Trang chủ Right arrow Tu luyện Đại Pháp

Hạt giống vàng (Phần 17): Trường học đầu tiên ở Đài Loan biết đến Pháp Luân Công: Đại học Quốc gia Đài Loan

24-10-2025

Phỏng vấn, biên soạn: Tăng Tường Phú, Hoàng Cẩm

[ChanhKien.org]

Bìa sách “Hạt giống vàng” (NXB Bác Đại cung cấp)

[Duyên khởi]

“Hạt giống vàng – Câu chuyện về Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan”. Cuốn sách chủ yếu ghi chép lại đoạn đường phát triển của Pháp Luân Công tại Đài Loan cùng những câu chuyện cảm động lòng người, hơn nữa, hành trình lịch sử trân quý này cũng chính là một “bộ lịch sử sống”.

Năm 1994, khởi đầu mối kỳ duyên tại Tế Nam, Sơn Đông của một cặp vợ chồng người Đài Bắc, chuyến viễn du của một bác sĩ Thượng Hải đến Đài Loan, chuyến thăm người thân tại Hoa Liên của một ông lão người Quý Châu, đã mang theo “hạt giống” Đại Pháp, kết hợp cùng nhau tạo nên một cơ duyên tu luyện hiếm gặp không gì sánh được.

Vào tháng 02/2016, nhóm biên tập đã tiến hành phỏng vấn độc quyền lần lượt ở bắc, trung và nam Đài Loan. Sau khi sao chép các bản ghi âm, lại lần nữa kiểm tra đối chiếu, trải qua ba năm, cuối cùng đã có thể biên tập thành sách. So với dự tính ban đầu có thể nói là khó khăn hơn rất nhiều.

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13/05, trang The Epoch Times xin giới thiệu cuốn sách “Hạt giống vàng”, mong rằng sự ra đời của cuốn sách sẽ giúp mỗi từng bước phát triển của Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan như một kiến chứng lịch sử được lưu giữ hoàn chỉnh hơn.

(Tiếp theo phần 16)

Ngôi trường đầu tiên biết đến Pháp Luân Công là trường đại học danh giá số một Đài Loan — Đại học Quốc gia Đài Loan (NTU). Đây không chỉ là trường đại học có nhiều giáo sư học và luyện Pháp Luân Công nhất trong giai đoạn đầu, mà còn là trường đầu tiên thành lập câu lạc bộ sinh viên Pháp Luân Công. Sau khi Học hội Pháp Luân Đại Pháp Đài Loan được thành lập, tính đến nay cả hai đời hội trưởng đều do các giáo sư của NTU đảm nhiệm, phát huy tác dụng quan trọng trong việc hồng truyền Pháp Luân Công tại Đài Loan.

Giáo sư đầu tiên tu luyện Đại Pháp tại Đại học Quốc gia Đài Loan

Pháp Luân Công xuất hiện trong trường Đại học Quốc gia Đài Loan phải bắt đầu kể từ giáo sư Diệp Thục Trinh của khoa Kinh tế.

Năm 1996 là năm Diệp Thục Trinh được thăng hàm từ phó giáo sư lên giáo sư khoa kinh tế, đây cũng là năm sức khỏe của cô xuống dốc trầm trọng nhất.

Với bản tính nóng vội và cầu toàn, Diệp Thục Trinh luôn nỗ lực hết mình trong mọi việc. Ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, cô cũng khó lòng thư giãn. Khi nói chuyện điện thoại cô thường vô thức hai tay nắm chặt ống nghe, đến khi gác máy mới phát hiện tai và tay đều đau nhức.

Năm 1991, khi cùng chồng hoàn thành việc học ở Mỹ và trở về Đài Loan, sức khỏe của cô đã suy giảm rất nhiều. Những cơn đau đầu triền miên, cộng thêm bệnh tiểu đường, dính ruột, đau dạ dày và chứng đau lưng sau sinh đã khiến cô vô cùng khổ sở. Đau đến mức nửa đêm muốn trở mình cũng phải nhờ chồng đẩy từ phía sau. “Thật sự đau đến mức không muốn sống nữa”.

Sau khi trở về Đài Loan, cô đến bệnh viện khám, nhưng bác sĩ liên tục cảnh báo cô phải ngừng công việc: “Cơ thể chị không thể tiếp tục lao lực, không thể làm việc nữa, chị phải xin nghỉ phép”. Thế nhưng với Diệp Thục Trinh đó là một yêu cầu khó thực hiện: “Tôi đã xin nghỉ 5 năm để sang Mỹ, vừa mới đi làm lại, bây giờ lại phải xin nghỉ sao? Không thể nào!” Tâm trạng của cô rơi xuống đáy vực.

Cô bi quan hỏi bác sĩ: “Tôi có thể sống đến khi con gái 20 tuổi không?” Cô hy vọng mình ít nhất có thể nuôi dạy con trưởng thành. Nhưng bác sĩ đã không trả lời rõ câu hỏi này của cô. Lúc ấy, con gái của cô mới 8 tuổi.

Diệp Thục Trinh có một người bạn kết nghĩa là Lý Vỹ, vợ của giáo sư hướng dẫn chồng cô, cũng là một người yêu thích khí công. Lý Vỹ học khí công rất tâm đắc, có thể cảm nhận được “khí động”. Bà thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm luyện công và nhiệt tình khuyên Diệp Thục Trinh nên tập khí công để cải thiện sức khỏe.

Khí công bà ấy giới thiệu có “lớp sơ cấp, trung cấp, cao cấp”, học phí cho cả gia đình lên tới 150.000 Đài tệ. Trước tấm thịnh tình không thể chối từ này, cả gia đình Diệp Thục Trinh đã thử theo học. Ban đầu có chút hiệu quả, nhưng về sau liền không còn tác dụng nữa.

Một hôm, chồng của Diệp Thục Trinh vốn đang làm việc tại Ủy ban Các vấn đề Đại Lục, đọc được một cuốn tạp chí từ Trung Quốc, trong đó có một vị học giả Đại Lục viết một bài giới thiệu về Pháp Luân Công. “Học giả người Trung Quốc đó nói rằng, khí công thông thường luyện ‘khí’, còn Pháp Luân Công là luyện ‘công'”. Chồng cô cảm thấy rất đặc biệt, nên đã photo lại và mang về cho cô xem. Sau đó, cô lại gửi bản photo đó cho bà Lý Vỹ để hỏi ý kiến.

Sau khi nhận được, bà Lý Vỹ cảm thấy Pháp Luân Công rất đặc biệt nên đã tìm mọi cách liên lạc với học giả người Trung Quốc kia, đồng thời liên tục tìm kiếm thông tin về việc dạy công pháp này tại Đài Loan.

Giữa tháng 11 năm 1996, Diệp Thục Trinh nhận được điện thoại của bà Lý Vỹ. Do bệnh tiểu đường trở nặng, mỗi ngày phải tự tiêm insulin hai lần, áp lực về thể chất và tinh thần dường như đã đẩy cô đến cực hạn. Diệp Thục Trinh vừa khóc vừa kể lể với bạn thân, thì nghe bà Lý nói: “Em có hy vọng rồi, chị tìm thấy Pháp Luân Công rồi”.

Hóa ra bà Lý Vỹ đã vất vả tìm được Pháp Luân Công ở Đài Loan, cũng đã luyện được vài tháng. Sau khi xác nhận đây là một công pháp tốt, bà mới giới thiệu cho Diệp Thục Trinh. Bà Lý nói với Diệp Thục Trinh rằng ngày 17 tháng 11 tới sẽ có một buổi chia sẻ kinh nghiệm tu luyện Pháp Luân Công tại nhà thi đấu của Đại học Sư phạm Đài Loan (NTNU) và khuyên cô nhất định phải tham gia.

Đây là buổi giao lưu được tổ chức sau khi các học viên Đài Loan trở về từ buổi giao lưu đầu tiên tại Đại Lục. Tại buổi giao lưu, Diệp Thục Trinh chăm chú lắng nghe những tâm đắc tu luyện của các học viên Pháp Luân Công. “Họ yêu cầu tu tâm tính trước, luyện công sau”. Điều này khiến cô cảm thấy Pháp Luân Công dường như rất khác so với các loại khí công thông thường. Sau khi về nhà, Diệp Thục Trinh đã đọc Tinh Tấn Yếu Chỉ, sau đó lại đọc cả Chuyển Pháp Luân.

Đầu tiên, cô nhận ra rằng Pháp Luân Công có thể “độc tu”, tức là có thể tự luyện công tại nhà. Điều này vô cùng phù hợp với một người bận rộn với công việc giảng dạy và nghiên cứu học thuật như cô. Ngoài ra, từ trong sách cô còn biết rằng Sư phụ Lý Hồng Chí không yêu cầu bái sư, cũng không thu học phí. “Không cần bái sư, nên Sư phụ không cầu danh, không cần nộp học phí, nên không cầu lợi. Tôi nghĩ rằng những kẻ lừa đảo nhất định là vì danh hoặc vì lợi. Vậy không cầu danh, không cầu lợi thì chắc chắn sẽ không lừa gạt ai”, Diệp Thục Trinh đã nghĩ như vậy.

Là một người nghiên cứu khoa học xã hội, Diệp Thục Trinh rất chú trọng đến suy lý lập luận. Khi đọc Chuyển Pháp Luân, cô không thể tránh khỏi việc giữ thái độ nghiêm túc của một học giả. Cô nhận thấy: “Cuốn sách có tính logic rất mạnh, hơn nữa đều rất nhất quán”.

Ngoài ra, đây cũng là một cuốn sách mà người bình thường có thể đọc và hiểu được. Cô kể lại: “Trước đây vì sức khỏe kém nên có người tặng tôi Kinh Kim Cương, tôi đọc mãi mà không hiểu. Khi bắt đầu tiếp xúc với Chuyển Pháp Luân, tôi cảm thấy đây là một cuốn sách mà người ta có thể đọc và hiểu được”.

Sau khi luyện công và đọc sách, chỉ trong một thời gian ngắn, trong khi không biết không cảm thấy, mọi bệnh tật trên cơ thể Diệp Thục Trinh đều biến mất. Cô không còn phải lăn lộn trên sàn nhà vì đau đớn do dính ruột, thậm chí không cần phải kiêng khem ăn uống nữa. Diệp Thục Trinh như được tái sinh. Dù cả ngày lẫn đêm miệt mài viết bản thảo, cô vẫn tràn đầy năng lượng. Sau này, cô còn xuất bản hai cuốn học thuật, điều mà trước đây khi còn ốm yếu cô không hề dám nghĩ tới.

Cô Diệp Thục Trinh, người vốn có sức khỏe yếu ớt, sau khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đã hoàn toàn lột xác. Bức ảnh là hình chụp hồi năm 2012 tại Đại học Pittsburgh (Mỹ), ngôi trường cô từng theo học, trước tòa nhà lâu đời nhất – Cathedral of Learning. (NXB Bác Đại cung cấp)

Mùa xuân năm 1999, sau khi xảy ra sự kiện hàng vạn học viên Pháp Luân Công đến Bắc Kinh thỉnh nguyện ôn hòa ngày 25 tháng 4, câu chuyện của Diệp Thục Trinh đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông Đài Loan, nhờ đó nhiều người đã biết đến Pháp Luân Công.

Các giáo sư truyền tay nhau sách quý

Sau khi luyện công, Diệp Thục Trinh luôn tranh thủ mọi cơ hội để giới thiệu Pháp Luân Công cho người khác. Một hôm, khi cô đang đeo tai nghe để nghe băng ghi âm bài giảng của Sư phụ Lý Hồng Chí, một học trò thạc sĩ của cô là Phàn Gia Trung tò mò hỏi: “Thưa cô, cô đang nghe gì vậy ạ?”

“Cô đang nghe một thứ rất tuyệt vời”, tháo tai nghe ra, Diệp Thục Trinh đã giới thiệu Pháp Luân Công cho Phàn Gia Trung. Sau này, anh ấy cũng trở thành một học viên.

Vài tháng sau, Diệp Thục Trinh đã viết một lá thư và bỏ vào hộp thư của các giáo sư khoa kinh tế tại Đại học Quốc gia Đài Loan. Trong thư, cô viết về những thay đổi về thể chất và tinh thần của mình sau khi luyện công.

Sau khi đọc thư chia sẻ, giáo sư khoa kinh tế Lưu Oanh Xuyến đã vội vã tìm gặp Diệp Thục Trinh và hỏi: “Đây là gì vậy?” Diệp Thục Trinh liền đưa cho bà Lưu một cuốn Chuyển Pháp Luân. Bà Lưu đã đọc một mạch hết cuốn sách trong vòng mười giờ: “Tôi thấy hay hơn cả tiểu thuyết kiếm hiệp”. Sau khi đọc xong, bà tìm gặp Diệp Thục Trinh để học các bài công pháp. Sau này, chồng bà là ông Ngô Huệ Lâm, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung Hoa và con trai họ cũng lần lượt tu luyện Pháp Luân Công.

Bắt đầu từ tháng 2 năm 1998, Diệp Thục Trinh và Lưu Oanh Xuyến đã tích cực mở các lớp học Pháp Luân Công chín ngày tại trường Đại học Quốc gia Đài Loan.

Trước khi lớp đầu tiên khai giảng, với thái độ nghiêm túc thường thấy của các học giả, hai bà đã cẩn trọng tổ chức một buổi giới thiệu về khóa học chín ngày. Ông Trương Thanh Khê, lúc đó là chủ nhiệm khoa kinh tế của Đại học Quốc gia Đài Loan và vợ ông là Tào Huệ Linh đã đến tham dự. Tuy nhiên, ông Trương Thanh Khê đã không tham gia khóa học đó, còn bà Tào Huệ Linh đã đọc xong Chuyển Pháp Luân trước khi lớp học bắt đầu và ngay lập tức biết rằng đây chính là điều bà đang tìm kiếm.

Là phó giáo sư khoa kinh tế tại Đại học Đông Ngô, nhưng bà Tào Huệ Linh lại một lòng đi tìm nghe Đạo, tụng kinh, ngồi thiền và luyện khí công. “Bà ấy ngồi thiền mỗi ngày!” Ông Trương Thanh Khê tả về vợ mình như vậy. “Tôi đã nghĩ, có lẽ ngày nào đấy bà ấy sẽ thành Tiên mất”. Nhìn thấy tất cả những điều này, ông Trương không phản đối, nhưng tự cho rằng nó không liên quan gì đến mình. “Không phải tôi không tin, chỉ là tôi cảm thấy không cần thiết. Tôi đâu có muốn tu luyện, muốn thành Tiên đâu, tôi không hề có ý nghĩ đó”.

Là một học giả nổi tiếng, ông Trương Thanh Khê đã cùng ba giáo sư khác thuộc khoa kinh tế của Đại học Quốc gia Đài Loan (NTU) viết ra cuốn sách “Kinh tế học: Lý thuyết và Thực tiễn”. Đây là cuốn sách giáo khoa kinh tế đầu tiên do người Đài Loan biên soạn cho các trường đại học, được coi là tác phẩm kinh điển và có uy tín nhất, đồng thời cũng là cuốn sách giáo khoa rất được sinh viên yêu thích.

Khi đó, ông đang say mê bình luận thời cuộc, phê phán quốc sự. Từ năm 1989, ông tham gia vào “Trừng Xã”, một tổ chức do một nhóm các giáo sư đại học có cùng lý tưởng tại Đài Loan thành lập, chỉ bàn luận chính sự chứ không tham gia vào chính trị. Trong những năm đó, ông cho rằng việc quan trọng nhất trong cuộc đời là loại bỏ những bất công và đề cao chính nghĩa trong xã hội.

Cùng thời điểm đó, bà Tào Huệ Linh, người đã tìm tòi và tu hành nhiều năm, lại gặp phải trở ngại: “Tu luyện đến một mức độ nào đó thì bị mắc kẹt, hoàn toàn không có chút hy vọng nào, cảm thấy không thể đột phá được”. Bà nghĩ rằng nếu từ bỏ danh lợi, có lẽ bà có thể tìm lại được con người thật của mình. Thế là bà đã từ bỏ công việc giảng dạy tại trường đại học, đưa con trai đang học cấp hai lên núi ở Nam Đầu, cùng với chị em gái của chồng trồng trà trên núi.

Trồng trà ba năm, bà Tào Huệ Linh còn học được cả cách chữa bệnh. Tuy nhiên, dù bà có thể chữa bệnh cho người khác, nhưng cơ thể của chính bà lại ngày càng suy nhược. Ba năm sau, khi quay lại Đài Bắc, bà đã gần như kiệt sức vì đi ngoài ra máu liên tục, dường như cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Ông Trương Thanh Khê mô tả tình trạng của bà Tào lúc đó: “Vì sức khỏe, bà ấy làm đủ mọi thứ, nắn xương, dùng giường sức khỏe, thực phẩm chức năng… mỗi ngày đều sắc thuốc bắc”. Còn ông Trương, ngoài việc ủng hộ những nỗ lực của vợ, cũng không biết phải làm gì khác.

Khi bà Tào Huệ Linh đọc xong cuốn Chuyển Pháp Luân mà cô Diệp Thục Trinh tặng, bà đã xác định đây chính là pháp môn có thể dẫn dắt bà tu luyện, giúp sinh mệnh thăng hoa. Bà nói: “Cuốn sách này đã giúp tôi lý giải rất rõ ràng những thắc mắc trước đây, vì vậy tâm hồn và thể xác của tôi mới được an định, bởi tôi cảm thấy rất vững vàng”.

Sau khi vợ luyện công, đọc Chuyển Pháp Luân và thể hiện một niềm vui chưa từng thấy, ông Trương Thanh Khê vẫn tôn trọng như trước, nhưng giống như ông tự nhận xét, ông không có nhu cầu hay ý nghĩ muốn tu luyện.

Tuy nhiên, vài ngày sau, một vụ kẹt xe lớn kéo dài hai giờ đã khiến suy nghĩ của ông Trương Thanh Khê về việc tu luyện thay đổi đột ngột.

Tháng 2 năm 1998, vào ngày Rằm tháng Giêng (Tết Nguyên Tiêu), đường Nhân Ái ở thành phố Đài Bắc lần đầu tiên được trang trí bằng hàng trăm triệu bóng đèn, tạo thành một biển đèn lấp lánh. Ông Trương Thanh Khê lái xe chở bà Tào Huệ Linh và con trai đi ngắm hoa đăng. Không ngờ, vừa ra khỏi nhà không lâu, xe đã bị kẹt trong một hàng dài, không thể di chuyển. Trên xe, bà Tào Huệ Linh đã bật băng ghi âm bài giảng của Sư phụ Lý. Cứ thế, xe đi đi dừng dừng trong hai tiếng, hoa đăng coi như xem xong, ông Trương Thanh Khê cũng nghe trọn hai tiếng bài giảng của Sư phụ Lý.

Ông Trương Thanh Khê nhớ lại: “Nghe xong tôi thấy rất thú vị! Tôi cảm thấy rằng nếu bạn không tin những gì ông ấy nói, bạn sẽ thấy ông ấy giảng quá lớn, khẩu khí rất lớn. Nhưng nếu bạn nghĩ rằng những gì ông ấy nói là đúng, bạn sẽ thấy ông ấy rất khiêm tốn, ông ấy chỉ nói đến một mức độ nhất định rồi dừng lại”.

Ông Trương Thanh Khê đã hoàn toàn bị thuyết phục và quyết định tu luyện cùng vợ. Tuy nhiên, ông dời lại bốn tháng sau mới bắt đầu, vì tháng 4 ông sẽ từ chức chủ tịch “Trừng Xã” và cuối tháng 7 sẽ thôi giữ chức chủ nhiệm khoa kinh tế của Đại học Quốc gia Đài Loan.

Giáo sư Trương Thanh Khê của Đại học Quốc gia Đài Loan lái xe chở vợ là bà Tào Huệ Linh và con trai đi ngắm hoa đăng, nhưng do tắc đường, ông đã nghe hai tiếng băng ghi âm bài giảng của Sư phụ Lý và quyết định tu luyện cùng vợ. (NXB Bác Đại cung cấp)

Sau tháng Bảy, ông cùng vợ thức dậy vào lúc sáu giờ hơn mỗi ngày, đi bộ đến đài tưởng niệm Tưởng Giới Thạch gần nhà để luyện công. Cơ thể yếu đuối của bà Tào Huệ Linh, sau ba tháng luyện công, đã chuyển biến tốt lên một cách kỳ diệu. Còn ông Trương Thanh Khê thì sao? Bà Tào kể lại: “Sau khi luyện công, những đường nét trên khuôn mặt anh ấy trở nên hiền hòa hơn, sắc mặt cũng hồng hào hơn”.

Mặc dù những năm gần đây không còn thấy ông Trương Thanh Khê xuất hiện trong các phong trào đường phố hay các vấn đề trọng đại của quốc gia, cũng không còn những bài viết sắc bén trên báo chí, nhưng ông cho rằng sự quan tâm của mình đối với xã hội không hề giảm sút. Ông nói: “Thực tế là tôi còn quan tâm đến xã hội hơn trước rất nhiều. Hơn nữa, chúng tôi là những người thực sự quan tâm, sở dĩ một xã hội có thể trở nên tốt đẹp, là vì con người trong xã hội ấy đã thay đổi. Nếu tâm con người không thay đổi, mọi thứ khác cũng chẳng có tác dụng gì lớn”.

Ba giáo sư khoa kinh tế của Đại học Quốc gia Đài Loan là cô Diệp Thục Trinh, bà Lưu Oanh Xuyến và ông Trương Thanh Khê lần lượt tu luyện Pháp Luân Công đã khiến công chúng có thêm lòng tin vào pháp môn này. Diệp Thục Trinh chia sẻ: “Việc này giúp xã hội biết rằng những người có tri thức cao cũng học công này, chứ không phải là mê tín”. Sau đó, các giáo sư khác của Đại học Quốc gia Đài Loan như giáo sư Trương Cẩm Hoa của Viện Nghiên cứu Báo chí, giáo sư Minh Cư Chính của khoa Chính trị và giáo sư Tạ Minh Dương của khoa Luật cũng lần lượt tu luyện Pháp Luân Công.

Ngày 5 tháng 9 năm 1999, Học hội Nghiên cứu Pháp Luân Công Đài Loan được thành lập. Tháng 8 năm 2002, hiệp hội đổi tên thành Học hội Pháp Luân Đại Pháp Đài Loan. Giáo sư Trương Thanh Khê đảm nhiệm chức vụ hội trưởng cho đến năm 2014, sau đó giáo sư Trương Cẩm Hoa tiếp nhận chức vụ này.

Tháng 7 năm 1999, Giáo sư Trương Cẩm Hoa khi ấy thấy tin tức về việc Pháp Luân Công bị ĐCSTQ đàn áp trên truyền thông Mỹ, đã rất tò mò về công pháp có hơn 100 triệu người tu luyện mà bản thân lại không hề hay biết. Sau khi trở về Đài Loan, một người bạn ở Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung Hoa khi đón bà trở về đã tặng bà một cuốn Chuyển Pháp Luân. Bà đã đọc hết cuốn sách ngay trong cuối tuần và từ đó bước vào con đường tu luyện. Với chuyên môn báo chí của mình, bà đã đảm nhận công việc liên lạc tin tức về Pháp Luân Công tại Đài Loan.

Hiện tại, trong trường Đại học Quốc gia Đài Loan có hai nhóm Pháp Luân Công: một nhóm dành cho giảng viên và nhân viên, gọi là Phân hội Pháp Luân Công thuộc Ủy ban Hoạt động Văn hóa và Giải trí của Giảng viên và Nhân viên Đại học Quốc gia Đài Loan; nhóm còn lại là câu lạc bộ dành cho sinh viên, gọi là Câu lạc bộ Pháp Luân Công Đại học Quốc gia Đài Loan, được thành lập vào năm 2000.

Dần dần, các trường đại học khác cũng lần lượt thành lập các câu lạc bộ Pháp Luân Công, như Đại học Thế Tân, Đại học Chính trị, Đại học Thành Đại, Đại học Cao Hùng, Đại học Khoa học và Công nghệ Hoàn cầu, Đại học Hải dương, Đại học Đông Hải, Đại học Đông Hoa, Đại học Tôn Trung Sơn, Đại học Trung Chính, Đại học Gia Nghĩa, Đại học Văn hóa, Đại học Nghệ thuật Quốc gia Đài Loan, Đại học Trung Hưng, Đại học Trung Ương, v.v. Tại các trường đại học và cao đẳng ở Đài Loan, cơ duyên để sinh viên trẻ tu luyện Pháp Luân Công đã được gieo mầm.

Dịch từ: https://www.epochtimes.com/b5/21/6/3/n12995616.htm

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài