Tinh giải luận ngữ (44): Tự bó buộc



[ChanhKien.org]

Nguyên văn

冉求曰:“非不说(1)子之道,力不足也。”子曰:“力不足者,中道而废(2)。今女(3)画(4)。” (《论语•雍也第六》)

Hán Việt

Nhiễm Cầu viết: “Phi bất duyệt (1) tử chi đạo, lực bất túc dã.” Tử viết: “Lực bất túc giả, trung đạo nhi phế (2). Kim nhữ (3) hoạ (4).”

(Luận Ngữ – Chương 6 – Ung dã)

Phiên âm

Rǎn qiú yuē: “Fēi bù shuō zǐ zhī dào, lì bù zú yě.” Zǐ yuē: “Lì bù zú zhě, zhōng dào ér fèi. Jīn nǚ huà.”

(Lùn yǔ • Yōng yě dì lìu)

Chú âm

冉ㄖㄢˇ 求ㄑㄧㄡˊ 曰ㄩㄝ: “非ㄈㄟ ㄅㄨˋ 说ㄕㄨㄛ 子ㄗˇ 之ㄓ 道ㄉㄠˋ, 力ㄌㄧˋ 不ㄅㄨˋ 足ㄗㄨˊ 也ㄧㄝˇ.” 子ㄗˇ 曰ㄩㄝ: “力ㄌㄧˋ 不ㄅㄨˋ 足ㄗㄨˊ 者ㄓㄜˇ, 中ㄓㄨㄥ 道ㄉㄠˋ 而ㄦˊ 废ㄈㄟˋ. 今ㄐㄧㄣ 女ㄋㄩˇ 画ㄏㄨㄚˋ.”

(《论ㄌㄨㄣˊ语ㄩˇ•雍ㄩㄥ也ㄧㄝˇ第ㄉㄧˋ六ㄌㄧㄡˋ》)

Chú thích

1. 说 (duyệt): đồng âm với chữ “悦” (duyệt), chỉ sự vui vẻ, hớn hở.

2. 中道而废 (Trung đạo nhi phế): bỏ cuộc giữa chừng.

3. 女 (nhữ): đồng âm với chữ “汝” (nhữ) – anh, bạn (đại từ xưng hô ngôi thứ hai).

4. 画 (hoạ): cũng có nghĩa là “划” (hoạ) – vạch ra vòng tròn hay giới hạn, trói buộc không cho tiến lên.

Diễn nghĩa

Nhiễm Cầu nói: “Không phải trò không thích những lời giảng của thầy về Đạo Nho, mà do năng lực của trò thực sự yếu kém!”, Khổng Tử nói: “Năng lực người ta có hạn là khi họ đi được nửa đường rồi mới dừng dại, mà nay trò lại gò bó mình trong một vòng tròn mà không chịu tiến lên”.

Nghiên cứu và phân tích

Thông qua phân tích giải nghĩa hai câu nói “Phi bất thuyết tử chi đạo” (không phải trò không thích những lời giảng của thầy về Nho Đạo) và “lực bất túc dã” (năng lực của trò thực sự yếu kém) của Nhiễm Cầu, có thể thấy câu “Phi bất thuyết tử chi đạo” khá giống với bản tính của Nhiễm Cầu, cũng như “tử chi đạo” (đạo của thầy) là đều hướng về phản bổn quy chân; nhưng mà “lực bất túc dã”, tư tưởng này lại cản trở con đường phản bổn quy chân, đó không xuất phát từ bản tính thuần chân của Nhiễm Cầu. “Lực bất túc dã” phản ánh sự thiếu tự tin, tâm lý sợ khó sợ khổ, không đủ kiên định vào thầy và Đạo. Đó đều là những quan niệm biến dị và bất thuần mà hậu thiên hình thành, tạo nên can nhiễu, quan nạn cho những người tu tâm dưỡng tính, phản bổn quy chân. Chỉ có thông qua không ngừng học đạo lý, minh lý, minh tâm, thấy được bản tính, ý thức thanh tỉnh không mơ hồ, mới có thể phân biệt rõ ràng niệm đầu tư tưởng nào là thật sự xuất phát từ bản tính thuần chân, và niệm đầu tư tưởng nào là chướng ngại hay quan niệm nên phải tu chính và trừ bỏ.

Trong quá trình thăng hoa tu tâm dưỡng tính, phản bổn quy chân, thì bản tính thuần chân từ tiên thiên trộn lẫn, lẫn lộn với những chấp trước hay quan niệm bất thuần hình thành từ hậu thiên, đó là vì bản thân vẫn có những chấp trước và quan niệm mà mình vẫn chưa ý thức được, thế nên những tâm ấy mới biểu hiện ra ngoài. Mà người làm thầy sở dĩ có thể làm thầy, chính là vì người thầy có thể hiểu được lý của tầng thâm sâu hơn, có thể dễ dàng thông qua những cuộc trò chuyện hay lời truyền miệng mà nhìn được sáng tỏ những chấp trước và quan niệm của học trò, để từ đó có thể dẫn dắt “truyền Đạo”, “giải điều mê hoặc”, giống như “Kim nữ hoạ”, một trâm đúng huyệt, điểm trúng trọng tâm.

Trên thực tế, Nhiễm Cầu vẫn thấy khó làm được, tín tâm không vững, vậy rốt cuộc sai ở đâu? Thật ra nếu Nhiễm Cầu thực sự ham học, thực sự đặt tâm học “đạo của thầy”, thì sẽ hoàn toàn không cần Khổng Tử chỉ dạy thêm nữa. Chính vì có trở ngại, nên mới khiến Nhiễm Cầu không học tốt được “đạo của thầy”, vậy trở ngại đó là gì? Bị điều gì trói buộc? Là điều gì đã hạn chế tự ngã của bản thân? Đó có phải là những quan niệm và chấp trước được hình thành từ nhân gian không? Mục đích của việc không ngừng học những đạo lý cao thâm hơn, chẳng phải vì để trừ bỏ đi những chấp trước và quan niệm ấy sao? Nếu ôm chặt không buông những chấp trước và quan niệm ấy để học “đạo của thầy”, thì học được gì đây? Có thể chẳng học được gì cả, cũng chẳng cải biến được gì, tâm tính cũng không đạt được đề cao, vậy đương nhiên khó làm được, đương nhiên sẽ nói “lực bất túc dã”, còn sản sinh tâm lý tiêu cực, sợ khổ, bởi vì những suy nghĩ biểu hiện ra chính là những chấp trước và quan niệm kia đang gắng sức tránh khỏi bị thanh trừ. Thực ra, cần dùng đạo lý cao tầng hơn nữa để yêu cầu bản thân, với cơ điểm như vậy mới có thể học được đạo lý từ tầng cao hơn. Như vậy, nội hàm của việc học tập là rất thâm sâu, mà “biển học vô bờ”, học trò nên hiểu được ý nghĩa sâu sắc của “học tập” mới có thể thật sự thăng hoa lên trên.

Câu hỏi mở rộng

1. Con người rất dễ từ cơ điểm của một khuôn mẫu quan niệm cũ cố hữu để hình thành hình mẫu làm việc và mô thức tư duy, mãi ôm chết cứng những quan niệm cũ, lý luận và giá trị quan cũ, bảo thủ mà không muốn tiếp thu những nhận thức mới, kết quả lại luôn dập khuôn chính mình, dậm chân tại chỗ, không theo kịp sự phát triển. Những điều bản thân cho rằng rất chính xác, rất tán đồng như vậy, vậy tại sao khi kiên trì với những điều ấy lại khiến bản thân bị bế tắc, không còn đường đi?

Hãy nghĩ xem: những quan niệm truyền thống mà trước đó luôn cho rằng rất chính xác ấy, nhận thức của lúc đó liệu có vĩnh viễn đúng đắn được sao? Những tư tưởng tốt đẹp của con người có thể cố định bất biến như đá tảng hay không? Đó chẳng phải là những tư tưởng trì trệ, dập khuôn, cứng nhắc hay sao? Tại sao tư tưởng quan niệm của con người lại không thể thoát ra khỏi cái khung gò bó, khuôn mẫu cố hữu đó? Có phải vì con người tự mình cứ ôm chết cứng không buông, rất chấp trước, nhìn nhận rất tuyệt đối không? Điều này chẳng phải cũng giống với việc rất nhiều người luôn tự cho mình là đúng hay sao? Con người luôn có những thứ họ rất chấp trước, ví dụ như những quan niệm đã ăn sâu bám rễ và có thể khiến người ta tự trói buộc chính mình.

2. Vì sao con người phải học tập? Giữa việc học của con người và những quan niệm không tốt và chấp trước của họ có quan hệ gì? Việc học vì để bảo hộ chấp trước và những quan niệm bất hảo có là tốt? Hay là học để phân biệt được thật và giả, tốt và xấu, từ đó trừ bỏ đi tâm chấp trước và những quan niệm bất hảo mới là tốt? Nếu vẫn bảo hộ, trân quý, yêu thích, tiếp nhận, đồng tình với những chấp trước và quan niệm bất hảo của chính mình thì có phải là học thực sự không? Nếu là học với mục đích như vậy thì cho dù có học chăm chỉ hơn nữa cũng uổng công. Về bản chất thì nếu không học tập thật sự, mà trong tâm vẫn ôm chết cứng không buông với những chấp trước và quan niệm cố hữu, trong khi đó, bên ngoài làm ra vẻ học tập, như vậy ai là người đang học đây? Bản thân không thật sự học tập rồi! Thực ra là bản thân không đủ nghiêm túc với việc học, thử nghĩ xem, một đồ đệ muốn bái sư học Đạo, vậy mà bản thân lại chẳng chân thành học sư học Đạo, thì liệu có thành công được không? Nếu học sinh có thể có nhận thức sâu hơn về bản thân việc học tập, thì lúc này người ấy đã thực sự học rất tốt rồi, vậy thì bất kể anh ấy học điều gì, hiệu quả học tập nhất định sẽ tốt. Vậy thì tại sao con người lại phải học tập?

Tài liệu đọc hiểu: Câu chuyện về chiếc bánh kem lạnh

Đối với con người thì quan niệm giống như một chương trình phần mềm được cài đặt trong hệ thống máy tính. Con người vẫn luôn luôn sống vì những quan niệm. Đặc biệt là khi con người tranh chấp với nhau, ngoài những lợi ích thiết thân ra, thì đa phần người ta bị kích động là vì để bảo vệ những quan niệm của bản thân.

Quan niệm bài xích lý tính, quan niệm không phải là chân lý, quan niệm có thể thao túng tư tưởng con người.

Có một câu chuyện khiến tôi cảm động sâu sắc:

Vào một ngày Chủ nhật cách đây không lâu, anh ở nhà, tranh thủ lúc nghỉ ngơi viết vài thứ, còn cô thì lên phố làm chút việc vặt. Chẳng mấy chốc sau trời đã tối rồi, đứa trẻ lẫm chẫm đi tới, nói: “Bố ơi, con đói”.

Anh lộ rõ vẻ bối rối, trong lúc đang phân vân thì đứa trẻ lại nói: “Chúng ta ăn bánh kem lạnh ở trên ban công mà dì La mang đến hai hôm trước đi!”

Anh đồng ý, thế là đứa trẻ vui sướng bê hộp bánh kem lạnh lớn vào phòng, mở nắp ra. Bên ngoài là một tầng vỏ sô-cô-la đen dày, xung quanh trang trí hoa kem trắng, phía trên là mấy bông hoa kem hồng.

Anh nghĩ nên đợi cô về rồi cùng ăn, nhưng đứa nhỏ đói không chịu được, trông có vẻ cũng thèm ăn lắm rồi, liền nói: “Chúng ta ăn bên viền bánh, đừng làm hỏng bánh, đợi mẹ con về rồi cắt bánh ăn nhé”.

Anh vừa nói vừa cầm dĩa khoét vỏ sô-cô-la ở một góc bánh, rồi đào một cái lỗ, đứa trẻ cũng cầm dĩa nhựa vừa khoét bánh vừa ăn. Ăn được một lúc thì anh phát hiện cái lỗ này rất giống lỗ chuột gặm, liền nói: “Chúng ta đợi mẹ về rồi trêu mẹ cái lỗ này là do chuột gặm nhé”.

Đứa bé cười hi hi, nói: “Được ạ”.

Thế là hai bố con lại dùng dĩa vạch ra mấy vết nhỏ không đều nhau sao cho giống dấu chân chuột, rồi ăn luôn mấy “bông hoa”, để lại vệt kem còn in dấu vết cào nhỏ không đều của chiếc dĩa.

Để cho giống thật, anh lại dùng dĩa khui một cái lỗ trên nắp nhựa xốp của hộp bánh kem, đứa trẻ lại để cái lỗ trên bánh kem bên trong và cái lỗ ở nắp hộp bên ngoài đối xứng với nhau, rồi đậy nắp hộp lại, đặt lại ban công.

Lúc trời gần như tối mịt rồi mẹ mới về. Hai bố con vờ điềm nhiên như không. Vì để chuẩn bị trêu mẹ, bố nói: “Hôm nay anh thấy có chuột trên ban công”.

Mẹ kinh ngạc, rồi nói mai phải lập tức mua thuốc chuột, vì cô sợ nhất chuột, ghét nhất chuột, đến ma quỷ cô cũng chẳng sợ, nhưng cô lại sợ chuột. Vì nhà mẹ đẻ của cô theo vô thần luận, không cúng tế tổ tiên cũng chẳng tin vào Thần, chỉ tin vào phấn đấu, nên càng không tin có ma quỷ, nên cô coi tất cả những điều không giải thích được là hiện tượng tự nhiên hay những điều cần được khám phá, không thể thoát ra khỏi quan niệm cố hữu để nhận thức lại mới về thế giới. Cô ấy sợ chuột như vậy, là vì hồi mới biết ghi nhớ sự việc, từng có con chuột chạy thẳng đến chỗ cô, dọa cô sợ chết khiếp. Từ khi ấy cô vừa ghét vừa sợ, luôn thấp thỏm trong lòng về tất cả các loại chuột.

Đợi đến khi mẹ bận làm cơm, bố nói ban công chẳng phải có một cái bánh kem lạnh hay sao? Tối chúng ta ăn bánh đi, làm chút món ăn là được rồi.

Mọi người đều đồng ý.

Đứa trẻ lại bê bánh đến, hai bố con chẳng ai bắt tay vào mở hộp trước, nên tất nhiên mẹ sẽ mở bánh. “Ô … aaa!”

Mẹ hét lên kinh hãi: “Bánh kem bị chuột ăn rồi!”

Hai bố con cũng hùa theo giả bộ kinh ngạc.

Mẹ cười nhưng lại tránh xa chiếc bánh kem đó, mẹ kinh hãi kêu la, vừa thán phục bản lĩnh của con chuột vừa kêu hét sợ hãi, mẹ la rằng ghét chuột, ghét tất cả những thứ chuột động vào.

Đứa nhỏ cũng cười, cũng kêu la, thấy mẹ cười, em bé cũng bắt chước cười, thấy mẹ hét cũng hùa theo hét lên. Đứa trẻ gập người cười, cười đau cả bụng.

Bố đương nhiên cũng cười, nhưng có tiết chế lại.

Sau đó, bố nói không sợ chuột, rồi cầm dĩa thép lên xắt một miếng ở cái lỗ trên bánh kem đưa lên miệng ăn, đứa trẻ cũng nói không sợ chuột, cũng bắt chước bố ăn bánh kem.

Nhưng mẹ cũng chẳng suy nghĩ kỹ lại, dường như cô phát điên, mẹ kinh hãi, mẹ kêu la, mẹ cười lớn. Mẹ cười con chuột, cười hai bố con.

Đứa trẻ cũng cười lớn, em cười mẹ, cuối cùng cười bấm bụng đến mức không ăn được tiếp.

Sau một hồi kích động, mẹ bình tĩnh trở lại, rồi đi vo gạo cắm cơm. Hai bố con thủ thỉ mấy câu, quyết định nói cho mẹ biết bí mật, để tránh mẹ bỏ lỡ mất cơ hội thưởng thức bánh kem. Nhưng không ngờ rằng, mẹ chẳng những không bất ngờ, trách mắng, mà còn bán tín bán nghi, vẫn không động vào chiếc bánh kem, thậm chí mẹ còn quan sát vỏ ngoài sô-cô-la to đùng từ đằng xa, trong lòng tâm trạng ngổn ngang. Hai bố con ăn thử cho mẹ xem, mẹ vẫn giữ thái độ như cũ, kiên quyết nói: “Mẹ không ăn bánh đâu, mẹ ăn cơm”. Sau khi ăn xong cơm tối, anh tổng kết lại nói: “Em là bị ảnh hưởng từ quan niệm đến lời nói dối, rồi lại chứng kiến quá trình diễn biến của quan niệm. Đầu tiên là có quan niệm sợ chuột, do nghe tin vào lời dối trá mà hình thành nên quan niệm mới, nên dù có yêu thích bánh kem nhưng vẫn tránh xa, từ đó hình thành nên chướng ngại tâm lý mới, mà không đi phân tích chân tướng sự việc một cách lý trí. Giả dụ là anh, ban đầu anh sẽ nghĩ: chuột làm sao vào được ban công, ban công hoàn toàn đóng kín, nó mà vào thì phải đi qua bốn con đường, khả năng này rất thấp. Với lại, anh cũng chẳng ra ban công lấy đồ gì to lớn cả, khả năng nó chạy vào theo cùng đồ vật cũng gần như bằng không, cho nên sống ở nhà lầu thì thường không có chuột; hơn nữa, lỗ mà chuột gặm sẽ tròn tròn, bên ngoài sẽ rơi vãi rất nhiều mẩu nhỏ, mảnh vụn, mà ở đây đều không có; còn nữa, chuột rất có hứng thú với đồ ăn các loại, có lẽ chẳng thèm ăn kem bơ hay sô-cô-la đâu. Vậy thì làm sao mà mấy bông hoa kem bị ăn sạch sẽ gọn gàng thế được? Chuột ăn đồ ăn thì vừa ăn vừa phá, nó tuyệt đối không ăn gọn gàng sát viền đâu. Cuối cùng, những chỗ chuột trèo qua đại đa số sẽ có lông mảnh sót lại, có lúc sẽ lưu lại dấu chân và đuôi chuột kéo qua, mà những dấu vết này đều không có. Vậy nên, chỉ cần bình tĩnh quan sát, thì sẽ phát hiện ra trò lừa bịp”.

Sau khi nghe anh tỉ mỉ phân tích và giải thích, cô dường như cũng thông suốt rồi, nhưng vẫn không khơi lên được cơn thèm ăn bánh kem của cô, vì cô không thừa nhận bản thân bị nói là hình thành quan niệm mới, nên chỉ thử vài miếng bánh nhỏ cho có, ăn xong cũng không đánh giá gì, xem chừng có vẻ chỉ ăn mà chẳng cảm nhận được vị gì.

Thật ra chính là như vậy, con người rất dễ hình thành quan niệm, nhưng để phá trừ quan niệm thì rất khó. Càng là người được coi là có nhiều kinh nghiệm thì quan niệm càng nhiều, khi làm việc gì đó thì trong đầu não sẽ có vô số những khuôn mẫu trói buộc khởi tác dụng, nhìn trước ngó sau, làm gì cũng thuận lợi rồi dẫn đến hiểu sai, làm sai sự việc. Hàm nghĩa của câu: “Thông minh quá bị thông minh hại”, trong đó phần lớn có lẽ là chỉ những trường hợp hiểu sai sự việc bởi có đem theo quan niệm.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868



Ngày đăng: 10-03-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.