*: Cha con vua nước Vệ tranh giành ngôi báu
[ChanhKien.org]
Nguyên văn
冉有曰:“夫子为(1)卫君(2)乎?”子贡曰:“诺(3),吾将问之。”入,曰:“伯夷、叔齐何人也?”曰:“古之贤人也。”曰:“怨乎?”曰:“求仁而得仁,又何怨?”出,曰:“夫子不为也。”(《论语·述而第七》)
Hán Việt
Nhiễm Hữu viết: “Phu tử vi Vệ quân hồ?” Tử Cống viết: “Nặc, ngô tương vấn chi”. Nhập, viết: “Bá Di, Thúc Tề hà nhân dã?” Viết: “Cổ chi hiền nhân dã”. Viết: “Oán hồ?” Viết: “Cầu nhân nhi đắc nhân, hựu hà oán?” Xuất, viết: “Phu tử bất vi dã”. (Luận ngữ – Thuật nhi đệ thất)
Phiên âm
Rǎn Yǒu yuē: “Fūzǐ wèi Wèi jūn hū?”. Zǐ Gòng yuē: “Nuò, wú jiāng wèn zhī.”. Rù, yuē: “Bóyí, Shūqí hé rén yě?”. Yuē: “Gǔ zhī xián rén yě.”. Yuē: “Yuàn hū?”. Yuē: “Qiú rén ér dé rén, yòu hé yuàn?”. Chū, yuē: “Fūzǐ bù wéi yě.” (“Lúnyǔ·Shù ér dì qī”).
Chú âm
冉 (ㄖㄢˇ) 有 (ㄧㄡˇ) 曰 (ㄩㄝ): “夫 (ㄈㄨ) 子 (ㄗˇ) 为 (ㄨㄟˋ) 卫 (ㄨㄟˋ) 君 (ㄐㄩㄣ) 乎 (ㄏㄨˉ)?” 子 (ㄗˇ) 贡 (ㄍㄨㄥˋ) 曰 (ㄩㄝ): “诺 (ㄋㄨㄛˋ), 吾 (ㄨˊ) 将 (ㄐㄧㄤ) 問 (ㄨㄣˋ) 之 (ㄓˉ)。” 入 (ㄖㄨˋ), 曰 (ㄩㄝ): “伯 (ㄅㄛˊ) 夷 (ㄧˊ)、叔 (ㄕㄨˉ) 齐 (ㄑㄧˊ) 何 (ㄏㄜˊ) 人 (ㄖㄣˊ) 也 (ㄧㄝˇ)?” 曰 (ㄩㄝ): “古 (ㄍㄨˇ) 之 (ㄓˉ) 贤 (ㄒㄧㄢˊ) 人 (ㄖㄣˊ) 也 (ㄧㄝˇ)。” 曰 (ㄩㄝˊ): “怨 (ㄩㄢˋ) 乎 (ㄏㄨˉ)?” 曰 (ㄩㄝ): “求 (ㄑㄧㄡˊ) 仁 (ㄖㄣˊ) 而 (ㄦˊ) 得 (ㄉㄜˊ) 仁 (ㄖㄣˊ), 又 (ㄧㄡˋ) 何 (ㄏㄜˊ) 怨 (ㄩㄢˋ)?” 出 (ㄔㄨˉ), 曰 (ㄩㄝ): “夫 (ㄈㄨ) 子 (ㄗˇ) 不 (ㄅㄨˋ) 为 (ㄨㄟˊ) 也 (ㄧㄝˇ)。” (《论 (ㄌㄨㄣˊ) 语 (ㄩˇ) · 述 (ㄕㄨˋ) 而 (ㄦˊ) 第 (ㄉㄧˋ) 七 (ㄑㄧ)》)
Chú thích
1. 为 (vị): đồng âm với chữ “未” (vị), nghĩa là giúp đỡ.
2. 卫君 (Vệ quân): ở đây chỉ Vệ Xuất Công Triếp (hiệu là Xuất Công; tên là Triếp), là cháu nội của Vệ Linh Công, trị vì từ năm 492 TCN – 481 TCN. Cha của ông vì mưu sát Nam Tử mà bị Vệ Linh Công trục xuất khỏi nước Vệ. Sau khi Vệ Linh Công mất, Triếp được lập làm vua nước Vệ, nhưng cha ông đã quay trở về và tranh giành ngôi vị, từ đó hình thành nên cục diện cha con tranh giành ngôi vua.
3. 诺 (nặc): Vâng, dạ, ừ (biểu thị sự đồng ý)
Diễn nghĩa
Nhiễm Hữu hỏi Tử Cống rằng: “Liệu thầy có giúp vua nước Vệ không?” Tử Cống nói: “Để ta đi hỏi thầy”. Thế rồi Tử Cống đi hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy, Bá Di, Thúc Tề là người như thế nào?”, Khổng Tử đáp: “Họ là những bậc hiền nhân thời cổ đại”. Tử Cống lại hỏi: “Họ có oán hận không?”, Khổng Tử đáp: “Họ theo đuổi lý tưởng nhân đức nên cũng dốc sức làm việc nhân đức, đã đắc được nhân đức, cớ sao lại oán hận?” Tử Cống ra ngoài nói với Nhiễm Hữu rằng: “Thầy sẽ không giúp vua Vệ”.
Nghiên cứu và phân tích
Sau khi vua nước Vệ là Triết kế vị, ông đã tranh giành ngôi vua với cha mình. Điều này vừa hay tương phản rõ rệt với việc hai anh em Bá Di và Thúc Tề nhường ngôi cho nhau. Ở đây, Khổng Tử đã tán dương Bá Di, Thúc Tề, cũng là thể hiện sự không đồng tình với việc cha con Vệ Xuất Công vi phạm tôn ti trật tự. Từ đó có thể thấy rằng, “Lễ” chính là tiêu chuẩn đánh giá của Khổng Tử đối với hai sự việc này.
Câu hỏi mở rộng
1. Tại sao Tử Cống lại suy luận một cách chắc chắn rằng Khổng Tử sẽ không giúp vua nước Vệ?
2. Bạn có biết thuyết “Ngũ luân” nào của Trung Quốc không? Việc hai cha con vua nước Vệ tranh giành ngôi vị là vi phạm vào “luân” nào? Hãy chia sẻ việc bạn thực hành ngũ luân trong cuộc sống thường ngày như thế nào?
Tài liệu đọc hiểu
Cầu nhân đắc nhân
Bá Di và Thúc Tề là con trưởng và con thứ ba của nhà vua nước Cô Trúc vào cuối thời nhà Thương (Cô Trúc là quốc gia chư hầu của nhà Thương, nay là tỉnh Hà Bắc). Nhà vua nước Cô Trúc muốn lập Thúc Tề làm thái tử. Sau khi ông mất, Thúc Tề lại muốn nhường ngôi cho huynh trưởng Bá Di, nhưng Bá Di nói rằng: “Đệ làm vua là theo di mệnh của vua cha, làm sao có thể tùy tiện làm trái?” Thế rồi ông liền bỏ đi. Thúc Tề cảm thấy mình không nên kế thừa ngôi vị, nên cũng bỏ đi. Người dân trong nước đành lập con trai thứ hai của nhà vua kế thừa ngôi vị.
Sau này, Bá Di và Thúc Tề nghe nói Tây Bá Cơ Xương ở Tây Kỳ (nay là Kỳ Sơn thuộc tỉnh Thiểm Tây) là một người có đức hạnh, liền lặn lội đường xá xa xôi đến Tây Kỳ. Lúc này, Tây Bá Cơ Xương đã qua đời, con trai ông là Chu Vũ Vương kế vị, truy phong Tây Bá Cơ Xương làm Văn Vương, chuẩn bị thảo phạt Trụ Vương nhà Thương. Bá Di và Thúc Tề không tán đồng với cách làm dùng bạo lực đánh lại bạo lực nên liền kéo dây cương ngựa của Chu Vũ Vương mà khuyên rằng: “Cha chết không lo việc mai táng lại đi phát động chiến tranh, đây mà là “hiếu” sao? Thân là thần tử nhà Thương nhưng lại muốn thảo phạt quân chủ, đây mà là “nhân” sao?”, Chu Vũ Vương không nghe. Chu Vũ Vương đã diệt nhà Thương lập nên nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề cho rằng đây là một nỗi ô nhục, không muốn ăn bất kỳ lương thực nào trên đất nhà Chu nữa, liền đến núi Thủ Dương (nay thuộc phía Tây Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây) đào rau dại ăn qua ngày, cuối cùng chết vì đói.
“Cầu nhân đắc nhân” có nghĩa là một người vì theo đuổi lý tưởng nhân đức nên dốc lòng làm việc nhân đức, cuối cùng đắc được nhân đức, ví von với việc thực hiện được lý tưởng của mình.
(Trích “Sử Ký – Bá Di liệt truyện”)
Bài tập
1. Tại sao Bá Di, Thúc Tề lại chết đói trên núi Thủ Dương? Bạn nhìn nhận như thế nào về việc này?
2. Hãy chia sẻ với mọi người câu chuyện mà bạn biết về những bậc hiền nhân, chí sĩ thời cổ đại sẵn sàng xả thân vì đạo nghĩa.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868