Phỏng vấn, biên soạn: Tăng Tường Phú, Hoàng Cẩm
[ChanhKien.org]
Bìa sách “Hạt giống vàng” (NXB Bác Đại cung cấp)
[Duyên khởi]
“Hạt giống vàng – Câu chuyện về Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan”. Cuốn sách chủ yếu ghi chép lại đoạn đường phát triển của Pháp Luân Công tại Đài Loan cùng những câu chuyện cảm động lòng người, hơn nữa, hành trình lịch sử trân quý này cũng chính là một “bộ lịch sử sống”.
Năm 1994, khởi đầu mối kỳ duyên tại Tế Nam, Sơn Đông của một cặp vợ chồng người Đài Bắc, chuyến viễn du của một bác sĩ Thượng Hải đến Đài Loan, chuyến thăm người thân tại Hoa Liên của một ông lão người Quý Châu, đã mang theo “hạt giống” Đại Pháp, kết hợp cùng nhau tạo nên một cơ duyên tu luyện hiếm gặp không gì sánh được.
Vào tháng 02/2016, nhóm biên tập đã tiến hành phỏng vấn độc quyền lần lượt ở bắc, trung và nam Đài Loan. Sau khi sao chép các bản ghi âm, lại lần nữa kiểm tra đối chiếu, trải qua ba năm, cuối cùng đã có thể biên tập thành sách. So với dự tính ban đầu có thể nói là khó khăn hơn rất nhiều.
Nhân dịp kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13/05, trang The Epoch Times xin giới thiệu cuốn sách “Hạt giống vàng”, mong rằng sự ra đời của cuốn sách sẽ giúp mỗi từng bước phát triển của Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan như một kiến chứng lịch sử được lưu giữ hoàn chỉnh hơn.
(Tiếp theo phần 13)
Một cuộc họp đột xuất
Ngày 15 tháng 11 năm 1997, Lưu Hoàng Ảnh nhận được một cuộc điện thoại, báo anh “tối nay đến họp ở tầng 12 của Đài truyền hình Đài Loan”. Nội dung và thông tin liên quan đến cuộc họp không được nói rõ trong điện thoại. Lưu Hoàng Ảnh nói: “Tôi vẫn thường xuyên đi họp, nhưng hôm nay sao lại bí ẩn thế này!”
Bước vào phòng họp ở tầng 12, Lưu Hoàng Ảnh thấy sáu, bảy học viên đã đến, không lâu sau lại có thêm vài học viên nữa. Lúc anh đang định hỏi về chủ đề cuộc họp hôm nay, thì cửa phòng họp bật mở, mọi người ngẩng đầu nhìn lên, bước vào chính là Sư phụ Lý Hồng Chí. “Mọi người thật sự sững sờ!” Lưu Hoàng Ảnh cùng các học viên có mặt mắt mở tròn xoe, đồng loạt đứng dậy chào. Thầy Lý mỉm cười ra hiệu cho mọi người ngồi xuống, rồi giảng Pháp gần một giờ đồng hồ. Cuối cùng, thầy còn tuyên bố rằng chiều hôm sau sẽ giảng Pháp cho các học viên ở Đài Loan, dặn mọi người về thông báo cho tất cả học viên Đài Loan mà mình biết.
“Thầy Lý đến Đài Loan, nhất định phải báo cho tôi biết”, một học viên người Hồng Kông đã nhiều lần dặn dò Hồng Nguyệt Tú, em gái của Hồng Cát Hoằng như vậy.
Thì ra, rất nhiều học viên Pháp Luân Công ở hải ngoại đã nghe phong thanh rằng thầy Lý có thể sẽ đến Đài Loan, không ít người đã chuẩn bị sẵn sàng để đến nghe giảng Pháp. Chính vì thế, để các học viên ở các nơi có thể chuyên tâm tu luyện không dở dang vì bôn ba đường sá, Sư phụ Lý đã đặc biệt yêu cầu Nhiếp Thục Văn, người phụ trách việc tiếp đón lần này, không công khai lịch trình. Cho nên, hầu hết các học viên ở Đài Loan đều không biết chuyện Thầy Lý sẽ đến.
Khi Sư phụ Lý vừa đến Đài Loan, học viên Hồng Kông này đã gọi điện hỏi Hồng Nguyệt Tú: “Có phải Sư phụ Lý đã đến Đài Loan không?” Khi Hồng Nguyệt Tú đang băn khoăn không hiểu tại sao người ấy lại biết, thì nghe đối phương nói: “Tối qua trong mơ, tôi thấy rất nhiều Thần Phật đều tụ tập về phía bầu trời Đài Loan, tôi đoán là: Sư phụ Lý đã đến Đài Loan rồi!”
Sau khi cuộc gặp đột xuất ở Đài Truyền hình Đài Loan kết thúc, mọi người trở về nhà thì đã nửa đêm. Lưu Hoàng Ảnh cầm danh bạ điện thoại lên, nghĩ thầm: “Muộn thế này mà gọi điện cho người ta, chắc chắn sẽ bị mắng!” Nhưng anh lại nghĩ: “Nếu không thông báo cho mọi người, sau này họ cũng sẽ mắng mình”. Thế là anh bấm số và gọi từng người một. Cứ như vậy, mọi người trong đêm khuya chia nhau thông báo về buổi giảng Pháp ngày mai.
Trương Chấn Vũ ở Hoa Liên nhận được cuộc gọi lúc nửa đêm của Hồng Cát Hoằng nói: “Có nhân vật quan trọng sẽ đến, anh hãy lên Đài Bắc”. Cuộc điện thoại ngắn ngủn ấy khiến anh nhớ lại giấc mơ đêm qua, trong mơ anh thấy mình lái xe trên quốc lộ Tô Hoa, còn chở người vội vã đi Đài Bắc. Anh chợt nhận ra “nhân vật quan trọng” đó có lẽ chính là thầy Lý, anh liền lập tức liên lạc với các học viên và bạn bè ở Hoa Liên, rạng sáng lái xe theo quốc lộ Tô Hoa đến Đài Bắc.
Khi Lưu Hoàng Ảnh liên lạc xong thì đêm đã muộn, nhưng anh không ngủ được vì quá phấn khởi. Rất nhiều người khác cũng đang chờ đợi trong tâm trạng phấn khích giống như anh, trong đó có cả giáo sư Diệp Thục Trinh của Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia Đài Loan.
Tu luyện chưa được một năm, chứng đau đầu đã hành hạ Diệp Thục Trinh 20-30 năm, cùng với bệnh dính ruột và tiểu đường không thể chữa khỏi đều tự nhiên khỏi hẳn. Bà như được tái sinh, khi biết tin Sư phụ Lý đến Đài Loan giảng Pháp, bà đã đến hội trường giảng Pháp tại “Trường tiểu học Tam Hưng” ở thành phố Đài Bắc từ rất sớm. Ngày hôm đó, bà ngồi ở hàng ghế đầu trong hội trường, hồi hộp chờ đợi Sư phụ Lý tới.
Ngày 16 tháng 11 năm 1997, Sư phụ Lý đã giảng Pháp công khai cho công chúng tại trường tiểu học Tam Hưng ở Đài Bắc, hội trường có hơn 1000 người tham dự (NXB Bác Đại cung cấp)
Bên ngoài hội trường, một chiếc xe du lịch từ Phong Nguyên chạy đến, chở đầy các học viên ở Đài Trung cùng nhóm bạn cầu đạo mà Liêu Tuyết Hà đã thức suốt đêm để thông báo. Hôm đó, Sư phụ Lý đã giảng Pháp liên tục khoảng năm tiếng đồng hồ, sau khi giảng Pháp xong lại dành thời gian cho các học viên đặt câu hỏi. Trong hội trường có hơn 1000 thính giả từ khắp Đài Loan đổ về, trong đó hơn một nửa là những người chưa tu luyện, chỉ đến vì ngưỡng mộ danh tiếng.
Trần Hinh Lâm nhớ lại hôm đó Sư phụ Lý đã đề cập đến việc người Đài Loan rất trọng nghĩa khí, bạn bè đối xử với nhau rất có tình có nghĩa, đây là đặc điểm riêng của người Đài Loan. Trần Hinh Lâm hồi tưởng lại, lúc đó đa số đều là học viên mới, thậm chí còn có không ít người chưa tu luyện, cho nên những câu hỏi được đặt ra rất nông cạn. Nhưng dẫu vậy, Sư phụ Lý vẫn kiên nhẫn trả lời hết các thể loại câu hỏi.
Có người đặt câu hỏi: Người ở Trung Quốc đại lục đắc Pháp và người ở Đài Loan đắc Pháp có gì khác nhau? Thầy Lý trả lời rằng: Ở Đại Lục không có khái niệm về Thần Phật, nên khó đắc Pháp hơn, nhưng một khi đã đắc Pháp thì lại kiên định không lay chuyển; còn người Đài Loan thì tôn giáo nào cũng tiếp nhận, nên rất dễ đắc Pháp, nhưng cũng dễ không chuyên nhất. Khi đó, thầy Lý còn nói rằng sau này Đại Pháp sẽ được hồng truyền rất tốt ở Đài Loan.
Sau khi giảng Pháp xong, Sư phụ Lý nói với Nhiếp Thục Văn: “Tôi giảng Pháp một lần là được rồi”. Nhiếp Thục Văn lúc đó rất sốt ruột: “Rất nhiều học viên ở miền Nam cho rằng Sư phụ sẽ đến miền Trung và miền Nam, nên hôm nay đã không đến Đài Bắc nghe giảng Pháp”. Dưới sự khẩn cầu của cô, Sư phụ Lý đã đồng ý đến Đài Trung để giảng Pháp thêm một lần nữa.
Vì vẫn còn rất nhiều học viên ở miền Trung và miền Nam chưa được nghe Sư phụ Lý Hồng Chí giảng Pháp ở Đài Loan. Ngày 20 tháng 11, thêm một buổi giảng Pháp đã được tổ chức tại trường Nông Công Vụ Phong ở Đài Trung. (NXB Bác Đại cung cấp)
Sư phụ Lý Hồng Chí giảng Pháp tại trường Nông Công Vụ Phong ở Đài Trung. (NXB Bác Đại cung cấp)
Thầy Lý trong mắt các học viên
Tại hai buổi giảng Pháp có gần 2000 thính giả, phần lớn lần đầu tiên được chứng kiến phong thái của Sư phụ Lý.
Sư phụ Lý ăn mặc giản dị, bộ vest tối màu tuy đã cũ nhưng chỉnh tề và sạch sẽ, tóc cũng được chải rất gọn gàng.
Trong phòng chờ của hội trường giảng Pháp, một nhóm người vây quanh Sư phụ Lý tranh nhau xin chữ ký, thậm chí còn cãi vã. Hồ Nãi Văn, một thầy thuốc Đông y nổi tiếng, nhìn thấy Sư phụ Lý giữa đám đông hỗn loạn vẫn luôn mỉm cười, không nói một lời nào. “Tôi cảm thấy mình phải học hỏi từ một người có tu dưỡng như vậy, chỉ cần nhìn thôi cũng khiến người ta cảm thấy vui vẻ trong lòng”. Thế là, một người chưa hề tu luyện như ông từ đó đã quyết định bước vào tu luyện.
Người phụ trách thu xếp địa điểm giảng Pháp ở Đài Trung, Khâu Thiêm Hỷ, cảm nhận sâu sắc nhất là Sư phụ Lý không hề “ra vẻ”. Ông đã từng bái sư học khí công nhiều năm, đã tiếp xúc với những vị khí công sư nổi tiếng, họ luôn tỏ ra cao ngạo, “nhưng Sư phụ Lý nhìn thấy các học viên đều mỉm cười, rất từ bi và hiền hậu”. Hơn nữa, Sư phụ Lý luôn đến giảng Pháp đúng giờ, không để thính giả phải chờ đợi.
Buổi giảng Pháp ở Đài Trung kéo dài từ 1 giờ chiều đến 7 giờ tối, giữa chừng chỉ nghỉ một lát, Sư phụ Lý còn không uống nước. Sau khi giảng Pháp xong, nhiều người vây quanh Sư phụ Lý, có người muốn hỏi, có người muốn bắt tay. Lúc đó, Khâu Thiêm Hỷ cảm thấy hơi sốt ruột: “Tôi nghĩ Sư phụ đã giảng lâu như vậy rồi, nên nghỉ ngơi và ăn cơm, nhưng tôi thấy Sư phụ rất kiên nhẫn, mỉm cười và trả lời từng câu hỏi một cách không hề mệt mỏi, cũng bắt tay từng học viên một”.
Điều khiến Lưu Hoàng Ảnh khó quên nhất là sau khi buổi giảng Pháp tại trường tiểu học Tam Hưng kết thúc, lúc ấy ông đang phụ giúp dọn dẹp hội trường và đứng ở trung tâm bục giảng, thì phát hiện ra hai bên có đặt những chiếc đèn chiếu sáng phục vụ việc quay phim. Ánh đèn rọi thẳng mạnh đến nỗi ông không thể mở mắt, liền lập tức nghĩ đến việc Sư phụ Lý đã giảng Pháp ở đây suốt năm tiếng đồng hồ…
Đến thăm hai địa điểm
Sư phụ Lý đến Đài Loan lần này, ngoài việc giảng Pháp, thầy chỉ muốn đến thăm hai nơi: Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc và Hồ Nhật Nguyệt.
Ngày 17 tháng 11 năm 1997, Sư phụ Lý Hồng Chí – người sáng lập Pháp Luân Công (thứ ba từ phải sang) đã chụp ảnh lưu niệm cùng một vài học viên đi cùng sau khi tham quan Bảo tàng Cố Cung. (NXB Bác Đại cung cấp)
Ngày 17 tháng 11, Sư phụ Lý Hồng Chí cùng một vài học viên đến thăm Bảo tàng Cố Cung Đài Loan. Hồng Cát Hoằng vội vàng đăng ký một hướng dẫn viên để thuyết minh cho mọi người. Tuy nhiên, Sư phụ Lý không đợi hướng dẫn viên đến mà tự mình dẫn các học viên đi tham quan.
Khi mọi người đi từ tầng ba xuống từng tầng một, Sư phụ Lý đã giải thích cho các học viên một cách tường tận về nguồn gốc, cách sử dụng, quá trình chế tạo ban đầu và cách thưởng thức vẻ đẹp của từng món đồ vật cổ… Các học viên ai nấy đều nghe rất say sưa, Hồng Cát Hoằng nói, nhờ Sư phụ Lý giải thích mà mọi người mới biết cách thưởng thức những món đồ cổ này. Ông còn nhớ lúc đó có một khúc xương màu vàng kim mà ngay cả các chuyên gia về văn vật của Cố Cung cũng không biết nguồn gốc, Sư phụ Lý đã nói với mọi người đó là xương rồng. Ông nói: “Sư phụ Lý còn dạy các học viên dùng ‘thiên mục’ để nhìn các hạt vi quan của nó, chính là hình ảnh con rồng đó”.
Mặc dù trước đó mọi người đã vô cùng tôn kính thầy Lý, nhưng sau khi cùng thầy tham quan Cố Cũng, lòng tôn kính của các học viên lại càng tăng thêm gấp bội, ai nấy đều cảm nhận rõ ràng và cụ thể hơn sự phi phàm của thầy. Khi ấy, Hồng Cát Hoằng cảm thán: “Thầy biết hết mọi sự, biết hết nguồn gốc và sự phát triển của mọi văn vật lịch sử”.
Ngày hôm sau, thầy Lý khởi hành đi hồ Nhật Nguyệt, có một học viên đi cùng thầy từ trước cùng với hai vợ chồng Hồng Cát Hoằng, tổng cộng ba người tháp tùng. Hồng Cát Hoằng phụ trách lái xe. Ông hồi tưởng lại: “Thầy Lý nhiều lần nhắc muốn đi hồ Nhật Nguyệt, lúc đó tôi nghĩ, thầy Lý hiếm khi đến Đài Loan, chuyến này nhất định phải đưa thầy đi tham quan thật tốt”. Vì vậy, sau khi được sự đồng ý, ông đã sắp xếp lộ trình từ miền Đông xuống Khẩn Đinh, rồi từ Cao Hùng đi hồ Nhật Nguyệt.
Từ miền Đông đến Khẩn Đinh, rồi từ Cao Hùng đi Hồ Nhật Nguyệt. Sư phụ Lý Hồng Chí (giữa) đứng trước ngọn hải đăng Ngã Noãn Tị, cực nam của Đài Loan, nhìn ra xa như đang suy tư điều gì. (NXB Bác Đại cung cấp)
Khi đi ngang qua Nghi Lan, họ đã đến thăm nhà của vợ chồng Trịnh Văn Hoàng đã chuyển đến sống tại đây. Khi đến nhà họ Trịnh, Sư phụ Lý nhìn thấy trên tường treo những bức ảnh vợ chồng Trịnh Văn Hoàng đã hai lần tham gia lớp học giảng Pháp của Sư phụ ở Đại Lục, Ngài xem mấy bức rồi nói: “Đã hơn ba năm rồi!” Sau đó, Sư phụ Lý cùng trò chuyện thân mật với vợ chồng Hà Lai Cầm khoảng một tiếng đồng hồ, còn hỏi thăm tình hình hồng Pháp của hai vợ chồng ở Đài Loan. Hà Lai Cầm nhớ lại, lúc đó những tấm biểu ngữ dùng để hồng Pháp đều do con gái cô chế tác thủ công, cô đã hỏi Sư phụ Lý rằng cách làm như vậy có phù hợp không? Cô nói: “Sư phụ bảo tôi cứ làm như vậy đi”. Sư phụ Lý còn đặc biệt nhắc đến, sau này sẽ có rất nhiều “thầy giáo” đến học công từ Hà Lai Cầm. Hà Lai Cầm trong lòng băn khoăn: “Tôi học vấn thấp như vậy, người quen cũng ít, sao lại có nhiều thầy giáo đến tìm tôi học được chứ?” Nhưng sau này, quả nhiên có rất nhiều giáo sư đại học đã đến tìm vợ chồng cô để học Pháp Luân Công.
Sau khi tạm biệt nhà họ Trịnh, Hồng Cát Hoằng lái xe đi Hoa Liên, nhưng trên đường cao tốc Tô Hoa, ông phát hiện bình xăng đã gần cạn, sợ mình làm lỡ việc nên trong lòng cảm thấy lo lắng. Thật may, không lâu sau ông thấy một ngôi làng, Hồng Cát Hoằng vội vã lái xe vào làng, nhưng tìm mãi trong làng mà không thấy trạm xăng nào. Ông vội vàng hỏi một người đi đường: “Xin hỏi trạm xăng của các bác ở đâu ạ?”
“Chỗ chúng tôi không có trạm xăng đâu, bất kỳ chiếc xe nào đổ đầy xăng ở Nghi Lan cũng có thể chạy tới Hoa Liên”. Hồng Cát Hoằng nghe xong, lòng nản đi một nửa.
Đúng lúc đó, ông nhìn qua kính chiếu hậu thấy Sư phụ Lý đang nhắm mắt không nói gì, một lúc sau, kim xăng lại từ từ nhích lên. Điều này khiến Hồng Cát Hoằng vô cùng kinh ngạc, ông lập tức ra hiệu cho vợ, vợ ông nhìn thấy cũng choáng váng. Cứ như vậy, họ đã lái xe đến Hoa Liên một cách thuận lợi.
Tối hôm đó, họ dự định nghỉ tại khách sạn thuộc tập đoàn nơi Hồng Cát Hoằng làm việc. Khi vào khách sạn, Hồng Cát Hoằng lấy thẻ tín dụng đưa cho lễ tân, nhưng thầy Lý đứng phía sau chưa đợi nhân viên lễ tân nhận, đã trực tiếp lấy lại thẻ. Thầy mỉm cười nói: “Thẻ tín dụng cứ để tôi giữ, mai sẽ trả lại cho anh”. Sau đó, thầy Lý đã trả tiền phòng.
Ngày hôm sau, Hồng Cát Hoằng cảm thấy vô cùng bứt rứt: Ngay trên “địa bàn” của mình mà vẫn để Sư phụ Lý trả tiền! Khi gần đến Đài Đông, ông nghĩ thầm, tối nay dù thế nào cũng không thể để Sư phụ Lý trả tiền nữa, hơn nữa còn phải mời Sư phụ Lý một “bữa ăn thịnh soạn” để bù đắp. Hồng Cát Hoằng cứ chắc mẩm như vậy. Lúc ấy ông lại nghe thấy Sư phụ Lý nói: “Dừng xe”. Hồng Cát Hoằng nghe vậy liền dừng xe lại, nhưng mặt lộ vẻ hoài nghi: “Dừng xe để làm gì ạ?”
“Ăn cơm”.
Hồng Cát Hoằng nhìn xung quanh, “Nhưng ở đây có nhà hàng nào đâu!” ông nghĩ thầm.
Chỉ thấy Sư phụ Lý cứ thế đi thẳng về phía trước, mọi người đi theo sau. Đi đến trước một ngôi nhà, mở cửa ra, hóa ra đây đúng là một quán ăn tự chọn. Quán ăn gia đình này không có biển hiệu, trông rất tầm thường, chỉ có vài món nội thất đơn giản, cũng chỉ phục vụ được một vài món ăn đơn giản. Hồng Cát Hoằng nói: “Lại là Sư phụ Lý trả tiền”.
Thực tế là, trong chuyến thăm Đài Loan kéo dài 7 ngày của Sư phụ Lý, tất cả các chi phí đi lại, như phí đi lại và lưu trú, Sư phụ đều tự mình chi trả. Nhiếp Thục Văn, người phụ trách việc tiếp đón, nói rằng kế hoạch ban đầu là các học viên Đài Loan phụ trách trả chi phí lưu trú cho Sư phụ Lý. “Sư phụ Lý sống rất giản dị, dù cuộc sống không dư dả nhưng Ngài không muốn gây thêm phiền phức nào cho học viên, vì vậy tất cả các chi phí ăn ở trong chuyến đi Đài Loan lần này đều do Ngài tự chi trả”. Đã tham gia nhiều lớp học ở Đại Lục, bà còn kể thêm: Sư phụ Lý đã truyền công giảng Pháp hơn 50 lớp ở Đại Lục, mỗi lần mở lớp đều do Ngài tự túc chi phí, mỗi lần đều mang theo một hai thùng mì gói để duy trì cuộc sống. “Có một học viên mỗi lần đều đi theo Sư phụ, vì Sư phụ ăn mì gói, anh ấy cũng đành phải ăn theo, bây giờ anh ấy nhìn thấy mì gói là lại thấy chóng mặt”.
Trong chuyến đi này, Hồng Cát Hoằng cảm thấy vô cùng xúc động và trịnh trọng nói với thầy Lý: “Thầy Lý, từ bây giờ trở đi, con xin được đổi cách xưng hô với ngài thành ‘Sư phụ’”.
Đến Hồ Nhật Nguyệt
Trên đường đi, Hồng Cát Hoằng cố gắng hết sức để giới thiệu cảnh đẹp của Đài Loan cho Sư phụ Lý, từ Đài Đông đến Khẩn Đinh, Cao Hùng, Gia Nghĩa cho đến hồ Nhật Nguyệt. Cứ đến một điểm tham quan, ông lại nhiệt tình mời Sư phụ xuống xe chụp ảnh. Có lần, Sư phụ Lý mỉm cười nói với ông: “Rốt cuộc anh lại muốn đưa tôi đi đâu nữa đây?”
Lúc cả đoàn đến Hồ Nhật Nguyệt đã là nửa đêm, trước khi vào phòng, Sư phụ Lý đặc biệt dặn dò mọi người, trước 7 giờ sáng hôm sau, đừng làm phiền Ngài.
Cả đoàn đến hồ Nhật Nguyệt vào nửa đêm. Sáng hôm sau trước khi rời đi, Sư phụ Lý Hồng Chí (thứ hai từ phải sang) đã chụp ảnh lưu niệm trước cửa khách sạn dừng chân. (NXB Bác Đại cung cấp)
Sáng hôm sau sau khi dùng bữa, Hồng Cát Hoằng nói với Sư phụ Lý: “Con sẽ đưa Sư phụ đi tham quan Văn Võ Miếu ở hồ Nhật Nguyệt”. Nhưng lời đề nghị này đã bị Sư phụ Lý từ chối.
“Vậy thì, đi làng văn hóa tộc Thao được không ạ? Ở đó có văn hóa của người dân tộc thiểu số”.
“Không cần”.
“Thế con đưa Sư phụ đi một vòng quanh hồ nhé?”… “Nửa vòng thì sao ạ ?” Hồng Cát Hoằng bắt đầu cảm thấy băn khoăn.
“Không cần. Chúng ta đi thôi!” Sư phụ Lý trả lời.
Hồng Cát Hoằng thầm nghĩ, đến Hồ Nhật Nguyệt đã là nửa đêm, Sư phụ Lý thậm chí còn chưa nhìn thấy hồ, vậy tại sao lại phải đi một quãng đường xa xôi đến đây?
Có lẽ biết được sự băn khoăn của Hồng Cát Hoằng, Sư phụ Lý nói: “Vị Thần trong hồ Nhật Nguyệt này vốn dĩ là một vị Thần rất tốt, nhưng con người khai thác quá mức nên đã làm kinh động đến ông ấy”.
Lời này càng khiến Hồng Cát Hoằng thêm bối rối, nhưng lúc ấy ông cũng không hỏi thêm gì.
Nhiều năm sau, trong một cơ duyên, Hồng Cát Hoằng hỏi lại Sư phụ Lý về mối bận tâm mà ông luôn giữ trong lòng: “Sư phụ, năm đó Ngài đến Đài Loan, ngày nào cũng nói muốn đi Hồ Nhật Nguyệt, cuối cùng khi đến nơi thì lại đi ngay mà không hề nhìn đến một lần”. Hồng Cát Hoằng nói: “Sư phụ Lý trả lời tôi: ‘Hồ Nhật Nguyệt tồn tại hay không liên quan đến toàn bộ chuỗi sinh mệnh ở Đài Loan’”.
Trước câu trả lời không mấy rõ ràng ấy, Hồng Cát Hoằng người đã tu luyện nhiều năm lần này lại có sự lĩnh hội. Ông nhớ lại với chút hối hận rằng, lúc đó mình hoàn toàn không hiểu được tâm trạng của thầy Lý khi vội vã đến hồ Nhật Nguyệt để hóa giải hiểm nguy.
Ngay trước khi rời khỏi hồ Nhật Nguyệt, vợ của Hồng Cát Hoằng nhận được một mảnh giấy do Sư phụ Lý viết tay. Trên đó là một bài thơ, bài thơ này sau này được đưa vào cuốn “Hồng Ngâm”:
Du Nhật Nguyệt Đàm
Nhất đàm minh hồ thuỷ
Yên hà ánh cơ huy
Thân tại loạn thế trung
Nan đắc độc tự mỹ.Tạm dịch:
Thăm đầm Nhật Nguyệt
Đầm nước bao trong sáng
Khói sương cảnh huy hoàng
Dấn thân nơi loạn thế
Hiếm giữ được cao sang
Sư phụ Lý đến Đài Loan giảng Pháp đã giúp các học viên Pháp Luân Công ở Đài Loan vốn không quen biết nhau, được lần đầu gặp mặt, làm quen với nhau. Lời nói và hành động của Sư phụ Lý cũng là tấm gương để các học viên noi theo, cộng thêm ba lần đi Đại Lục giao lưu, các học viên càng hiểu rõ hơn về sự trân quý của Đại Pháp và cơ duyên hồng truyền hiếm có. Bắt đầu từ năm 1998, các học viên Pháp Luân Công ở Đài Loan dần bước vào một trạng thái tu luyện ổn định, từ đó đến tháng 7 năm 1999, số người tu luyện nhanh chóng tăng lên gần 10.000 người, chỉ trong hơn một năm ngắn ngủi, đã tăng lên hàng chục lần so với trước.
Dịch từ: https://www.epochtimes.com/b5/21/5/26/n12976463.htm