu, Mười dặm Côn Luân ngát đào hoa)
Độ Hà Tản Nhân nói với các vị Tiên nữ ở phía sau:
“Các con mau đến bái kiến mẫu thân đi!”
Bảy vị Tiên nữ bẽn lẽn quỳ xuống, bái Dương Hồi, chào:
“Mẫu thân vạn an!”
Dương Hồi nhớ ra mình có bảy cô con gái. Ngay khi vừa chào đời đã được Tản Nhân đưa đến núi Côn Luân, nói là muốn để họ chăm sóc khu vườn nào đó, có lẽ chính là khu vườn Bàn Đào này. Khi nhìn kỹ bảy cô con gái, thấy lũ trẻ không chỉ duyên dáng mà dung mạo còn muôn phần yêu kiều xinh đẹp, liền mỉm cười gật đầu, nói:
“Mau đứng dậy nào!”
Bảy vị Tiên nữ rụt rè đứng lên, ngẩng đầu nhìn mẫu thân của mình, thấy khuôn mặt mẹ mình trẻ trung sáng trong như ngọc, vẻ thanh xuân rạng rỡ ngời ngời. Mẫu thân mỉm cười nhìn họ, ánh mắt trìu mến dịu dàng. Thân hình cô tuy không cao nhưng toát lên vẻ nghiêm nghị uy nghi.
Các Tiên nữ có vẻ e dè cẩn trọng khi ở cạnh Dương Hồi, không dám nói gì nhiều.
Lúc này, Độ Hà Tản Nhân nhận ra vẻ ngại ngần của các Tiên nữ, bèn nói:
“Mẫu thân của các con là người rất cởi mở, vui vẻ hoạt bát, sau này các con sẽ thấy. Đừng đứng ngây ra đó nữa. Đã lâu như thế không gặp, sao không vui vẻ nói chuyện với mẫu thân đi?”
Dương Hồi mỉm cười hỏi Tản Nhân:
“Ha ha, lẽ nào bọn nhóc sợ ta chăng?”
Độ Hà Tản Nhân cười cười, giơ ngón tay lên dí vào cạnh đuôi mắt, tinh nghịch nói:
“Chỉ hơi hơi chút thôi”.
Dương Hồi cười vui vẻ:
“Ha ha ha! Mau mào! Để ta xem nào. Các con ta sao trông duyên dáng xinh đẹp thế này? Chả giống ta chút nào. Vừa rồi ta còn tưởng mình nhận nhầm cơ đấy!”
Mấy tiểu Tiên nữ thấy mẹ cười nói vui vẻ với mình thì thấy nhẹ nhõm và yên tâm phần nào, liền xúm lại quanh Dương Hồi cười đùa tíu tít nói chuyện với cô.
“Các con đã có tên hay chưa?” Dương Hồi hỏi.
Độ Hà Tản Nhân đáp: “Phải rồi, chưa có. Câu thơ thất ngôn vừa rồi của cô rất hay: Cát, Thanh, Hân, Phúc, Thư, Linh, Khiếu – vừa đúng bảy chữ”.
Dương Hồi ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Ừm, vậy thì đổi Khiếu thành Kiều đi, thêm chữ ‘Dung’ vào nữa”.
Vậy là từ nay trở đi, bảy vị Tiên tử này sẽ được đặt tên theo thứ tự là:
Dung Cát, Dung Thanh, Dung Phúc, Dung Hân, Dung Thư, Dung Linh, Dung Kiều. Họ còn được gọi là Cát nữ, Thanh nữ, Phúc nữ, Hân nữ, Thư nữ, Linh nữ, Kiều nữ.
Bảy vị Tiên nữ này chuyện trò ríu rít với mẫu thân hồi lâu, Độ Hà Tản Nhân nói:
“Bọn trẻ hiện đang sống cùng Thanh Loan, cô ấy là người hàng ngày chăm sóc chúng. Vừa rồi bọn nhóc có chút e dè sợ sệt cô, có lẽ là vì Thanh Loan thường kể cho chúng nghe về những sự việc trảm yêu trừ ma của cô trong kiếp trước”.
Dương Hồi cười nói:
“Bây giờ thì chịu rồi, ta không thể trảm yêu được nữa, đành để ca ca Tiễn nhi của chúng đi làm thôi”.
Khi các tiểu Tiên nữ biết mình có một người anh trai, ai nấy đều ngỡ ngàng mừng rỡ…
Dương Hồi xuất định, thấy Tiễn nhi cũng vừa xuất định, liền nói:
“Tiễn nhi à, ta vừa đến Côn Luân sơn, thăm bảy muội muội của con đó”.
Trương Tiễn ngạc nhiên hỏi:
“Hả? Con còn có bảy muội muội nữa sao?”
Dương Hồi đáp:
“Phải, em gái lớn nhất của con gọi là Dung Cát, em thứ hai là… Ài dà, không nhớ rõ nữa rồi”.
Trương Tiễn mỉm cười nói:
“Mẹ cứ luôn nói không nhớ, nhưng lần nào con cũng không thể đánh thắng được mẹ”.
Dương Hồi mỉm cười an ủi:
“Sớm thôi, con sắp có thể thi triển thần thông. À, sau ngần ấy thời gian, con tìm tòi thể ngộ được chữ ‘Ngũ’ như thế nào rồi?”
Trương Tiễn quỳ xuống giải thích với Dương Hồi:
“Mẹ à, mấy ngày này mẹ bảo con quan sát những hiện tượng trong thiên nhiên như: cáo hoang săn thỏ, trăn phục bắt cáo, đại bàng sừng quắp trăn, còn cả hiện tượng bọ ngựa chờ bắt ve sầu, vàng anh rình rập sau lưng… Đốm lửa thiêu rụi thảo nguyên, thủy nhuận canh điền, nước mài đao kiếm… Dần dần, con đã minh tỏ, mẫu thân nói chữ ngũ này, chính là chỉ về thuyết Ngũ hành tương sinh tương khắc trong Tam giới, mà tinh hoa cốt lõi nhất trong võ học, chính là ở đây. Con ngộ vậy có đúng chăng?”
Dương Hồi gật gù tán thưởng:
“Ừm, ngộ tốt lắm, vậy Tiễn nhi à, con có biết vận dụng Ngũ hành thế nào không? Nếu con gặp yêu quái thỏ, con sẽ không thể đi cầu hồ ly tinh trợ giúp chứ, phải vậy không?”
Trương Tiễn nhăn mặt do dự, nói:
“Vâng ạ…”
Dương Hồi tiếp tục dạy:
“Mẹ đã từng phong ấn pháp khí trong mật động, bởi vì không có pháp khí, việc chiến đấu đương nhiên không thuận lợi, cho nên mẹ đã phải tùy cơ ứng biến, dùng cây cối hay nước theo gió mà biến, theo vật mà hóa, lấy nó để trị lũ tà ma”.
Trương Tiễn reo lên:
“Ồ! Vậy hài nhi cũng sẽ học theo phương pháp tùy vật hóa (binh) khí này!”
Nhưng Dương Hồi lại lắc lắc đầu, nói:
“Con này, con khác mẹ. Mẹ vốn thuộc Thổ, nên tự nhiên sẽ giỏi dùng cây hay nước, nhưng con thì không…”
Dương Hồi trở nên trầm tư, như chợt nhận ra điều gì đó, chậm rãi phân tích:
“Khi ta tùy vật hóa khí, thứ mượn là gió. Nhưng con trai ta vốn là từ trừng âm trừng dương biến hóa tạo thành, con trai ta chính là gió vậy! Tiễn nhi, con không cần tùy vật hóa khí, con có thể tự mình biến hóa được mà!”
Trương Tiễn hỏi:
“Con có thể tự mình biến hóa sao? Nếu nó là thỏ, con sẽ biến thành hồ ly? Nếu nó là mãng xà, con sẽ biến thành đại bàng sừng đúng không mẹ?”
Dương Hồi gật đầu nói:
“Không sai, chỉ cần đợi đến khi con xuất ra 72 thuật địa sát, bất kỳ vật nào có sắc tướng con đều có thể biến hóa được, rất dễ dàng”.
Trương Tiễn lại hỏi:
“Vậy điều khó là gì đây?”
Dương Hồi lại trả lời:
“Cái khó nằm ở chỗ, phải biến được giống hệt như vật thật, không được khác một chút nào. Điều này đòi hỏi phải dùng tâm tính mà nhìn. Tâm của con phải nhìn thấy tất cả chúng sinh, thì mới có thể biến hóa thành chúng sinh vạn vật được”.
Trương Tiễn hỏi:
“Mẹ, chẳng phải mỗi ngày chúng ta đều nhìn thấy chúng sinh sao?”
Dương Hồi lắc đầu nói:
“Người ta đều nghĩ như vậy. Chúng sinh ở nhân gian không phải là bản chất thật sự của họ. Cặp mắt thịt của con chỉ thấy cáo vồ bắt thỏ, nhưng thực ra, con chưa từng thấy con cáo hay con thỏ. Nếu con thấy được con cáo này vì cớ gì lại bắt con thỏ này, đó mới là nhìn thấy tầng thứ nhất. Còn nếu con biết được vì sao lại để con nhìn thấy cảnh tượng cáo vồ bắt thỏ, thì đó mới là tầng thứ hai của việc nhìn thấy…”
…
Cứ thế, Dương Hồi đã dạy Trương Tiễn suốt hơn hai năm ròng rã. Chỉ sau khi cô đem hết những thần thông từ đời trước mà cô còn nhớ được dạy hết cho Trương Tiễn, lúc đó, cô mới có thời gian rảnh để về nhà.
Đôi khi, Trương Tiễn có thể cảm nhận rõ rằng sau khi mẫu thân dạy cho cậu một nửa thì mẫu thân đột nhiên quên mất nửa còn lại.
Nhưng những lúc như vậy, Dương Hồi luôn nói:
“Không sao, gần được rồi, mười phần cũng phải được tới tám chín rồi”.
Dương Hồi dạy một bộ phận ký ức đời trước, kết hợp với những thứ được sư phụ qua đường chỉ điểm, và còn thêm vào những thứ bản thân ngộ được, tất cả đã giúp tu xuất ra, tạo nên một vị tản Tiên là Trương Tiễn.
Sau khi Trương Tiễn tu học võ thuật tương đối thành thạo, cậu thường được dẫn về nhà, đôi khi, cậu ra sân luyện võ. Trương Hữu Nhân thấy vậy bèn cười trêu:
“Mẹ con tuy hơi nửa vời, cái gì cũng chỉ biết một nửa nhưng dạy đồ đệ cũng khá đấy chứ”.
Trương Tiễn cũng cười cười đùa lại cha:
“Cha! Mẹ con không hề nửa vời đâu, mẹ con mười phần cũng phải được tới tám chín đấy!”
Trẻ con hàng xóm thường trèo lên bờ tường quanh sân để xem Trương Tiễn luyện võ, có đứa hỏi:
“Thiếu gia! Anh luyện loại huyền công gì thế?”
Trương Tiễn thường cười đáp:
“Bát Cửu Huyền Công!”
Đứa khác nói: “Ồ, hóa ra đây là nguồn gốc ra đời của ‘Bát Cửu Huyền Công’ đấy”. Tất nhiên là không đơn giản như thế. Bát cửu thất thập nhị có liên quan tới Thái Cực. Nhưng tại sao công phu của Trương Tiễn lại trùng hợp đến kỳ lạ như thế, lại cũng được gọi là ‘Bát Cửu Huyền Công’ đây?”
Không có sự việc nào là ngẫu nhiên cả.
Các vị thần phụ diện ở cao tầng cảm thấy Trương Tiễn là một người quá hoàn hảo, quá thập toàn thập mỹ — bất kể là xuất thân, tướng mạo, phẩm đức, năng lực đến kinh nghiệm nhân sinh… tất cả đều quá tốt đẹp, quá thuận lợi. Cho nên, họ đã dùng con số “tám chín” (八九 – bát cửu) để cảnh tỉnh cậu ta. Ý tứ rằng: “Cậu quá hoàn hảo rồi. Cha mẹ cậu đã định sẵn để cậu tu luyện lên thiên đình, làm bậc đế vương nơi Tam giới, còn bản thân cậu lại hoàn mỹ như thế, cậu cần cảnh giác đó, Tam giới vốn là Pháp vô toàn, cậu chỉ nên là tám chín thôi chứ không nên là mười đâu…”
Pháp (ở vào) hoại diệt, chính là đã rất khúc khuỷu méo mó rồi…
Một hôm, Trương Tiễn và mẹ đương lúc rảnh rỗi, Trương Tiễn hỏi:
“Mẹ, sao mẹ chưa xuất ra thần thông vậy?”
Dương Hồi suy nghĩ một chút rồi nói:
“Có lẽ họ sợ ta xuất thần thông rồi thì lại đi đánh trận đó”.
Trương Tiễn lại hỏi:
“Vậy mẹ, nếu mẹ xuất thần thông, mẹ sẽ đi giúp Tây Kỳ đánh trận chứ?”
Dương Hồi trả lời không chút do dự: “Chắc chắn rồi”.
Trương Tiễn bật cười:
“Ha ha ha! Mẹ rất thẳng thắn đó, hài nhi không bằng mẹ được”.
Dương Hồi cũng bật cười vui vẻ.
Trương Tiễn lại hỏi tiếp:
“Mẹ ơi, mẹ nói cha con thần thông quảng đại, vì sao cha không đi trợ giúp Tây Kỳ đánh trận?”
“Cha không thích việc này. Cha thích tĩnh, không thích động”.
“Ồ, là cha không hứng thú à?”
“Thật ra, dù cha con có thích việc gì, nếu là việc không nên làm thì cha con hoàn toàn có thể nhẫn được”.
Trương Tiễn trầm ngâm suy tư…
Dương Hồi vẻ mặt nghiêm nghị quay sang Trương Tiễn dặn dò:
“Tiễn nhi, con nhất định phải nhớ kỹ điều này, nếu gặp phải việc gì con thực sự rất muốn làm nhưng lại là việc không nên làm, thì nhất định phải nhẫn được! Vạn sự chính là bắt đầu từ thiện, mà nhẫn chính là cái thiện cuối cùng.
Một việc đại sự, muốn thành công thì chỉ chân thôi là chưa đủ, mà nhất định phải có nhẫn.
Phàm là người có thể thành được đại sự, người đó nhất định phải nhẫn được vững! Nhớ kỹ! Phải nhẫn được thật vững!”
Trương Tiễn cũng nghiêm trang thưa:
“Lời dạy của mẫu thân, Tiễn nhi sẽ ghi nhớ kỹ!”
…
Có lúc Trương Tiễn luyện võ trên núi, cũng thu hút sự chú ý từ người khác.
Một hôm, mấy vị bằng hữu cũ của Dương Hồi ở phía trên không trung của ốc đảo Trương Gia đang chăm chú xem Trương Tiễn luyện võ.
Nghe thấy Ngọc Đỉnh nói với Xuyên Du:
“Sư muội trong đời trước hình như rất ít khi dùng thuật biến hóa trong đánh trận”.
Xuyên Du gật đầu xác nhận:
“Phải, muội ấy cảm thấy việc biến đi biến lại nhiều trông không được oai phong cho lắm”.
Ngọc Đỉnh lại hỏi, vẻ mặt khó hiểu:
“Sư muội vốn tính tình phóng khoáng, sao lại dạy cho Tiễn nhi loại võ công khôn lỏi như này?”
Lúc này, Dương Hồi nghe được cuộc trò chuyện của họ liền đáp:
“Vì thằng bé là con trai ta! Nếu ta dạy các vị, nhất định sẽ không dạy kiểu khôn lỏi đâu, ha ha!”
Dương Hồi thương con trai, sợ con mình bị thương, nên dạy con mưu trí để qua mặt người khác, chứ không bao giờ dạy con dùng sức mạnh để đối đầu trực diện.
Mấy câu này khiến họ bật cười ha ha. Ngọc Đỉnh nói:
“Khẩu khí của sư muội dành cho chúng ta không còn khách sáo nữa rồi, chắc muội ấy đã nhớ ra chuyện gì rồi!”
Vậy là mấy người họ liền nhìn về phía Dương Hồi gọi toáng lên:
“Sư muội! Dao Chân! Muội đã nhớ ra rồi!”
Dương Hồi cười nói:
“Không nhớ ra để bị các huynh lừa sao, lại phải dập đầu hành lễ không biết bao nhiêu cái nữa!”
“Ha ha ha ha…” Mọi người rộ lên cười.
“Đúng rồi, huynh hãy giúp Tiễn nhi rèn Pháp khí đi!”
Ngọc Đỉnh nói:
“Được, đúng lúc Tây Kỳ và Ân Thương sắp khai chiến rồi…”
Chẳng mấy chốc, Trương Tiễn đã tu luyện sắp được năm năm. Tính theo thời gian bên ngoài ốc đảo thì bây giờ là đúng một năm chín tháng. Trận chiến giữa Tây Kỳ và Ân Thương lại bắt đầu.
Trước khi Trương Tiễn rời ốc đảo, Dương Hồi dặn dò cậu bốn điều:
“Trong mọi trận chiến con đều phải thật khéo léo đó; đối đầu trực diện sẽ luôn bất lợi. Trí trước dũng sau, vận dụng chút mưu mẹo nữa chứ không nên chân quá”.
Trương Hữu Nhân cũng dặn dò con trai:
“Tiễn nhi, khi con ra chiến trường, đừng tiết lộ lai lịch ốc đảo Trương Gia của con. Cứ nói con là môn đồ của Dao Chân Thiên thần phủ ở núi Côn Luân là được”.
“Vâng ạ! Cha mẹ bảo trọng, hài nhi xin cáo biệt!”
Trương Hữu Nhân và Dương Hồi trìu mến nhìn Trương Tiễn rời đi…
Sau khi Tiễn nhi đi rồi, Dương Hồi lại tiếp tục dốc sức đặt định văn hóa cho ốc đảo Trương Gia.
Mấy năm này, Trương Hữu Nhân và chúng Thần chủ yếu nỗ lực từng bước chế định “các lễ nghi của nhân loại” ở ốc đảo Trương Gia.
“Lễ” (禮) và “Lý” (理) là chữ đồng âm; không có gì là ngẫu nhiên. Nội hàm của văn hóa Trung Hoa là vô cùng sâu sắc, kỳ thực chính là nói cho con người, nghi lễ mà Thần định ra cho nhân loại chính là Thiên lý mà Thần dùng để quy phạm ước thúc con người.
Kể từ khi văn hóa truyền thống ở Trung Quốc đại lục bị phá hoại, lễ nghi giữa cha và con trai, cha và con gái, mẹ và con trai, mẹ và con gái, giữa hai vợ chồng, giữa con dâu và mẹ chồng, giữa hàng xóm với hàng xóm, giữa họ hàng xa và họ hàng gần, giữa thầy với trò, hay giữa bạn bè bằng hữu… đều đã hoàn toàn mất đi nhân lễ, cho nên, con người ngày nay đã đi ngược lại, hoàn toàn rời xa những Thiên lý mà Thần đặt định ra cho con người.
(Điều này là cực kỳ đáng sợ. Ngày nay, có rất nhiều trường hợp cha cưỡng hiếp con gái, thầy giáo cưỡng hiếp nữ sinh, con trai giết mẹ, đồng tính luyến ái… Tất cả những điều này là do giữa người với người đã không còn “lễ” nữa, không có ý thức đo lường phép tắc, vô cùng đáng sợ. Điều này sẽ được đề cập rõ trong phần 5)
Sau này, một thuật ngữ xuất hiện ở Trung Quốc đại lục: gọi là “Quốc học”, chính là để chỉ nền học vấn Trung Hoa bản địa chúng ta, những kiến thức học vấn cổ xưa. Quốc học ngày nay đại thể tôn sùng Khổng Tử là bậc thầy muôn đời.
Nhưng Khổng Tử đã nỗ lực khôi phục điều gì trong suốt cuộc đời mình?
Điều mà Khổng Tử tìm cách khôi phục trong cả cuộc đời mình chính là “Chu Lễ”.
Bởi vì Khổng Tử biết rằng, mọi thiên tai nhân họa nơi thế gian con người đều do con người đã rời xa Thiên đạo, Thiên lý mà phải chịu báo ứng nhân quả.
Con người khi không còn “Lễ”, tất là đang đi ngược lại với “Lý” rồi…..
(còn tiếp)