Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Nhân sinh cảm ngộ

Thắp sáng ngọn đèn tâm (94): Tấm lòng chí thành cảm động cả đất trời

04-11-2025

Tác giả: Quán Minh

[ChanhKien.org]

Rất nhiều người trên thế gian đều khao khát những việc mình làm sẽ có được thành công, nhưng lại không biết bí quyết của thành công là gì. Trong một buổi tọa đàm về phát triển năng lực trí tuệ, tôi đã đặt câu hỏi với những sinh viên trẻ rằng: “Làm thế nào mới có thể thành công?” Có vài người trả lời rằng: “Thành công phải dựa vào chính sự nỗ lực không ngừng của bản thân”. Cũng có người trả lời rằng: “Thành công phải dựa vào tài năng và học vấn thực sự của bản thân”. Một sinh viên lớn tuổi hơn trả lời: “Thành công phải dựa vào may mắn, vì mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên mà”. Thấy tôi im lặng, không bình luận xem câu trả lời nào là đúng, một nữ sinh không kìm được liền hỏi: “Thưa thầy, vậy đáp án của thầy là gì ạ?” Tôi đáp rằng: “Đáp án của các em đều có phần đúng, nhưng tôi cho rằng chìa khóa để thành công chính là phải có tấm lòng chân thành. Người xưa nói: Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai (có ý nghĩa là: Người có tấm lòng hết mực chí thành, thì đến vàng đá cũng phải mở ra). Chỉ có tấm lòng chí thành mới có thể bộc lộ trọn vẹn bản tính chân thật của con người, mới có thể cảm hóa người khác, cảm động vạn vật, lay động cả trời đất, và khiến điều ta hằng mong mỏi trở thành hiện thực”. Có vài học sinh ở dưới bày tỏ rằng họ chưa hiểu rõ ý nghĩa của câu thành ngữ “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai”. Tôi bèn dùng lời lẽ giản dị để giải thích cho họ rằng: ở đâu có tấm lòng chân thành của con người, thì nơi đó có thể cảm động cả trời đất, khiến vàng đá cũng phải nứt ra. Câu thành ngữ này ví rằng, bất cứ việc gì chỉ cần làm bằng tất cả lòng chân thành nhất, thì mọi khó khăn đều có thể được hóa giải. Sau khi nghe xong, các sinh viên cảm thấy câu trả lời ấy thật mới mẻ, nên tôi liền kể thêm cho họ nghe hai ví dụ dưới đây.

Vào năm 527 sau Công nguyên, Đạt Ma – người sáng lập Thiền tông ở Trung Quốc dùng một cọng lau vượt sông, trải qua muôn vàn gian nan trắc trở, cuối cùng đến được chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn. Khi ấy ở Nam Kinh có một vị tăng nhân danh xưng là Thần Quang, nghe danh Đạt Ma là vị cao tăng Ấn Độ tinh thông Phật Pháp, vì ngưỡng mộ mà tìm đến chùa Thiếu Lâm, một lòng một dạ xin được bái Đạt Ma làm thầy. Đạt Ma chưa rõ Thần Quang có thành tâm cầu đạo hay không, nên khéo léo từ chối. Nhưng Thần Quang không vì thế mà nản chí, vẫn từng bước theo sát bên Đạt Ma, đứng hầu phía sau, hết lòng chăm sóc, không rời nửa bước.

Vào một mùa đông giá lạnh đến nỗi nước nhỏ xuống cũng đóng thành băng, Đạt Ma đang ngồi thiền trong Đạt Ma đình ở hậu viện, còn Thần Quang thì tập trung tinh thần, cung kính phụng sự bên ngoài. Tuyết lớn rơi phủ kín đầu gối của Thần Quang, toàn thân ông như được khoác lên một tấm chăn tuyết dày. Đạt Ma hỏi: “Ngươi như này là đang làm gì vậy?” Thần Quang đáp: “Con cầu pháp với Phật Tổ”. Đạt Ma trầm ngâm một lát rồi nói: “Muốn ta truyền Pháp cho ngươi, trừ phi trời đổ tuyết đỏ”. Thần Quang lập tức hiểu rằng đó là khảo nghiệm tâm tính mà bậc thánh tăng dành cho mình. Không chút do dự, Thần Quang rút thanh đao mang theo bên người chém phăng cánh tay trái, máu tươi lập tức phun ra, nhuộm đỏ lớp tuyết dày dưới đất và y phục trên thân ông.

Tiếng đao thành kính ấy xuyên mây thấu sương, bay thẳng đến Tây Thiên, làm kinh động cả Phật Tổ Như Lai. Phật Tổ lập tức thuận tay cởi chiếc cà-sa, ném về Đông Thổ. Trong nháy mắt, toàn bộ chùa Thiếu Lâm được ánh sáng đỏ bao phủ, ráng mây ngũ sắc tỏa khắp bốn phương, tuyết lớn như lông ngỗng bị máu tươi nhuộm đỏ, rợp trời bay đến. Thần Quang buông thanh đao trong tay, cúi mình nhặt lấy cánh tay trái đẫm máu, đi một vòng quanh Đạt Ma đình, sau đó vẫn lặng lẽ đứng giữa trời tuyết đỏ, thế là tuyết phủ quanh đình cũng đều bị nhuộm thành một màu đỏ. Cảnh tượng ấy, Đạt Ma thấy rõ mồn một, cảm nhận được tấm lòng tín Phật vô cùng thành kính của Thần Quang. Đạt Ma bèn truyền y bát và pháp khí..v.v cho Thần Quang, còn ban pháp danh cho Thần Quang là “Huệ Khả”, để ông trở thành Nhị Tổ của Thiền tông chùa Thiếu Lâm. Về sau, để tưởng niệm sự kiện “Nhị Tổ chặt tay đứng trong tuyết cầu Pháp”, các tăng nhân trong chùa đã đổi tên “Đạt Ma đình” thành “Lập Tuyết đình”.

Còn một ví dụ khác là chuyện về Trương Sĩ Bình – thứ sử Thọ Châu thời nhà Đường. Từ sau tuổi trung niên, hai vợ chồng ông đều mắc bệnh về mắt, họ đã tìm thầy thuốc khắp nơi, chạy chữa bằng đủ phương thuật, nhưng chẳng có kết quả, cuối cùng ông phải từ chức, lui về ở ẩn trong biệt viện. Ông từ chối mọi khách đến thăm, chỉ chuyên tâm tự xét lỗi lầm của mình, lập đàn tế hướng về các vì sao mà cầu nguyện, thành khẩn cầu xin Thần Tiên bảo hộ. Năm này qua năm khác cứ thế trôi đi, gia sản ngày càng tiêu hao, nhưng tấm lòng chí thành của ông vẫn không hề suy giảm. Ngày 17 tháng 8, năm Nhâm Thìn, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7, có một thư sinh tìm đến xin gặp, tự xưng là người am hiểu y thuật, có thể chữa khỏi bệnh mắt cho hai vợ chồng. Trương Sĩ Bình nghe vậy liền ra gặp. Thư sinh nói: “Bệnh của ông không thể trị bằng thuốc thông thường. Ngày mai, hãy phái mười người thợ, chuẩn bị những dụng cụ như xẻng sắt, đào cho ông một cái giếng, mắt ông tự nhiên sẽ khỏi”. Trương Sĩ Bình làm đúng như lời thư sinh dặn, chuẩn bị đầy đủ người và dụng cụ, thư sinh chỉ địa điểm cho mọi người đào, bắt đầu đào từ sáng sớm, đến tối thì thấy nước trào lên. Ngay lúc đó, bệnh mắt của Trương Sĩ Bình lập tức giảm nhẹ; đến khi người nhà lấy nước mới trong giếng rửa mắt, ông liền nhìn rõ mọi vật, mắt bình phục như trước kia, mười năm mù lòa bỗng phút chốc tiêu tan. Hai vợ chồng cảm động khôn xiết, cúi đầu cảm tạ thư sinh và hậu tạ bằng vàng bạc, lụa là.

Vị thư sinh cảm ơn nhưng không nhận vàng bạc, lụa là, rồi nói với Trương Sĩ Bình: “Ta không phải người trần thế, mà là quan sao Thái Bạch. Vì ông mang bệnh nhiều năm vẫn không quên Đạo, tấm lòng chí thành lập đàn tế lễ cầu nguyện, đã làm cảm động các vì sao trên trời. Ngũ Đế tinh quân sai ta hạ thế truyền phương thuật này cho ông, giúp ông khỏi bệnh nặng, để đáp lại tấm lòng tu đạo và thành kính của ông. Vàng bạc và lụa là ông tặng, không phải thứ ta cần. Ta để lại phương thuật này, xin ông truyền lại cho mọi người, dùng để cứu giúp những người đau khổ, đồng thời gia tăng âm đức của ông”. Nói xong, quan sao Thái Bạch hóa thành cơn gió mát bay thẳng lên trời.

Tục ngữ có câu: “Lòng thành tất sẽ linh ứng”. Tấm lòng chân thật của con người có thể cảm động trời đất, từ đó khiến mùa hè rơi sương, tường thành tự sụp đổ, hoặc vàng đá bị xuyên thủng, xuất hiện những kỳ tích hay thần tích khó tin. Trong thế gian, làm bất cứ việc gì, khi lòng thành đạt tới cực điểm, sẽ làm kinh động Thần linh trên trời và Thần linh sẽ ra tay giúp đỡ. Vì cảm động trước tấm lòng thành ấy, mới có Cầu Ô Thước của Ngưu Lang – Chức Nữ, hay Trường Thành sụp đổ vì nước mắt của Mạnh Giang Nữ. Chí thành là cực kỳ chân thật. Niềm tin chân thành và sự phục tùng tuyệt đối chính là tín ngưỡng chuyên nhất; sức mạnh của nó vượt qua mọi kỹ năng hay nỗ lực của con người thế gian. Còn đối với những kẻ tự cho mình thông minh nhưng lại giả dối, chỉ sở hữu thân xác con người một cách vô ích mà không làm chủ tâm mình, khiến người khác thấy họ khẩu thị tâm phi, mặt mày khó ưa, thậm chí khi ở một mình, chính họ cũng âm thầm xấu hổ vì sự không chân thành của mình. Vì thế, tấm lòng chí thành mới là bí quyết thật sự để con người đạt đến thành công.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/47975

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài