Phỏng vấn, biên tập: Tăng Tường Phú, Hoàng Cẩm
[ChanhKien.org]
Bìa sách “Hạt giống vàng” (NXB Bác Đại cung cấp)
[Duyên khởi]
“Hạt giống vàng – Câu chuyện về Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan”. Cuốn sách chủ yếu ghi chép lại đoạn đường phát triển của Pháp Luân Công tại Đài Loan cùng những câu chuyện cảm động lòng người, hơn nữa, hành trình lịch sử trân quý này cũng chính là một “bộ lịch sử sống”.
Năm 1994, khởi đầu mối kỳ duyên tại Tế Nam, Sơn Đông của một cặp vợ chồng người Đài Bắc, chuyến viễn du của một bác sĩ Thượng Hải đến Đài Loan, chuyến thăm người thân tại Hoa Liên của một ông lão người Quý Châu, đã mang theo “hạt giống” Đại Pháp, kết hợp cùng nhau tạo nên một cơ duyên tu luyện hiếm gặp không gì sánh được.
Vào tháng 02/2016, nhóm biên tập đã tiến hành phỏng vấn độc quyền lần lượt ở bắc, trung và nam Đài Loan. Sau khi sao chép các bản ghi âm, lại lần nữa kiểm tra đối chiếu, trải qua ba năm, cuối cùng đã có thể biên tập thành sách. So với dự tính ban đầu có thể nói là khó khăn hơn rất nhiều. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13/05, trang The Epoch Times xin giới thiệu cuốn sách “Hạt giống vàng”, mong rằng sự ra đời của cuốn sách sẽ giúp mỗi từng bước phát triển của Pháp Luân Đại Pháp tại Đài Loan như một kiến chứng lịch sử được lưu giữ hoàn chỉnh hơn.
(Tiếp theo phần 12)
Cuối năm 1995, sau khi Nhiếp Thục Văn liên lạc được với các học viên ở miền Bắc, bà đã làm theo hình thức ở Trung Quốc Đại Lục, hỗ trợ mọi người tổ chức “Lớp chín ngày học Pháp luyện công”. Do ở Đài Loan việc học và luyện Pháp Luân Công bắt đầu tương đối muộn, nên sự hiểu biết về tu luyện cũng như kinh nghiệm hồng truyền đều còn thiếu, vì vậy bà đã tích cực khuyên các học viên Đài Loan sang Đại Lục tham gia các buổi giao lưu học Pháp.
Sau đó, các học viên Đài Loan đã ba lần sang Đại Lục giao lưu. Từ ngày 28/10 đến 03/11/1996, 26 học viên đã đến Bắc Kinh, tham gia đợt giao lưu đầu tiên; đến tháng 2 năm sau lại có 50 người tham gia đợt giao lưu kéo dài 10 ngày; lần thứ ba là vào cuối năm đó, 54 học viên Đài Loan lên đường tham dự hội giao lưu tại Bắc Kinh. Sau hội giao lưu này họ còn cùng các học viên đến từ các quốc gia khác đi Trường Xuân giao lưu, đến ngày 03/01/1998 mới trở về Đài Loan. Tại lần giao lưu đầu tiên, Sư phụ Lý Hồng Chí còn bất ngờ đến dự và giảng Pháp cho các học viên trong một nhà hàng. Bài giảng này sau đó đã được ghi lại trong “Pháp Luân Đại Pháp – Giảng Pháp tại các nơi”, với tiêu đề “Giảng Pháp tại Hội giao lưu quốc tế Bắc Kinh”.
Chứng kiến tâm tinh tấn
Bà Liêu Hiểu Lam, hiện phụ trách điểm phụ đạo Đài Bắc nói ba chuyến đi đến Đại Lục là một quá trình dung luyện. Đối với các học viên Đài Loan vừa bước vào con đường tu luyện lúc ấy mà nói, đó là một trải nghiệm rất quan trọng, “biết được cảnh giới, lời nói và ngôn hành của những người tu luyện khi ở cùng nhau là như thế nào”.
Giống như Lưu Lão Lão đi dạo trong Đại Quan Viên, cái gì cũng mới mẻ, “thấy nhiều đồng tu tinh tấn không ngừng, sự hiểu biết của họ về Pháp, lời nói, hành vi… tất cả đều là những điều trước đây tôi không thể nào tưởng tượng được”, Liêu Hiểu Lam nói.
Nhiều năm sau, Hồng Cát Hoằng đã giải thích chuyến đi giao lưu ở Đại Lục như thế này: “Chúng tôi chính là đi thỉnh kinh!”
Bà Trần Hinh Lâm, một nhân viên của Đài truyền hình Đài Loan, người đã tham gia cả ba chuyến đi, nhớ lại lần đầu tiên bà Nhiếp Thục Văn rủ bà tham gia buổi giao lưu tại Bắc Kinh. Lúc đó, bà thậm chí còn chưa đọc xong một lần cuốn Chuyển Pháp Luân. Vì mới đắc Pháp được hơn hai tháng, nên lúc đó bà cứ nghĩ rằng Pháp Luân Công chủ yếu là luyện công, còn sách thì chỉ cần đọc một lần là đủ. “Tại sao phải đến Bắc Kinh để giao lưu?” Bà nghĩ trong lòng. Bà không mấy hứng thú và nói với Nhiếp Thục Văn: “Bắc Kinh mùa đông lạnh lắm, tôi không có quần áo ấm”. Không ngờ, bà Nhiếp Thục Văn lại nói với bà: “Để tôi nhờ học viên ở Đại Lục chuẩn bị quần áo ấm cho chị, chị không cần mang gì đâu. Sau đó, bà Trần Hinh Lâm lại tìm nhiều lý do khác nữa, nhưng đều bị bà Nhiếp Thục Văn “giải quyết” từng lý do một. Không thể từ chối được nữa, bà Trần Hinh Lâm đành đổi ý: “Coi như là đi du lịch vậy. Đến Bắc Kinh rồi, tôi phải đi tham quan, đi chơi cho thật đã!”
Không chỉ một mình bà Trần Hinh Lâm có tâm lý tiện thể đi du lịch như vậy, mà cả Lưu Hoàng Ảnh và nhiều người khác cũng thế. Nhưng họ nghìn vạn lần không thể ngờ rằng lịch trình chuyến đi giao lưu ở Bắc Kinh lại vô cùng dày đặc, không có một chút thời gian nào để tham quan, nhưng lại rất trọn vẹn chân thực.
Bà Trần Hinh Lâm (thứ hai từ trái sang) tham gia buổi giao lưu tại Bắc Kinh. Các học viên tại địa phương đã dạy học viên Đài Loan luyện công trực tiếp tại công viên. (NXB Bác Đại cung cấp)
Khi đến Bắc Kinh, mọi người được chia thành các nhóm để học Pháp và giao lưu. Sau khi ngồi vào vị trí, các học viên Đài Loan nhiệt tình mở các gói đặc sản mang từ Đài Loan sang, định chia sẻ với mọi người, nhưng chỉ thấy các học viên Đại Lục vẫn tĩnh lặng như cũ ngồi xếp bằng. Một học viên Bắc Kinh mỉm cười nói: “Xin lỗi, xin vui lòng cất đồ đi, học Pháp là việc nghiêm túc”.
Thế là các học viên Đài Loan đã được chứng kiến thái độ học Pháp “nghiêm túc” của các học viên Đại Lục: mỗi học viên Bắc Kinh đều ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, hai chân xếp bằng, hai tay cung kính nâng cuốn Chuyển Pháp Luân lên để đọc. Điều khiến các học viên Đài Loan đặc biệt kinh ngạc là, cho dù vì ngồi xếp bằng quá lâu mà đau đến nhăn mặt, hay đọc đến méo cả giọng, nhưng các học viên Bắc Kinh vẫn kiên trì. Hơn nữa, mỗi lần học Pháp đều kéo dài cả một buổi sáng.
Bà Trần Hinh Lâm cười kể lại, các học viên Đài Loan không quen ngồi xếp bằng trong thời gian dài. Sau một lúc, đủ các kiểu ngồi kỳ quái xuất hiện: có người ngồi xiêu vẹo, có người đứng dậy, thậm chí có người bắt đầu ngủ gật… “Chúng tôi thực sự kém họ quá nhiều!” Ông Lưu Hoàng Ảnh nói.
Sau đó trong lúc giao lưu, các học viên Đài Loan không kìm được mà hỏi: “Các bạn có thể ngồi xếp bằng trong bao lâu? Có đau không?” Hầu hết các học viên Bắc Kinh có mặt ở đó đều có thể ngồi xếp bằng ba tiếng đồng hồ, thậm chí có người ngồi sáu tiếng, và họ vẫn cố gắng kiên trì chịu đựng dù rất đau đớn. Để có thể ngồi đả tọa song bàn, có người dùng đá đè lên chân, dùng dây thừng buộc hai chân lại để tránh việc không chịu nổi cơn đau mà bỏ chân xuống.
Mặc dù Pháp Luân Công nhấn mạnh việc tu luyện tâm tính, không lấy việc ngồi thiền bao lâu làm tiêu chuẩn để đánh giá tầng thứ cao hay thấp, nhưng những biểu hiện chịu khổ vì kính Pháp của các học viên Bắc Kinh đã khiến Hồng Cát Hoằng, người đã luyện võ thuật hàng chục năm, cũng phải tự than thở rằng mình không bằng, “Nói thật, tâm tinh tấn của họ, chúng tôi không thể theo kịp!”
Pháp lý của Pháp Luân Công yêu cầu học viên phải làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”. Nhưng khi nghe các học viên ở Bắc Kinh chia sẻ cách họ đối mặt với những tủi nhục và bất công trong đơn vị, trong gia đình và ngoài xã hội, các học viên Đài Loan mới thực sự ý thức được trạng thái của “chân tu”. Bà Trần Hinh Lâm nhớ lại những ví dụ khiến mọi người khó có thể quên và thán phục nói: “Họ thực sự rất nghiêm khắc yêu cầu bản thân làm theo ‘Chân, Thiện, Nhẫn’. Những chuyện mà tôi nghe còn cảm thấy khó tin, nhưng họ đều có thể đối mặt”.
Tất nhiên, trạng thái “chân tu” này không phải đơn thuần là chịu đựng một cách cam chịu. Trong buổi giao lưu, ông Lưu Hoàng Ảnh nghe các học viên Bắc Kinh chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của họ mà cứ như nghe kể chuyện vậy, rất say sưa. Ông phát hiện ra rằng “họ lúc nào cũng chú ý đến tâm tính của mình, khi một tâm chấp trước nổi lên, nhớ lại Sư phụ đã giảng như thế nào trong Pháp, ngộ ra và ý thức được rằng đó là tâm chấp trước cần phải bỏ… Rồi ý thức được rằng chấp trước đó vẫn còn, lại tiếp tục bỏ nó đi… Đó là một quá trình tu tâm tính hoàn chỉnh”.
Ông Hoàng Tiểu Minh, tổ trưởng phòng tài vụ của Đài truyền hình Đài Loan, cũng tham gia buổi giao lưu lần này. Điều khiến ông “giật mình” là khi giao lưu, các học viên Đại Lục không cần nhìn sách mà vẫn có thể nói rõ những gì được viết ở trang sách nào. Mức độ thuộc Pháp của họ đã làm các học viên Đài Loan, lúc bấy giờ còn chưa hiểu tầm quan trọng của việc học Pháp, bị chấn động. Nhờ đó, ông Lưu Hoàng Ảnh cũng đã hiểu ra thế nào là “giao lưu trong Pháp”. Đồng thời, mọi người cũng đã hiểu và thể hội được “hướng nội tìm” – một yếu tố rất quan trọng để đề cao trong tu luyện, điều mà trước đó họ vẫn chưa hiểu.
Phong thái của người luyện công
Trước khi một buổi giao lưu bắt đầu, một học viên nam trung niên lặng lẽ chuẩn bị trà. Với ánh mắt trong sáng và khí chất điềm đạm, ông lặng lẽ bưng từng chén trà đến mời những người đang có mặt ở đó. Ông là Vương Trị Văn. Một số ít học viên Đài Loan đã từng thấy trên danh thiếp của Sư phụ Lý có ghi: “Người liên hệ: Vương Trị Văn” khi họ tham gia buổi giảng Pháp của Sư phụ tại lễ thành lập Hiệp hội Phật học hội Singapore.
“Vương Trị Văn là ai vậy?” Mọi người đều không kìm được sự tò mò, không hẹn mà cùng nghĩ: Người có thể trở thành người liên lạc của Sư phụ Lý thì chắc hẳn thân phận không hề tầm thường! Tuy nhiên, lúc đó không ai trong số họ nhận ra rằng “người bình thường” đang lặng lẽ chuẩn bị trà trước mắt họ, chính là “người liên lạc không hề tầm thường” trên danh thiếp, và cũng là một trong những người phụ trách “Hiệp hội Nghiên cứu Pháp Luân Đại Pháp Bắc Kinh” lúc bấy giờ.
Ảnh các học viên Đài Loan chụp chung với ông Vương Trị Văn (thứ hai từ phải sang), một trong những người phụ trách “Hiệp hội Nghiên cứu Pháp Luân Đại Pháp Bắc Kinh”. (NXB Bác Đại cung cấp)
Hoàng Xuân Mai nhớ lại, lúc đó bà có một vấn đề đã suy nghĩ mãi mà không giải đáp được, muốn hỏi các học viên Đại Lục. Một học viên người Mỹ tham dự cuộc họp đã nói với bà: “Chị cứ hỏi Vương Trị Văn, ông ấy học Pháp rất tốt”.
Nhiều năm sau, bà Hoàng Xuân Mai đã quên mất câu hỏi hồi ấy là gì, nhưng bà không thể nào quên được thần thái khiêm tốn và hòa nhã của ông Vương Trị Văn. Bà Hoàng Xuân Mai thẳng thắn nói rằng, vì tầng thứ tu luyện cách nhau xa, bà nghe không hiểu câu trả lời của ông Vương Trị Văn, nhưng ông vẫn kiên nhẫn giao lưu với bà trong suốt mười, hai mươi phút. Lúc đó, giọng điệu nhẹ nhàng và sự kiên nhẫn không nóng không vội của ông đã in sâu vào trong tâm trí bà: “Một người tốt, hiền lành, hiền hòa, và dễ mến đến vậy”.
Để chuẩn bị cho chuyến đi Bắc Kinh lần này, Liêu Hiểu Lam ban ngày đi làm, buổi tối còn phải hỗ trợ liên lạc với rất nhiều học viên Pháp Luân Công, đã bận rộn đến mức không xoay xở kịp. Khi cảm thấy quá tải, ông không kìm được mà than phiền với Vương Trị Văn. Sau khi lặng lẽ lắng nghe những lời than thở của ông, Vương Trị Văn với vẻ mặt hiền từ nói với ông: “Cậu vất vả rồi!”
Điều này hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của Liêu Hiểu Lam. Vương Trị Văn bận rộn không hề “cùng chung cảnh ngộ” mà than thở với ông, cũng không dùng thái độ “người đi trước” để chỉ bảo hay truyền kinh nghiệm. Liêu Hiểu Lam cảm thấy rằng trong lúc lắng nghe, Vương Trị Văn không nghĩ đến hoàn cảnh và kinh nghiệm của bản thân mình. Khoảnh khắc đó, ông cảm nhận được Vương Trị Văn đã quên “cái tôi”, mà chỉ có sự thấu hiểu và lòng từ bi đối với người khác. Liêu Hiểu Lam nói: “Có thể cảm nhận được lòng từ bi của người tu luyện”.
Trong chuyến giao lưu tại Đại Lục, Trần Hinh Lâm, người ban đầu chỉ muốn đi chơi, đã thực sự thể hội được thế nào là tu luyện Pháp Luân Công, thế nào là phong thái của người tu luyện:
“Tôi mới biết rằng học Pháp là phải học như thế, phải kiên nhẫn trả lời câu hỏi của học viên như thế. Rồi khi họ trao đổi, họ sẽ nói ‘đây là tâm đắc cá nhân của tôi, nhận thức cá nhân của tôi,’ v.v… lúc đó tôi mới hiểu thế nào là tôn trọng và nghiêm cẩn đối đãi với Pháp. Từ mỗi lời nói và hành động của họ, tôi mới biết thế nào là tu luyện, thế nào là phong thái của người tu luyện”.
Sư phụ Lý đích thân giảng Pháp
Bất ngờ và niềm vui lớn nhất của các học viên khi tham gia chuyến đi Bắc Kinh lần đầu tiên, không gì hơn là được tận mắt nhìn thấy Sư phụ Lý.
Năm 1995, Sư phụ Lý Hồng Chí đã kết thúc việc giảng Pháp tại Đại Lục, bắt đầu ra nước ngoài giảng Pháp. Vì thế, các học viên tham gia buổi giao lưu tại Bắc Kinh lúc bấy giờ đều nghĩ rằng Sư phụ Lý đang ở nước ngoài, không thể tham dự buổi giao lưu.
Vào tối trước ngày rời Bắc Kinh, khi mọi người đang dùng bữa tại khách sạn, các học viên Đài Loan ngồi phía sau nghe thấy tiếng vỗ tay như sấm vang dần lên từ phía trước. Các học viên Đài Loan nhìn nhau đầy nghi hoặc, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh. Không lâu sau, họ thấy hình bóng cao lớn của Sư phụ Lý bước vào. Trần Hinh Lâm, lần đầu tiên được gặp Sư phụ Lý, đã xúc động đến mức không nói nên lời: “Tôi vẫn nghĩ Sư phụ đang ở Mỹ, không ngờ Sư phụ lại đến”.
Ngày cuối cùng của hội giao lưu quốc tế tại Bắc Kinh, Sư phụ Lý Hồng Chí tươi cười đến tham dự. (NXB Bác Đại cung cấp)
Khi Sư phụ Lý đi ngang qua Hồng Cát Hoằng đang lau nước mắt, Ngài đã ân cần nói với anh ấy: “Tôi biết là anh đến rồi”. Đây là lần thứ hai Hồng Cát Hoằng được gặp Sư phụ Lý.
Một nhân viên khác của đài truyền hình Đài Loan cũng tham gia hội giao lưu là Ngô Bội Hà, hồi tưởng lại khi đó Sư phụ Lý mỉm cười bước vào và từ từ nhìn lướt qua từng học viên có mặt. Khi nhìn thấy Ngô Bội Hà, Ngài ngừng cười, nhìn cái đầu gối trái của cô vài giây rồi mới dời ánh mắt đi, khôi phục nụ cười và lại tiếp tục mỉm cười nhìn từng học viên có mặt.
Lúc bấy giờ, Ngô Bội Hà không hiểu ý tứ này là gì, “Sao Sư phụ Lý nhìn mình lại không cười nhỉ?” Nhưng khi trở về Đài Loan và ngồi thiền, đôi chân cứng đờ của cô, đừng nói “đơn bàn” hay “song bàn”, mà ngay cả “tán bàn (ngồi lỏng)” cũng rất khó khăn, bỗng phát ra tiếng “rắc, rắc” rồi hạ xuống, hai chân đã có thể xếp bằng được. Lúc đó Ngô Bội Hà mới nhận ra Sư phụ Lý đã giúp cô tịnh hóa thân thể.
Lưu Hoàng Ảnh, người từng bị đau dây thần kinh tọa đến mức không thể đi lại, nhưng sau khi luyện công thì khỏi hẳn, đã không kìm được nước mắt khi nhìn thấy Sư phụ Lý. Trong lòng ông dâng lên một nỗi biết ơn không thể diễn tả bằng lời: “Sư phụ ơi, Ngài vừa là thầy vừa là cha, giống như được gặp người cha thân yêu nhất của mình, là người đáng kính nhất, không lời nào có thể diễn tả được”.
Lúc bấy giờ, các học viên Đài Loan vẫn còn nhận thức hạn chế về Pháp lý. “Bởi vì mới tu luyện chưa được bao lâu, chỉ biết là những gì Sư phụ Lý giảng lúc đó rất thâm sâu”, Trần Hinh Lâm nói. Mặc dù không nhận thức sâu sắc được nội dung những gì Sư phụ Lý giảng lúc đó, nhưng các học viên Đài Loan vẫn cảm thấy thu hoạch được rất nhiều.
“Liên tục trong hội giao lưu quốc tế tại Bắc Kinh, Sư phụ Lý đã dặn dò mọi người phải học Pháp nhiều hơn. Lại cộng thêm việc chúng tôi trực tiếp trao đổi với các phụ đạo viên ở Bắc Kinh, chúng tôi mới biết rằng học Pháp (đọc đi đọc lại cuốn sách chỉ đạo tu luyện Chuyển Pháp Luân) thực sự rất quan trọng”, Trần Hinh Lâm nói.
Chuyến đi Trường Xuân mở mang tầm mắt
Còn một cảnh tượng khác cũng khiến các học viên Đài Loan khó quên.
Lần thứ ba đến Đại Lục giao lưu, các học viên ở Bắc Kinh đã đưa họ đến Trường Xuân – quê hương của Sư phụ Lý Hồng Chí.
Ông Lưu Hoàng Ảnh nhớ lại, khi cả đoàn bay đến thành phố Trường Xuân – nơi khởi nguồn của Pháp Luân Công – và lên xe buýt đến khách sạn, đi được một đoạn thì thấy một bùng binh lớn. Có khoảng vài trăm người đang đứng quanh bùng binh để luyện công, phía trước còn có người đang giương biểu ngữ. Lúc đó là khoảng bốn, năm giờ chiều. Các học viên Đài Loan không kìm được hỏi: “Đây có phải là các bạn đặc biệt sắp xếp để tiếp đón chúng tôi không?” Học viên địa phương trả lời đây là thời gian luyện công bình thường của họ, không phải sắp xếp đặc biệt. Chỉ một lát sau, họ lại nhìn thấy một điểm luyện công vài trăm người khác… Cứ thế cho tới khi đến khách sạn, dọc đường đi, không chỉ ở các bãi cỏ, công viên, quảng trường, mà ngay cả ở những lề đường không phải bãi cỏ, cũng đều thấy bóng dáng của các học viên Pháp Luân Công.
Ngày hôm sau, các học viên Đài Loan cũng tham gia buổi luyện công tập thể bắt đầu từ 5 giờ sáng. Tuy nhiên, khi họ đến Quảng trường Nhân dân thành phố Trường Xuân lúc 6 giờ, quảng trường đã chật kín người. Các học viên Đài Loan gần như không tìm được chỗ để đứng. “Từ đầu này không thể nhìn thấy đầu kia, chúng tôi ước tính luyện công sáng sớm ở Trường Xuân lên tới hàng vạn người”, ông Hồng Cát Hoằng nói.
Các học viên Đài Loan tham gia luyện công buổi sáng tại Quảng trường Nhân dân ở Trường Xuân, sau đó chụp ảnh tập thể để lưu niệm. (NXB Bác Đại cung cấp)
Cảnh luyện công tập thể với quy mô lớn như vậy tại Trường Xuân đã khiến các học viên Đài Loan phải thốt lên: “Thật sự đã mở mang tầm mắt!” Việc luyện công ngoài trời tuyết rơi dưới cái lạnh âm mười mấy độ C cũng khiến các học viên Đài Loan, vốn quen sống ở vùng cận nhiệt đới, cảm thấy rất sốc. Sau khi run rẩy luyện công xong dưới thời tiết băng giá, lông mày, thậm chí cả lông mi và râu cũng đều bị đóng băng.
Việc các học viên Đài Loan luyện công ở Trường Xuân dưới thời tiết âm mười mấy độ C là một trải nghiệm thần kỳ mà các học viên ở vùng cận nhiệt đới Đài Loan chưa từng trải qua. (NXB Bác Đại cung cấp)
Ngoài cảnh tượng luyện công hoành tráng, tình huống học Pháp tập thể của các học viên Trường Xuân còn khiến các học viên Đài Loan vô cùng kinh ngạc.
Tối hôm đó, họ đến một điểm học Pháp tập thể. Đó là một căn phòng trống hình chữ nhật. Để thể hiện sự tôn trọng với các học viên Đài Loan, các học viên Trường Xuân đã nhường khu vực giữa phòng có lò sưởi cho họ. Tuy nhiên, vì quá đông, các học viên Đài Loan chỉ có thể ngồi co người trên sàn, đầu gối chạm đầu gối, không thể cử động. Do có quá nhiều người tham gia, các học viên ở sát tường phải đứng san sát nhau như cá mòi hộp, còn những người không chen vào được thì đứng ngoài ban công để cùng học Pháp. Mùa đông ở vùng Đông Bắc của Trung Quốc rất lạnh, những học viên đứng ngoài ban công và ở xa lò sưởi run lên cầm cập vì lạnh, trong khi những người ngồi gần lò sưởi lại nóng toát mồ hôi. Cứ như vậy, mọi người giữ nguyên trạng thái bất động mà học Pháp trong suốt hai giờ đồng hồ.
Những học viên tham gia học Pháp tập thể đều đeo một chiếc túi nhỏ, mang theo tất cả bảy, tám cuốn sách Pháp Luân Công lúc bấy giờ. Không ai hỏi hôm nay sẽ đọc cuốn nào. Ban đầu, người chủ trì cầm micro nói: “Hôm nay chúng ta sẽ học Pháp tại bài giảng thứ nhất của cuốn Chuyển Pháp Luân, ai có thể đọc thuộc lòng?” Ngay khi dứt lời, đã có bốn, năm người giơ tay nói: “Tôi xin đọc”. Đọc xong, người chủ trì nói: “Tiếp theo?” Vừa dứt lời, lại có người giơ tay hô lên: “Tôi xin đọc”. Sau khi đọc xong, người chủ trì lại hô: “Tiếp theo!” “Tôi xin đọc”, một học viên khác giơ tay nói. Cứ như thế, mọi người lần lượt tranh nhau đọc thuộc lòng cuốn Chuyển Pháp Luân.
“Chỉ cần chậm một phần mười giây là không còn lượt để bạn đọc thuộc lòng nữa. Chỉ cần do dự một chút thôi là đã có người khác tiếp lời và đọc thuộc lòng rồi. Mỗi người đọc một đoạn, không sai một chữ nào!”, Hồng Cát Hoằng hồi tưởng lại với vẻ khâm phục.
Sau đó, tại các điểm học Pháp khác, cũng có người thấy các học viên Trường Xuân dùng bút lông cẩn thận chép lại các kinh sách của Pháp Luân Đại Pháp và đóng thành quyển một cách ngay ngắn, chỉnh tề. Tấm lòng trân trọng ấy thật đáng cảm động.
Sau khi trực tiếp tham gia học Pháp, luyện công và giao lưu tu luyện cùng các học viên ở Đại Lục, các học viên Đài Loan đã hiểu hơn rằng Pháp Luân Công không chỉ là luyện công, mà còn là tu luyện. Ngoài việc học Pháp và tu tâm, họ cũng nhận thức được tầm quan trọng của việc luyện công và học Pháp tập thể. Sau khi trở về Đài Loan, họ bắt đầu mở thêm các điểm luyện công và điểm học Pháp. Đồng thời, “Lớp học Pháp và luyện công chín ngày” cùng các buổi giao lưu tập thể cũng dần được mở rộng trên khắp Đài Loan.
Dịch từ: https://www.epochtimes.com/b5/21/5/24/n12971969.htm