Ra khỏi chốn hồng trần (9)



Tác giả: Trương Diệc Khiết

[ChanhKien.org]

9. Kỳ duyên

Lệnh cấm Pháp Luân Công của chính phủ đã lan rộng khắp cả nước chỉ sau một đêm khiến cho người dân quê tôi ở Trường Xuân và gia đình chồng tôi ở Giang Tô đều kinh động. Chồng tôi lập tức trở thành nội tuyến và đường dây nóng để liên hệ hai nơi, thông báo về tình hình và lập trường thái độ của tôi đồng thời yêu cầu giúp đỡ.

Người đầu tiên đến Bắc Kinh là anh hai, chị và em gái của tôi. Anh hai tính tình ôn hòa, am hiểu lòng người, biết được mình phải làm gì nên gia đình đã cử anh cùng chị gái và em gái đến để thuyết phục tôi.

Sau khi một hàng ba người xuống xe, họ giấu tôi âm thầm lặng lẽ đến cơ quan Bộ, đầu tiên là đến phòng làm việc của chồng tôi để tìm hiểu tình hình và trao đổi ý kiến. Đầu tiên họ nói chuyện với Hồng sau lưng tôi. Họ cũng cho rằng Hồng xuất phát từ cảm tình cá nhân mà đi theo tôi, cho nên họ đã nói chuyện với Hồng trước, để sau khi làm việc với Hồng xong, mọi người cùng nhau đến khuyên nhủ tôi. Họ nói chuyện suốt cả ngày ở tầng bốn, còn tôi ở văn phòng tại tầng chín hoàn toàn không biết gì.

Một cuộc trò chuyện dài giữa họ với Hồng đã bắt đầu, Hồng đã khiến họ thán phục nhờ vào cảm thụ tu luyện cá nhân, sự hiểu biết sâu sắc về Pháp và nhận thức rõ ràng về hiện thực xã hội khách quan của mình, cô không chỉ đạt được hiệu quả rất tốt trong việc hồng Pháp cho họ mà còn loại bỏ đi nhiều trở ngại và giảm bớt rất nhiều áp lực đối với tôi.

Sau đó, em gái tôi cũng là đệ tử Đại Pháp nói với tôi: “Hồng xứng đáng được chị xem trọng như vậy, quả thực rất xuất sắc và tu luyện rất tốt, cô ấy không phải là đi theo ai, là cô ấy xứng đáng với tầng thứ của người tu luyện”.

Họ không thuyết phục được Hồng, nên thiếu tự tin. Nhìn vào trạng thái tư tưởng của Hồng, họ biết được tôi kiên định tin vào Đại Pháp đến mức độ nào. Họ biết rõ tính cách của tôi, khi sự việc được nhận thức chính xác tôi sẽ đặt toàn tâm toàn ý vào đó, muốn thuyết phục tôi thay đổi giống như dời núi vậy, nhưng anh hai tự cho rằng anh vẫn còn một ngón đòn đủ sức thuyết phục tôi, khiến tôi thay đổi thái độ.

Buổi tối, anh hai, chị gái, em gái cả ba người đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi, họ im lặng không nói gì về việc của ban ngày. Thực ra Hồng sớm đã mật báo cho tôi.

Sau bữa tối, trên sân thượng ngoài trời rộng rãi, anh hai bắt đầu trò chuyện có mục đích với tôi, em gái hoàn toàn không tham gia, em ấy sớm đã có sự đồng tình với Hồng. Chị gái có vẻ là người hai mặt nửa tu nửa không tu.

Anh hai giả vờ không để tâm hỏi tôi: “Em đã nghe Sư phụ giảng bài chưa?”

Tôi nói: “Chưa”.

“Đã gặp Sư phụ của em chưa?”

“Chưa, vẫn chưa có phúc như vậy”, tôi chán nản nói.

Hễ nhắc đến việc gặp Sư phụ, tôi liền nghĩ đến bao nhiêu lần bỏ lỡ cơ duyên gặp Sư phụ. Một lần giảng Pháp ở Địa Đàn, vì không biết Sư phụ sẽ đến, nên liền vội vàng quay về đơn vị làm việc; năm 1997 tôi đến Nga hồng Pháp, nhưng Sư phụ không đến; lần thứ ba Sư phụ gặp mặt các học viên trí thức, tôi tưởng rằng đó là một Pháp hội bình thường, nên lại nhường vé, việc sau đó lúc biết là Sư phụ đến thăm, tôi gần như rơi nước mắt. Càng buồn hơn là nghe nói Sư phụ đã từng mở lớp giảng Pháp ở tại lễ đường của cơ quan, tôi lại không hề biết. Chính là đoạn thời gian đó tôi vẫn cùng Hồng đi tìm kiếm các danh sư ở kinh thành. Kỳ thực, trong vô minh chính là đang tìm Sư phụ.

Tôi vừa nói vừa nhớ lại những sự việc trước đó. Anh lại lặng lẽ nói một câu: “Anh và Sư phụ của các em đã từng là đồng đội trong đoàn văn công…..”

“Cái gì?! Anh nói cái gì?!” Tôi cho rằng mình nghe nhầm. Anh ấy nói lại lần nữa: “Năm đó lúc ở đoàn văn công, bọn anh ở cùng nhau”.

Tôi kinh ngạc nhìn anh ấy với đôi mắt mở to, thế giới này quá lớn hay là quá nhỏ? Anh nhìn thấy tôi kinh hoàng như vậy, lại nói thêm một câu: “Đúng vậy! Lúc đó anh vẫn là đội trưởng”.

“Trời ơi, đây là duyên phận gì vậy?” Tôi dường như muốn nhìn thấu anh trai mình……

Nhưng anh ấy lại nói một cách rất nghiêm túc: “Diệc Khiết à, con người chính là con người, con người làm sao có thể là Thần, là Phật được chứ?!”

“Ôi trời, anh trai ơi, hãy để em nói cho anh biết anh đã hạnh phúc biết nhường nào nhỉ!” Tôi nói: “Anh có biết có câu châm ngôn của ngày xưa không? Người ta nói ‘Chân Nhân bất lộ tướng’ mà! Chúa Giêsu, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, ai mà không phải là thân người đến thế gian chứ, đều hoàn toàn là hình tượng con người ở đó! Nếu thật sự để cho người ta nhận ra vậy thì người ấy thực sự không phải Thần!”

Nói đến đây, tôi vội vàng quay đầu truy hỏi: “Anh và Sư phụ ở cùng nhau khi nào vậy?”

Anh nói: “Đó là ở đoàn văn công của trường đua ngựa quân đội 201, bao năm qua mỗi người một ngả, sau khi các em bị cấm, một đồng đội khác đã nói cho anh biết sự việc này……”

“Sư phụ lúc đó như thế nào?”, tôi phấn khích hỏi.

Anh ấy rơi vào trầm tư, nói từng chữ lại dừng một lát rồi thong thả nhớ lại rằng: “Sư phụ của các em rất anh tuấn, cao lớn, tài hoa xuất chúng, người lại vô cùng trầm tĩnh”. Tôi hết sức chăm chú lắng nghe, sợ nghe sót mất lời, nhưng anh ấy đột nhiên chuyển chủ đề nói: “Nhưng mà Diệc Khiết à, người dù tốt đến đâu cũng là người thôi, sao em lại tin thành Thần Phật được?!”

Lúc này, trong lòng tôi không biết là cảm giác gì, tôi vừa vui mừng, vừa thương cho anh hai, vừa vô cùng cảm động. Tôi hạnh phúc khi Sư phụ ở nhân gian, đã từng có đoạn thời gian có anh hai ở bên cạnh Sư phụ, tôi lại thương anh có mắt mà không nhận ra Phật Đà. Tôi cảm động khi anh hai có kỳ duyên này, thật sự không biết là tu được phúc phận này từ kiếp nào, nhưng anh bị những quan niệm che mờ một cách mù quáng.

Tôi vịn vào tường bao của sân thượng lớn, ngắm nhìn những tòa nhà rộng lớn trong ánh hoàng hôn khuất dần về phía tây và đầy cảm xúc trước dãy núi Yến Sơn mờ ảo dưới ánh chiều tà, lúc này tôi quên mất những phiền muộn mà người nhà, chồng và đơn vị đã gây ra, từ khi đắc Pháp đến nay, tôi cũng giống như tất cả các đệ tử của Sư tôn đều trông chờ mòn mỏi mong gặp được Sư phụ, thế mà anh hai và Sư phụ đã từng sớm chiều bên nhau, anh trai tôi quả thực có mắt mà không biết Thái Sơn. Tôi cảm thán không thôi: “Thượng đế, Ngài nhất định cân bằng vậy sao?!……”

Tôi ngồi xuống nghiêm túc nói với anh hai: “Bảo với mấy đồng đội của anh, bao gồm cả anh, không được trực tiếp gọi tên của Sư phụ, người gọi tên Phật đều là không tôn trọng, đều là có lỗi. Anh có biết không, Phật Đạo Thần ở không gian khác nghe Sư phụ giảng Pháp, hết thảy đều quỳ mà nghe, chỉ có con người là không biết trời cao đất dày. Nhân loại vào thời mạt kiếp bậc Giác Giả hạ thế để độ nhân, anh có biết Sư phụ cao như thế nào không? Con người nghĩ cũng không tưởng tượng ra được!”

Nhìn vẻ mặt của anh sùng kính mà lại hoài nghi, tôi thầm nghĩ, không nói cao nữa, làm anh ấy sợ lại càng không tin nữa. Tôi chuyển chủ đề nói: “Sư phụ nói con người khó cứu độ, thật đúng như vậy, kỳ thực năm đó khi chúa Giê-su hạ thế, Ngài đã truyền Pháp chứa những điều thần tích, cho dù như vậy, nhưng người ta vẫn đều không tin Ngài, và chính những người ở quê hương Ngài là những người bài xích Ngài nhiều nhất và không dung tha Ngài nhất. Suy nghĩ của anh trai với họ là giống nhau, họ cũng cho rằng: ‘Đó chẳng phải là con người sao, làm sao có thể là Thần được?!’ Nhưng mà ở tầng không gian này của nhân loại là không cho phép Thần Phật hiển hiện hình dáng, nếu lộ ra vậy thì sẽ không cứu được người nữa, đây là thiên lý, là điều không cho phép”.

Tôi nói tiếp: “Thời đại không có lý tính của Đại cách mạng văn hóa đó, ai dám nói Phật Đạo Thần đều bị cho là mê tín, ai dám triển lộ ra một chút công năng đặc dị, đều có thể bị những người ấy trừ khử, vậy còn có nơi dung thân không?! Kỳ thực lúc đó Sư phụ sớm đã tu thành, đã khai công khai ngộ rồi. Lưu lại chốn nhân gian rất khổ! Con người chúng ta không thể tưởng tượng được!……”

Ước gì tôi có thể nói hết tất cả cho anh ấy, để anh ấy minh bạch ra.

“Đúng! Những cái này anh có thể không hiểu, nhưng em cũng không thể chỉ vì tu luyện rồi vứt bỏ sự nghiệp tiền đồ mà em đã phấn đấu hơn 20 năm chứ! Anh biết em dựa vào năng lực làm được đến hôm nay, cũng không dễ dàng, sao em không thể hiện thái độ đi? Đó không tính là gì, mình đã tin rồi! Trong tâm có rồi! Tu luyện ở nhà! Ai mà quản được chứ? Sao lại để họ giữ chặt không buông?!”

Nghe anh ấy nói như vậy, tôi yên tâm một chút, tôi biết anh ấy có chính niệm với Sư phụ và Pháp.

Tôi nói: “Anh hai à, bề ngoài con người là như vậy, kỳ thực làm một người tu luyện thì không phải là cái lý này. Anh xem con người trong xã hội hiện nay có bao nhiêu người chân thành, khi không liên quan đến lợi ích cá nhân thật khó có được một câu công bằng, một khi liên quan đến lợi ích cá nhân, ai cũng đều bo bo giữ lấy mình, anh hãy quan tâm đến thiên lý và lương tri của anh. Con người ai cũng oán trách thiên hạ vô đạo, nhưng xã hội một khi cần người nói một câu chân thật — chỉ là lời chân thật, thì lại đều tránh ra xa, con người đều không còn những quan niệm và tiêu chuẩn để đo lường thị phi thiện ác nữa. Con người như thế này, anh không thể để em một người tu luyện cũng như vậy, điều em tu chính là Chân Thiện Nhẫn, sinh mệnh của chúng ta giống như được Sư phụ tái tạo. Khi đối diện với việc Sư phụ và Đại Pháp bị vu khống hãm hại, sự thực và chân lý bị che đậy cấm đoán, khi tung tin đồn nhảm vu khống dậy trời rợp đất đến ngay trước mắt, đến một câu nói lên sự thật cũng không dám nói, vậy thì cũng không phải là con người nữa!”

Anh trầm lặng, anh ấy biết mỗi lời nói của tôi đều có lý.

Tôi tiếp tục nói: “Anh không tu luyện nên không biết, kỳ thực con người không tu luyện sinh mệnh không có ý nghĩa gì, một đời người trải qua trong nháy mắt, đến bằng tay không đi cũng tay không, gia tài bạc triệu cũng không đem theo được một hào, từ các bậc đế vương cho đến tướng lĩnh cũng là người chôn dưới đất. Nhưng đức và nghiệp lực ấy là theo người ta qua đời đời kiếp kiếp, con người chính là mơ hồ, một đời từ khi sinh ra cho đến khi chết, trong lục đạo luân hồi mà vẫn còn thích thú. Em trước đây thân thể không khỏe điều đó anh biết mà, tu luyện Đại Pháp là ơn cứu mạng, em không thể làm những việc không có lương tâm, không thể ngay cả một câu nói thật cũng không dám nói. Bố thường nói, nhận ơn một giọt trả ơn một dòng, kỳ thực chúng ta mãi sẽ không bao giờ hồi báo được, những gì Sư phụ ban cho chúng ta là thứ mà chúng ta dù có phó xuất cả tính mạng cũng không thể báo đáp được. Anh đừng nghĩ rằng chúng ta làm vì Sư phụ, người tu luyện là tu phúc phận cho mình, cũng là phúc báo cho cả gia đình đấy. Xin anh hãy nhẫn nại xem kết quả, Pháp Luân Công nhất định sẽ chiến thắng tà ác và hồng truyền ra toàn nhân loại!” Cuối cùng tôi còn động viên anh ấy một câu.

Chúng tôi nói chuyện sôi nổi, tôi lo lắng, giảng nhiều sợ anh tiếp nhận không nổi, giảng cao làm cho khiếp sợ không dám tiếp nhận, giảng không đến nơi đến chốn lại sợ tư tưởng không thông, tôi nói đi nói lại như vậy cứ tuần tự tiến từng bước một đến tận nửa đêm.

Tối hôm đó, mấy anh em chúng tôi trò chuyện ở sân thượng rộng đến tận đêm khuya. Anh hai có thể nghe tôi nói chuyện, đây là tiền đề chính đã được khơi thông. Anh ấy không ép tôi, cũng không bảo tôi phải hứa bất cứ điều gì và cuộc trò chuyện của chúng tôi khá hiệu quả.

Ngày hôm sau, anh ấy phải trở về thành phố Bạch Thành, tôi tiễn anh, trước lúc chia tay anh hai không nói gì, chỉ nắm chặt lấy tay tôi, anh có tin không? Có lo lắng không? Hoặc là cũng có ý bất lực? Tôi nghĩ đều có cả! Mỗi người đều đang đi con đường của riêng mình, tôi cũng không phải là đứa trẻ ba tuổi, có lẽ anh ấy biết rõ điều này hơn anh cả nghiêm khắc, độc đoán của mình; phàm trần thế tục “Chân Nhân bất lộ tướng”, có lẽ trong nơi sâu thẳm của tâm hồn anh cũng nhận ra điểm này.

Cuộc gặp nhau lần này và đoạn thời gian trải nghiệm giữa anh hai và Sư phụ khiến tôi thường mơ mộng, có được duyên phận tuyệt vời như vậy với Sư phụ, khiến người ta khó mà tưởng tượng được. Đại cách mạng văn hóa năm đó đã làm tan vỡ ước mơ vào học tại học viện âm nhạc của anh. Lúc bố bị gán vào phái đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, trong lúc họa nạn, anh lại bị đoàn văn công yêu cầu rời đi, tránh được số mệnh là thanh niên có tri thức, từng được mọi người coi là “người may mắn”. Là một người bình thường, không thể thoát khỏi an bài của số mệnh thời đại đó, ít nhất trên bề ngoài xem ra là như vậy.

Nhưng mà là Sư phụ, Sư phụ làm sao lại đến chỗ đó vậy? Vừa nghĩ có chút mông lung, nghĩ sâu hơn, thực ra lúc đó Sư phụ sớm đã thành bậc giác giả, đâu phù hợp với Người chứ?! Tôi đã thả lỏng đầu óc mà suy nghĩ, lúc đó trong Đại cách mạng văn hóa Trung Quốc khắp nơi đang sục sôi đập phá cướp bóc, điên cuồng đấu tố và trừng trị, ở đâu có hoàn cảnh nhân văn bình thường hoặc ít nhất là nơi yên định tồn tại?! Trở thành một người lính thật sự, tức là đồng thời đem linh hồn và tự do phó thác cho kỷ luật sắt đá; và thảo nguyên rộng lớn ở Khoa Nhĩ Thấm mênh mông, tĩnh lặng, huyền diệu nơi đó vừa có quân đội vừa có cả người dân, nửa quân đội nửa dân thường đều có cả, đã hình thành nên những đặc điểm vừa nghiêm ngặt vừa thoải mái, trong nghiêm khắc có khoan dung, trong bận rộn có nhàn rỗi, vừa ở trong quân đội, lại vừa có trong dân, lại có thể tránh xa nơi ồn ào náo động huyên náo của trần thế, thật đúng là nơi tuyệt vời để Sư phụ sáng tạo và biên soạn công Pháp, thành tựu tâm Pháp, vận trù chính Pháp độ nhân trong tương lai! Tôi vui vẻ mơ mộng, thốt lên rằng: Giác Giả chính là Giác Giả, Sư phụ chính là Sư phụ! Thời gian nhàn rỗi thì đi cưỡi ngựa, thổi sáo một diệu khúc Thần Tiên, rong chơi ung dung trong màu nước biển mênh mông vô bờ, đắm mình trong tiếng chim hót và hoa thơm hay giống như Thần Phật Đại Đạo quần tụ nói chuyện trên trời dưới đất, đi đi lại lại, lên kế hoạch cho khắp cả thế giới…… chao ôi…… Tôi không kìm được đã phát ra tiếng cười lớn!

Tôi cứ vui mãi với luận thuật mông lung của mình, từ đó trở thành trí tưởng tượng chiếm giữ tâm tôi, mà mỗi lần như vậy giống như tôi và anh hai cùng ở đó với Sư phụ!

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/113432



Ngày đăng: 17-07-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.