Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (7): Đại dâm tặc Giang quỷ
Tác giả: Lực Thiên Quân
[Chanhkien.org]
CHƯƠNG I: Kẻ cầm đầu tà ác và con thú tà ác
Phần 4: Đại dâm phụ ĐCSTQ, đại dâm tặc Giang quỷ
ĐCSTQ—”đại dâm phụ”
Các Thế Kỷ VIII, Khổ 70
Nguyên văn tiếng Pháp:
Il entrera viain, meschant, infame
Tyrannisant la Mesopotamie
Tous amis faict d’adulterine dame.
Terre horrible noir de phisomie.Tiếng Anh:
He will enter, wicked, unpleasant, infamous,
tyrannizing over Mesopotamia.
All friends made by the adulterous lady,
the land dreadful and black of aspect.Tiếng Việt:
Hắn sẽ đi vào, độc ác, đáng ghét và ô nhục,
Cai trị bạo ngược khắp vùng Lưỡng Hà.
Tất cả những người bạn sinh ra từ đại dâm phụ,
Mặt đất kinh khiếp và viễn cảnh đen tối.
“Mesopotamia” là chỉ vùng lưu vực Lưỡng Hà, cái nôi của nền văn minh nhân loại từ 5.000 năm trước; “Lưỡng Hà” nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris, mà nay thuộc lãnh thổ Iraq và Iran. Trung Quốc cũng là cái nôi của nền văn minh nhân loại với lịch sử 5.000 năm, tuy nhiên lại nằm trong lưu vực “lưỡng hà” giữa sông Hoàng Hà và Trường Giang ở phương Đông; do đó bài thơ này của «Các Thế Kỷ» dùng “Lưỡng Hà” để ám chỉ Trung Quốc. Câu thơ thứ hai “Cai trị bạo ngược khắp vùng Lưỡng Hà” chính là nói về kẻ cầm đầu ĐCSTQ tà ác—Giang Trạch Dân; câu đầu tiên bài thơ mô tả Giang Trạch Dân là “độc ác, đáng ghét và ô nhục”.
Câu thơ thứ ba nói Giang Trạch Dân có “Tất cả những người bạn sinh ra từ đại dâm phụ”, nghĩa là những người xung quanh ông ta đều là đảng viên cộng sản; họ đều gọi ĐCSTQ là “mẹ kính yêu”, đều là con của “đảng kính yêu”; còn “đảng kính yêu” này chính là “đại dâm phụ”. Trong «Khải Huyền» của «Thánh Kinh» cũng nói về “đại dâm phụ” này và mối quan hệ của nó với con thú tà ác: “Thế là vị thiên sứ ấy đem tôi đi trong Đức Thánh Linh vào một đồng hoang; tại đó, tôi thấy một người đàn bà ngồi trên lưng một Con Thú màu đỏ đầy những danh hiệu phạm thượng, có bảy đầu và mười sừng.” (Khải Huyền, 17:3); như vậy “đại dâm phụ” đã cưỡi trên lưng con thú tà ác ĐCSTQ, đây có thể coi là “mẹ kính yêu” của các đảng viên ĐCSTQ—đám tà linh vô sỉ. «Khải Huyền» cũng nói: “và trên trán bà ấy có ghi một danh hiệu bí ẩn, ‘Ba-by-lon vĩ đại, Mẹ của các điếm đĩ, Và Mẹ của những gớm ghiếc trên đất’.” Babylon cổ đại chính là ở tại “Lưỡng Hà” được đề cập trong câu thơ thứ hai, là chỉ Trung Quốc, như vậy “đại dâm phụ” này đúng là chỉ ĐCSTQ. Kỳ thực, ĐCSTQ tẩy não nhân dân, bất cứ ai hát lên “đảng, mẹ kính yêu của tôi” thì chính là đã thừa nhận “đại dâm phụ” rồi.
Giang quỷ bụng dạ hẹp hòi, hoang dâm vô sỉ
Các Thế Kỷ IV, Khổ 57
Nguyên văn tiếng Pháp:
Ignare enuie du grand ROy supportee,
Tiendra propos deffendre les escrits :
Sa femme non femme par vn autre tentee,
Plus double deux ne feront ne cris.Tiếng Anh:
Ignorant envy upheld before the great King,
He will propose forbidding the scripture:
His wife not his wife in another tent.
Twice two more neither producing nor cries.Tiếng Việt:
Đại vương ấp ủ trong lòng sự đố kỵ ngu ngốc,
Ông ta sẽ đưa ra ý định cấm Thánh Kinh:
Vợ mà không phải vợ ông ta trong túp lều khác.
Hơn cả hai lần hai không thể sinh con hoặc hét lên.
Bài thơ tiên tri này nói rằng: Kẻ cầm đầu tà ác Giang Trạch Dân chính vì xuất phát từ lòng đố kỵ mà quyết định trấn áp Pháp Luân Công. Ngoài ra, Giang Trạch Dân và những người tình của ông ta sống một cuộc sống cực kỳ hoang dâm vô sỉ. Hai câu đầu nói Giang Trạch Dân thấy Pháp Luân Công phổ biến nhanh chóng tại Trung Quốc, số học viên còn nhiều hơn số đảng viên; ngoài ra họ đều rất kính ngưỡng Sư phụ của Đại Pháp; còn chức Tổng Bí thư của ông ta không được người ta kính ngưỡng như thế; cho nên vô cùng ghen tức, không có lý do gì mà cấm xuất bản «Chuyển Pháp Luân» và các sách Pháp Luân Công khác, cuối cùng ra lệnh bức hại và đàn áp đẫm máu Pháp Luân Công. Sự đố kỵ của Giang Trạch Dân đối với Pháp Luân Công thì chúng ta có thể thấy rõ qua mấy sự việc nhỏ như sau: Năm 1994, vợ ông ta là Vương Dã Bình cũng tập Pháp Luân Công; Giang Trạch Dân nói: “Ngay cả bà vợ bên tôi cũng tin Lý Hồng Chí, thì còn ai tin Tổng Bí thư này đây!’, vì thế mà không cho phép vợ tập. Năm 1998 có lũ lớn, Giang Trạch Dân khi đang thị sát ở một con đê lớn thì chợt nhìn thấy một nhóm người đang làm việc cực nhọc; ông ta rất đắc ý, nói với những người đi theo: “Những người này nhất định là đảng viên cộng sản”. Nói rồi tới hỏi, kết quả được trả lời đây là những học viên tập Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân lúc ấy lửa đố kỵ bốc lên, sầm mặt lại rồi quay đầu đi luôn. Năm 1998, cán bộ lão thành Kiều Thạch chỉ vì viết “Pháp Luân Công đối với đất nước và nhân dân chỉ có trăm điều lợi mà không có một điều hại” vào báo cáo điều tra và còn ghi thêm rằng “được lòng dân là được thiên hạ, mất lòng dân là mất thiên hạ” mà bị Giang Trạch Dân vô cùng ghen tức tật đố. Sự đố kỵ của Giang Trạch Dân cũng là vì lúc ấy rất nhiều cán bộ lão thành trong quân đội và quân nhân tại ngũ đều tập Pháp Luân Công, mà chính quyền ĐCSTQ thì dựa vào báng súng để duy trì; nếu ngay cả quân nhân cũng đều theo “Chân, Thiện, Nhẫn” thì nền tảng cho bạo chính của ĐCSTQ đã không còn nữa. Kỳ thực, Giang Trạch Dân tật đố Pháp Luân Công không phải vì điều gì khác mà chính là vì Pháp Luân Công quá tốt; với một quần thể “quá tốt” như Pháp Luân Công thì giả tượng “vĩ đại, quang vinh, đúng đắn” của thế lực ĐCSTQ tà ác đã không còn duy trì được nữa.
Hai câu sau bài thơ tiên tri nói về sự háo sắc vô sỉ của Giang Trạch Dân và lối sống quần hôn hoang dâm vô độ của ông ta. “Vợ mà không phải vợ ông ta trong túp lều khác” là nói những tình nhân của Giang Trạch Dân đều “không phải vợ ông ta”, đa số họ đều đã có chồng “trong túp lều khác”; và cũng bởi vì họ không phải là vợ ông ta nên “không thể sinh con hoặc hét lên”. Cách nói “Hơn cả hai lần hai” càng thêm tài tình, bởi vì Giang Trạch Dân có tiếng là “hai vợ lớn và hai vợ bé”, và những người vợ “vô danh” của ông ta thì còn nhiều hơn. “Hai vợ lớn” của Giang Trạch Dân: một là Trần Chí Lập, nguyên Bộ trưởng Giáo dục kiêm ủy viên Quốc hội, người làm băng hoại đạo đức luân lý trong hệ thống giáo dục Trung Quốc; hai là Hoàng Lệ Mãn, nguyên Bí thư Thành ủy Thâm Quyến kiêm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông, người khiến đặc khu kiểu mẫu về cải cách mở cửa Thâm Quyến trở nên ô yên chướng khí. “Hai vợ bé” của Giang Trạch Dân: một là nữ bá chủ Lý Thụy Anh của Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc, hai là ngôi sao ca nhạc Tống Tổ Anh của Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị Hải quân. Giang Trạch Dân vì để lấy lòng mấy người tình này mà đã không việc gì không làm, kết quả khiến họ gây họa loạn cho Trung Quốc tới mức Đát Kỷ thời cổ đại cũng phải chào thua.
Ví như, “vợ lớn” Giang Trạch Dân là Trần Chí Lập, trước sự kiện ngày 4/6 là một hắc thủ trong vụ niêm phong «Thế giới Kinh tế Đạo báo», châm ngòi sự kiện ngày 4/6; mà thời bà ta chủ chính giáo dục Trung Quốc, thì cống hiến duy nhất chính là khiến trường học Trung Quốc trở thành chợ giao dịch dơ bẩn, loạn thu phí, ngụy tạo văn bằng, thăng cấp và mở rộng đại học một cách mù quáng, hoàn toàn bất chấp nhu cầu xã hội và chất lượng giáo dục; các trường đại học chiêu sinh bừa bãi, nhưng sinh viên ra trường không có văn bằng chính thức, giáo dục đại học chỉ tồn tại mang tính hình thức. Còn “vợ bé” Giang Trạch Dân là Tống Tổ Anh, chưa nói tới lãng phí vô số khoản công quỹ khi đi diễn xuất ở nước ngoài, chỉ riêng món quà Nhà hát lớn Quốc gia mà Giang tặng để làm vừa lòng Tống Tổ Anh, thì e rằng đã khiến Bắc Kinh đại họa đến nơi. Muốn biết nguyên nhân tại sao, xin xem phần tiếp theo.
Dịch từ:
http://zhengjian.org/zj/articles/2007/12/17/49780.html
Ngày đăng: 01-05-2011
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.