Tác giả: Mai Tùng Hạc
[ChanhKien.org]
Lưu Vũ Tích (772 – 842), tự là Mộng Đắc, là một nhà thơ và nhà văn lớn thời Đường, sống cùng thời với Bạch Cư Dị. Thơ của ông mộc mạc, tươi mới, tinh luyện mà hàm súc, giỏi sử dụng biện pháp tỷ hứng (so sánh gợi mở), thường mang ẩn ý sâu xa. Ba nhóm thơ nổi tiếng của ông lấy tên là “Trúc Chi Từ”, “Dương Liễu Chi Từ” và “Lãng Đào Sa”, mang đậm phong cách dân ca, là những tác phẩm độc đáo trong kho tàng thơ Đường. Những bài thơ như “Ô Y Hạng”, “Thạch Đầu Thành” và “Liễu Chi Từ” là những kiệt tác lưu truyền hậu thế, có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ viết các tác phẩm thi đời sau.
Cuộc đời Lưu Vũ Tích gặp nhiều bất hạnh, con đường quan lộ gập ghềnh. Sau chín năm kết hôn, vợ ông qua đời, đó là sự đả kích rất lớn đối với ông về mặt tình cảm. [1] Năm 805, do tham gia phe cánh của Vương Thúc Văn chống lại hoạn quan và các thế lực cát cứ phiên trấn, ông bị giáng chức từ giám sát ngự sử xuống làm tư mã ở Lãng Châu. Mười năm sau ông được gọi về kinh, rồi lại được bổ nhiệm làm thứ sử Liên Châu; sáu năm sau chuyển sang làm thứ sử Quỳ Châu; ba năm sau lại chuyển sang làm thứ sử Hòa Châu; hai năm sau bị bãi chức và trở về kinh. Năm 831, ông lại được bổ nhiệm làm thứ sử Tô Châu; năm 835 chuyển sang làm thứ sử Đồng Châu; một năm sau thăng làm tân khách thái tử, và sáu năm sau thì qua đời.
Con đường tu luyện của Lưu Vũ Tích cũng gập ghềnh trắc trở như đường đời của ông. Ban đầu, sự hiểu biết của ông về Phật giáo còn khá nông cạn, thậm chí từng xem nó ngang hàng với dưỡng sinh; [2] ông không đồng tình với cách làm từ bỏ chốn quan trường của Đào Uyên Minh, cho rằng vẫn có thể tiêu dao tự tại trong chốn quan trường. [3] Ông là người chăm chỉ suy nghĩ, nhưng lại giới hạn tư duy trong phạm vi cảm quan của người thường, nên tất yếu không thể thấy được lý ở tầng thứ cao hơn. Do đó, trong ba bài “Thiên Luận” của mình, ông không tiếp nhận lý “nhân quả báo ứng” và “thiên nhân cảm ứng”, mà tự mình đưa ra quan điểm “trời và người thay phiên thắng lẫn nhau”, “còn có thể dùng cho nhau”, cho rằng bất kỳ sự vật nào cũng đều không thể “thoát khỏi số mệnh và vượt qua thế cục”. Thực chất, điều này phản ánh việc ông vẫn chưa buông bỏ được “hoài bão chính trị to lớn” của mình, vẫn nuôi hy vọng thời vận sẽ thay đổi để có cơ hội thi triển tài năng. [4] Chính sự cố chấp này đã trở ngại cho bản thân ông trên con đường chân tu, những bạn bè là cao tăng cũng từng chỉ ra cho ông điều này. [5]
Nhưng ông rốt cuộc vẫn là người có duyên với cửa Phật. Vào khoảng năm 820, ông từng có một lần du hành trong mộng, được Thần nhân điểm hóa, đã minh bạch được nhiều đạo lý, đặc biệt cảm thấy hối tiếc vì trước đây đã tự tạo ra rào cản tư tưởng cho chính mình, và cảm thấy vô cùng may mắn vì được điểm hóa. [6] Cuộc đời ông có nhiều bạn bè trong giới Phật môn, thậm chí có cả các tăng nhân đến từ Nhật Bản, những người đã đi khắp danh sơn và có ngộ tính rất cao. [7] Ông cùng những người bạn này đàm luận về Đạo, nghiên cứu Phật lý; [8] một số cao tăng kể lại những trải nghiệm siêu thường của họ khiến ông dần phá bỏ rào cản của tai mắt, nhận ra rằng dựa vào cảm quan của người thường thì không cách nào lý giải được chân tướng ở tầng thứ cao hơn. [9] Có lần ông nghỉ lại ở một ngôi nhà trên núi của một vị cao tăng. Thiền phòng cao vút giữa mây trời, từ trên nhìn xuống thấy dòng Thanh Giang như dải lụa. Ban ngày đốt hương nghe tăng giảng đạo, ban đêm nghe thấy tiếng hổ gầm giữa rừng núi, tiếng rùa lớn rên rỉ trong khe suối vào mùa thu, khiến người ta rùng mình. Nhưng những người ngồi thiền, khi quán tâm nhập tĩnh, thì các loại âm thanh cũng dần tan biến. [10] Một vị thiền sư khác biết tâm danh của ông còn rất nặng, để giúp ông thoát mê, đã cho ông nhìn thấy cảnh huyền quan khai mở, thể hội được đạo lý không thể diễn tả bằng lời, minh bạch rằng thân thể nơi thế gian con người không phải điều quý giá, mà huệ tính không thể vì điều này mà chịu bất kỳ ngăn trở nào. Từ đó trong lòng ông nảy sinh nguyện vọng muốn tu thành chính quả. [11] Nhưng nghĩ đến 20 năm của bản thân thoáng chốc đã trôi qua, trăm ngàn suy nghĩ mà chẳng đắc được gì, cuối cùng mới hiểu ra rằng Pháp xuất thế gian mới là điều mình thực sự muốn truy cầu. Nhưng ông lại lo lắng rằng sinh mệnh đã không còn dài, lực bất tòng tâm, nên không khỏi cảm thấy buồn bã. [12]
Mặt khác, những trải nghiệm sống của Lưu Vũ Tích cũng khiến tâm tu Phật của ông dần trở nên vững vàng. Do ông là một nhà văn nổi tiếng, lại là một cư sĩ tu Phật được mọi người biết đến, nên có người trong giới Phật môn nhờ ông viết các bài văn như bia văn, tháp ký. Ông từng viết bài bia văn thứ hai cho Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông (bia văn thứ nhất do đại văn học gia Liễu Tông Nguyên viết), trong đó có nhận thức: “…không tu mà tu, không đắc mà đắc; có thể khiến người học, trở về với thiên trí; như mê lạc trong tối tăm, ngẩng lên thấy Bắc Đẩu”. [13]. Trong bài tháp ký viết cho ngôi tháp mới của Dung đại sư ở núi Ngưu Đầu, ông kể lại rằng vị cao tăng này từng ngồi thiền trong thạch thất, vận dụng thần thông khiến chân núi đang hạn hán lâu ngày bỗng tuôn ra dòng suối, làm cho hoa sen nở rộ giữa tuyết trắng mênh mông, hàng phục một con mãng xà khổng lồ, và từng có cả đàn hươu kéo đến nghe ông thuyết pháp, cùng rất nhiều cảnh tượng kỳ diệu. [14] Trong một bài bia văn của một vị cao tăng, ông cũng từng ghi chép lại câu chuyện sau khi vị này viên tịch và được hỏa táng, đã có hàng ngàn viên xá lợi trong suốt như châu ngọc.
Ông và Bạch Cư Dị sinh cùng năm, và nhờ một lần gặp gỡ mà hai người trở thành bạn bè. Năm 826, khi Lưu Vũ Tích bị bãi chức từ Hòa Châu trở về Lạc Dương, còn Bạch Cư Dị từ Tô Châu quay lại Lạc Dương, hai người tình cờ gặp nhau ở Dương Châu và cùng uống rượu. Trong buổi tiệc, Bạch Cư Dị tặng ông một bài thơ, bày tỏ sự cảm thông và an ủi sâu sắc trước con đường quan lộ trắc trở của ông, đồng thời cũng than thở cho chính bản thân cũng đã từng gặp phải cảnh tương tự. Bạch Cư Dị viết trong thơ: “Anh vì tôi mà rót thêm rượu, nâng chén cùng uống; tôi vì anh mà dùng đũa gõ nhịp trên mâm, ngâm thơ trợ hứng. Cả nước đều biết chúng ta là nhà thơ nổi tiếng thì đã sao, trước số mệnh cũng chỉ đành cúi đầu. Phong cảnh đẹp trước mắt mà lòng lại cô đơn, triều đình đầy rẫy quan chức nhưng chẳng có chỗ cho anh và tôi. Anh đúng là nên chịu một chút bất hạnh, ai bảo tài năng và danh tiếng của anh quá nổi bật! Nhưng mà, 23 năm bất hạnh thì quả là quá đáng rồi!” [16] Trước sự an ủi và lời tán dương nhẹ nhàng của Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích đã viết một bài thơ để đáp lại. Trong thơ, ông viết: “Tôi đã trải qua 23 năm trời ở những nơi hẻo lánh, hoang vu như Tứ Xuyên và Hồ Nam, cảm giác như bị cả thế giới ruồng bỏ. Khi trở về thì mọi thứ đã đổi thay, như thể cách biệt cả một đời. Nhiều bạn bè cũ nay đã khuất, tôi chỉ còn biết ngâm vịnh bài văn địch phú để tỏ lòng tưởng nhớ. Bản thân tôi tuy như cây bệnh, thuyền chìm đã không còn hy vọng, nhưng rốt cuộc vẫn có thể nhìn thấy cảnh muôn cây đâm chồi, ngàn buồm ra khơi. Hôm nay nghe bạn làm thơ hát cho tôi với bao tình cảm, lại cùng nâng chén rượu, tôi cảm thấy tinh thần phấn chấn hơn nhiều, tâm trạng cũng khác xưa rất nhiều”. Ông không vì vận mệnh gian truân của mình mà u sầu, ngược lại có thể vui mừng trước thành công của người khác, đối diện với sự đổi thay của thế sự và sự thăng trầm chốn quan trường bằng một tấm lòng rất khoáng đạt. Hai câu thơ nổi tiếng của ông: “Bên mạn thuyền đắm, ngàn cánh buồm lướt tới, Trước gốc cây bệnh, vạn cây đâm chồi” đến nay vẫn thường được người đời trích dẫn. [17] Từ năm 836, sau khi Lưu Vũ Tích được thăng làm tân khách thái tử, ông và Bạch Cư Dị qua lại càng thêm thân mật, thường xuyên xướng họa thơ văn, tình nghĩa rất sâu đậm. Người đời gọi chung hai ông là “Lưu Bạch”. Về cuối đời, Bạch Cư Dị tu luyện rất nghiêm túc, ông bỏ hết chuyện giao du, tiệc tùng, cất đi cả kiếm ngọc, vật chơi, thậm chí còn giới rượu, thường ngày chỉ đốt hương tọa thiền. [18] Có lần, Bạch Cư Dị giữ trai giới một tháng để tu thiền, sau đó Lưu Vũ Tích làm thơ ca ngợi; [19] Lần khác, ông nói Bạch Cư Dị thử luyện đan tại nhà nhưng kết quả không thành công. [20] Thái độ tu luyện nghiêm túc của Bạch Cư Dị chắc chắn đã có ảnh hưởng tích cực đến con đường chân tu của Lưu Vũ Tích lúc cuối đời.
Cùng với việc chân tu, thể ngộ của ông cũng ngày càng được đề cao. Trong phần dẫn nhập của một bài thơ, ông viết: “…Nếu có thể lìa dục thì tâm sẽ hư không; tâm hư không thì muôn cảnh liền hiện… Nhờ định mà thấy cảnh… Nhờ huệ mà dùng từ”…, [21] Có thể thấy ông đã tu đến tầng thứ khá cao trong việc tu trì “giới, định, huệ”. Ông còn nhiều lần nhắc đến tiền kiếp của các cao tăng trong thơ mình. Chẳng hạn, ông nói một vị cao tăng từng là “Đồng tử núi Tuyết” trong tiền kiếp, là đệ tử của “Kim Túc Như Lai”, [22] Còn một vị cao tăng khác là chuyển thế của A-nan, đệ tử của Thích Ca Mâu Ni. [23] Điều đáng nói là anh trai của ông cũng là một người tu Đạo, ẩn cư nơi núi non, và Lưu Vũ Tích còn hy vọng có thể cùng anh mình tu thành chính quả. [24]
Chú thích:
[1] “Thương Vãng Phú” (Bài phú Thương nhớ quá khứ): “Với tình yêu xa tận chân trời, Tiếc thương ánh sáng không thể lưu giữ lại”. – Quyển 1; (Tên sách sẽ được giới thiệu sau)
[2] “Ngẫu Tác Nhị Thủ” (Hai bài làm ngẫu nhiên): “Dưỡng sinh không chỉ dùng thuốc, Ngộ Phật đâu cần nhờ người”. – Quyển 21;
[3] “Ngụ Tính Nhị Thủ” (Hai bài thơ về tính tình): “Đường đời đầy lễ nghi, chim Bằng vẫn tiêu dao. Sao lại như Đào Bồng Trạch, bỏ quan chỉ để tránh khom lưng” – Quyển 21;
[4] “Thiên Luận” (Thượng, Trung, Hạ): Quyển 5;
[5] “Túc Thành Thiền Sư Sơn Phòng Đề Tặng Nhị Thủ (bài thứ hai)”: “Nửa đêm hỏi về chân lý, còn chấp trước là do ta còn ưu lo”. – Quyển 22;
[6] “Vấn Đại Quân Phú Tịnh Tự” (Bài phú “Hỏi Đại Quân” cùng lời tựa) – Quyển 1;
[7] “Tặng Nhật Bản Tăng Trí Tạng”: “Chén nổi ngàn dặm vượt biển xanh, Khắp chốn danh sơn thỏa tính linh… Thân không còn đất ta với người, lòng hợp chân như chẳng đọc kinh”. – Quyển 29;
[8] “Tống Lư Xử Sĩ Quy Tung Sơn Biệt Nghiệp” (Tiễn ông Lư ẩn sĩ về nơi ở riêng ở núi Tung): “Tiễn anh từ đây mà đi, nơi lầu chuông ít đi khách đàm đạo”. – Quyển 28;
[9] “Có vị tăng kể chuyện núi La Phù, vì thế làm bài thơ ghi lại”: “Thế nhân tin vào tai mắt, dùng lòng dạ nhỏ hẹp đo trời rộng. Nào biết ngoài tai mắt, điều kỳ diệu chẳng thể nói hết”. – Quyển 23;
[10] “Ngủ tại thiền phòng của Thiền sư Thành, đề tặng hai bài (một)”: “Ngồi tĩnh trong mây trắng, Dòng Thanh Giang trực chảy. Người đến trông tháp vàng, Chiếu giảng quanh đàn hương. Hổ gầm động rừng khuya, Rùa kêu thu động lạnh. Muôn âm khởi rồi diệt, Tâm đang tĩnh lặng nhìn”. – Quyển 22;
[11] “Yết Trụ Sơn Hội Thiền Sư”: “…Thầy ta đắc chân như, Thong dong giữa cõi người. Thương ta sa lưới danh, Như lông vũ bay lạc, Đèn trí soi rạng rỡ, Xua tan chốn mịt mờ. Tĩnh nhìn huyền quan khởi, Tâm khởi niệm ban sơ. Xưa nguyện còn chưa vững, Nay niềm tin vô bờ. Đường giác ngộ đã rõ, Bèn mở cửa ăn năn”.
[12] “Tiễn tăng Nguyên đi du phương phương Nam, kèm theo lời tựa”: (Lời tựa) “Ta đeo danh hai mươi năm, trăm lần nghĩ chẳng được một điều, sau đó mới biết cái gọi là đạo ở đời đều là con đường đáng sợ, chỉ có pháp xuất thế gian mới có thể dốc lòng theo đuổi”. “Ta nghe được lời này, sức đã không đủ mà nỗi buồn thì dư thừa”. – Quyển 29;
[13] “Bia thứ hai của Đại Giám Thiền sư – Lục Tổ Huệ Năng ở Tào Khê đời Đường” – Quyển 4.
[14] “Ký tháp mới của Đại sư Dung – Sơ Tổ núi Ngưu Đầu”, quyển 4;
[15] “Bia tưởng niệm cố Thiền sư Quảng ở núi Dương Kỳ, huyện Bình Hương, châu Viên”, quyển 4;
[16] Bạch Cư Dị: “Vì tôi, rót rượu nâng chén uống, Vì anh, gõ bát hát thơ vui. Thơ xưng quốc thủ rồi được gì, Vận mệnh đè đầu cũng chịu thôi. Trước mắt phong cảnh vẫn hiu quạnh, Đầy triều chức tước chẳng anh, tôi. Cũng biết tài danh đáng chuốc vạ, Hai mươi ba năm quá nhiều rồi!”
[17] Bài thơ “Đáp lại Lạc Thiên khi mới gặp tại tiệc rượu ở Dương Châu”: “Non nước Ba, Sở chốn thê lương, Hai mươi ba năm sống tha hương. Nhớ xưa nghe sáo ngâm thơ cũ, Giờ kẻ lạn kha về cố hương. Bên xác thuyền đắm ngàn buồm lướt, Trước cây bệnh yếu vạn chồi xuân. Hôm nay nghe anh ca đôi khúc, Tạm nhờ chén rượu lên tinh thần”. (Lạc Thiên: tức Bạch Cư Dị, lạn kha: điển tích chỉ người trở về sau nhiều năm xa cách, như đã lạc thời)
[18] Bạch Cư Dị, “Bạch Hương Sơn Tập”, quyển 71, bài “Đạo Trường Độc Tọa” (Ngồi một mình ở đạo tràng): “Sửa lại áo khăn, lau sạch giường, Một bình thu thủy một lò hương. Phiền não gì cũng cần quên trước, Ngay cả Bồ đề cũng phải buông. Yết triều sớm dừng thu kiếm ngọc, Tiệc vui dần dứt, bỏ rượu thường. Thế gian tuổi già không chỗ dùng, Chỉ hợp tiêu dao chốn đạo trường”.
[19] “Họa lại thơ Lạc Thiên khi trăng tròn tháng trai, đối cảnh đạo tràng sinh cảm hứng): “Thường tu thanh tịnh, bỏ phù hoa, Người biết kinh thành nhà trưởng giả. Khói hương trên bàn phủ kinh sách, Đèn trước Phật đài thấu liên hoa. Giữ trai đã mãn mời khách nhàn, Sai trẻ nghe đàn luyện khúc ca. Mai nếu ghé qua phòng phương trượng, Lại đến nghe hỏi pháp từ ta?”
[20] “Họa lại thơ Lạc Thiên – luyện đan không thành, gọi rượu uống một mình”: “Cửu chuyển sắp thành tựu, Trăm Thần phải chủ trì. Tiếng trẻ kêu trên đỉnh, Mặt già buồn trước gương. Ngoảnh lại lò đan rỗng, Quay lòng sang chén rượu. Say rồi tai nóng đỏ, Chốc lát thời thiếu niên”.
[21] “Thu đến thăm chùa Pháp sư Hồng Cử, tiện tiễn về Giang Lăng và lời dẫn, quyển 29.
[22] “Tặng Pháp sư Huệ Tắc về Thượng Đô, nhân tiện trình lên thượng nhân Quảng Tuyên, có lời dẫn”: “Tuyết Sơn đồng tử là tiền kiếp, Kim Túc Như Lai là thầy ta”. (Quyển 29)
[23] “Tiễn thượng nhân Tông Mật trở về chùa Thảo Đường ở Nam Sơn, nhân đến gặp Bạch thị lang – quan Doãn Hà Nam”: “Tu tập lâu dần đắc huệ căn, Nghe nhiều đầu tiên lại quên lời”. (Quyển 29)
[24] “Cung kính tiễn anh trai về núi Vương Ốc ẩn cư, hai bài”: “Xưa nay người thành Đạo, Huynh đệ cũng đồng hành”. (Quyển 28)
Các bài thơ và văn của Lưu Vũ Tích được trích dẫn trong bài này, xin tham khảo trong “Lưu Tân Khách Văn Tập”, do Vương Vân Ngũ chủ biên, thuộc bộ “Tủ sách Căn bản Quốc học” (400 loại), Nhà xuất bản Thương vụ Đài Loan, bản in lần thứ nhất tại Đài Loan, tháng 9 năm Dân quốc 57 (1968).
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/19908