Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Câu chuyện tu luyện

Câu chuyện tu luyện của các thi nhân thời xưa (Phần 3) – Vương Duy

28-06-2025

Tác giả: Mai Tùng Hạc

[ChanhKien.org]

Vương Duy (700 – 761), tự là Ma Cật, là một đại thi nhân, họa sĩ và nhạc gia thời Thịnh Đường. Thơ ông miêu tả sự vật tinh tế, sinh động, đầy thần thái; ngôn từ thanh nhã, thoát tục, thể hiện trình độ nghệ thuật cao siêu, phong cách thơ của ông độc đáo, tự thành một trường phái riêng. Ông giỏi nhiều thể loại thơ, thành thạo trong việc sáng tác nhiều đề tài. Vương Duy cùng với Lý Hân, Cao Thích, Sầm Tham và Vương Xương Linh hợp lại với nhau được gọi là “Vương Lý Cao Tằng”, đại diện cho dòng thơ “biên tái” (thơ viết về vùng biên ải); ông cùng Mạnh Hạo Nhiên hợp lại được gọi là “Vương Mạnh”, đại diện cho dòng thơ điền viên (thơ về cuộc sống thôn quê). Những kiệt tác thơ biên tái của ông đa số là thất ngôn cổ thi, còn trong các bài thơ điền viên nổi bật đa phần là các bài ngũ ngôn luật thi. Về “thiền thi” (thơ mang tư tưởng thiền), ông lại càng xuất chúng, từ xưa đến nay không ai theo kịp, nên được tôn xưng là “Thi Phật”. Nhiều tuyệt phẩm lưu truyền rộng rãi của ông thuộc thể ngũ tuyệt: chỉ vỏn vẹn 20 chữ nhưng đã thể hiện trọn vẹn tâm tư, cảm xúc và triết lý mà trăm ngàn năm sau người ta vẫn đàm luận mãi không hết. Những bài thơ nổi tiếng của ông bao gồm: “Lộc Trai”, “Trúc Lý Quán”, “Sơn Trung”, “Tương Tư” và “Tạp Thi (kỳ 2)”… Vương Duy cũng là bậc thầy hội họa, ông giỏi vẽ các thể loại tranh phá mặc sơn thủy (tranh phong cảnh vẽ bằng lối phá mực) và tùng thạch (tranh vẽ tùng trên đá), ông cũng giỏi vẽ nhân vật, chân dung, và khóm trúc. Bút lực của ông hùng tráng, ông là người đi đầu trong việc sử dụng kỹ thuật thuân pháp (vẽ bằng các đường ngắn gãy) và tuyển vựng (tô màu loang) để tạo chiều sâu bố cục, đặc biệt là với cảnh bình viễn (cảnh xa bằng phẳng). Ông được hậu thế suy tôn là tổ sư của “Nam Tông” và người đứng đầu trong số các văn nhân vẽ tranh. Tác phẩm hội họa “Võng Xuyên Đồ”, vẽ những dãy núi trập trùng, cây cối um tùm, mây trôi nước chảy. Tô Thức thời Bắc Tống từng khen ông rằng: “Trong thơ có họa, trong họa có thơ”.

Vương Duy mồ côi cha từ sớm, mẹ ông là một cư sĩ Phật giáo rất thành kính, điều này có ảnh hưởng lớn đến việc sau này ông ăn chay và tu Phật cả đời. Những thăng trầm trong cuộc sống của ông lại càng góp phần khiến ông nhìn cuộc đời nhẹ nhàng và kiên định với lòng tin vào Phật: năm 21 tuổi, ông đỗ tiến sĩ và được bổ nhiệm làm Đại Nhạc Thừa. Nhưng vì một nhóm đào hát biểu diễn điệu múa sư tử vàng phạm tội mà bị liên lụy, ông bị giáng chức làm Tư Thương Tham Quân ở Tế Châu. Đến thời loạn An Sử, ông bị An Lộc Sơn bắt giam và buộc phải nhận chức quan của quân phản loạn. Sau khi loạn lạc được dẹp yên, ông lại vì chuyện này mà bị bỏ tù. Một năm sau, Túc Tông xét thấy ông vô tội nên tha bổng, sau đó trong vài năm, ông liên tiếp được thăng chức đến chức Thượng Thư Hữu Thừa – một chức quan lớn. Có điều lúc này ông đã vào tuổi xế chiều, từ lâu đã xem nhẹ hồng trần rồi.

Trong suốt cuộc đời, ông đã có nhiều thời gian sống ẩn cử. Trước năm 18 tuổi, ông đã từng ẩn cư. Năm 729, ông ẩn cư tại vùng Kỳ Thượng, sau đó chuyển đến núi Tung Sơn, lần này là do từ quan về ở ẩn, cho đến năm 734 mới được triều đình bổ nhiệm làm Hữu Thập Di. Từ năm 741 đến 745, ông lại ẩn cư ở núi Chung Nam. Đến năm 748, ông mua lại biệt viện Võng Xuyên ở Lam Điền của Tống Chi Vấn, từ đó sống cuộc đời nửa làm quan nửa ẩn sĩ, cho đến năm 756 thì bị An Lộc Sơn bắt giữ. [1] Căn cứ vào thơ của ông thì thấy, vào khoảng 40 tuổi, ông đã có tâm tu Đạo. [2] Về cuối đời, ông chủ yếu sống trong thành, trong nhà thường nuôi dưỡng mười mấy vị tăng nhân để cùng nhau giao lưu thể ngộ tu Phật; sau mỗi buổi chầu về, ông lại đốt hương ngồi thiền một mình, chuyên tâm tu tập thiền định.

Trong lúc ẩn cư, ông thường leo núi, bái chùa, cầu Đạo vấn thiền, lòng đầy khát vọng ẩn cư nơi núi rừng thanh tĩnh. Có lúc ông men theo những con đường nhỏ hiểm trở, quanh co uốn lượn mà leo lên đỉnh núi, những ngọn núi kỳ lạ chỉ thẳng lên trời, trên đầu là những tảng đá lớn lởm chởm như muốn rơi xuống bất cứ lúc nào; thác nước và suối reo vang như sấm, tung bọt trắng xóa; cùng các thiền sư trong núi đi đường, có khi bắt gặp bầy khỉ đang nhặt hạt dẻ, lúc trở về lại tình cờ gặp đàn hạc tiên đang làm tổ trong rừng tùng; cây cầu nhỏ đi qua chỉ là thân cây đổ được gác tạm qua suối, hàng rào nơi ở chỉ là những sợi dây leo trên cây lớn buộc tạm lại thành. Khi về tới nơi, khép cửa đá lại, ông an tâm đả tọa, đến khi mở cửa đá một lần nữa thì cỏ ngoài sân đã mọc cao rậm rạp rồi! [3] Có lúc ông leo lên một ngọn núi thật cao, sau rừng trúc sâu là một hang đá dùng làm nơi cư trú, đêm đến khi mọi vật tĩnh lặng, ông nghe được tiếng suối chảy róc rách từ xa vọng lại; từ dưới nhìn lên, chỗ ấy đã là nơi cao vút giữa mây trời, vậy mà ông lại đang nằm nghỉ yên bình ở đây, cảm giác ấy khiến ông thấy lưu trú tạm thời thật chẳng đủ, mà chỉ muốn được ở lại đây mãi mãi. [4] Có lần ông du ngoạn đến một số ngôi chùa trên núi, nơi đó mãnh hổ sống hòa thuận với người, những con khỉ còn có thể học theo người tham thiền đả tọa, khoảnh khắc ấy khiến người ta cảm nhận được Phật quốc hiện ra ngay trước mắt, còn thế gian con người thì trở nên xa xăm mờ ảo, cũng khiến ông tự thấy hổ thẹn với đời sống quan trường mà mong mỏi được sống suốt đời ở nơi đây để tu Phật. [5]

Ngoài những lý do đã kể trên khiến Vương Duy hướng về cửa thiền, thì nỗi khổ và sự giày vò của sinh lão bệnh tử trong đời người cũng là một loại lực lượng thúc đẩy và khai mở tâm linh: có lúc ông ngồi lặng lẽ suy ngẫm giữa đêm khuya, nghĩ đến tóc mai hai bên ngày một bạc trắng, chẳng thể nào đen trở lại, dù có vạn lượng vàng cũng đành bất lực, không khỏi cảm thấy nỗi bi thương dâng trào, và cuối cùng ngộ ra rằng chỉ có học Đạo, thoát khỏi luân hồi mới có hy vọng. [6] Lại có lúc ông hồi tưởng, cảm giác bản thân mới hôm qua còn là chàng thanh niên mặt mày hồng hào rạng rỡ, vậy mà hiện nay răng đã hỏng, sắc diện tàn phai, tóc bạc đã sớm phủ kín đầu; không chỉ vậy, bao nhiêu chuyện thương tâm trong đời cũng cùng lúc trỗi dậy trong tâm. Trước sự giày vò cả thân lẫn tâm như vậy, ngoài việc chăm chỉ tu hành nơi cửa Phật, còn biết đi đâu để giải thoát đây! [7]

Khi đã có đạo tâm kiên định và tu vi chuyên cần, quay đầu nhìn lại cõi đời sẽ có một thế giới quan hoàn toàn khác: bệnh tật trong đời chẳng qua cũng từ chấp trước vào yêu và hận mà sinh; cảm thấy mình nghèo khổ rồi sinh lòng oán trách, chẳng qua cũng bởi có tâm tham dục; con người trong mê lại thành ra lưu luyến cõi trần gian đầy bệnh tật và nghèo khổ này, đối với sinh tử qua lại, lục đạo luân hồi lại không biết chán, lại không hề hay biết rằng sở dĩ con người đến thế gian này chính là vì đã khởi phàm tâm. [8] Những vọng tưởng điên đảo này của con người giống như những con rồng độc quấn chặt bản thân, không thể tự giải thoát, chỉ có tu tập thiền định mới có thể chế ngự những vọng niệm này. [9] Người tu Đạo sau khi nhìn thấu những lý này rồi tự nhiên sẽ an vui với cuộc sống tu Đạo nghèo khó. [10] Hơn nữa, thuận theo việc tâm tính đề cao, cái nhìn về khổ và vui cũng khác với người thường, thường cảm thấy vui mừng khi có sự giác ngộ trong tĩnh lặng, và từ đó dần dần tạo nên khoảng cách với người thường. [11]

Trong thơ của mình, Vương Duy còn nhắc đến một số sự tình cụ thể trong tu luyện: ông thích đọc những truyện ký về các cao tăng đắc Đạo, đôi khi nghiên cứu cả phương pháp tu luyện tịch cốc; ông khắc đầu gậy thành hình chim cu gáy, lấy mai rùa làm vật kê dưới chân giường; khi không có việc gì làm thì đốt hương dưới cửa sổ phía Bắc và ngồi đả tọa. [12] Khi ẩn cư trong núi, ông cùng một nhóm người tụng thiền, cảm nhận được niềm vui khác biệt so với khi ngồi thiền một mình. [13] Trong thời gian ẩn tu tại núi Tung Sơn, ông còn từng có trải nghiệm bế quan tu luyện. [14]

Làm điều ác giống như mài dao trên đá, tuy nhìn không thấy hao tổn rõ rệt, nhưng mỗi ngày tiêu giảm một chút, dần dần bị mòn đi; tu thiện thì như cỏ xuân trong vườn, tuy chẳng thấy nó lớn lên, nhưng mỗi ngày một cao. Không ai hay biết, thuận theo năm tháng trôi qua, Vương Duy đã tu luyện đến cảnh giới cực cao “mắt nhìn mà không nhiễm, lòng rỗng mà không mê”. [15] Khi tu được đến trình độ cao, tự nhiên sẽ xuất hiện một số công năng, nhưng bản thân ông lại không xem trọng điều đó. Đối với thành tựu rất cao của mình trong thơ ca và hội họa, ông chỉ khiêm nhường giải thích rằng: “Ta từ nhiều đời đã là người tinh thông thơ văn, mà đời trước là một họa sĩ. Vì những thói quen xưa kia chưa dứt hết, nên đời này lại bị người đời phát hiện ra thôi”. [16] Tu luyện mười mấy hai mươi năm mà có được công năng như túc mệnh thông cũng chẳng có gì lạ; lời giải thích của ông không chỉ hợp tình hợp lý mà còn rất phù hợp với các quy luật nghiên cứu về luân hồi trong giới học thuật phương Tây hiện đại.

Chú thích:

[1] Cát Hiểu Âm (giáo sư Đại học Bắc Kinh), “Nghiên cứu về dòng thơ điền viên sơn thủy”.

[2] Bài thơ “Chung Nam biệt nghiệp”: “Trung tuế pha hiếu đạo…”, quyển ba; (Tên sách tham khảo ở cuối).

[3] Bài thơ “Yến Tử Kham thiền sư”: “Trong núi có thiền sư Yến Tử Kham, đường đi như ruột dê hiểm trở. Đất nứt vặn vẹo chằng chịt, đỉnh núi cao như đâm thẳng lên trời, nhiều chỗ dựng đứng hiểm trở. Thác suối gầm vang phun trào, đá lạ tưởng như muốn rơi… Đi thì cùng khỉ nhặt hạt dẻ, về thì gặp hạc tiên làm tổ trên cây thông… Cầu là do cây đổ bắc ngang, hàng rào là dây leo buộc tạm… Cả ngày trong cửa đá, mặc cho cỏ xuân mọc dày ngoài sân”. – Quyển 5;

[4] Bài thơ “Đầu đạo nhất sư lan nhã túc”: “Một ông (tu sĩ) như Thái Bạch, đỉnh núi cao vượt mây khói… Ban ngày đi hết đường tùng, chiều thì trú cạnh am. Hang đá ẩn sau rừng trúc, đêm thanh nghe tiếng suối xa. Khi trước là chốn mây trời, nay lại ở ngay trước mặt, gối đầu ngủ nghỉ. Nào chỉ là lưu trú tạm, mà còn muốn ở lại trọn đời”. – Quyển 11;

[5] Bài thơ “Du ngộ Chân tự”: “… Mãnh hổ cũng cùng đi trên đường, khỉ buồn học ngồi thiền nhập định… Tựa nơi cõi Phật nhìn lại, kinh thành bỗng trở nên xa vời… Quan chức nhỏ cảm thấy xấu hổ vì sống uổng phí, suốt đời muốn hướng về đạo lý huyền diệu…” – Quyển 12;

[6] “Thu dạ độc tọa” (Đêm thu ngồi một mình): “Ngồi một mình buồn mái tóc hai bên mai, Phòng trống sắp đến canh hai… Tóc bạc rồi cũng khó thành đen lại, Vàng bạc cũng chẳng thể thành công. Muốn biết cách trừ lão, bệnh, Chỉ có học vô sinh (giải thoát luân hồi)”. – Quyển 9;

[7] “Thán bạch phát” (Cảm thán tóc bạc): “Ngày trước mặt mày hồng nhuận, nay răng long tóc bạc; Chỉ trong chốc lát, tóc trắng rủ xuống. Một đời bao chuyện thương tâm, Nếu không quay về cửa không, còn biết giải tỏa ở đâu?”. – Quyển 14;

[8] “Gửi bài thơ này cho cư sĩ Hồ khi cả hai đều bệnh, đồng thời làm gương cho người học Đạo (hai bài)”: “Chỉ một niệm bụi trần nổi lên, Liền mang thân như giọt sương buổi sớm… Vì yêu mà sinh bệnh, Do tham mà cảm thấy nghèo… Không nỡ rời khỏi cõi nghèo khổ bệnh tật này, Cứ mãi chìm nổi trong dòng sinh tử không biết mệt mỏi”. – Quyển 3;

[9] “Qua chùa Hương Tích”: “… An thiền mới có thể chế ngự rồng độc”. – Quyển 7;

[10] Qua nhà Lý Ấp: “… Người cùng ta đồng lòng, Là kẻ an bần vui với Đạo”. – Quyển 3;

[11] Ăn cơm với tăng nhân núi Phúc Phủ: “Về già mới hiểu đạo lý thanh tịnh, Ngày ngày càng xa rời thế tục. Một khi ngộ ra niềm vui nơi tĩnh lặng, Thì cuộc sống rảnh rỗi trở nên dư dả”. – Quyển 3;

[12] “Xuân nhật thượng phương tức sự”: “Thích đọc truyện ký các cao tăng, Đôi lúc xem phương pháp tịch cốc. Khắc đầu gậy thành hình chim cu, Dùng mai rùa để kê chân giường… Dưới cửa sổ phía Bắc, dưới gốc đào lý, Rảnh rỗi chỉ ngồi thiền đốt hương”. – Quyển 9;

[13] “Gửi các đệ muội khi ở trong núi”: “Trong núi có nhiều bạn Đạo, Cùng nhau tụng thiền thành một nhóm riêng…”. – Quyển 13;

[14] “Trở về núi Tung Sơn”: “Xa xôi dưới chân núi Tung cao, Trở về sẽ đóng cửa bế quan”. – Quyển 7;

[15] “Tụ hội tại viện của thượng nhân Đàm Bích ở chùa Thanh Long”: “… Mắt nhìn mà không nhiễm, Lòng rỗng mà không mê”. – Quyển 11;

[16] Ngẫu nhiên làm sáu bài thơ (bài thứ sáu): “Đời trước lỡ là người làm thơ, Kiếp trước hẳn là một họa sĩ. Không dứt được thói quen xưa, Nên vô tình bị người đời phát hiện”. – Quyển 5;

Ghi chú: Tất cả các bài thơ dẫn trong văn bản này đều có thể tham khảo trong Tuyển tập của Vương Hữu Thừa, do Vương Vân Ngũ chủ biên, thuộc bộ “Tủ sách Căn bản Quốc học (400 loại)”, Nhà xuất bản Thương Vụ, Đài Loan, bản in lần thứ nhất, tháng 9 năm Dân Quốc 57 (1968).

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/19842

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài