Trang chủ Right arrow Tu luyện Đại Pháp

Hạt giống vàng (Phần 6): Pháp Luân Đại Pháp nảy mầm ở miền Nam Đài Loan, nhiều nơi ở Cao Hùng đồng loạt nở hoa

30-08-2025

Phỏng vấn, biên tập: Tăng Tường Phú, Hoàng Cẩm

[ChanhKien.org]

Bìa sách “Hạt giống vàng” (NXB Bác Đại cung cấp)

[Duyên khởi]

“Hạt giống vàng – Câu chuyện về Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan”. Cuốn sách chủ yếu ghi chép lại đoạn đường phát triển của Pháp Luân Công tại Đài Loan cùng những câu chuyện cảm động lòng người, hơn nữa, hành trình lịch sử trân quý này cũng chính là một “bộ lịch sử sống”.

Năm 1994, khởi đầu mối kỳ duyên tại Tế Nam, Sơn Đông của một cặp vợ chồng người Đài Bắc, chuyến viễn du của một bác sĩ Thượng Hải đến Đài Loan, chuyến thăm người thân tại Hoa Liên của một ông lão người Quý Châu, đã mang theo “hạt giống” Đại Pháp, kết hợp cùng nhau tạo nên một cơ duyên tu luyện hiếm gặp không gì sánh được.

Vào tháng 02/2016, nhóm biên tập đã tiến hành phỏng vấn độc quyền lần lượt ở bắc, trung và nam Đài Loan. Sau khi sao chép các bản ghi âm, lại lần nữa kiểm tra đối chiếu, trải qua ba năm, cuối cùng đã có thể biên tập thành sách. So với dự tính ban đầu có thể nói là khó khăn hơn rất nhiều.

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13/05, trang The Epoch Times xin giới thiệu cuốn sách “Hạt giống vàng”, mong rằng sự ra đời của cuốn sách sẽ giúp mỗi từng bước phát triển của Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan như một kiến chứng lịch sử được lưu giữ hoàn chỉnh hơn.

(Tiếp theo phần 5)

Giáo sư trường y tìm được đáp án

Khi Nhiếp Thục Văn cùng chồng đến Cao Hùng cuối năm 1995, kế hoạch đầu tiên của bà khi bắt đầu cuộc sống mới ở một môi trường mới chính là liên lạc với một người xa lạ: Lưu Thiệu Đông, phó giáo sư khoa Giải phẫu của Trường Y Cao Hùng. Đây là thông tin liên lạc mà Nhiếp Thục Văn nhận được từ Hiệp hội Nghiên cứu Bắc Kinh trước khi đến Đài Loan.

Là giảng viên của trường y, nhưng Lưu Thiệu Đông từ nhỏ đã rất quan tâm đến các nền văn minh tiền sử. Sau khi đọc nhiều sách liên quan, anh biết đến nhiều hiện tượng kỳ lạ mà khoa học hiện nay vẫn chưa thể lý giải. Mẹ anh lại là một người đam mê khí công, hễ bà phát hiện ra một “môn công pháp hay” nào đó thì nhất định bắt anh học theo, vì vậy Lưu Thiệu Đông cũng đã tiếp xúc với không ít các môn khí công khác nhau.

Khoảng nửa năm trước, mẹ anh đang sống ở Mỹ đã gửi về một băng ghi âm bài giảng của ngài Lý Hồng Chí tại Tế Nam, Sơn Đông. Đây là môn công pháp hay mà bà vừa mới giới thiệu.

Lưu Thiệu Đông, người đã nhận bằng Tiến sĩ Khoa Sinh học Tế bào và Giải phẫu tại Trường Y thuộc Đại học Công nghệ Texas ở Hoa Kỳ, dù trước đây đã tập nhiều loại khí công theo sự giới thiệu của mẹ, nhưng anh luôn có cảm giác “mơ hồ”: “Khí công có cơ sở lý luận gì? Tại sao phải tập luyện như vậy? Nguồn gốc và ngọn ngành đằng sau là gì? Những điều này chưa từng có ai nói với chúng tôi”.

Những thắc mắc của anh đã được cuộn băng ghi âm mới mà mẹ anh gửi đến giải đáp một cách độc đáo. Trong giảng Pháp không chỉ giải thích về các nền văn minh tiền sử mà còn tiết lộ nhiều đạo lý ẩn giấu đằng sau việc tu luyện khí công. Không chỉ vậy, Sư phụ Lý còn nói về nhiều lĩnh vực mà anh chưa từng suy nghĩ hay tiếp cận. Mặt khác, Lưu Thiệu Đông từng tiếp xúc với một số nhóm tôn giáo, nhưng anh thấy một số người trong giới tôn giáo yêu cầu cúng dường, đòi hỏi sự sùng bái, nhưng khi bước ra khỏi nơi tu hành, hành vi thực tế của họ lại không khác mấy so với người thường, khiến anh cảm thấy mất lòng tin. Tuy nhiên, thầy Lý không nhận cúng dường của đệ tử, cũng không đòi hỏi sự sùng bái. “Thầy Lý chỉ cần chúng ta có tâm phù hợp với Chân – Thiện – Nhẫn, một tấm lòng cầu đạo, Ngài chỉ yêu cầu điều đó. Điều này thực sự khiến tôi rất xúc động, tôi cảm thấy Đại Pháp nhất định là một Chính Pháp”.

Lúc ấy những người học công ở Đài Loan đều tự luyện công ở nhà, không ai biết ai. Bà Nhiếp Thục Văn đã liên hệ với Lưu Thiệu Đông với hy vọng có thể thành lập “điểm luyện công” ở Đài Loan theo cách thức như ở Đại lục.

“Chị Nhiếp nói muốn truyền rộng Pháp Luân Công, tôi nói được, chúng ta cùng nhau thúc đẩy!”

Trước đó, Lưu Thiệu Đông chỉ tập các động tác của năm bài công pháp theo hướng dẫn trong sách. Sau khi bà Nhiếp Thục Văn chỉnh sửa động tác luyện công cho anh, rất nhanh chóng, Lưu Thiệu Đông đã thành lập điểm luyện công đầu tiên tại công viên Tam Dân ở Cao Hùng. Sau đó, Lưu Thiệu Đông cùng bà Nhiếp Thục Văn đi khắp nơi tìm địa điểm phù hợp để lập các điểm luyện công.

Hai chị em lần lượt bước vào tu luyện

Một buổi sáng nọ, bà Nhiếp Thục Văn đang luyện công ở Công viên Vận động Tả Doanh, bỗng nghe thấy có người nói: “Các chị luyện Pháp Luân Công à?”

“Phải đó, sao chị biết vậy?”

“Tôi biết chứ! Em gái tôi dạy tôi mà”.

Nhiếp Thục Văn vừa nghe xong liền nghĩ thầm: “Thì ra ở đây đã có người khác tu luyện Pháp Luân Công rồi”. Bà là người rất chủ động, liền nói với người phụ nữ đó: “Chị dẫn tôi đi gặp em gái chị!”

Người phụ nữ đó là Vương Lợi Dư. Lúc đó, bà đã ngoài 50 tuổi và vừa mới học Pháp Luân Công từ em gái là Vương Mãn Như không lâu.

Sinh ra trong một gia đình quân nhân, Vương Lợi Dư là con thứ ba, trên có một anh một chị, dưới có một em trai và một em gái, từ nhỏ tính tình hoạt bát. Em gái Vương Mãn Như miêu tả bà là: rất thích biểu diễn, thích thể hiện. Tuy nhiên, dù năng động và thích thể hiện là thế, bà lại là đứa trẻ trong nhà từ nhỏ không có quần áo mới để mặc, thậm chí còn phải cố đi những đôi giày cũ nhỏ hơn một cỡ.

Sau này, Vương Lợi Dư theo học trường quân sự và trở thành giảng viên trong quân đội. Sau khi được huấn luyện về công tác chính trị, khả năng ăn nói của bà lại càng lưu loát. “Các cuộc thi diễn thuyết, thi biện luận, thi gì tôi cũng phải đứng nhất, hạng nhì tôi đều không cần”.

Gia đình lâm vào cảnh túng thiếu vì người cha nghiện cờ bạc. Sau khi đi làm, Vương Lợi Dư giao toàn bộ lương cho cha, còn bản thân thì nghèo đến mức “nghèo ai cũng biết”. Trong quân đội, bà gặp mối tình đầu của mình, một sĩ quan có ngoại hình khôi ngô, hai người tâm đầu ý hợp, yêu nhau suốt sáu năm. Khi đã tính đến chuyện kết hôn, lại bị cha bà phản đối: “Thằng đó chỉ là một tên nghèo kiết xác”.

Cha bà vì muốn có thêm một phần thu nhập nên đã ngăn cản bà kết hôn. Vương Lợi Dư cũng tận mắt chứng kiến vợ chồng người chị của mình trục trặc vì phải giúp cha trả nợ cờ bạc. Vì vậy, bà âm thầm đưa ra quyết định: “Đời này sẽ không kết hôn nữa!”

Ngoài chuyện tình cảm không như ý, Vương Lợi Dư, một người năng động, giỏi giang và luôn xuất sắc, cũng không gặp may trong sự nghiệp quân ngũ. Những cơ hội thăng chức tưởng như nắm chắc trong tay cuối cùng vẫn không thuộc về bà. Thậm chí, một người bạn học đã được “nhảy dù” lên làm cấp trên của bà. Sau khi giải ngũ, Vương Lợi Dư trắng tay, không một xu dính túi. Vì mưu sinh, bà ra chợ mở quầy bán mì bò, nhưng do thiếu vốn xoay vòng, việc buôn bán cũng nhanh chóng phải dẹp bỏ.

Năm 45 tuổi, cha bà qua đời. Cô đơn trên đường đời, Vương Lợi Dư cảm thấy mệt mỏi. Dù từng quyết không lập gia đình nhưng để có một chốn về an toàn cho phần đời còn lại, bà lại kết hôn với một đồng nghiệp cũ của cha mình, một người mà bà vẫn gọi là “chú”. Tuy nhiên, quyết định này lại mang đến cho bà một cơn bão lớn hơn: Ba người con đã trưởng thành của chồng bà lo sợ mẹ kế sẽ chiếm đoạt tài sản, nên thường xuyên về nhà tranh cãi với hai vợ chồng, khiến gia đình không lúc nào yên ổn. Bà đã trải qua mấy năm đầy sóng gió trong những cuộc tranh cãi không ngừng, hôn nhân đứng trên bờ vực tan vỡ.

Tháng 10 năm 1995, em gái Vương Mãn Như học Pháp Luân Công từ cha chồng. Vương Mãn Như kể rằng: Con trai của anh trai cha chồng cô từng tham gia ba khóa học khí công của Sư phụ Lý ở Trung Quốc. “Anh ấy cảm thấy rất tốt nên đã dạy cho cha chồng tôi, rồi cha chồng dạy lại cho tôi”.

Trước đây, Vương Mãn Như mắc bệnh tay nhà giàu, mỗi khi đến mùa đông là dễ bị nứt nẻ chảy máu. Hơn nữa, cô làm công việc kế toán nên thường bị giấy cứa vào tay, “thật sự đau thấu tim gan”. Nhưng sau ba tháng luyện công, căn bệnh “tay nhà giàu” mà cả Đông y lẫn Tây y đều không chữa khỏi đã lành hẳn, không còn tái phát. Vương Mãn Như vui mừng khôn xiết, liền giới thiệu công pháp đó cho chị gái là Vương Lợi Dư.

Khi mở cuốn Chuyển Pháp Luân bản giản thể do em gái gửi tặng, càng đọc, Vương Lợi Dư vốn luôn oán than về cuộc đời bất hạnh, bỗng cảm thấy như được giải thoát: “Từ khi còn trẻ tôi đã chẳng có được thứ gì mình mong muốn, mọi việc đều không thuận lợi, đến mức tôi thậm chí không còn muốn sống nữa”. Bà thẳng thắn nói rằng mình đã từng tuyệt vọng đến mức muốn kết thúc cuộc đời. “Tôi đều nói với mọi người dù trước mặt hay sau lưng, rằng Pháp Luân Công đã cứu tôi. Nếu tôi không học Pháp Luân Công, tôi đã không còn trên cõi đời này nữa rồi. Với tính cách mạnh mẽ của tôi, sau khi đọc ‘Chuyển Pháp Luân’, tôi mới thực sự hiểu ra rằng, số mệnh không có thì dù bạn có tài giỏi đến đâu cũng vô ích thôi”.

Sau khi hiểu được đạo lý ấy, lúc các con về nhà tiếp tục gây chuyện, bà không còn tức giận nữa, mà ngược lại còn chợt khởi lên lòng thương cảm. Bà không còn oán trách số phận, không còn bất bình với những gì mình gặp phải trong cuộc đời. Tâm trí trở nên sáng tỏ, cũng nhờ luyện công mà cơ thể bà trở nên khỏe mạnh, không còn bệnh tật.

Có lần, các con lại cãi nhau ầm ĩ vì chuyện thừa kế tài sản. Người chồng già của bà, vừa phiền muộn vừa đau lòng, sau đó bất ngờ quỳ xuống trước mặt Vương Lợi Dư, nước mắt giàn giụa, liên tục nói lời xin lỗi với bà. Vương Lợi Dư không hề oán trách, dịu dàng đỡ chồng dậy và chân thành nói: “Thầy Lý giảng rằng người tu luyện không có kẻ thù, tôi sẽ không để bụng đâu”. Người chồng vì thế vô cùng khâm phục Sư phụ Lý, đến mức cúi đầu bái phục, và cũng bắt đầu tu luyện. Vài năm sau, người chồng cao tuổi ra đi trong thanh thản.

Tích cực thành lập các điểm luyện công, mở lớp học

Sau khi hai chị em Vương Lợi Dư quen biết Nhiếp Thục Văn, họ cũng tham gia thành lập điểm luyện công và các hoạt động hồng Pháp. Ban đầu, Vương Lợi Dư rất tích cực thành lập các điểm luyện công tại khu Nam Tử và khu Tả Doanh. Lưu Thiệu Đông nhớ lại, lúc đó mọi người đều chủ động tìm kiếm công viên hoặc địa điểm thích hợp, “có lúc chỉ hai người đi, một người cầm đài, một người cầm băng rôn”.

Thời điểm đó, mỗi khi thành lập một điểm luyện công mới, liền rất nhanh đã thu hút được một số người đến học luyện. Vì vậy, họ thường xuyên bận rộn hướng dẫn người mới các động tác luyện công. Khi người mới đã luyện tập ổn định, họ lại rời đi, tiếp tục thành lập điểm mới. Mà những học viên mới tham gia cũng có thể tự mở điểm luyện công gần nhà mình. Các điểm luyện công ở Cao Hùng cứ như vậy mà từng điểm, từng điểm lan rộng ra.

Hiểu rõ tầm quan trọng của “Lớp học Pháp và luyện công chín ngày” đối với học viên mới, ngoài việc thiết lập các điểm luyện công, không lâu sau đó, Nhiếp Thục Văn cùng mọi người đã nỗ lực tổ chức một lớp chín ngày tại Trường Y Cao Hùng, nơi Lưu Thiệu Đông đang công tác. Sau đó, họ cũng mở lớp chín ngày tại trung tâm sinh hoạt của khu dân cư Hợp Quần Tân Thôn, nơi Nhiếp Thục Văn sinh sống.

Lưu Thiệu Đông hồi tưởng lại, lúc đó số lượng học viên không nhiều. Để lớp chín ngày được tổ chức suôn sẻ, chị em Vương Lợi Dư và Vương Mãn Như đã đưa theo ba đứa con nhỏ đến hỗ trợ. Còn Nhiếp Thục Văn, người vừa mới đến Đài Loan, lúc đó vẫn chưa có bằng lái xe ô tô hay xe máy. Để đến được Trường Y Cao Hùng, bà phải từ nhà ở Tả Doanh đạp xe đến bến xe, rồi đi xe buýt để chuyển sang tàu hỏa vào trung tâm thành phố Cao Hùng, sau đó mới được Lưu Thiệu Đông đến đón.

Cùng thời điểm đó, nhờ tham gia Hội nghiên cứu Bắc Kinh, Nhiếp Thục Văn đã kết nối được với vợ chồng Trịnh Văn Hoàng ở Đài Bắc. Để có thể đến Đài Bắc giao lưu với học viên và hỗ trợ tổ chức lớp học Pháp và luyện công chín ngày, bà đã làm các việc như dọn dẹp vệ sinh, giặt giũ, nấu ăn cho các cựu chiến binh lớn tuổi gần nhà để kiếm tiền đi lại. Từ một trưởng khoa tim mạch nhi – người từng có địa vị xã hội cao và được nhiều người kính trọng, Nhiếp Thục Văn bỗng chốc trở thành “em gái Đại Lục” (cô dâu Trung Quốc) trong mắt người dân Đài Loan. Đối mặt với sự thay đổi về thân phận và địa vị như vậy, Nhiếp Thục Văn từng mỉm cười nói: “Tôi sang Đài Loan làm những việc thế này, nếu các bác sĩ ở Thượng Hải biết được, họ sẽ nghĩ: ‘Nhiếp Thục Văn cô đó à, sao lại ra nông nỗi này!’”

Năm 1996, Nhiếp Thục Văn đã đặc biệt từ Cao Hùng đến điểm luyện công ở Dương Minh Sơn, Đài Bắc để giao lưu cùng các học viên. (NXB Bác Đại cung cấp)

Ấy vậy, Nhiếp Thục Văn không những chấp nhận một cách vui vẻ, mà còn cho đó là một cơ hội tốt để tu luyện. Lưu Thiệu Đông nói: “Nhìn thấy nhiều người cống hiến một cách vô tư như vậy, tôi càng tin tưởng rằng đây là một môn Chính Pháp”.

Sau đó, nhờ sự kết nối của học trò trong quân đội của Vương Lợi Dư tại Đài Nam, họ cũng đã mở lớp học Pháp và luyện công chín ngày tại Đài Nam.

Dịch từ: https://www.epochtimes.com/b5/21/5/13/n12947700.htm

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài