Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn (48)



Ban biên tập Tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến

[ChanhKien.org]

Nguyên văn:

渠荷的歷,園莽抽條。

枇杷晚翠,梧桐早凋。

Bính âm:

渠(qú)荷(hé)的(dì)歷(lì),

園(yuán)莽(mǎng)抽(chōu)條(tiáo)。

枇(pí)杷(pá)晚(wǎn)翠(cuì),

梧(wú)桐(tóng)早(zǎo)凋(diāo)。

Chú âm:

渠(ㄑㄩˊ)荷(ㄏㄜˊ)的(ㄉㄧˋ)歷(ㄌㄧˋ),

園(ㄩㄢˊ)莽(ㄇㄤˇ)抽(ㄔㄡ)條(ㄊㄧㄠˊ)。

枇(ㄆㄧˊ)杷(ㄆㄚˊ)晚(ㄨㄢˇ)翠(ㄘㄨㄟˋ),

梧(ㄨˊ)桐(ㄊㄨㄥˊ)早(ㄗㄠˇ)凋(ㄉㄧㄠ)。

Âm Hán Việt:

Cừ hà đích lịch,
Viên mãng trừu điều.
Tỳ bà vãn thuý,
Ngô đồng tảo điêu.

Giải thích:

1. Nghĩa của chữ:

Cừ (渠): kênh đào.
Hà (荷): cây sen, loài thực vật sống trong bùn, lá to tròn, nở hoa vào mùa hè.
Viên (園): nơi trồng cây cối hoa cỏ.
Mãng (莽): cỏ, lùm cỏ.
Trừu (抽): nảy mầm, mọc ra.
Điều (條): cành cây nhỏ và dài.
Tảo (早): sớm hơn so với thời gian vốn định trước, chưa đến thời gian dự định.
Điêu (凋): điêu tàn xơ xác.

2. Nghĩa của từ:

(1) Đích lịch (的歷): tươi sáng, rạng rỡ.

(2) Viên mãng (園莽): trong vườn cây cỏ tốt tươi.

(3) Trừu điều (抽條): cành non mới mọc.

(4) Tỳ bà (枇杷): loài cây cao lớn xanh tốt quanh năm, có quả.

(5) Vãn thuý (晚翠): tuy trải qua mùa đông lạnh giá, lá cây vẫn xanh tươi không đổi sắc. Ví với người tuổi càng già càng cứng cỏi.

(6) Ngô đồng (梧桐): tên loài thực vật, mùa hè nở hoa nhỏ màu vàng.

(7) Tảo điêu (早凋): sớm đã điêu tàn rồi.

Lời dịch tham khảo:

Vào mùa hè, hoa sen mọc trong dòng kênh nở rộ, sắc màu rạng rỡ. Vào mùa xuân, cây cỏ khắp vườn mọc tươi tốt, mọc ra những cành non mới.

Cây tỳ bà tuy trải qua mùa đông lạnh giá, lá vẫn xanh tươi không đổi sắc. Truyền thuyết kể rằng cây ngô đồng là cây mà chim phượng hoàng nghỉ chân, nhưng loài cây không phải tầm thường ấy lại bắt đầu rụng lá trở nên điêu tàn khi mà mùa thu còn chưa kết thúc nữa.

Câu chuyện văn tự:

Mãng (莽): Kim văn viết là “”, Tiểu triện viết là “”, chữ Mãng (莽) trông như trên dưới giữa hai lùm cỏ có một chú chó, chó vốn thích truy bắt thỏ, mà thỏ thường xuất hiện trong các lùm cỏ, lúc mà chó kia vào trong lùm cỏ tức là đang truy bắt thỏ, vậy nên nghĩa chữ ban đầu của chữ này chính là chó chạy vào lùm cỏ truy lùng thỏ hoang vậy.

Vãn (晚): Tiểu triện viết là “ ”, nghĩa gốc là lúc Mặt Trời lặn. Diễn biến đến chữ Lệ thư được viết là “”, chính là chữ Nhật (日) thêm chữ Miễn (免), mà nghĩa ban đầu của Miễn (免) là trốn thoát, có nghĩa là chạy mất rồi. Mặt Trời chạy đi mất rồi, hẳn là chỉ trời đã rất tối rồi.

Tảo (早): Kim văn viết là “”, hình dáng chữ trông như Mặt Trời ở trên ngọn cỏ, ý là Mặt Trời vừa mới mọc lên đến mặt thảm cỏ xanh thôi, cho thấy thời gian còn rất sớm. Đến Tiểu triện viết là “”, trở thành chữ Nhật (日) ở trên chữ Giáp (甲), Giáp (甲) có nghĩa là mũ giáp, lấy mũ giáp thay cho cái đầu, tức Mặt Trời ở trên đầu, nghĩa là lúc sáng sớm.

Suy ngẫm và thảo luận:

Trong bài này, chúng ta có nhắc đến hoa sen, mà hoa sen tức là chỉ liên hoa, liên hoa là tên loài hoa trong văn học Trung Quốc. Kỳ thực, không chỉ có liên hoa, trong văn học Trung Quốc cũng từng thấy có tác giả lấy đặc tính của hoa khác gán cho hình tượng nào đó để sáng tác. Ví như, Chu Đôn Di trong “Ái Liên Thuyết” từng nói rằng “Cúc, hoa chi ẩn dật giả dã. Mẫu đơn, hoa chi phú quý giả dã. Liên, hoa chi quân tử giả dã”. Tạm dịch: Cúc là hoa ẩn dật; mẫu đơn là hoa phú quý; liên hoa là hoa quân tử vậy. Ý nói rằng: Hoa cúc là hoa của bậc cao sĩ ẩn cư; mẫu đơn là hoa của bậc nhân sĩ phú quý; mà liên hoa lại là hoa của người quân tử vậy. Các bạn hãy thử nghĩ xem, ví von như vậy có chuẩn xác không nào?

(1) Vì sao liên hoa được ví là hoa quân tử?

(2) Chúng ta thử nghĩ xem, còn có tập tính của loài thực vật nào rất đặc biệt nữa không? Hãy thử gán cho nó một hình tượng và nói rõ vì sao nhé.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/44767



Ngày đăng: 08-07-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.