[ChanhKien.org]
Nguyên văn
子曰:“中人(1)以上,可以语(2)上(3)也;中人以下,不可以语上也。” (《论语·雍也第六》)
Hán Việt
Tử viết: “Trung nhân (1) dĩ thượng, khả dĩ ngữ (2) thượng (3) dã; trung nhân dĩ hạ, bất khả dĩ ngữ thượng dã.” (Luận ngữ – Ung dã đệ lục)
Phiên âm
Zǐ yuē: “Zhōng rén yǐ shàng, kěyǐ yǔ shàng yě; zhōng rén yǐ xià, bù kěyǐ yǔ shàng yě.” (“Lúnyǔ·Yōng yě dì lìu”)
Chú âm
子 (ㄗˇ) 曰 (ㄩㄝˊ): “中 (ㄓㄨㄥ) 人 (ㄖㄣˊ) (1) 以 (ㄧˇ) 上 (ㄕㄤˋ), 可 (ㄎㄜˇ) 以 (ㄧˇ) 语 (ㄩˇ) (2) 上(ㄕㄤˋ) (3) 也 (ㄧㄝˇ);中 (ㄓㄨㄥ) 人 (ㄖㄣˊ) 以 (ㄧˇ) 下(ㄒㄧㄚˋ), 不 (ㄅㄨˋ) 可 (ㄎㄜˇ) 以 (ㄧˇ) 语 (ㄩˇ) 上 (ㄕㄤˋ) 也 (ㄧㄝˇ)。” (《论 (ㄌㄨㄣˊ) 语 (ㄩˇ) · 雍 (ㄩㄥ) 也 (ㄧㄝˇ) 第 (ㄉㄧˋ) 六 (ㄌㄧㄡˋ)》)
Chú thích
1. 中人 (Trung nhân): những người có tư chất hoặc tiêu chuẩn đạo đức trung bình, giống như “trung sỹ”. Lão Tử đã giảng: “Thượng sỹ văn Đạo, cần nhi hành chi. Trung sỹ văn Đạo, nhược tồn nhược vong. Hạ sỹ văn Đạo, đại tiếu chi; bất tiếu, bất túc dĩ vi Đạo”. (Dịch nghĩa: Bậc thượng sỹ nghe Đạo thì gắng sức thực hành; trung sỹ nghe Đạo thì lúc thực hành lúc không; kẻ hạ sỹ nghe Đạo thì cười lớn. Nếu không cười thì không xứng là Đạo).
2. 语 (Ngữ): đồng âm với chữ “育” (dục), kể, bảo, nói cho.
3. 上 (Thượng): tri thức hoặc đạo lý cao.
Diễn nghĩa
Khổng Tử nói: “Với những người có tư chất hoặc tiêu chuẩn đạo đức từ mức trung bình trở lên thì có thể nói cho người ấy những tri thức hoặc đạo lý cao, nhưng với những người có tư chất hoặc tiêu chuẩn đạo đức ở dưới mức trung bình, thì không thể nói cho họ những đạo lý cao.
Nghiên cứu và phân tích
Người có tâm tính cao thấp khác nhau thường có tiêu chuẩn đánh giá khác nhau về thiện ác, tốt xấu, khôn dốt, thị phi, đẹp xấu, nên sẽ dẫn đến những so sánh, tranh luận và hiểu lầm không cần thiết. Ví dụ, với “trung nhân” (người có tiêu chuẩn đạo đức trung bình) thì nên dùng tiêu chuẩn nào để xác định? Trong bách gia chư tử gia nào cũng có sở trường và sở đoản của riêng mình, nhưng đừng quên rằng, từ xưa đến nay vẫn luôn có một thước đo đạo đức bất di bất dịch đang đo lường hết thảy. Nếu dùng thước đo ấy để đo lường thì mọi thứ sẽ trở nên đơn giản, chẳng cần phải so sánh, tranh luận hay hiểu lầm, vì vậy, việc dùng tiêu chuẩn tâm tính hoặc đạo đức cao hay thấp để đánh giá tu dưỡng của một người là khá hợp lý. Nhưng con người trong xã hội hiện nay không thực sự chú trọng tu dưỡng đạo đức, thậm chí còn cho rằng càng “khôn lỏi” thì càng tốt, càng không để chịu thiệt hay bị bắt nạt thì càng thông minh, vì tiêu chuẩn đo lường đã đảo ngược rồi.
Tâm tính và tu dưỡng đạo đức của một người không chỉ bao gồm ngộ tính, mà còn thể hiện ở những hành động thực tiễn trong cuộc sống sau khi minh bạch được đạo lý, những ngôn hành cử chỉ của họ sẽ chứng thực cho những đạo lý mà người đó lý giải được, càng làm càng tốt lên, tu chính tâm tính của mình, thăng hoa lên trên. Trong quá trình này, người đó có thể nhẫn chịu không ít thống khổ, giữ vững tâm tính, vứt bỏ đi một số dục vọng, chấp trước và bản thân người đó cũng có đức hạnh ở một số phương diện. Dựa trên những nguyên tắc dạy học như phát triển tuần tự theo từng bước, giáo dục không phân biệt đẳng cấp, dựa theo tài năng của mỗi học trò để dạy, thì tâm tính và tiêu chuẩn đo lường của những người từ trung sỹ trở lên sẽ không lệch rời quá xa khỏi chính Đạo, nên họ có thể dễ dàng tiếp thu những tri thức và đạo lý ở cao tầng. Còn những người từ bậc trung sỹ trở xuống lại có tâm tính và tiêu chuẩn đo lường đã quá xa rời chính Đạo, nên tiêu chuẩn đo lường có thể đã bị đảo ngược, khi nghe được những tri thức hay đạo lý cao thì dễ cảm thấy phản cảm, tranh luận hay hiểu sai, thậm chí là lý giải ngược lại. Ngay lập tức dạy cho họ những đạo lý cao tầng thì cũng là không phù hợp với nguyên tắc phát triển từ từ, giáo dục phát triển tuần tự theo từng bước, giáo dục không phân biệt đẳng cấp, dựa theo tài năng của mỗi học trò để dạy. Hãy nghĩ xem: nếu bắt một người tâm tính thấp lập tức hiểu ra rất nhiều đạo lý, đề cao tâm tính, nhẫn chịu nỗi thống khổ lớn, xả bỏ đi rất nhiều chấp trước và dục vọng thì đây chẳng phải ép người quá đáng hay sao? Đó chính là “Hạ sỹ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi Đạo”. Những người sáng suốt không thể không biết đạo lý này.
Câu hỏi mở rộng
1. Người ta thường có câu “Chó cắn Lã Động Tân” tức là “không hiểu được tấm lòng của người tốt”; có lúc chúng ta hết lòng khuyên nhủ, giúp đỡ người khác, nhưng họ không nhất định sẽ trân trọng, cảm kích hay biết ơn, thực ra đây cũng là điều thường xảy ra, thậm chí bản thân chúng ta cũng phụ lòng người khác. Vậy tại sao lại có những chuyện như thế này? Hãy xem lại cách mình đối nhân xử thế trong cuộc sống hàng ngày, và nêu ví dụ về kinh nghiệm của bản thân.
2. Đôi khi chúng ta thấy có một vài tác phẩm văn học nghệ thuật khá cao siêu, cao mà không phù hợp với quảng đại quần chúng; hoặc có người có sự tu dưỡng đạo đức rất cao, tự biết trân quý bản thân, nên ẩn cư nơi núi rừng. Nhưng nếu chúng ta muốn làm việc tốt cho nhiều người hơn nữa, phục vụ người khác, thì đi con đường như vậy liệu có phù hợp không? Nếu đối tượng phục vụ là quảng đại quần chúng thì hình thức biểu hiện của chúng ta chẳng phải là nên phù hợp tối đa với hình thức mà xã hội có thể tiếp nhận được? Điều này có mâu thuẫn với nguyên tắc “trong ngoài như một” không? Tại sao?
Câu chuyện lịch sử
Câu chuyện về “thần đồng” Khổng Dung
Khổng Dung (153 – 208), tự Văn Cử, người nước Lỗ, hậu duệ đời thứ 20 của Khổng Tử, là một nhà văn học cuối thời Đông Hán. Ông từng làm Tướng quốc Bắc Hải, đương thời được gọi là Khổng Bắc Hải. Ông còn giữ các chức vị khác như thiếu phủ, đại-trung đại phu. Ông có tính cách khoan dung độ lượng, trọng kẻ sỹ nên tân khách đến nhà ông tấp nập. Những tác phẩm tản văn của ông ngắn gọn, súc tích mà sắc sảo, giọng văn trào phúng mỉa mai. Sau này ông đã bị giết vì chọc giận Tào Tháo. Ông còn có tài làm thơ, được xưng là một trong “Kiến An thất tử” (bảy danh sỹ thời Kiến An, gồm: Khổng Dung, Trần Lâm, Vương Xán, Từ Cán, Nguyễn Vũ, Ứng Sướng, Lưu Trinh).
“Vi nhân tử, phương thiếu thời, thân sư hữu, tập lễ nghi. Dung tứ tuế, năng nhượng lê, đệ ư trưởng, nghi tiên tri” (Dịch nghĩa: Là con người, ngay từ khi còn nhỏ, nên gần gũi với thầy và bạn tốt, học tập lễ nghi. Khổng Dung bốn tuổi đã biết nhường lê, kính trọng anh, là điều trước tiên nên biết). Đây là một đoạn trích trong “Tam Tự Kinh” – tài liệu giáo dục cơ bản dạy vỡ lòng cho trẻ nhỏ, đứa trẻ bốn tuổi đã biết nhường lê được nhắc đến ở đây chính là đại danh sỹ Khổng Dung cuối thời Đông Hán. Khổng Dung từ nhỏ đã nổi tiếng và được gọi là “ấu hữu dị tài” (đứa trẻ có tài năng xuất chúng hơn người). Theo “Dung gia truyện”, anh em nhà Khổng Dung có bảy người, ông xếp thứ sáu. Hồi ông bốn tuổi, mỗi khi các anh em cùng nhau ăn lê, các anh lớn đều lấy quả to, nhưng ông lại luôn chọn quả nhỏ. Người lớn trong nhà hỏi nguyên do thì ông trả lời rằng: “Con nhỏ tuổi nên lấy quả nhỏ”. Nhờ vậy ông nhận được sự tán dương của cả gia tộc Khổng thị.
Vào năm 10 tuổi, ông đã theo cha đến thủ đô Lạc Dương. Khi ấy, Thứ sử Hà Nam Lý Ưng đang có danh tiếng lẫy lừng, “Sỹ hữu bị kỳ dung tiếp giả, danh vi đăng long môn” (Tạm dịch: Kẻ sỹ nếu được ông đón tiếp thì sẽ được xem như “vượt Long Môn” – ví như cá chép hóa rồng, ý chỉ con đường thăng tiến). Nhưng không phải ai cũng được ông đón tiếp, nếu không phải là người có danh tiếng vào thời ấy hay họ hàng thân thích thì đều không được gặp mặt. Vậy mà Khổng Dung dù là một đứa trẻ nhưng vẫn cứ khăng khăng đòi gặp Lý Ưng, ông nói với người gác cổng phủ họ Lý rằng: “Tôi là họ hàng nhà ông Lý, làm ơn hãy báo với ông ấy một tiếng”. Lý Ưng mời ông vào nhà rồi hỏi: “Cậu và tôi có quan hệ thân thích ra sao?”, Khổng Dung đáp rằng: “Đương nhiên rồi, tiên phụ Khổng Tử nhà tôi và Lý lão tiên quân có quan hệ thầy trò, thế nên chẳng phải hai nhà có tình giao hảo lâu năm sao!”. Những người ngồi nghe không khỏi kinh ngạc, cảm thán cậu bé tuổi còn nhỏ mà thông minh sáng dạ. Một lúc sau, thái trung đại phu Trần Vỹ cũng đến, người khác kể cho ông những lời vừa rồi của Khổng Dung, Trần Vỹ nói: “Nhỏ tuổi đã thông minh lanh lợi, nhưng lớn lên chưa chắc đã xuất sắc”. Khổng Dung bèn tiếp lời: “Vậy hẳn là ông hồi nhỏ vô cùng thông minh lanh lợi!”, Trần Vỹ nghe xong rất ngượng ngùng.
Hổ phụ không sinh khuyển tử, khi Khổng Dung bị bắt giữ, những người trong và ngoài triều đình thấp thỏm lo lắng, chỉ sợ bản thân cũng bị liên lụy. Nhưng hai người con của Khổng Dung lại vẫn chơi đùa vui vẻ, không chút hoang mang lo sợ, Khổng Dung nói với sứ thần rằng: “Mong rằng tội này chỉ gán lên thân tôi, xin giữ lại mạng cho hai đứa trẻ”. Hai người con của ông bình tĩnh đáp rằng: “Đại nhân, tổ chim bị lật đổ rồi chẳng lẽ trứng chim vẫn còn nguyên vẹn được sao?” Đây chính là nguồn gốc của câu nói nổi tiếng: “Phúc sào chi hạ, khởi hữu hoàn noãn” (Tổ chim bị lật thì trứng làm sao còn nguyên vẹn được – ngụ ý rằng khi đại cục suy vong thì không ai có thể bình an vô sự).
Tại sao lại có những “thần đồng” không có ai dạy mà lại giỏi như vậy? Thật ra, tư tưởng chân chính và trí huệ siêu thường của con người là đến từ nguyên thần, mà nguyên thần cũng có tuổi tác, có luân hồi và ký ức của đời đời kiếp kiếp. Nguyên thần của Khổng Dung và những người con trai của ông không còn nhỏ mà đều đã trưởng thành.
(Trích “Thế thuyết tân ngữ”)
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868