Phỏng vấn, biên tập: Tăng Tường Phú, Hoàng Cẩm
[ChanhKien.org]
Bìa sách “Hạt giống vàng” (NXB Bác Đại cung cấp)
“Hạt giống vàng – Câu chuyện về Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan”. Cuốn sách chủ yếu ghi chép lại quá trình phát triển của Pháp Luân Công tại Đài Loan cùng những câu chuyện cảm động lòng người, hơn nữa, hành trình lịch sử trân quý này cũng chính là một “bộ lịch sử sống”.
Năm 1994, khởi đầu mối kỳ duyên tại Tế Nam, Sơn Đông của một cặp vợ chồng người Đài Bắc, chuyến viễn du của một bác sĩ Thượng Hải đến Đài Loan, chuyến thăm người thân tại Hoa Liên của một ông lão người Quý Châu, đã mang về “hạt giống” Đại Pháp, kết hợp cùng nhau tạo nên một cơ duyên tu luyện vô cùng hiếm hoi.
Vào tháng 02/2016, nhóm biên tập đã thực hiện các cuộc phỏng vấn độc quyền lần lượt ở bắc, trung và nam Đài Loan. Sau khi sao chép các bản ghi âm, kiểm tra đối chiếu lại, mất ba năm cuối cùng mới có thể biên tập thành sách. So với dự tính ban đầu có thể nói là khó khăn hơn rất nhiều.
Nhân dịp kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13/05, trang The Epoch Times xin giới thiệu cuốn sách “Hạt giống vàng”, mong rằng sự ra đời của cuốn sách sẽ giúp mỗi từng bước phát triển của Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan trở thành một kiến chứng lịch sử được lưu giữ hoàn chỉnh hơn.
Thành lập điểm luyện công đầu tiên ở Đài Loan
Sau khi trở về Đài Loan, Trịnh Văn Hoàng đến bệnh viện để tái khám và phát hiện ra rằng tất cả những viên sỏi ban đầu nằm chật kín trong túi mật đã biến mất một cách kỳ diệu. “Tại sao lại không thấy những viên sỏi đó nữa?” Bác sĩ sửng sốt nhìn phim chụp X-quang mà không tin nổi. Trịnh Văn Hoàng đã rất vui khi kể với bác sĩ về chuyến đi đến Trung Quốc đại lục vừa rồi của mình. Bác sĩ không thể lý giải điều gì đã xảy ra, chỉ có thể nói với Trịnh Văn Hoàng: “Nếu ông cảm thấy không khỏe, hãy nhớ trở lại bệnh viện để kiểm tra nhé”.
Đối với Trịnh Văn Hoàng mà nói, những biến hóa cực đại mà thân thể ông vừa trải qua trong chuyến đi tới Quảng Châu vẫn còn ít hơn nhiều so với sự cảm kích từ trong tâm hồn ông.
Trịnh Văn Hoàng sinh ra ở Trung Quốc đại lục năm 1923, gia nhập Quân đội Quốc gia khi còn trẻ để đi theo Chính phủ Quốc dân Đảng, kinh qua cuộc kháng chiến chống Nhật Bản, rồi đến nội chiến giữa Quốc Dân đảng và Đảng cộng sản, chiến dịch Cổ Ninh Đầu (còn gọi là chiến dịch Kim Môn). Sau khi Quốc Dân đảng đến Đài Loan vào năm 1949, ông sớm giải ngũ và chuyển sang ngành sửa chữa, chống thấm và tu bổ công trình. Trịnh Văn Hoàng vốn có tính tình nóng nảy, vẫn không thay đổi tác phong quân nhân của mình trong việc giáo dục con cái, khiến cho con cái giữ khoảng cách với cha, nhưng ông không để bụng việc đó.
Trong thời gian ở Quảng Châu, một vị học viên Đại Lục đã vỗ vai Trịnh Văn Hoàng và nói với ông: “Đại ca ơi, anh đã không tu tâm tính rồi!” Ông đột nhiên tỉnh ngộ rằng mình đã không tu bỏ tính khí xấu, rất hay tức giận, và sau đó mắng chửi vợ con, thực sự là không nên! Ông nói: “Nếu tâm tính không đề cao, công không tăng trưởng, thân thể không cách nào được tịnh hóa thì đương nhiên sẽ sinh bệnh”.
Sau khi trở về Đài Loan, Trịnh Văn Hoàng bắt đầu chú trọng đến việc tu luyện tâm tính, sự thay đổi của ông được vợ ông cảm thụ sâu sắc nhất: “Trước đây toàn là tôi phục vụ ông ấy. Khi ông ấy về nhà, tôi cần giúp ông ấy cởi tất và rót trà. Sau khi trở về từ Quảng Châu, thái độ của ông ấy đã khác hẳn, thay vào đó, ông ấy đã pha trà cho tôi uống, hoàn toàn ngược lại!”
Con gái ông, Trịnh Huệ Văn, kể lại rằng: Sau khi trở về từ Quảng Châu, cha cô đã bắt đầu mỉm cười và khuôn mặt lạnh lùng của ông biến mất. Cô nói: “Bố tôi từng rất khó gần, khi chúng tôi còn nhỏ, chúng tôi thường tránh đi khi nhìn thấy ông. Mối quan hệ cha con bị xa cách, sau này phát hiện ra cha không còn như xưa, gia đình trở nên hoà hợp”.
“Trên thế gian này có quá nhiều người giống như tôi đang bị bệnh tật hành hạ…” Hà Lai Cầm nghĩ; bà lại thấy những thay đổi trong gia đình mình; cùng với những lá thư thường xuyên của các học viên ở Bắc Kinh gửi tới động viên họ: “Các bạn nhất định phải bước ra ngoài và truyền Pháp”. Hai vợ chồng họ quyết định hành động để cho nhiều người qua đó có thể được thụ ích.
Nhưng phải làm thế nào? Họ làm theo cách làm của các học viên Đại Lục – ra ngoài lập các “điểm luyện công”. Cho nên hai vợ chồng đã tìm kiếm một địa điểm thích hợp gần nhà.
Sau một hồi tìm kiếm, họ đến gần chỗ đồng hồ hoa trong công viên Dương Minh Sơn ở Đài Bắc, cảm thấy nơi đây môi trường tốt, không khí trong lành, có tầm nhìn bao quát toàn bộ thành phố Đài Bắc.
Vào lúc 6 giờ 30 phút sáng ngày 27 tháng 04 năm 1995, bà Hà Lai Cầm và chồng treo biểu ngữ “Pháp Luân Đại Pháp hảo” do con gái họ viết tay, bật máy ghi âm phát nhạc luyện công và bắt đầu luyện công. “Điểm luyện công” Pháp Luân Đại Pháp đầu tiên của Đài Loan đã được thành lập như vậy.
Từ trên núi đến dưới núi
Ở một nơi vắng vẻ gần đồng hồ hoa trong công viên Dương Minh Sơn, những động tác nhẹ nhàng, uyển chuyển của vợ chồng bà Hà Lai Cầm cùng với tiếng nhạc tập du dương đã thu hút rất nhiều du khách dừng chân hỏi thăm vào sáng sớm. Họ cũng chiểu theo yêu cầu của Sư phụ Lý: “Không thu tiền, không nhận quà, hoàn toàn tự nguyện dạy công”.
Trong một thời gian ngắn, đã có hàng chục người liên tục gia nhập nhóm luyện công, một số từ khu vực Thiên Mẫu gần đó, cũng có những người từ khu vực lớn hơn của Đài Bắc như Tùng Sơn và Tân Điếm. Bà Hà Lai Cầm nhớ lại: “Mọi người đến học cũng cảm thấy thật kỳ diệu. Họ hiếm khi đến Dương Minh Sơn, nhưng tự dưng họ cảm thấy muốn đến đây”. Một người bị tiếng nhạc luyện công du dương lôi cuốn, khi bước vào điểm luyện công, động tác trong bài công pháp đầu tiên của Pháp Luân Công, “Di Lặc duỗi lưng”, thì đôi tay không thể duỗi thẳng của vị khách đột nhiên lại duỗi thẳng được. Điều này khiến người vợ bên cạnh vô cùng sửng sốt, vì sau khi bị phẫu thuật phổi người này bình thường lúc mặc quần áo đều phải có vợ giúp, ông ấy vừa luyện công vừa nói: “Luyện công thực là dễ chịu!”
Cũng giống như những biến hóa thần kỳ trong thân thể mà bà Hà Lai Cầm và chồng bà đã trải qua, những trường hợp như vậy thường xuyên xuất hiện tại điểm luyện công.
Bà Hoàng Xuân Mai, hiện là phó hội trưởng Pháp Luân Đại Pháp Học Hội Đài Loan, cũng vô tình gia nhập nhóm luyện công ở công viên Dương Minh Sơn.
Vào tháng 04 năm 1995, “điểm luyện công” Pháp Luân Đại Pháp đầu tiên của Đài Loan được thành lập – điểm luyện công tại Công viên Dương Minh Sơn, trong một thời gian ngắn đã có rất nhiều người đã tham gia (Ảnh do NXB Bác Đại cung cấp).
Kể từ khi kết hôn, bà Hoàng Xuân Mai đã theo chồng từ Đài Nam đến Đài Bắc định cư. Cuộc sống của một người nội trợ toàn thời gian gần hai thập kỷ khiến bà Hoàng Xuân Mai đặc biệt mong chờ các hoạt động của gia đình trong các kỳ nghỉ. Vào tiết Song thập (ngày 10 tháng 10) năm 1995, không dễ gì đợi đến kỳ nghỉ của người chồng bận rộn, không ngờ ông ấy phải hẹn khách hàng đi chơi gôn, vì hờn giận bà đã một mình đi bộ đến công viên Dương Minh Sơn gần nhà ở Thiên Mẫu.
Khi đang rảo bước, bà Mai nhìn thấy ba, bốn người phụ nữ đang luyện công. Bà kể: “Tôi đặt ô xuống và theo dõi động tác của họ”. Trong thâm tâm, bà cảm thấy rằng các bài công pháp thật ưu mỹ. Bà muốn học ngay lúc đó, nhưng vì nhút nhát khiến bà không dám mở lời.
Bà Mai nói rằng bà thường thấy mọi người luyện công trong công viên, thỉnh thoảng bà cũng nảy sinh ý muốn học, nhưng vì tính cách hướng nội nên bà chưa bao giờ thực sự học được.
Nhưng lần này sau khi trở về nhà, bà Hoàng Xuân Mai đã hối tiếc vì không có mở lời. Ngày hôm sau, cùng thời gian đó, bà quay trở lại chỗ cũ, nhưng không thấy ai luyện công. Bà nghi vấn nghĩ: “Có phải mình nhớ nhầm giờ không?” Vì vậy, bà quyết định quay lại xem vào một thời điểm khác. Sau khi tìm kiếm trong vài ngày, cuối cùng bà đã tìm thấy một học viên khác. Lần này bà lấy hết can đảm nói chuyện với người phụ nữ đang luyện công. Vì thế, người phụ nữ đã nói với bà về các địa điểm luyện công của vợ chồng Hà Lai Cầm.
Chủ nhật hôm đó, ông Trương Thanh Hỏa chở vợ đến Dương Minh Sơn để tham gia luyện công buổi sáng, khi đến Dương Minh Sơn thì không thấy có người luyện công, vì sợ bị trễ giờ nên rất lo lắng, trong lòng như lửa đốt. Bà Hoàng Xuân Mai nhìn thấy một người bán rau bên cạnh, bà đi đến chỗ người bán rau và hỏi: “Tôi nghe nói có người luyện Pháp Luân Công ở đây, là ở chỗ nào?” Người bán rau chỉ tay lên, nói trên đỉnh núi. Khi đó, ông Trịnh Văn Hoàng đang nói chuyện với các học viên: “Công pháp này không chỉ cần luyện công, mà còn cần học Pháp, tu tâm tính”. Bà Hoàng Xuân Mai đã không đến muộn, vẫn kịp luyện công cùng mọi người.
Khoảng thời gian trở lại đây, vợ chồng họ đã rất hứng thú với đả tọa, họ cũng đến chùa để học đả tọa, nhưng chưa có duyên nhập môn. Bằng cách này, bà Hoàng Xuân Mai và chồng đã gia nhập đội luyện công, vào buổi sáng của các ngày nghỉ họ cùng đến luyện công ở Dương Minh Sơn.
Khi luyện công theo nhóm, mọi người đều làm theo khẩu lệnh của Sư phụ Lý trong nhạc luyện công, lúc đó các thiết bị điện tử chưa phát triển, đài phát nhạc luyện công vừa to vừa nặng, một tuần phải thay pin một lần. Vợ chồng bà Hoàng Xuân Mai thấy Trịnh Văn Hoàng vác một chiếc đài nặng còn dạy miễn phí cho mọi người các bài công pháp, trong tâm rất cảm kích. “Chúng tôi nói với ông Trịnh Văn Hoàng, chúng tôi đã mua máy thu âm rồi, sau này để chúng tôi mang đi”.
Không lâu sau, vợ chồng bà Hoàng Xuân Mai đã đề nghị lập một điểm luyện công ở Công viên Thiên Mẫu. Ông Trịnh Văn Hoàng sau khi khảo sát môi trường công viên Thiên Mẫu, đã đồng ý lập điểm. Vậy là, vào cuối năm 1995, điểm luyện công thứ hai ở Đài Bắc được thành lập trong công viên Thiên Mẫu. Sau đó, ông Trịnh Văn Hoàng chạy đi chạy lại cả hai điểm, lúc thì luyện công ở Dương Minh Sơn và lúc thì ở công viên Thiên Mẫu. Khi có người mới đến học công, có khi ông Trịnh Văn Hoàng sẽ nhờ bà Hoàng Xuân Mai dạy. Mặc dù ở Đài Loan thời điểm đó không có khái niệm “phụ đạo viên”, nhưng bà Hoàng Xuân Mai đã dần dần đảm nhận trách nhiệm phụ đạo viên cho các học viên mới và sau này trở thành phụ đạo viên tại điểm luyện công Thiên Mẫu.
Cuối năm 1995, Công viên Thiên Mẫu thành lập điểm luyện công buổi sáng thứ hai ở Đài Bắc (Ảnh do NXB Bác Đại cung cấp).
Mở “Lớp chín ngày học Pháp luyện công”
Cuối năm 1995, điểm luyện công nhỏ ở Dương Minh Sơn có hơn 30 người, ngoài ra còn có rất nhiều người đến tìm hiểu và học tập mỗi ngày, việc này dù khiến vợ chồng Trịnh Văn Hoàng rất vui mừng, nhưng họ cũng ý thức được một vấn đề mới. Bởi vì Pháp Luân Công là công pháp “tính mệnh song tu”, nhấn mạnh rằng ngoài việc luyện năm bài công pháp cũng cần phải “tu tâm tính”. Vậy làm sao để tu tốt bản thân, đề cao tâm tính? Chính là phải học Pháp. Cuốn Chuyển Pháp Luân chính là cuốn sách chủ yếu hướng dẫn học viên cách tu luyện. Nhưng vào thời điểm đó họ chỉ có một bản cuốn “Chuyển Pháp Luân”, một bản “Pháp Luân Công” (bản hiệu chỉnh), và một bộ băng ghi âm của Sư phụ Lý giảng Pháp ở Tế Nam. Tốc độ truyền tay nhau đọc sách của các học viên quá chậm. Thấy học viên mới tham gia chưa lý giải Pháp được sâu, chân chính tu luyện, vợ chồng ông trong tâm không khỏi lo lắng. Vì vậy, họ đã viết thư cho các học viên Đại Lục để được giúp đỡ.
Năm 1995, lúc bấy giờ ở Đài Loan chỉ có một quyển “Chuyển Pháp Luân” và một quyển “Pháp Luân Công Trung Quốc (Bản đã biên tập)” (Ảnh do NXB Bác Đại cung cấp).
Thật may, khi ấy bà Nhiếp Thục Văn, nguyên trạm trưởng trạm phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp Thượng Hải, đến Cao Hùng định cư, bà đã liên lạc với vợ chồng ông Trịnh Văn Hoàng để thành lập “Lớp chín ngày học Pháp và luyện công”.
“Lớp chín ngày học Pháp và luyện công” là một hình thức học Pháp Luân Đại Pháp đầy đủ và hoàn chỉnh nhất cho người mới bắt đầu. Trong suốt chín ngày, mỗi ngày sẽ xem một băng ghi hình giảng Pháp của Sư phụ Lý Hồng Chí tại Trung Quốc, chín ngày xem tổng cộng chín băng ghi hình. Sau khi xem xong, học viên sẽ được hướng dẫn luyện năm bài công pháp. Mỗi buổi học kéo dài khoảng hai đến ba tiếng mỗi ngày.
Vào tháng 01 năm 1996, mặc dù vào thời điểm đó cuốn “Chuyển Pháp Luân” đang thiếu hụt ở nhiều tỉnh khác nhau của Đại Lục, hội nghiên cứu Pháp Luân Đại Pháp Bắc Kinh đã gửi 100 cuốn “Chuyển Pháp Luân” đến Đài Loan. Bằng cách này, tất cả mọi người không còn phải truyền tay nhau chờ đến lượt mới có sách đọc.
Phòng khách của nhà ông Trịnh Văn Hoàng đã trở thành địa điểm của lớp học chín ngày. Hai vợ chồng rất tận tâm, bất kể thời gian nào, dù ít hay nhiều người, đều sắp xếp lớp học theo thời gian thuận tiện cho người muốn học. Cô Trịnh Huệ Văn nhớ lại: “Khi đó, nhà tôi giống như một đạo trường, người ra người vào lúc nào cũng chật kín, ngồi từ phòng khách đến phòng ăn, ngồi đến tận cửa phòng”.
Đầu năm 1996, ông Trịnh Văn Hoàng và vợ thành lập “Lớp chín ngày học Pháp và luyện công” tại nhà của Thiên Mẫu (ảnh do NXB Bác Đại cung cấp).
Bà Hà Lai Cầm, người vốn sống nội tâm, nay chào hỏi người lạ, dạy công, giải thích, hướng dẫn động tác… Trong mắt cô con gái Trịnh Huệ Văn, từ một người mẹ rụt rè ít tiếp xúc với xã hội, đã thoát thai thành một người “tự tin” khi đối mặt với đại chúng. Cô Trịnh Huệ Văn tin rằng sự tự tin của mẹ cô bắt nguồn từ việc “bà đang làm một điều đúng đắn, một điều hữu ích cho mọi người”, cô Trịnh Huệ Văn giải thích: “Đó là ‘thiện niệm’, bà cảm thấy rằng ‘bởi vì tự thân tôi được thụ ích, tôi muốn truyền lại những điều như vậy cho người khác’”.
Còn người cha Trịnh Văn Hoàng thì sao? Ngoài việc từ một người nóng nảy trở nên ôn hòa, ông xem nhẹ vật chất, danh vọng và lợi ích tiền bạc. Những khoản nợ làm ăn không đòi được, ông thẳng thắn xé hết các tấm chi phiếu, hối phiếu liên quan. Vì Pháp Luân Công nhấn mạnh việc dạy công pháp là hoàn toàn tự nguyện, nên ngay cả lớp học Pháp và luyện công chín ngày cũng hoàn toàn miễn phí. Đã từng có người, sau khi học luyện thì bệnh tật đều khỏi, vì quá biết ơn nên mang đến một xấp “tiền cảm tạ”. Nhưng dù lúc đó điều kiện kinh tế của ông Trịnh Văn Hoàng không được tốt, ông vẫn kiên quyết từ chối nhận theo đúng lời dạy của Sư phụ Lý.
Chứng kiến người cha nghiêm khắc trở nên hiền từ, người mẹ vốn quanh năm nằm liệt giường giờ trở nên khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, bầu không khí trong gia đình trở nên hòa thuận, tràn ngập tiếng cười, chính vì vậy Trịnh Huệ Văn cùng anh trai và em trai cũng lần lượt bước vào tu luyện Pháp Luân Công.
Nam Truyền Đào Viên
Lúc đó, cô Trịnh Huệ Văn đang theo học hệ ban đêm đại học và thường xuyên kể câu chuyện của mẹ mình cho người khác nghe, hầu như gặp ai cũng chia sẻ. Trong túi xách của cô luôn mang theo tờ giới thiệu Pháp Luân Công do chính cô thiết kế. Nhờ vậy, nhiều bạn học cấp ba, bạn học ở trường chuyên, ở đại học cũng như các thầy cô giáo đã cùng nhau đến nhà cô để học luyện công và tham gia lớp học chín ngày của Pháp Luân Công.
Sau đó, Trịnh Huệ Văn đến làm việc tại một công ty và dĩ nhiên cô vẫn có cơ hội để kể về câu chuyện của mẹ mình. Không ít đồng nghiệp và chủ quản công ty cũng tham gia lớp học chín ngày, trong đó có một vị tên là Lưu Hoàng Ảnh, một đồng nghiệp mắc bệnh thần kinh tọa nặng.
Năm 1996, Lưu Hoàng Ảnh, 34 tuổi, đã gần như sức cùng lực kiệt, hàng ngày lê lết cơ thể đau đớn mệt mỏi đi làm, đến đêm nằm trên giường khi trở mình hoặc di chuyển đều dẫn đến xương cốt đau đớn. Khi đó, cứ mười bước, anh lại phải ngồi xuống nghỉ một lát thì mới có thể đi tiếp được.
Khi các triệu chứng mới xuất hiện, anh Lưu Hoàng Ảnh đã đến bệnh viện để chụp X-quang và chụp MRI, kết quả là đau thần kinh tọa, đĩa đệm thắt lưng thứ năm bị thoát vị kèm xoay. Bác sĩ khuyên nên phẫu thuật, nhưng tỷ lệ thành công chỉ là 50%. Đối mặt với nguy cơ thất bại có thể dẫn đến liệt suốt đời và phải ngồi xe lăn, khiến Lưu Hoàng Ảnh e ngại con đường phẫu thuật.
Sau đó, trải qua hơn hai năm chạy chữa trong tình trạng gần như “tán gia bại sản”, anh Lưu Hoàng Ảnh hình dung bản thân lúc đó, người mắc bệnh nặng tìm đủ mọi cách chữa trị nhưng chỉ mang lại cho bản thân nhiều thất vọng hơn. “Anh trai tôi nói rằng Cao Hùng có môn châm cứu rất lợi hại”, không chờ nói đến lời thứ hai, Lưu Hoàng Ảnh mua vé máy bay đi luôn, tìm Trung y, thử qua các liệu pháp dân gian, rồi theo lời giới thiệu của người em liền theo một vị khí công sư học công, “một bộ công pháp, mỗi người cần phải trả một vạn tệ, cộng thêm tiền thuốc mỗi tháng ba vạn tệ”. Học hơn một năm nhưng hiệu quả thu được rất ít.
Ngày 23 tháng 01 năm 1996 là một ngày không thể quên đối với anh Lưu Hoàng Ảnh, đó là ngày sinh nhật của anh và cũng là ngày đầu tiên anh ấy đi dự lớp học chín ngày. Sau đó, anh còn đến “Lớp học chín ngày” năm lần, anh nói không phải vì anh không hiểu nội dung bài giảng Pháp, mà vì cảm thấy rất trân quý, “Tôi biết rằng đây là một điều rất tốt!”
Vào một ngày, trong khóa học chín ngày lần thứ ba, anh Lưu Hoàng Ảnh, người phụ trách xây dựng công trình thủy điện, nhận được một cuộc gọi từ công trường, anh vội vàng chạy đi giải quyết. Khi chạy lên chiếu nghỉ cầu thang, anh đột nhiên ý thức được rằng: “Ồ, làm sao mình có thể chạy lên cầu thang?” Khoảng hai đến ba tháng sau khi học công, từ một người đã đi chữa bệnh một thời gian dài mà không khỏi, giờ đây anh đã hoàn toàn bình phục.
Trải nghiệm này cũng thúc đẩy vợ và các anh chị em của Lưu Hoàng Ảnh cùng nhau luyện công.
Vào tháng 03 năm 1996, Lưu Hoàng Ảnh và gia đình chuyển đến Đào Viên và thành lập điểm luyện công đầu tiên ở Đào Viên, đồng thời cũng mở “Lớp học chín ngày”. Rất nhiều người ở Đào Viên và Tân Trúc đều học Pháp và luyện công ở đây.
Sau khi tu luyện Pháp Luân Công, anh Lưu Hoàng Ảnh (người đầu tiên từ phải sang) đã tham gia Hội nghị Giao lưu Quốc tế Bắc Kinh vào tháng 10 năm 1996 và đến Công viên Thiên Đàn để luyện công cùng các học viên (Ảnh do NXB Bác Đại cung cấp).
Vào ngày 12 tháng 10 năm 1996, các học viên Pháp Luân Công từ nhiều quốc gia khác nhau tham gia Hội nghị Giao lưu Quốc tế Bắc Kinh đã luyện công vào buổi sáng tại chùa Giới Đài ở Bắc Kinh (Minh Huệ Net).
(Còn tiếp)