Ôn cổ minh kim | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnFri, 20 Dec 2024 08:54:40 +0000en-UShourly1Câu chuyện về Trạch Thiên Sưhttps://chanhkien.org/2024/11/cau-chuyen-ve-trach-thien-su.htmlThu, 14 Nov 2024 04:21:37 +0000https://chanhkien.org/?p=34928Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Đạo sĩ Trạch Thiên Hựu thời nhà Đường là người gốc Tứ Xuyên. Ông tu đạo ở núi Hoàng Long từ khi còn nhỏ, đến năm 41 tuổi được dị nhân truyền thụ thần thông, đạo hạnh đã tiến bộ vượt bậc. Trong những năm cuối đời ông […]

The post Câu chuyện về Trạch Thiên Sư first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Đạo sĩ Trạch Thiên Hựu thời nhà Đường là người gốc Tứ Xuyên. Ông tu đạo ở núi Hoàng Long từ khi còn nhỏ, đến năm 41 tuổi được dị nhân truyền thụ thần thông, đạo hạnh đã tiến bộ vượt bậc. Trong những năm cuối đời ông thường nói về tương lai. Có lần ông bước vào khu phố náo nhiệt ở phủ Quỳ Châu và hét to lên rằng: “Tối nay có tám người đến đây, mọi người hãy cẩn thận!” Mọi người đều không biết ông ấy nói gì. Buổi tối khu phố bị trận đại hỏa hoạn thiêu rụi hàng trăm ngôi nhà, mọi người mới biết rằng tám người là chỉ chữ Hỏa “火”. Một lần khi ông đang ngắm trăng ở Giang Tả cùng với mấy chục đệ tử, có đệ tử hỏi: “Không biết trong Mặt Trăng có gì?” Thiên Hựu cười nói: “Có thể hướng theo ngón tay trỏ của ta nhìn xem”. Thiên Hựu giơ tay chỉ, mấy vị đệ tử nhìn theo lên phía Mặt Trăng cả buổi, thì thấy ở giữa Mặt Trăng đầy những nhà lầu, cung điện vàng kim, nhiều vô số kể.

Trong năm Thiên Bảo, hoàng đế Huyền Tông đã triệu ông lên kinh đô, và đối đãi với ông rất tốt. Tất cả các quan lại đều không phục, nói: “Trạch Thiên Hựu chỉ là một tiểu sư ở vùng Tứ Xuyên, xin đừng làm như vậy”. Trạch Thiên Sư cười và đặt chiếc khăn quấn đầu của mình lên trước mặt bàn của nhà vua rồi nói: “Trong các vị quan đây, ai có thể lấy được chiếc khăn quấn đầu này thì tôi sẽ bái người đó làm sư, nếu không lấy được thì hãy bái tôi làm sư”. Hoàng đế lệnh cho chúng thần lấy nó, nhưng không ai có đủ khả năng. Trạch Thiên Sư thuận tay mà cầm lấy, dâng lên hoàng đế. Hoàng đế Huyền Tông rất cao hứng, phong cho ông làm “Thông Hư Thiên Sư”. Không lâu sau, ông lại trở về Tứ Xuyên tiếp tục tu hành.

Trước đây khi nhìn thấy những người tu Đạo thi triển thần tích thì cảm thấy họ thật vĩ đại, nhưng sau khi tu luyện Đại Pháp, nghĩ lại tôi mới thấy: mặc dù biết trước sẽ có hỏa hoạn mà không thể nói rõ ra cho mọi người chỉ bởi “Thiên cơ bất khả lộ”. Nhưng hôm nay, đệ tử Đại Pháp lại dám nói rõ cho người dân Trung Quốc về thiên cơ tối cao rằng “Trời diệt Trung Cộng”, giúp mỗi người dân Trung Quốc bị nó đầu độc có thể tránh được tai họa diệt vong này, nếu không phải đồ đệ Đại Pháp tu luyện Đại Pháp vũ trụ thì ai dám làm như vậy? Lão Tử giảng: “Đạo khả Đạo, phi thường Đạo”. Nói rất có đạo lý vậy.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/35240

The post Câu chuyện về Trạch Thiên Sư first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ôn cổ minh kim: “Đại trượng phu” chính trực trừ tàhttps://chanhkien.org/2023/11/on-co-minh-kim-dai-truong-phu-chinh-truc-tru-ta.htmlTue, 28 Nov 2023 04:10:10 +0000https://chanhkien.org/?p=31935Tác giả: Lục Văn chỉnh lý [ChanhKien.org] Thuật ngữ “đại trượng phu” lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn “Mạnh Tử – Đằng Văn Công hạ”, trong đó có nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu”. Ý nghĩa là: Phú […]

The post Ôn cổ minh kim: “Đại trượng phu” chính trực trừ tà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Đại trượng phu (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm)

Thuật ngữ “đại trượng phu” lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn “Mạnh Tử – Đằng Văn Công hạ”, trong đó có nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu”. Ý nghĩa là: Phú quý không thể làm rối loạn tâm tính của anh ta, nghèo khó không thể làm tiết tháo của anh ta thay đổi, quyền thế không thể khuất phục được ý chí của anh ta; người như vậy mới có thể được xưng là đại trượng phu. Do vậy, “đại trượng phu” là danh xưng tốt đẹp để chỉ một người nam tử hán có phẩm đức, có chí khí, có tài năng, chứ không phải là bất kỳ một người nam tử nào cũng xứng đáng với danh hiệu này.

Từ đó về sau, người ta thường dùng từ “đại trượng phu” để ca ngợi những người nam tử hán có khí chất dương cương, dám làm việc lớn, có dũng khí đảm nhận trọng trách lớn, hoặc mượn câu nói “đại trượng phu” để biểu đạt chí khí hào hùng của mình. Ví dụ: Trong “Sử ký – Cao Tổ bản kỷ” của Tư Mã Thiên ghi chép lại rằng khi Lưu Bang ở Hàm Dương, kinh đô của nước Tần, được nhìn thấy nghi trượng xung quanh xe giá đi tuần của Tần Thủy Hoàng, ông liền than thở rằng: “Ôi chao, đại trượng phu đáng phải như thế!”. Trong cuốn “Hoài Âm Hầu liệt truyện”, khi Hàn Tín gửi thư tấu xin, muốn bản thân được phong là “giả vương” (vua giả), Lưu Bang không muốn, may mà Trương Lương và những người khác dẫm lên chân ông, biểu thị ý là muốn ông đồng ý, lúc đó ông lập tức thay đổi lời nói: “Đại trượng phu bình định chư hầu, chính là chân vương, cớ chi còn làm ‘giả vương’?” Lại xem thêm cuốn “Hậu Hán thư”, danh tướng Mã Viện từng nói: “Trượng phu là người có chí, nghèo nhưng có hoài bão, tuổi càng già chí hướng càng cao!” Có nghĩa là: Đường đường nam tử hán, cần phải giương cánh bay như chim đại bàng, lẽ nào có thể chùn chân ẩn náu mà không có chí tiến thủ? Trần Phồn đối mặt với sự chuyên quyền của hoạn quan loạn đảng, từng cảm khái biểu thị nói rằng: “Đại trượng phu nên vì đất nước mà quét sạch rác rưởi trong thiên hạ, lẽ nào chỉ quản việc trong nhà?” Tức là không được chỉ lo những việc nhỏ của cá nhân, mà là nên vì đại nghiệp định quốc an bang mà phó xuất cống hiến, không được chỉ quan tâm đến việc trong gia đình của bản thân.

Trong các sách sử của các thời kỳ, ba chữ “đại trượng phu” xuất hiện rất nhiều lần, như trong “Tấn Thư • Thạch Lặc tái ký” có câu: “Đại trượng phu hành sự, phải lỗi lỗi lạc lạc, như nhật nguyệt sáng tỏ”; “Nam sử – Vương Tăng Đạt truyện” có nói: “Đại trượng phu thà làm ngọc vỡ, chứ sao có thể im lặng cầu sống!” Có nghĩa là: Vì chính nghĩa mà tình nguyện hy sinh bản thân, sao có thể vì mạng sống mà không dám làm gì? Trong “Thượng An Châu Bùi Trường sử thư”, Lý Bạch người triều Đường cũng có câu “Đại trượng phu tất có chí tứ phương”. Sách “Tống Nguyên học án” của Thanh Vương Phu có nói: “Đại trượng phu hành sự, bàn về đúng sai, không bàn về lợi hay hại; bàn về thuận nghịch, không bàn kết quả; bàn về vạn thế, không bàn về một đời”. Trong cuốn “Tiết Văn Thanh Công tòng chính lục” cũng nói: “Đại trượng phu lấy ngay chính lập chí, lấy quang minh hành sự, sẽ không bị tiểu nhân tà ám mê hoặc, mà dễ dàng giữ được bản thân”.

Trong các bài thơ cổ, có không ít người mượn dùng “đại trượng phu” lập thân hành sự, để biểu đạt tâm tình. Ví dụ như Tào Thực nhà Ngụy thời Tam Quốc trong bài “Tặng Bạch Mã vương Bưu”: “Trượng phu chí tứ hải, vạn lý do bỉ lân” (tạm dịch: Bậc trượng phu chí ở bốn phương, xa nhau vạn dặm cũng như ở cạnh”. Dương Quýnh thời Đường, trong bài thơ “Xuất tái”: “Trượng phu giai hữu chí, hội kiến lập công huân” (Bậc trượng phu đều có chí, gặp được nhau sẽ cùng lập công). Bạch Cư Dị với “Tân chế bố cừu”: “Trượng phu quý kiêm tế, khởi độc thiện nhất thân” (Bậc trượng phu cao quý và tế thế, sao lại chỉ có một mình). Tô Thuấn Khâm thời Tống trong bài “Thủy điệu ca đầu”: “Trượng phu chí, đương cảnh thịnh, sỉ sơ nhàn” (Bậc trượng phu có chí, trong lúc cảnh đẹp, thấy xấu hổ vì bản thân rảnh rỗi). Những vần thơ như trên, nhiều không kể xiết.

Tóm lại, có thể thấy được từ “đại trượng phu” là để chỉ một người nam nhi tốt, mang trong mình hoài bão lớn với tấm lòng ngay thẳng, hiểu rõ thị phi, dũng cảm thực hành chính khí của trời đất, vang danh thiên hạ, là một bậc nam tử hán quang minh lỗi lạc, không sợ hiểm nguy, bảo vệ chân lý và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Họ vì đại nghiệp của tổ quốc và lợi ích của dân tộc, vì để duy hộ chính nghĩa và hòa bình, dám xông pha khói lửa, máu tươi sa trường. Cho dù là tới những năm cuối đời, họ vẫn giống như những áng mây vàng tỏa sáng khắp trời lúc tịch dương, giống như chòm sao Bắc Đẩu vậy. Tào Tháo trong “Bộ xuất Hạ Môn thành” có nói: “Tuổi già sức yếu, chí tại ngàn dặm; liệt sĩ tuổi già, tráng tâm không đổi”. Trong cuốn “Ngày thu Đăng Hồng Phủ Đằng Vương Các tiễn biệt tự” của Vương Bột có viết: “Già không sờn chí, thà biết lòng của kẻ đầu bạc, nghèo nhưng hoài bão, không ngã xuống chí của mây xanh”. Lục Du không chỉ nói bản thân là “Tâm như người già với hoài bão đi ngàn dặm” (Đi đến Thành Đô), thậm chí còn hô lớn: “Tráng tâm không hề già đi theo tuổi tác, chết đi vẫn có thể làm quỷ hùng”, biểu thị cho dù ở dưới cửu tuyền, cũng phải chống lại kẻ thù bên ngoài, thu phục núi sông cũ. Phẩm đức của đại trượng phu thật thuần khiết cao thượng, khí khái của đại trượng phu quả là quang minh lỗi lạc. Chính tinh thần đại trượng phu này đã tạo nên bức trường thành nguy nga của dân tộc Trung Hoa, hơn nữa vĩnh viễn cổ vũ cho người đời sau, không ngừng tạo nên những sự nghiệp vĩ đại kinh thiên địa khiến quỷ khóc thần sầu.

Từ “đại trượng phu” rực rỡ ngàn năm, tráng lệ muôn đời! Vĩnh viễn cổ vũ con cháu Hoa Hạ, đứng thẳng thân và ngẩng cao đầu, trượng nghĩa và giữ vững niềm tin; trừ tà và bảo vệ sự chân thành, thiện lương, trấn áp yêu, diệt trừ ma đỏ; gánh vác đạo nghĩa trên vai, thức tỉnh thế nhân, chấn kinh tân hoàn vũ! Hãy nhìn vào vùng đất mới ngày mai, chắc chắn sẽ không phải thiên hạ của kẻ độc phu (chỉ kẻ độc tài ĐCSTQ)!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/129879

The post Ôn cổ minh kim: “Đại trượng phu” chính trực trừ tà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ôn cổ minh kim: Khổng Tử giảng: Học vấn quan trọng hơn tướng mạohttps://chanhkien.org/2023/04/on-co-minh-kim-khong-tu-giang-hoc-van-quan-trong-hon-tuong-mao.htmlThu, 13 Apr 2023 04:37:01 +0000https://chanhkien.org/?p=29885Tác giả: Tần Như Sơ [ChanhKien.org] 1. Học vấn quan trọng hơn tướng mạo Có một lần, Khổng Tử nói chuyện với con trai của mình là Bá Ngư, ông nói: “Điều có thể khiến con người cả ngày chìm đắm vào trong đó mà không cảm thấy buồn chán, có lẽ chỉ có việc […]

The post Ôn cổ minh kim: Khổng Tử giảng: Học vấn quan trọng hơn tướng mạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tần Như Sơ

[ChanhKien.org]

1. Học vấn quan trọng hơn tướng mạo

Có một lần, Khổng Tử nói chuyện với con trai của mình là Bá Ngư, ông nói: “Điều có thể khiến con người cả ngày chìm đắm vào trong đó mà không cảm thấy buồn chán, có lẽ chỉ có việc học tập thôi. Có người tướng mạo không nổi bật, sức vóc cũng không quá lớn, lại không có gia thế tốt hoặc tài sản do tổ tiên để lại để có thể dựa dẫm; nhưng lại có thể vang danh thiên hạ, lưu danh trăm đời, đều bởi vì họ có học vấn”.

2. Tử Lộ vác gạo

Tử Lộ nói với Khổng Tử: “Người vác vật nặng đi đường xa sẽ không kén chọn chỗ nghỉ ngơi; người có cha mẹ già mà gia cảnh khốn cùng sẽ không kén chọn bổng lộc và địa vị cao hay thấp. Ngày trước khi cha mẹ trò còn tại thế, gia cảnh khốn cùng, hái rau dại để lót dạ sống qua ngày, trò còn thường đi bộ đến nơi xa trên trăm dặm, vác gạo về phụng dưỡng cha mẹ. Sau khi cha mẹ qua đời, trò đi về phương Nam tới nước Sở, bây giờ đã có bổng lộc, địa vị, lúc ra ngoài có gần một trăm cỗ xe, gạo tích ở trong nhà có đến hơn vạn chuông, chỗ ngồi lót hai tầng chiếu, lúc ăn cơm có cá có thịt, nhưng nghĩ muốn cùng cha mẹ ăn rau dại thêm một lần nữa, giúp cha mẹ vác gạo, lại không thể được nữa rồi”.

Khổng Tử nói: “Lúc cha mẹ tại thế, có thể tận tâm phụng dưỡng, sau khi cha mẹ qua đời, có thể nhớ mãi không thôi, Tử Lộ quả là một người con có hiếu!”

3. Sợ không còn cơ hội gặp lại người quân tử

Khổng Tử tới nước Đàm, trên đường đi gặp Trình Tử, hữu ý dừng xe lại, hai người cùng nói chuyện với nhau rất hợp ý.

Khổng Tử quay lại nói với Tử Lộ:“Trò hãy mang một tấm lụa tới đây tặng cho Trình tiên sinh (chỉ Trình Tử)”.

Tử Lộ rất không phục, nói: “Con nghe nói, quân tử kết bạn, nếu không có người giới thiệu, nữ tử xuất giá, nếu không qua người mai mối, thì không tặng lễ vật”.

Đợi một lát sau, Khổng Tử thấy Tử Lộ không có động tĩnh gì, lại căn dặn thêm một lần, Tử Lộ lại dùng lời lẽ trước đó để cự tuyệt.

Khổng Tử nói: “Tử Lộ à, con chưa đọc qua Kinh Thi đúng không? “Vô tình ở trên đường đi, lại có thể gặp được một người phụ nữ dịu dàng và xinh đẹp, đã đủ khiến ta toại nguyện nửa đời người”. Trình tiên sinh nổi tiếng trong thiên hạ là một người quân tử, lúc này không tặng ông ấy lễ vật, ta e rằng sau này cả một đời không gặp lại được ông ấy. Con không cần nhiều lời nữa, mau mang tấm lụa tới đây”.

4. Dựa vào trung và tín, có thể thông hành nhân gian!

Trong lúc Khổng Tử từ nước Vệ trở về nước Lỗ, dừng xe ở trước một con sông lớn, nước sâu tới 30 nhẫn (đơn vị đo lường thời xưa, 1 nhẫn tương đương 2,4 mét), xoáy nước rộng khoảng 90 dặm (1 dặm tương đương 500 mét), tôm cá đều không thể sinh sống được.

Lúc này, có một người đàn ông muốn qua sông, Khổng Tử vội vàng muốn cản trở anh ta: “Dòng nước sâu và dữ như vậy, đến tôm cá đều không dám bơi qua, anh qua sông như thế thật quá nguy hiểm!”

Người đàn ông đó không để tâm, qua sông một cách bình thường.

Khổng Tử hỏi: “Anh làm sao có thể qua sông vậy, có phương pháp đặc biệt gì chăng?”

Người đàn ông đó nói: “Không có gì cả, tôi chỉ là tin rằng bản thân có thể qua sông, tận tâm tận lực mà hoàn thành. Chỉ vậy thôi”.

Khổng Tử nghe xong, quay lại nói với các học trò: “Các trò nghe rõ chưa? Ý nghĩa của việc tin vào bản thân chính là chữ “tín”; ý nghĩa của việc tận tâm tận lực chính là chữ “trung”. Có thể dựa vào trung và tín mà hành động, thì đến dòng nước đáng sợ như vậy cũng có thể tự do đi lại, nói chi đến các việc khác ở nhân gian?”

(Theo Khổng Tử gia ngữ)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/144269

The post Ôn cổ minh kim: Khổng Tử giảng: Học vấn quan trọng hơn tướng mạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ôn cổ minh kim: Tiếp nhận rộng rãi ý kiến của quần thần, nghe lời can gián mà hưng quốchttps://chanhkien.org/2022/06/on-co-minh-kim-tiep-nhan-rong-rai-y-kien-cua-quan-than-nghe-loi-can-gian-ma-hung-quoc.htmlSat, 25 Jun 2022 22:25:32 +0000https://chanhkien.org/?p=28707Tác giả: Vu Học Chân [ChanhKien.org] Hồng Mại, học giả nổi tiếng thời Tống đã viết trong Dung Trai Tuỳ Bút rằng: Từ xưa đến nay đã có rất nhiều ví dụ về việc [quân vương] nhờ tiếp thu lời can gián mà đất nước được hưng thịnh. Lấy triều đại nhà Tây Hán làm […]

The post Ôn cổ minh kim: Tiếp nhận rộng rãi ý kiến của quần thần, nghe lời can gián mà hưng quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vu Học Chân

[ChanhKien.org]

Hồng Mại, học giả nổi tiếng thời Tống đã viết trong Dung Trai Tuỳ Bút rằng:

Từ xưa đến nay đã có rất nhiều ví dụ về việc [quân vương] nhờ tiếp thu lời can gián mà đất nước được hưng thịnh. Lấy triều đại nhà Tây Hán làm ví dụ, Hán Nguyên Đế, Hán Thành Đế, Hán Thuận Đế, Hán Linh Đế vốn là những bậc quân chủ hết sức bình thường. Nhưng vào thời khắc quan trọng thì họ cũng thường triệu tập quần thần để nghị sự, sau đó chọn ra những phương án khả thi nhất để thực thi [giải quyết vấn đề].

Thời Hán Nguyên Đế, người dân ở huyện Nam Sơn quận Châu Nhai (nay là phía Đông Nam quận Quỳnh Sơn tỉnh Hải Nam) nổi dậy chống lại triều đình. Khi ấy có rất nhiều đại thần kiến nghị nên phái binh đi thảo phạt [dân nổi dậy]. Chỉ riêng có quan đãi chiếu Giả Quyên Chi là giữ ý kiến khác, ông đề xuất rằng: sở dĩ người dân ở Châu Nhai nổi dậy là do thiên tai đói kém. Chi bằng hãy tha tội cho họ, mở kho lương cứu tế bách tính, như thế cuộc nổi dậy sẽ dừng lại, hoàn toàn không cần đến việc phái binh thảo phạt. Hán Nguyên Đế đã tiếp nhận ý kiến của Quyên Chi, cứu tế rộng rãi, lại còn tha tội nổi loạn cho người dân quận Châu Nhai. Sau đó mọi thứ lắng xuống, trời yên bể lặng.

Thiền vu Hô Hàn Tà của Hung Nô đã nhiều lần gửi thư cho Hán Nguyên Đế, hy vọng cả hai bên có thể cắt giảm quân đội ở biên giới để nhân dân được nghỉ ngơi. Hán Nguyên Đế đã để quần thần bàn bạc việc này. Mọi người đều cho rằng đình chiến là thượng sách, nhưng Lang Trung Hầu, người rất am hiểu chuyện biên phòng, thì có ý kiến hoàn toàn khác. Ông cho rằng nếu như giảm việc canh phòng ở biên cương, quân Hung Nô nhân lúc sơ hở tiến vào thì hậu quả sẽ tai hại khôn lường, ông còn trình bày 10 lý do [không cắt binh] với Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế cảm thấy Lang Trung Hầu nói rất có lý, bèn hạ chiếu tăng cường phòng bị biên giới, không được chểnh mảng. Sau đó thế cuộc đã chứng minh cho ý kiến của Lang Trung Hầu là rất xác đáng.

Thời Hán Thành Đế, vua Hung Nô phái sứ giả đến Trung Nguyên biểu đạt nguyện vọng muốn quy hàng. Nhiều đại thần cho rằng nên để Hung Nô quy hàng. Riêng quang lộc đại phu Cốc Vĩnh cho rằng người Hung Nô vốn có lòng phản trắc, không thể dễ dàng tiếp nhận sự quy hàng của họ được. Hán Thành Đế đã tiếp thu ý kiến của ông. Sau đó rất nhiều sự việc đã chứng minh rằng Hung Nô quả là giả quy hàng.

Thời Hán Ai Đế, thiền vu của Hung Nô muốn tiến cống cho triều đình nhà Hán. Các quần thần cho rằng giao thiệp với Hung Nô chỉ là việc lãng phí tiền tài mà không thu được lợi ích gì, từ nay trở đi nên hạn chế đi lại với họ. Sứ giả Hung Nô sau khi nghe thấy những lời bàn luận trên đã [tức giận] hậm hực bỏ đi. [Chỉ có] hoàng môn lang Dương Hùng là dâng gián thư khuyên răn Hán Ai Đế: nên đáp ứng yêu cầu của Hung Nô để tránh gây sự hiểu lầm cho đối phương. Hán Ai Đế chợt giật mình hiểu ra, vội triệu hồi sứ giả, [nói rằng] quân vương hoan nghênh sự triều kiến định kỳ của Hung Nô. Kết quả là Hung Nô liên tục nhiều năm tiến cống, an ninh biên giới được giữ yên. Hán Ai Đế đã vô cùng phấn khởi.

Thời Hán Linh Đế, vùng Lương Châu xảy ra chiến sự liên miên, triều đình phái quân đến dẹp loạn nhưng chẳng thu được kết quả gì. Vào thời điểm đó một nhóm quần thần do quan tư đồ Thôi Liệt dẫn đầu cho rằng nếu không buông bỏ Lương Châu thì chỉ là giữ lại một gánh nặng. Chỉ có quan nghị lang Phó Tiếp cho rằng: giữ lại Lương Châu là chuyện lợi nhiều hại ít, không thể bỏ vùng đất ấy, hơn nữa cần sửa đổi hệ thống cai trị của quan lại. Cuối cùng ý kiến này cũng được Hán Linh Đế tiếp nhận.

Giả Quyên Chi, Hầu Ứng, Phó Tiếp… chỉ là những sĩ đại phu bình thường, cũng không được xem là có địa vị hiển hách gì. Nhưng vào thời khắc quan trọng họ lại có thể đưa ra những cách hay để cứu giúp quốc gia, hơn nữa ý kiến của họ cũng được quân chủ tiếp nhận, điều này thực sự là việc rất đáng quý ở thời điểm đó.

Cả Hán Nguyên Đế, Hán Thành Đế, Hán Linh Đế, Hán Ai Đế đều không phải là những bậc minh quân, nhưng họ lại có thể lắng nghe và tiếp nhận ý kiến [đóng góp của quần thần], cho rằng đó là những ý kiến hay, không ngại rằng những đóng góp này đi ngược lại với nhận định của số đông, lại còn hoan nghênh tiếp nhận.

Nếu như mỗi khi xử lý việc gì hoàng đế đều có thể chú ý lắng nghe ý kiến từ các quần thần của mình trước, sau đó chọn ra những ý kiến tốt mà thực hiện thì thiên hạ chẳng phải sẽ an định hay sao?

Theo Dung Trai Tuỳ Bút

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/147876

The post Ôn cổ minh kim: Tiếp nhận rộng rãi ý kiến của quần thần, nghe lời can gián mà hưng quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bí quyết chữa lành cố tậthttps://chanhkien.org/2021/12/bi-quyet-chua-lanh-co-tat.htmlTue, 07 Dec 2021 07:43:12 +0000https://chanhkien.org/?p=28174Tác giả: Như Nhất [ChanhKien.org] Vào thời nhà Thanh, có một ông lão sống trên cầu Khắc Bảo ở Đông Môn, quận Vô Tích. Vì ông có bệnh ở cơ hoành nhiều năm nên người xung quanh gọi ông là “Cách Ông” (Ông già bị tật ở cơ hoành cách). Một ngày nọ, Cách Ông […]

The post Bí quyết chữa lành cố tật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Nhất

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Thanh, có một ông lão sống trên cầu Khắc Bảo ở Đông Môn, quận Vô Tích. Vì ông có bệnh ở cơ hoành nhiều năm nên người xung quanh gọi ông là “Cách Ông” (Ông già bị tật ở cơ hoành cách).

Một ngày nọ, Cách Ông đến một quán trà và tình cờ nhặt được một gói đồ, khi mở ra thì thấy bên trong toàn là vàng bạc châu báu. Cách Ông thầm nghĩ: “Mình sắp chết rồi, sao có thể dùng những thứ này được chứ?” Thay vì mang gói đồ về nhà, ông ngồi ở đó đợi chủ nhân gói đồ quay lại.

Một lúc sau, có một bà lão loạng choạng bước vào, vừa khóc vừa như tìm kiếm thứ gì đó. Cách Ông bước tới hỏi nguyên do và trả lại gói đồ cho bà. Bà lão rời đi muôn phần cảm kích.

Cách Ông trở về nhà, đột nhiên cảm thấy chóng mặt buồn nôn. Tức thời, ông thổ ra một cục đờm cứng và chắc như da bò. Kể từ đó, chứng bệnh cơ hoành của ông hoàn toàn biến mất. Sau này, gia đình ông trở nên giàu có, còn bản thân ông sống rất thọ.

Điều mà Cách Ông mong muốn nhất trong cuộc đời mình là một ngày nào đó thoát khỏi căn bệnh cơ hoành mãn tính để có một cuộc sống tốt đẹp và khỏe mạnh. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã thử nhiều loại phương thức điều trị khác nhau. Tuy nhiên, ông không ngờ rằng chính việc không tham của rơi, thiện niệm thiện hành đã không chỉ giúp ông khỏi bệnh mãn tính mà còn mang lại cho ông tuổi thọ và sự giàu có.

Nếu con người muốn cải biến hoàn cảnh khó khăn, muốn có sức khỏe, muốn cuộc sống tốt, hoặc thoát khỏi các chứng bệnh kinh niên hay nan y, thì bí quyết chân chính là tích đức hành thiện. Chỉ có làm nhiều việc thiện, tích được đại đức thì mới có thể mang lại những phúc báo không ngờ tới.

Vì sao các học viên Pháp Luân Công lại khuyên thế nhân hãy thành tâm niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo” để được phúc báo? Bởi điều này chính là thiện niệm trân quý nhất. Trước những lời dối trá ngông cuồng của Trung Cộng, trước những bức hại cự đại mà các học viên Pháp Luân Công đang phải gánh chịu, trước sự vu khống liên tục đối với đặc tính vũ trụ Chân-Thiện-Nhẫn, người dân vẫn có thể phân biệt được thiện ác thị phi, và họ có đủ can đảm thành tâm niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo”. Thiện niệm ấy thật trân quý biết bao! Sinh mệnh ấy mới phi thường làm sao! Vậy nên Thần Phật sẽ ban cho họ đại phúc báo.

Nếu một người có thể nhìn thấu sự ngụy tạo và dối trá của ĐCSTQ, hướng Thần Phật biểu đạt tâm ý, thì đó là một hành động vĩ đại phi thường. Vào thời đại mà Trung Cộng gây họa, thiện ác phản đảo này, nếu con người vẫn còn có thể giữ được lương tri thiện niệm thì họ chính là những sinh mệnh phi thường, vậy nên họ sẽ nhận được đại phúc báo.

Trước sự tàn phá của virus Trung Cộng (virus Vũ Hán), nhiều người Trung Quốc đã tin vào chân tướng về Pháp Luân Công và lựa chọn “tam thoái”. Họ thành tâm niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo” và thoát khỏi virus Trung Cộng chết người. Đó không phải là một may mắn lớn sao? Đây là một kiếp nạn cho mọi sinh mệnh, nhưng chúng ta có thể cải biến vận mệnh bản thân bằng cách nghe lời khuyên của các học viên Pháp Luân Công và minh bạch chân tướng.

Bí quyết để thoát khỏi tai họa là thành tâm niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo”. Sinh mệnh không chỉ có thể vượt qua kiếp nạn mà còn có thể nhận được những phúc báo bất ngờ và lớn lao!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/258399

https://www.pureinsight.org/node/7522

The post Bí quyết chữa lành cố tật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phẩm chất, hạnh phúc và của cảihttps://chanhkien.org/2021/11/duc-do-hanh-phuc-va-giau-co.htmlhttps://chanhkien.org/2021/11/duc-do-hanh-phuc-va-giau-co.html#respondFri, 19 Nov 2021 08:30:00 +0000  Tác giả: Linh Nhi [ChanhKien.org] Yến Thù là người triều Tống, ông từ nhỏ đã thật thà lương thiện, lại còn thông minh hiếu học. Lên bảy tuổi, Yến Thù đã viết văn rất hay. Đến năm 15 tuổi, bởi vì Yến Thù thông minh hơn người, nên ông được huyện lệnh gọi là […]

The post Phẩm chất, hạnh phúc và của cải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
 

Tác giả: Linh Nhi

[ChanhKien.org]

Yến Thù là người triều Tống, ông từ nhỏ đã thật thà lương thiện, lại còn thông minh hiếu học. Lên bảy tuổi, Yến Thù đã viết văn rất hay. Đến năm 15 tuổi, bởi vì Yến Thù thông minh hơn người, nên ông được huyện lệnh gọi là thần đồng, còn được tiến cử lên Hoàng đế Tống Chân Tông. Yến Thù vốn có thể ứng thí trực tiếp trước mặt Hoàng thượng, nhưng ông nhất quyết chọn tham gia kỳ thi theo chế độ khoa cử. Ông cho rằng chỉ có thành tích được phản ánh qua kỳ thi, mới có thể được coi là tài năng và học vấn thật sự của mình. Quan chủ khảo chấp thuận yêu cầu, quyết định cho ông thi cùng với hơn 3100 thí sinh khác. Khi cuộc thi bắt đầu, lúc vừa nhận được đề thi, Yến Thù nhìn qua đã biết đây là đề bài mình từng làm, ông cầm bút lên, suy nghĩ một lát rồi giơ tay nói với quan chủ khảo rằng: “Thưa đại nhân, đề này ở nhà tôi đã làm qua, nếu bây giờ làm lại lần nữa, thì chẳng phải là gian lận sao? Xin ngài hãy cho tôi một đề bài khác có được không?” Quan chủ khảo nghe xong đã đồng ý ra một đề bài khác cho Yến Thù.

Người khác thấy vậy có thể nghĩ rằng người này thật quá ngốc, nói không chừng trong tâm còn cười nhạo ông ấy. Nhưng xin mọi người đừng sốt ruột, chúng ta cùng xem kết quả ra sao: Yến Thù cầm đề bài mới, lật qua lật lại, suy nghĩ một lúc rồi đặt bút làm liền một mạch đến hết. Vị quan giám khảo cảm thấy hết sức kinh ngạc, nghĩ rằng vị văn nhân này tư duy nhạy bén, quả đúng là bậc kỳ tài. Hành động chân thật yêu cầu tham gia hội thi và xin được cấp lại đề bài của Yến Thù đã nhận được sự kính trọng của mọi người. Chuyện này không chỉ được truyền nhau giữa các thí sinh dự thi mà còn truyền cả đến tai của Hoàng đế. Hoàng đế Tống Chân Tông nghe tin lập tức triệu kiến Yến Thù và khen ngợi rằng: “Khanh không chỉ có tài năng và học vấn thật sự, mà quan trọng hơn là khanh có một phẩm chất thành thật và không dối trá”.

Vào thời Trung Quốc cổ đại, cho dù là triều đình cho đến nha môn của phủ, châu, huyện, hay các cửa hiệu buôn bán, thì tiêu chuẩn đầu tiên để dùng người chính là cần xem phẩm chất đạo đức của người đó. Một người cho dù năng lực có mạnh mẽ đến đâu, bản sự có lớn thế nào, nếu như phẩm chất đạo đức không tốt thì cũng sẽ không được ai bổ nhiệm. Nhờ có phẩm chất tốt đẹp thành thật không dối trá mà Yến Thù sau này đã được triều đình trọng dụng.

Một người thành tín và có phẩm đức cao thượng thì sẽ có được của cải và lợi ích, cho nên tiền của cũng nên kiếm được một cách chính đáng và dùng vào việc chính đáng. Khổng Tử đã nói trong Luận Ngữ – Hiến Vấn rằng: “Kiến lợi tư nghĩa” (nhìn thấy lợi ích cần phải nghĩ đến đạo nghĩa), trong Luận Ngữ – Quý Thị ông còn nói: “Kiến đắc tư nghĩa” (khi thấy những gì mình đạt được hãy cân nhắc xem mình có đáng được hay không). Tâm yêu thích của cải, ai ai cũng có, nhưng cũng không thể vì lợi ích cá nhân mà làm những việc trái với lương tri và đạo nghĩa. Người xưa nói rằng: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo” (ý nói: Người quân tử coi trọng của cải nhưng lấy của cải phải đúng đạo lý), “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (việc mình không muốn thì chớ làm cho người khác). Trong xã hội ngày nay, có người vì để bản thân mình được thoải mái mà không kiêng nể gì đi làm hại người khác. Những hành vi này trong mắt của người thông minh mà nói thì là ngu muội nhất.

Có một câu chuyện có thật như sau: Ngô Quân là một lãnh đạo của Tòa án trung cấp của sư đoàn Nông nghiệp số 8 thành phố Thạch Hà Tử (thuộc khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc), vào ngày 20 tháng 6 năm 2007, cấp dưới của ông đã tiếp nhận một vụ án kết án phi pháp các học viên Pháp Luân Công, đồng thời còn hứa sẽ đưa cho ông một khoản tiền thưởng hậu hĩnh. Nhưng người nhà ông đều biết rằng Pháp Luân Công dạy con người chiểu theo tiêu chuẩn Chân – Thiện – Nhẫn để làm người tốt. Bởi vì người tu luyện đều là những người tốt, thiện lương vô tư, cho nên mẹ ông đã khuyên ông không nên tiếp nhận vụ án này. Nhưng Ngô Quân đã không chịu nghe những lời khuyên đó, còn nói những gì như: “Mẹ bảo con phải làm sao đây? Có tiền bày ngay trước mặt thì tội gì không lấy”. Vì việc này mà ông và người nhà đã xảy ra xích mích, vì ông ta mà họ cảm thấy xấu hổ mất mặt. Ngay cả đồng nghiệp khuyên nhủ ông cũng không nghe, không tin rằng sẽ có báo ứng. Kết quả hai ngày sau đó, ông đột nhiên bị té ngã ngay tại nơi làm việc và được cấp tốc đưa đến bệnh viện số hai cấp cứu. Cuối cùng, sau khi tỉnh lại được hai ngày thì ông qua đời vì xuất huyết não. Ngô Quân là người con trai duy nhất trong gia đình, ông ta đã bỏ lại mẹ già và vợ con mà ra đi. Mẹ ông cho rằng ông đã chịu báo ứng. Những ví dụ như vậy trong thực tế nhiều không đếm hết.

Kiểu người tạo dựng “hạnh phúc” cho bản thân từ trên nỗi thống khổ, thậm chí là từ trên sinh mệnh của người khác này đã sớm đánh mất bản tính thuần thiện tiên thiên của mình rồi. Họ vốn muốn hưởng thụ cái gọi là “hạnh phúc” vật chất ngắn ngủi tạm bợ, nhưng lại không biết rằng bản thân đang đi ngược lại với hạnh phúc thực sự. Từ xưa đến nay đã có rất nhiều ví dụ về thiện ác hữu báo. Đây đúng là điều mà người ta nói là nhân tâm dễ bị mê muội, thiên lý khó bị lừa dối. Chỉ có phẩm chất đạo đức cao thượng mới là con đường có được của cải của người quân tử. Có nhiều người thể ngộ được rằng cuộc sống vô lo vô nghĩ, sau trước vẹn toàn mới là hạnh phúc. Nếu có thể làm được lòng dạ vô tư thì trời đất sẽ rộng mở. Thực ra cho dù có nhiều tiền đến đâu thì cũng chỉ là một ngày ba bữa cơm. Cuối cùng sẽ có một ngày những người mù quáng phát hiện ra rằng bán rẻ lương tâm để đổi lấy tiền thì sẽ không thể có được hạnh phúc.

Nói về hạnh phúc, kết quả cuối cùng của những người sống truy cầu danh vọng, của cải và lợi ích là gì? Bất quá cũng chỉ là muốn được sống một cuộc đời hạnh phúc bình an mà thôi. Họ không ngờ rằng hạnh phúc phần nhiều là đến từ tinh thần và vật chất. Kì thực hai thứ này là nhất tính. Với tấm lòng khoan dung và vô tư luôn nghĩ đến người khác, khi thấy người khác vui vẻ, tự bản thân mình cũng cảm thấy rất hạnh phúc. Bởi vì tinh thần lạc quan nên thân thể vật chất cũng sẽ thể hiện ra là khoẻ mạnh, tráng kiện. Những người xem trọng tư lợi, thông thường luôn tính toán thiệt hơn, hưởng thụ cái gọi là “cuộc sống vật chất” nhất thời mà ngày đêm lao lực, thậm chí cho đến đêm khuya vẫn còn khó ngủ, cuối cùng làm cho toàn thân đầy bệnh, cho dù có danh và lợi, cũng chỉ có thể nằm tại bệnh viện mà chịu đựng sự dày vò của bệnh tật. Hạnh phúc thật sự được thiết lập trên cơ sở của đạo đức cao thượng.

Nhắc đến của cải, tôi chợt nhớ đến tiết mục diễn xuất đầy ý vị mang tên “Hoàng lương mộng” (giấc mộng kê vàng) của đoàn nghệ thuật Thần Vận trong dịp mừng năm mới. Tiết mục kể về câu chuyện chàng thư sinh gặp một vị Đạo sĩ, vị Đạo sĩ đã điểm hoá cho anh về việc tu hành, nhưng bởi còn say đắm công danh nên anh đã khéo léo chối từ. Để điểm hoá cho chàng thư sinh, vị Đạo sĩ đã diễn hoá ra một giấc mộng. Trong giấc mộng anh thấy mình công thành danh toại, con đường làm quan rộng mở, không ngừng thăng quan tiến chức, còn cưới được một giai nhân xinh đẹp, rồi năm thê bảy thiếp, gia sản thịnh vượng, con cháu đầy đàn, có thể nói là xuân phong đắc ý (đường làm quan rộng mở). Nhưng cuối cùng bởi ăn hối lộ mà làm trái pháp luật nên bị tịch thu gia sản và bị xử trảm. Trong giấc mộng anh đã trải qua mấy chục năm thăng trầm của kiếp nhân sinh, lúc tỉnh dậy thì thấy một bát kê vàng còn đang nóng hổi. Sau bao gian khổ thăng trầm, chàng thư sinh không kìm nổi, đành ngẩng mặt lên trời thở dài. Đời người như mộng, tựa như nước chảy, công danh lợi lộc bất quá cũng chỉ như mây khói trôi qua. Nhân sinh thăng trầm cũng là vinh nhục vô thường. Vài chục năm trôi qua cũng chỉ trong nháy mắt! Vì vậy anh đã quỳ gối dập đầu, bái vị Đạo sĩ làm thầy, mong được xuất gia tu hành. Tài sản cũng chỉ như khói bay trước mắt, vậy sao còn muốn đi làm những việc ngu xuẩn tổn đức hại mình chứ?

Dịch từ:

http://big5.zhengjian.org/node/52973

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=5382

 

The post Phẩm chất, hạnh phúc và của cải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2021/11/duc-do-hanh-phuc-va-giau-co.html/feed0
Nhân quả báo ứng: Một con gàhttps://chanhkien.org/2021/11/nhan-qua-bao-ung-mot-con-ga.htmlWed, 03 Nov 2021 15:22:33 +0000https://chanhkien.org/?p=28063Tác giả: Hiểu Huy chỉnh lý [ChanhKien.org] Ngày xưa ở vùng Lưỡng Hồ (chỉ Hồ Nam và Hồ Bắc, Trung Quốc) có một người có học thức, tấm lòng chính trực. Đúng lúc điện thứ bảy dưới Âm Tào địa phủ thiếu người, Ngọc Hoàng Đại Đế bèn để người này ngồi vào vị trí […]

The post Nhân quả báo ứng: Một con gà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hiểu Huy chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Ngày xưa ở vùng Lưỡng Hồ (chỉ Hồ Nam và Hồ Bắc, Trung Quốc) có một người có học thức, tấm lòng chính trực. Đúng lúc điện thứ bảy dưới Âm Tào địa phủ thiếu người, Ngọc Hoàng Đại Đế bèn để người này ngồi vào vị trí bị thiếu. Như thế cứ cách ít hôm người này lại xuống minh phủ xử lý công việc. Công việc chính của ông là xem qua sổ sách, không cần phán án. Trong lúc tra sổ sách ông thấy mỗi người vì nghiệp lực đã tạo khác nhau mà hình phạt hoặc phúc báo nhận được cũng khác nhau. Mỗi khi ông thấy người ta nhận hình phạt đao sơn kiếm thụ (bị đâm bởi núi đao rừng kiếm) bèn lập tức phái người tới ứng cứu. Nhưng càng cứu thì hình phạt giáng xuống lại càng liên tục không ngớt, hoàn toàn không cách nào cứu được những người ấy.

Một hôm khi người này giở sổ sách ra thấy có tên vợ mình kèm tội trạng ghi bên dưới là lấy trộm con gà của nhà hàng xóm, tính luôn cả lông thì con gà nặng một cân hai lạng. Ông bèn gấp trang sổ ấy đánh dấu để sau này dễ tìm lại.

Sau khi quay về dương gian ông truy hỏi vợ mình có lấy trộm con gà của nhà hàng xóm hay không. Ban đầu vợ ông còn chối, không muốn thừa nhận. Đến khi ông đem những chuyện đã thấy dưới âm gian nói cho vợ biết, vợ ông mới chịu thừa nhận, nói là vì con gà hàng xóm ăn thóc chị ta phơi nên đã lỡ tay đập chết nó. Vì sợ bị hàng xóm trách mắng nên chị ta đã đem con gà đi chôn, và cũng giấu luôn chuyện này.

Hai vợ chồng liền đào con gà đã chết lên cân thử, quả nhiên đúng một cân 12 lạng (1,05 kg ngày nay). Người vợ vô cùng kinh hãi nên đã sang bồi thường cho hàng xóm con gà theo giá ngoài chợ và cũng nhận lỗi sai của mình.

Vài ngày sau người này quay trở xuống minh phủ. Ông giở trang sổ đã đánh dấu hôm trước ra thì thấy giấy tờ vẫn còn nguyên như cũ nhưng dòng chữ ghi tội trạng của vợ ông đã biến đâu mất.

Ghi chú:

Đao sơn kiếm thụ: núi đao rừng kiếm là một hình phạt dưới địa ngục được kể trong Phật giáo, có thể hình dung là một hình phạt hết sức tàn khốc.

Một cân 12 lạng: theo hệ đo lường cổ Trung Quốc, một cân bằng 16 lạng, tương đương 600 g.

(Nguồn: Kiến văn lục bạch thoại của cao tăng Trí Húc triều Minh)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/44371

The post Nhân quả báo ứng: Một con gà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện ngắn: Sự lựa chọnhttps://chanhkien.org/2021/09/cau-chuyen-ngan-su-lua-chon.htmlSat, 25 Sep 2021 14:09:40 +0000https://chanhkien.org/?p=27906Tác giả: Trí Chân [ChanhKien.org] Ðây là một câu chuyện xảy ra vào triều Minh, có hai anh em mặc dù cùng cha mẹ sinh ra nhưng tính tình lại tuyệt nhiên khác hẳn. Người anh thì lười biếng ham ăn, cân đo đong đếm chi li từng xu một; còn người em thì siêng […]

The post Câu chuyện ngắn: Sự lựa chọn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trí Chân

[ChanhKien.org]


Ðây là một câu chuyện xảy ra vào triều Minh, có hai anh em mặc dù cùng cha mẹ sinh ra nhưng tính tình lại tuyệt nhiên khác hẳn. Người anh thì lười biếng ham ăn, cân đo đong đếm chi li từng xu một; còn người em thì siêng năng chăm chỉ, luôn làm tốt bổn phận của mình, và còn thích kết duyên với mọi người. Một hôm, hai anh em đánh xe ngựa ra ngoài làm việc, chẳng may cơn mưa ập đến khiến cho đường đất trơn trượt, người anh không giữ được cương ngựa nên cả hai bị rơi xuống vách đá. Trong lúc còn đang mơ màng, họ đã đi đến trước điện âm phủ, và bị một lính canh ngục đang chờ sẵn ngoài cổng từ lâu đưa đến trình Diêm Vương.

Diêm Vương nói: “Hai anh em ngươi đời trước không làm việc tốt hay xấu nào lớn, nên đời sau có thể giữ được thân người, tiếp tục đầu thai làm người. Phán quan đâu! Hãy kiểm tra xem có nhà nào có người đang mang thai để họ đầu thai vào không?”

Vị phán quan nói: “Bẩm Diêm Vương! Dựa vào nhân duyên thì có hai gia đình nhà họ Triệu và họ Tạ đang cần có con nối dõi, chỉ là nếu sinh vào nhà họ Triệu thì sau khi lớn lên cần phải làm việc bố thí giúp người, còn nếu đầu thai vào nhà họ Tạ thì cả một đời đều luôn nhận được trợ giúp của người khác”. Phán quan cẩn thận lật sổ sinh tử ra, trong cuốn sổ ghi chép đầy đủ chi tiết về nhân duyên quả báo ba đời của mỗi chúng sinh.

Diêm Vương nói: “Nếu là như vậy, hai anh em các người hãy tự lựa chọn đầu thai vào nhà họ Triệu hay nhà họ Tạ đi!”

Người anh trai sau khi nghe phán quyết của Diêm Vương liền nghĩ: “Nếu như đầu thai vào nhà họ Triệu, cả đời cần phải chăm chỉ cần cù, số tiền vất vả kiếm được còn phải dành cho người khác, thật quả là bôn ba lao lực, chi bằng nhận sự giúp đỡ của người khác thì mình sẽ nhàn hạ thoải mái”. Sau khi quyết định, người anh nhanh trí vội quỳ xuống dập đầu trước Diêm Vương, nói: “Thưa Diêm Vương, nếu như cả đời phải phó xuất vì người khác thì thật quá vất vả, cầu xin Diêm vương phát lòng từ bi, cho con sinh hạ vào nhà họ Tạ để được người khác giúp đỡ”. Diêm Vương liền hỏi: “Vậy ai sẽ đầu thai vào nhà họ Triệu để giúp đỡ người khác đây?” Lúc này, người em trai thật thà đôn hậu, nãy giờ im lặng đứng bên cạnh mới cung kính nói: “Thưa Diêm Vương, xin ngài hãy cho anh của con chuyển sinh vào nhà họ Tạ, con nguyện ý làm con của nhà họ Triệu, dùng cả đời này để giúp người nghèo khó, quảng kết thiện duyên”.

Sự lựa chọn của họ đã giúp Diêm Vương trút được nỗi băn khoăn, lo lắng trong lòng. Hai anh em họ theo nghiệp lực của bản thân, từng người chuyển sinh vào nhà họ Triệu và họ Tạ. Người em bởi vì phát nguyện trợ giúp người nghèo cho nên đã sinh vào một gia đình cao quý, đầu thai vào làm người con duy nhất của viên ngoại họ Triệu, tiền bạc đầy kho, khi lớn lên thì vô cùng thông minh lanh lợi. Điều hiếm thấy nhất là công tử họ Triệu sinh ra đã mang theo tấm lòng từ bi khoan dung, lấy việc giúp người làm vui, phàm mỗi khi có người cầu xin giúp đỡ, Triệu công tử chưa bao giờ làm họ phải thất vọng. Gia đình của viên ngoại họ Triệu, khi thấy con mình thiện lương như vậy, cũng vui vẻ đem lượng lớn gia tài giúp đỡ người khác. Bởi vì Triệu công tử từ bi hành thiện, cho nên tiếng thơm của anh truyền khắp gần xa.

Người anh trai chỉ muốn nhận đồ bố thí của người khác thì lại chuyển sinh vào nhà họ Tạ nghèo khó, quanh nhà chỉ có bốn bức tường, phải kiếm sống bằng nghề ăn xin, cả một đời xin ăn cơm thừa canh cặn, nhận đồ bố thí và sự thương cảm của mọi người.

Người xưa nói: “Người biết cho thì giàu có hơn người chỉ biết nhận”, lòng nhân ái mới là điều đáng quý nhất, Đạo Trời là thưởng Thiện phạt Ác, vì vậy những người làm việc nhân ái mà được phúc báo cũng là lẽ tất nhiên. Biết quan tâm đến nỗi đau của người khác, lấy Thiện đãi người, đó không chỉ là từ bi, mà còn là trí huệ. Bất cứ lúc nào sự lựa chọn cái Thiện vẫn luôn là sự lựa chọn sáng suốt nhất của con người, bởi vì “Nhân hữu thiện nguyện, thiên tất hữu chi” (Con người có nguyện vọng lương thiện, tất sẽ được ông Trời phù hộ).

Dịch từ: http://www.secretchina.com/news/241417.html

The post Câu chuyện ngắn: Sự lựa chọn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại Hàm Đan (1): Cây hòe Thầnhttps://chanhkien.org/2021/08/than-thoai-ham-dan-1-cay-hoe-than.htmlSun, 29 Aug 2021 09:32:15 +0000https://chanhkien.org/?p=27809Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục [ChanhKien.org] Vào năm 2016, tại công viên Long Hồ ở Hàm Đan, tôi có nghe được một câu chuyện về cây Hòe thần. Một ông lão ngoài 60 tuổi đã kể cho tôi nghe câu chuyện này, câu chuyện mà ông được tận mắt […]

The post Thần thoại Hàm Đan (1): Cây hòe Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

[ChanhKien.org]

Vào năm 2016, tại công viên Long Hồ ở Hàm Đan, tôi có nghe được một câu chuyện về cây Hòe thần. Một ông lão ngoài 60 tuổi đã kể cho tôi nghe câu chuyện này, câu chuyện mà ông được tận mắt chứng kiến khi còn nhỏ.

Theo lời ông lão kể, khi ông còn học tiểu học, cả gia đình sống ở nông thôn. Thời đó, học sinh trong trường đều tiếp thụ tuyên truyền giáo dục thuyết vô thần và văn hóa đảng, trẻ con từ rất nhỏ đã bị rót đầy đầu não những tư tưởng vô thần như: “Trước nay đều không có Sáng Thế Chủ gì hết, cũng không có Thần Tiên, hoàng đế…”. Thầy hiệu trưởng nói với đám trẻ: “Thần thoại đều do người xưa bịa ra, không có thật. Chúng ta phải phá vỡ mê tín và tin tưởng vào khoa học”.

Năm đó, ông lão học lớp ba và đã gia nhập đội Thiếu niên tiền phong và quàng khăn đỏ. Ông tin rằng lời hiệu trưởng nói là chân lý và cho rằng những người già trong làng ông rất ngu muội.

Vào thời điểm đó, trong làng có một cây hòe lớn được dân làng coi là “cây Thần”, tôn xưng là “Hòe Tiên”. Người dân trong làng buộc một vài tấm vải đỏ lên “cây hòe Thần”, và còn làm một cái sân quanh “cây Thần”, gọi là “Miếu Hòe Tiên”. Người trong thôn nếu bị cáo chồn quỷ rắn nhập vào, ví như trẻ con bị ma quỷ bắt hồn, ma quỷ phụ thể… hoặc giả như gia đình nào đó bị bệnh tật, tai họa, hoạn nạn … họ đều đến dưới gốc “cây hòe Thần” cầu khấn “cây Thần” giúp đỡ giải quyết vấn đề, bảo hộ người trong gia đình bình an. Đương nhiên các vấn đề sau đó cơ bản đều được giải quyết. Vì thế nên khói hương trong sân của “cây hòe Thần” không lúc nào ngớt, luôn có người đến thắp hương, đám trẻ con cũng thường thích chơi đùa bên trong sân này.

Khi đó vừa đúng dịp nghỉ hè, đứa trẻ đeo khăn quàng đỏ (chính là ông già kể chuyện) lại đến sân của “cây hòe Thần” chơi, nó thấy một vài đứa trẻ nhỏ hơn mình trèo lên trèo xuống trên cây chơi đùa. Có đứa vặt lá, có đứa bẻ cành, nhưng hành động của bọn trẻ không phải chịu bất kỳ hình phạt nào, không ai khiển trách chúng. “Cây Thần” cũng không di chuyển, không có bất kỳ phản ứng nào. Nhìn thấy cảnh này, đứa trẻ vô tình nghĩ đến “chủ nghĩa vô thần” được học ở trường: không có Thần tiên gì hết, tất cả các câu chuyện thần thoại đều được người xưa biên tạo để giải trí cho công chúng. Vì vậy, đứa trẻ cảm thấy rằng là một đội viên trẻ, nó nên đứng lên phá trừ mê tín.

Cậu ta nói với những đứa trẻ đang chơi trong sân: “Thầy giáo giảng rồi, trước nay đều không có Thần tiên nào hết, thần thoại đều là lừa dối, không có thật. Ngay cả “cây Thần” này chắc chắn cũng không phải cây Thần thật. Các bạn xem các bạn ngắt lá, bẻ cành, cây Thần cũng không làm gì các bạn phải không? Cái cây cũng không có động tĩnh gì phải không? Vậy nó đã không phải cây Thần thật, thì chúng ta cũng đừng coi đó là cây Thần nữa. Chúng ta là những đội viên đeo khăn quàng đỏ, chúng ta hãy bỏ những mảnh lụa đỏ treo trên cây xuống, cần phải phá trừ mê tín”.

Lúc đó, đứa trẻ kia đã tự mình ra tay, và còn chỉ huy những đứa trẻ khác cùng nhau tháo những mảnh vải đỏ treo trên “cây hòe Thần” ra và ném xuống đất.

Đó là vào giữa mùa hè, thời tiết oi bức, người trong thôn thường hay ngủ trên mái nhà. Đứa trẻ mà ban ngày phá trừ mê tín vào “cây hòe Tiên” cũng leo lên mái nhà mình ngủ. Thời đó mọi người thường ngủ sớm, buổi tối tám, chín giờ đã đi ngủ rồi. Đứa trẻ đang ngủ thì đột nhiên đau dữ dội ở cánh tay. Nó cảm thấy như có ai đó đang tóm lấy cánh tay của mình và siết chặt nó. Lúc đó, cậu ta đau đến nỗi hét to lên và choàng tỉnh.

Lúc đó khoảng 10 giờ đêm, mẹ của đứa trẻ nghe thấy tiếng khóc vội hỏi xem có chuyện gì. Khi mẹ nó đến xem, cánh tay của đứa trẻ không hề thấy sưng tấy chút nào. Đứa trẻ nói với mẹ nó rằng nó vừa ngủ thiếp đi thì đột nhiên cánh tay rất đau. Giống như ai đó đang vặn tay nó, nhưng bây giờ thì không đau nữa rồi, không sao rồi. Mẹ nó kiểm tra cánh tay và thấy không có gì bất thường, cảm thấy xung quanh cũng không có gì bất ổn nên bảo con về phòng ngủ, nhưng nó không chịu vào nhà mà vẫn tiếp tục ngủ trên mái nhà, sau đó nó lại ngủ tiếp.

Đứa trẻ mơ hồ ngủ thiếp đi một lúc, thì đột nhiên lại cảm thấy có ai đó đang vặn tay mình. Lần này, sức mạnh còn lớn hơn kéo tay nó ra phía sau mà vặn. Thằng bé đau đớn vật vã như lửa thiêu vậy. Nó đau đớn gào thét, mẹ nó nghe tiếng gào này không bình thường, bà nghĩ chắc chắn là nó bị trúng tà, hoặc là một cái gì đó như cáo, chồn, quỷ, rắn đang hành hạ nó. Bà nhanh chóng nhờ người nhà đến tìm Thần Hán [1] trong thôn, nhờ ông xem đứa trẻ rốt cuộc bị làm sao.

Thần Hán nhìn đứa trẻ rồi nói với nó: “Hôm nay cháu đã xúc phạm một cái cây đại thụ, nó đang trừng phạt cháu. Hãy cho ta biết những gì cháu đã phạm phải với cây lớn, cháu đã đi tiểu vào cái cây đó, hay làm những điều xấu gì?” Đứa trẻ lúc đó có chút xấu hổ, nó cũng không nhớ ra việc đã gỡ những dải lụa đỏ, nó nói: “Cháu không tiểu lên cây, không làm điều gì xấu”.

Thần Hán nhìn đứa trẻ và nói: “Cháu đã xúc phạm Thần cây! Cháu nghĩ kỹ xem hôm nay đã làm gì, nếu cháu không thừa nhận thì đừng nghĩ đến việc khỏi đau tay”. Trong khi nói chuyện, cánh tay và vai của đứa trẻ liên tục đau nóng ran, nó gắng chịu mới không kêu gào lên. Đứa trẻ lúc này tâm trạng vừa lo lắng vừa sợ hãi, sợ rằng cánh tay không khỏi thì làm sao? Lúc đó, nó đột nhiên nhớ lại những việc nó đã làm ban ngày trong sân “cây hòe Thần”. Nó nói với mọi người về những điều đó và nói: “Giáo viên của chúng cháu nói không có Thần, thần thoại đều là bịa đặt, giờ phải phá trừ mê tín”.

Thần Hán hỏi lại đứa trẻ: “Không có Thần, vậy ai đang vặn tay cháu? Tại sao cánh tay cháu bị đau?” Mẹ của đứa trẻ cũng nhanh chóng nói: “Con ơi, không thể không tin được! Những điều này được tổ tiên chúng ta truyền qua nhiều thế kỷ, tất cả chúng ta đều tin vào Thần! Chuyện về Thần cây cũng đã được truyền qua nhiều thập kỷ. Trong làng nhà ai bị bệnh hay gặp tai hoạ đều cầu xin “cây hòe Thần” giúp giải quyết sự tình. Đó chẳng phải là có cầu tất ứng nghiệm sao con? Tại sao con lại dám phạm tội với cây hòe Tiên? Không thể không tin vào Thần đâu con ơi!”

Lúc này, Thần Hán bảo đứa trẻ mau đến chỗ “cây hòe Tiên” để xin lỗi về những gì đã mạo phạm, và phải chuẩn bị đầy đủ nào là vật phẩm cúng, nào là hương v.v. quan trọng nhất là để đứa trẻ thành thật xin lỗi cây hòe Thần. Nếu không, nó dù có thắp hương cầu cúng cũng sẽ không có hồi đáp. Thần Hán quay đầu nhìn đứa bé và nói lớn: “Dù giáo viên trong trường nói gì, chúng ta nên tin chuyện này không phải là mê tín. Hãy quay về nghe mẹ cháu kể câu chuyện về cây hòe Tiên, cháu phải thành tâm vái lạy nhận sai trước cây hòe Thần. Nếu cháu không thành tâm thì đừng nghĩ cách tay này của cháu sẽ khỏi được”.

Đứa trẻ đau tay đến nỗi không còn cách nào, nghe người lớn nói chuyện cũng thấy có đạo lý, liền trở nên tin Thần, trong tâm thừa nhận lỗi sai của mình. Suy nghĩ vừa thay đổi thì cơn đau ở cánh tay cũng biến mất. Đứa trẻ liền nói với mẹ: “Mẹ ơi, trong tâm con đã nói với cây Thần rằng con sai rồi. Mẹ đứa trẻ liền cảm tạ trời đất và cảm tạ cây Thần, cái tâm lo lắng cũng đã buông được xuống.

Ngày hôm sau, mẹ đứa trẻ mang theo các đồ cúng, giấy vàng, hương nến, dẫn theo con đến sân cây hòe Thần, dâng hương, dâng đồ cúng, giấy vàng cho cây hòe Thần, thành tâm xin lỗi cây hòe Thần, nói rằng đứa trẻ còn nhỏ, không hiểu chuyện, nghe người khác nói gì liên tin nấy; người lớn cũng có chỗ không đúng, không chú ý kể các chuyện hữu Thần cho con nghe, dẫn đến việc phạm sai lầm lớn, đắc tội nhiều với Hòe Tiên. Hiện giờ đứa trẻ đã nhận thức được chỗ sai của mình rồi, tôi đã kể cho con nghe về các chuyện Hòe Tiên hiển linh bảo vệ người trong thôn bình an, nói với con tôi rằng có thiên địa Thần linh, có cây hòe Thần, đều là thật, không phải giả, chúng tôi cần thành tâm kính bái thiên địa Thần linh, nhất tâm hướng thiện! Xin Hòe Tiên tha tội cho con tôi. Lúc đó đứa trẻ cũng thành tâm nhận sai với Cây Hòe Thần rồi, thế là lập tức cái tay của nó không còn đau nữa.

Kể từ đó, đứa trẻ này đã thực sự tin vào Thần. Trong những thập kỷ kế tiếp, ông đã kể câu chuyện về cây Hòe Thần cho những người hữu duyên mà ông gặp một cách nhiều nhất có thể, nói với mọi người rằng thực sự có Thần tồn tại, chứ không phải là giả, điều gì nên tin thì vẫn phải tin.

Một ngày nọ, khi tác giả bài này đang ở trong công viên kể cho mọi người rằng thuyết hữu Thần là có thật, mọi người nên tin vào Thần để được bình an. Lúc này, một ông lão ngoài 60 tuổi đã nói với tác giả rằng ông tin vào thuyết hữu Thần, thành tâm tín Thần sẽ được bảo hộ bình an và kể cho tác giả cùng bảy hoặc tám người tại đó câu chuyện về cây hoè Thần mà đích thân ông đã trải qua.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254194

[1] Thần Hán: Người có phép thuật

The post Thần thoại Hàm Đan (1): Cây hòe Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễnhttps://chanhkien.org/2021/08/cau-chuyen-lich-su-chiec-tram-cai-toc-bang-vang-cuu-mang-ly-thoi-mien.htmlSat, 28 Aug 2021 15:13:48 +0000https://chanhkien.org/?p=27805Tác giả: Hải Tân, Nhất Đấu [ChanhKien.org] Vào thời nhà Minh, Lý Thời Miễn giữ chức quan Hàn Lâm (chức quan thời xưa nắm giữ những văn kiện bí mật mà hoàng đế trực tiếp ban hành), một hôm đang trên đường đi xem hội hoa đăng vào đêm rằm tháng Giêng, ông nhặt được […]

The post Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Hải Tân, Nhất Đấu


[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Minh, Lý Thời Miễn giữ chức quan Hàn Lâm (chức quan thời xưa nắm giữ những văn kiện bí mật mà hoàng đế trực tiếp ban hành), một hôm đang trên đường đi xem hội hoa đăng vào đêm rằm tháng Giêng, ông nhặt được một chiếc trâm cài tóc bằng vàng, ngày hôm sau ông dán chiêu lệnh (yết thị cho người mất của đến nhận) lên trước cửa nhà mình. Không lâu sau có một người phụ nữ hoảng hốt chạy đến nhà của Lý Thời Miễn và nói với ông rằng: “Chồng của tôi là Thiên hộ [1] của cẩm y vệ, mấy hôm trước ông ấy đã đi làm nhiệm vụ ở nước ngoài, đêm qua tôi đi xem hội đèn lồng đã vô tình đánh rơi một chiếc trâm cài tóc bằng vàng, tôi vẫn còn giữ một chiếc cài tóc khác giống như vậy để làm chứng”. Sau khi kiểm tra, Lý Thời Miễn trả lại chiếc trâm cài tóc cho người phụ nữ. Chẳng bao lâu sau vị quan Thiên hộ kia từ nước ngoài trở về, ông ta đã mang theo nhiều quà đến để cảm ơn Lý Thời Miễn nhưng Lý Thời Miễn đều từ chối. Vị quan Thiên hộ nói: “Nếu như ngài không nhận thì tôi cũng không miễn cưỡng, chỉ là ở đây có chút thuốc tên là Huyết Kiệt, loại thuốc này tôi mua ở nước ngoài, là thứ hiếm có trên đời, vậy nên hy vọng ngài hãy nhận lấy nó”. Lý Thời Miễn đành nhận vị thuốc Huyết Kiệt này.

Vài năm sau, Lý Thời Miễn đảm nhiệm chức quan Ngự sử (chức quan ở gần vua giữ việc can ngăn vua). Một lần trên triều ông đã thẳng thắn can ngăn làm hoàng đế Minh Nhân Tông nổi giận, hoàng đế lệnh cho quân sĩ dùng chiếc chuỳ nặng 9 cân đánh ông bán sống bán chết, gãy cả xương sườn, sau đó ông bị đày vào nhà tù nơi cẩm y vệ cai quản. Vừa hay ông gặp lại vị quan Thiên hộ đang làm chức vụ cai ngục tại đây, vị quan Thiên hộ kinh ngạc nói: “Có phải ông là Lý tiên sinh đảm nhiệm chức quan Hàn Lâm không, thánh chỉ của hoàng đế đâu có nói bắt ông phải chết ở nơi này đâu!”. Vì thế vị quan Thiên hộ đã bí mật gọi thầy thuốc tới xem tình trạng của Lý Thời Miễn, vị thầy thuốc sau khi xem xong nói rằng: “Tình trạng của ông có thể chữa được, nhưng cần phải dùng đến một loại thuốc tên là Huyết Kiệt, mà đây lại là thứ rất khó kiếm được”. Vị quan Thiên hộ nói: “Vừa may ở nhà Lý tiên sinh lại có thuốc Huyết Kiệt này”. Nói rồi, ông nhanh chóng phái người đến gặp phu nhân của Lý Thời Miễn và lấy được thuốc Huyết Kiệt. Nhờ được chữa trị kịp thời, Lý Thời Miễn đã có thể bảo toàn tính mạng. Không lâu sau hoàng đế Minh Tuyên Tông lên ngôi, đã khôi phục lại chức quan cho Lý Thời Miễn.

(Trích Hình Thế Ngôn – sách do Lục Nhân Long viết vào cuối triều nhà Minh)

Chú thích của người dịch: [1]: Thiên hộ – tên một chức quan võ, đặt ra từ thời nhà Nguyên (Trung Quốc), đứng đầu 1.000 binh, giữ việc phòng vệ địa phương.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2007/3/13/42722p.html

http://www.pureinsight.org/node/4488

The post Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì?https://chanhkien.org/2021/08/cau-chuyen-lich-su-thuong-tru-vuong-so-dieu-gi.htmlFri, 27 Aug 2021 15:01:29 +0000https://chanhkien.org/?p=27802Tác giả: Nhất Đẩu [ChanhKien.org] Vào thời nhà Thương, Tây Bá hầu Cơ Phát [1] xem trọng chiêu hiền đãi sĩ, lấy đức trị quốc, khiến cho vùng Tây Kỳ được cai quản rất tốt. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế xảy ra tranh chấp, bởi vì hai nước không thể giải quyết […]

The post Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Thương, Tây Bá hầu Cơ Phát [1] xem trọng chiêu hiền đãi sĩ, lấy đức trị quốc, khiến cho vùng Tây Kỳ được cai quản rất tốt. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế xảy ra tranh chấp, bởi vì hai nước không thể giải quyết nên đã cùng tìm đến Tây Bá hầu nhờ ông xét xử. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế đặt chân tới vùng Tây Kỳ thấy rằng người dân nơi đây nhường đất trồng cho nhau, người đi đường đều nhường khiêm kính người già. Người của hai nước Ngu và người nước Nhuế thấy thế nói với nhau rằng: “Điều mà chúng ta tranh giành chính là điều mà người ở đây cho là một sự ô nhục, chúng ta còn tìm Tây Bá hầu làm gì, chỉ là làm nhục chính mình mà thôi”. Thế là họ theo đường cũ trở về, người dân hai nước nhường nhịn lẫn nhau, không còn xảy ra tranh chấp.

Có người vì vậy đã nói với Trụ Vương rằng: “Tây Bá hầu tích đức hành thiện, khiến cho các nước chư hầu đều noi gương ông ta, điều này sẽ không có lợi cho ngài”. Trụ Vương từ đó đã giam Tây Bá hầu vào trong nhà ngục.

(Trích từ Sử ký

Chú thích của người dịch:

[1] Cơ Xương (1152 TCN – 1046 TCN), còn hay được gọi là Chu Văn Vương, vua nước chư hầu Chu cuối thời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã xây nền móng triều đại nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. (Nguồn: Wikipedia).

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/7/29/44995.html

http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4773

The post Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quanghttps://chanhkien.org/2021/08/cau-chuyen-lich-su-giai-thoai-ve-tu-ma-quang.htmlThu, 26 Aug 2021 14:38:47 +0000https://chanhkien.org/?p=27799Tác giả: Thiện Ngôn [ChanhKien.org] Tư Mã Quang, tự Quân Thực, là người ở thôn Thúc Thủy, huyện Hạ, Thẩm Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), nên người đời gọi ông là Thúc Thuỷ tiên sinh. Năm Bảo Nguyên thứ hai ông đỗ tiến sỹ, và làm tới chức quan Tả bộc dạ môn hạ […]

The post Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quang first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Ngôn

[ChanhKien.org]

Tư Mã Quang, tự Quân Thực, là người ở thôn Thúc Thủy, huyện Hạ, Thẩm Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), nên người đời gọi ông là Thúc Thuỷ tiên sinh. Năm Bảo Nguyên thứ hai ông đỗ tiến sỹ, và làm tới chức quan Tả bộc dạ môn hạ thị lang. Ông được phong chức Thái Sư, Văn Quốc Công, tên thuỵ (tên đặt sau khi chết để cúng giỗ) là Văn Chính. Tư Mã Quang là nhà sử học nổi tiếng thời Bắc Tống, ông là người đã chủ trì biên soạn nên cuốn biên niên sử đồ sộ là “Tư trị thông giám”, ngoài ra ông còn có tác phẩm nổi tiếng là “Tư Mã Văn Chính công tập” v.v.

Khi Tư Mã Quang tự nhận xét bản thân mình, ông đã nói rằng: “Ta không có điều gì hơn người khác, chỉ là cả đời ta không làm những việc hổ thẹn với lương tâm”. Người dân ở vùng Thẩm Châu, Lạc Dương đều bị cảm hoá bởi đức hạnh của ông đến nỗi mỗi khi có người phạm sai lầm thì họ sẽ nói: “Tư Mã Quân Thực tiên sinh lẽ nào không biết điều này sao?”

Khi Tư Mã Quang đảm nhiệm chức Thông phán tại Tịnh Châu (Thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây ngày nay), người Tây Hạ thường xuyên xâm lấn biên giới, điều đó đã trở thành mối lo ở nơi đây. Vì vậy Tư Mã Quang đã kiến nghị lên cấp trên của ông là Bành Tịch cho tu sửa hai tòa thành và chiêu mộ người dân trồng trọt, canh tác nhằm ngăn chặn và kiểm soát người Tây Hạ. Bành Tịch đã nghe lời kiến nghị và phái Quách Ân thi hành việc đó, nhưng bởi vì Quánh Ân phòng ngự không chu toàn cho nên dẫn tới thất bại. Bành Tịch vì chuyện này mà bị cách chức. Tư Mã Quang ba lần viết thư lên triều đình tự nhận trách nhiệm, xin được từ quan, nhưng đều bị từ chối. Sau khi Bành Tịch qua đời, Tư Mã Quang đã đối xử với vợ của Bành Tịch như mẹ của mình, ông chăm sóc con trai của Bành Tịch như đối với huynh đệ thân thiết. Người thời đó đều cho rằng Tư Mã Quang là một người hiền đức.

Thời Tư Mã Quang còn ở Lạc Dương, Văn Ngạn Bác thường dẫn theo các kỹ nữ đi du xuân. Ngày nào ông cũng mời rủ Tư Mã Quang đi cùng. Một ngày khi đang du ngoạn tới “Độc Lạc Viên”, trông thấy người trông giữ khu vườn nhìn về phía mình thở dài, Tư Mã Quang hỏi người đó vì sao thở dài, người trông vườn đáp: “Bây giờ là lúc hoa cỏ cây cối sinh trưởng tươi tốt, mỗi lần ngài ra ngoài du ngoạn là mấy chục ngày, không chỉ khiến cho thanh xuân của ngài trôi đi, mà thậm chí đến một dòng sách ngài cũng không đọc. Đáng tiếc rằng ngài đã phóng túng bản thân, lãng phí thời gian cuộc đời vào những thú vui vô bổ!” Tư Mã Quang nghe xong cảm thấy vô cùng hổ thẹn, ông đã phát thề sẽ không bao giờ ra ngoài du ngoạn nữa. Sau này, mỗi khi có người mời ông ra ngoài du ngoạn, Tư Mã Quang lại dùng lời của người trông vườn để khước từ.

Tư Mã Quang sống một đời giản dị, thanh liêm, ông không màng đến những điều xa hoa. Có người nói, khi vợ ông qua đời, trong nhà ông cũng không có tiền để lo việc tang lễ, vì vậy con trai ông là Tư Mã Khang chủ định mượn tiền để làm việc tang lễ được phô trương một chút, nhưng Tư Mã Quang đã không đồng ý. Ông dạy bảo con mình rằng lập thân, xử thế quý ở chỗ tiết kiệm, không thể tùy ý mượn tiền người khác. Vì thế Tư Mã Quang đã đem cầm cố một miếng đất của mình và dùng số tiền đó để tổ chức một tang lễ bình thường. Đây chính là câu chuyện: “Điển địa táng thê” (Cầm cố đất để làm tang lễ cho vợ) của Tư Mã Quang.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/7/27/44997.html

The post Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quang first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Danh ngôn cuộc sống: “Gia đình tích thiện thừa niềm vui, gia đình tích ác hoạ tất đến”https://chanhkien.org/2021/08/danh-ngon-cuoc-song-gia-dinh-tich-thien-thua-niem-vui-gia-dinh-tich-ac-hoa-tat-den.htmlSat, 21 Aug 2021 14:15:11 +0000https://chanhkien.org/?p=27791Tác giả: Quán Minh [ChanhKien.org] Nhắc đến mối quan hệ nhân quả thiện ác hữu báo, rất nhiều người sẽ lập tức nghĩ rằng đó là lý luận từ Phật giáo. Tuy vậy, câu nói chỉ về mối quan hệ nhân quả là “Tích thiện chi gia khánh hữu dư, tích ác chi gia hoạ […]

The post Danh ngôn cuộc sống: “Gia đình tích thiện thừa niềm vui, gia đình tích ác hoạ tất đến” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quán Minh

[ChanhKien.org]

Nhắc đến mối quan hệ nhân quả thiện ác hữu báo, rất nhiều người sẽ lập tức nghĩ rằng đó là lý luận từ Phật giáo. Tuy vậy, câu nói chỉ về mối quan hệ nhân quả là “Tích thiện chi gia khánh hữu dư, tích ác chi gia hoạ tất chí” (Gia đình tích điều thiện thì niềm vui có thừa, gia đình tích điều ác thì sẽ gặp tai họa) lại không bắt nguồn từ Phật giáo, mà nó nguyên là hai câu danh ngôn trong “Kinh Dịch” (một cuốn sách cổ của Trung Quốc), nguyên văn là: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. Ý nghĩa là một dòng họ mà làm việc thiện sẽ có thể bảo hộ và chở che cho con cháu, ngược lại, một dòng họ mà làm nhiều việc ác thì tất sẽ dẫn đến tai hoạ cho cả con cháu đời sau. Từ đó có thể thấy, dân tộc Trung Hoa từ thuở xa xưa đã tiếp thu những tư tưởng về nhân quả báo ứng này. Phần lớn người Trung Quốc thời xưa đều có niềm tin vào thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Những thiên tai, nhân họa xảy ra trong cuộc sống hiện thực là những cảnh báo quan trọng đối với hành vi của con người. Nó không chỉ thể hiện qua nghiệp báo ngay trong đời này, mà còn có mối quan hệ nhân quả nhất định với những việc xấu mà tổ tiên đã gây ra.

Từ xưa tới nay, những ví dụ có thật về thiện ác hữu báo trong hiện thực cuộc sống là nhiều không kể xiết. Bởi vì thiện ác hữu báo chính là Thiên lý. Vì vậy, từ những bậc hoàng đế, tể tướng, cho đến bàn dân trăm họ, chưa từng có ai làm điều xấu mà cuối cùng không gặp phải báo ứng. Ví dụ như vào triều đại nhà Tống (960-1279) ở Trung Quốc có đại gian thần Tần Cối, mặc dù ông ta đã từng có thời nắm giữ nhiều quyền thế hiển hách, một tay che cả bầu trời, nhưng bởi vì ông ta làm nhiều điều ác, hãm hại những người trung lương, lạm sát người tốt, bởi vậy trước khi chết, ông ta đã phải chịu quả báo nhãn tiền, trên lưng ông đã mọc các cục ung nhọt và khiến ông ta chết trong sự đau đớn. Sau khi ông ta chết, người đời đã đúc tượng sắt ông ta đặt quỳ trước ngôi mộ của Nhạc Phi, để ông ta bị người đời chửi rủa nghìn năm. Đó là minh chứng cho việc làm điều ác phải chịu báo ứng. Việc làm tà ác của Tần Cối còn làm tổn hại đến con cháu đời sau, đến nỗi đời sau, rất nhiều người cảm thấy mang họ Tần là một điều ô nhục.

Tác giả bài viết này hồi nhỏ đã từng nghe kể rằng trong thôn của mình có một tên hung đồ. Vì để thoả mãn lợi ích cá nhân nên đã giết chết người hàng xóm; thân quyến của nạn nhân tuy không tới để trả thù hắn; nhưng bản thân hắn ta ngoài việc bị giam ở trong tù ra, thì một trong hai người con trai của hắn không biết tại sao lại bị rớt xuống giếng và chết chìm trong đó. Người con trai còn lại lớn lên đột nhiên mắc phải bệnh tâm thần, cuối cùng đã nhảy lầu tự sát.

Kể đến một vài ví dụ có thực đã xảy ra vài năm gần đây thì tại thôn Quan Lập, khu vực Tô Gia Đồn, thành phố Thẩm Dương, Trung Quốc. Có một thầy giáo dạy vẽ tại trường trung học mỹ thuật 68 tên là Trương Đồng Hưng, đã tổ chức cho học sinh ký tên để phỉ báng Pháp Luân Công, hơn nữa ông ta còn vẽ những bức tranh châm biếm nhằm đả kích và chửi rủa Pháp Luân Công. Kết quả là vào ngày 11 tháng 8 năm 2003, trong khi Trương Đồng Hưng đang câu cá thì một trận bão đột ngột kéo đến, ông ta đã bị sét đánh trúng và chết ngay tại chỗ. Sau khi bị sét đánh thì thân thể của Trương Đồng Hưng bị chảy máu ở phần gáy, tóc bị cháy xém, mũ và chỗ quần áo trước ngực bị sét đánh ra những lỗ thủng to bằng cái bát, phần vải xung quanh đó cũng đều bị cháy. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, đời người chỉ vài chục năm ngắn ngủi, chúng ta gieo nhân gì thì sẽ gặt quả nấy. Vô luận là ai trên đời này đã làm những việc xấu thương thiên hại lý gì, thì ngoài việc bản thân họ phải hoàn trả nợ gây ra, con cháu đời sau có lẽ vì vậy mà cũng sẽ gặp tai hoạ.

Những ví dụ thực tế về thiện ác hữu báo là nhiều không đếm xuể. Theo sử sách có ghi chép rằng, vào thời cổ đại, ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc có một người tên là Dương Vinh, làm chức vị Thiếu Sư (một chức quan, là thầy dạy cho thái tử). Tổ tiên của ông làm nghề chèo thuyền đưa người dân qua sông, mỗi khi xuất hiện mưa lũ tới tàn phá nhà cửa người dân thì cả người lẫn súc vật và của cải đều bị cuốn đi theo dòng nước lũ. Những chiếc thuyền khác thì luôn tranh giành vét tìm của cải, hàng hóa, duy chỉ có tổ tiên của Dương Vinh là đặt việc cứu người làm trọng. Của cải, tài vật một chút cũng đều không lấy. Người dân trong thôn thấy vậy đều cười và cho rằng ông thật ngốc nghếch. Đến khi cha của Dương Vinh sinh ra, nhà họ Dương dần dần trở nên giàu có. Một ngày nọ, một vị Thần tiên hoá thành một Đạo sĩ đến nhà và nói với cha của Dương Vinh rằng: “Tổ tiên của ngươi đã tích rất nhiều âm đức, vậy nên con cháu đời sau nhất định sẽ được thừa hưởng vinh hoa phú quý”. Vị Đạo sĩ còn nói cho cha ông nơi thích hợp để có thể xây mộ tổ tiên. Vì vậy cha của Dương Vinh nghe theo lời của Đạo sĩ đã mai táng cha và ông nội của ông ở đó. Sau khi Dương Vinh sinh ra và lớn lên, thì 20 tuổi đã đỗ trạng nguyên, sau này ông làm tới chức tam công (ba chức quan cao nhất thời phong kiến). Hơn nữa, hoàng đế còn ban cho ông cố, ông nội và cha của ông ấy một chức quan ngang với chức Thiếu Sư. Con cháu đời sau của ông không những thịnh vượng bất suy mà còn sinh xuất ra rất nhiều kẻ sĩ có tài đức, có đức.

Thần mục như điện, sơ nhi bất lậu (nghĩa là: mắt của Thần như điện, tuy không dõi theo quá sát sao nhưng khó thoát). Sự chân thành và lương thiện của con người cuối cùng sẽ được hưởng phúc báo. Ngược lại, những người làm điều xấu ác cuối cùng sẽ không cách nào thoát khỏi sự trừng phạt của ông Trời.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/3/31/43059.html

The post Danh ngôn cuộc sống: “Gia đình tích thiện thừa niềm vui, gia đình tích ác hoạ tất đến” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Lời dạy của mẹ tể tướng Điền Tắchttps://chanhkien.org/2021/07/loi-day-cua-me-te-tuong-dien-tac.htmlWed, 07 Jul 2021 14:33:56 +0000https://chanhkien.org/?p=27639Đàm luận về sự biến chuyển của vai trò người mẹ từ xưa đến nay Tác giả: Dương Kỷ Đại [ChanhKien.org] Phụ nữ thời nay một khi trở thành vợ, thành mẹ rồi, đều luôn cảm thán rằng: “Làm mẹ thật khó!”. Kết cấu của xã hội thời xưa thì phần lớn đàn ông lo […]

The post Lời dạy của mẹ tể tướng Điền Tắc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đàm luận về sự biến chuyển của vai trò người mẹ từ xưa đến nay

Tác giả: Dương Kỷ Đại

[ChanhKien.org]

Phụ nữ thời nay một khi trở thành vợ, thành mẹ rồi, đều luôn cảm thán rằng: “Làm mẹ thật khó!”. Kết cấu của xã hội thời xưa thì phần lớn đàn ông lo việc bên ngoài, còn phụ nữ lo việc bên trong, chỉ cần trông nom gia đình tốt, làm tốt bổn phận ở bên trong thì đã được tính là tận hết trách nhiệm rồi. Thuận theo sự thay đổi của thời đại, nữ quyền tăng cao, thế là phụ nữ lần lượt bước ra khỏi gia đình, bắt đầu kiêm cả việc bên ngoài lẫn việc bên trong để cho cuộc sống vật chất sinh hoạt được đầy đủ tiện nghi bằng việc có hai thu nhập (của chồng và của vợ). Hệ lụy đi cùng với đó là, người phụ nữ cũng phải chịu đựng hoàn cảnh khắc nghiệt hơn từ áp lực công việc căng thẳng, tinh thần và sức lực hao tổn quá độ, bận không thoát ra được. Đây là sự trả giá quá đắt cho sự hưởng thụ vật chất.

Cùng nhìn lại vào thời kỳ Tiên Tần, thời mà kết cấu xã hội khá đơn giản, quan hệ giữa người với người tương đối đơn thuần, phụ nữ có nhiệm vụ làm sao để giữ tròn vai trò của người mẹ, ngoài những câu chuyện quen thuộc với mọi người như chuyện “Mạnh mẫu tam thiên” (Mạnh mẫu ba lần chuyển nhà) và chuyện “đoạn cơ giáo tử” (chặt vải khung cửi để dạy con), còn lưu truyền một câu chuyện “Điền mẫu giới tử” (Điền mẫu khuyên bảo con) làm cảm động lòng người như sau:

Nước Tề thời Chiến quốc, dân giàu nước mạnh, được các chư hầu liệt vào một trong những nước lớn có quốc lực mạnh ở Trung Quốc thời đó. Thời Tề Tuyên Vương chấp chính, ông đã phong Điền Tắc làm tể tướng, thi hành nền chính trị thanh minh, quan lại liêm khiết. Tuy nhiên, mọi người đều cho rằng hết thảy những vinh hiển này là nhờ phương pháp dạy con của mẹ Điền Tắc.

Một ngày, Điền Tắc ngồi trên xe về nhà. Giống như mọi ngày, việc đầu tiên của ông là tới cao đường vấn an mẹ. Mẹ của Điền Tắc vốn là người giỏi việc quan sát lời nói và vẻ mặt của người khác, bà luôn có thể từ biểu hiện và ngữ khí của con mà nhìn ra được tình hình một ngày làm việc nơi triều chính của con mình. Sau khi Điền Tắc thăm hỏi mẹ, trên mặt ông biểu lộ dáng vẻ vui mừng, rồi thuận từ tay áo lấy ra hàng trăm dật vàng [1], hai tay dâng lên: “Số vàng này con xin dâng tặng lên mẹ”. Điền mẫu thân trông thấy vàng nhiều như vậy, bỗng nhiên sinh lòng hoài nghi. Vẻ mặt bình tĩnh hỏi: “Con mới làm tể tướng được ba năm, bổng lộc chưa bao giờ nhiều thế này. Đây là quân vương khen thưởng sao? Hay là các quan hối lộ vậy?” Điền Tắc im lặng không dám lên tiếng. Điền mẫu thân thấy vậy trong lòng đã biết được đến bảy tám phần, liền nghiêm túc hỏi: “Con vì sao lại không trả lời vậy?”

Điền Tắc vốn là tướng của nước Tề, mặc dù ở cung đình, không ai dám phạm đến uy nghiêm của ông, nhưng khi ở nhà lại luôn sợ những lời răn dạy nghiêm khắc của mẹ. Ông trước giờ cũng không dám lừa dối mẹ nên đã thành thật nói với mẹ về nguồn gốc của số vàng ấy. Nguyên lai là do một vị quan chức vì không làm tròn trách nghiệm, hy vọng Điền Tắc ở trước mặt Tề Vương nói đỡ vài lời, cầu xin được bỏ qua, cho nên đã lén lút đưa số tiền vàng này cho ông. Điền Tắc lúc đó khăng khăng cự tuyệt, nhưng vị quan này cứ mãi không buông, còn nói đó là để hiếu kính với mẹ Điền Tắc. Điền Tắc là một người con hiếu thảo, cuối cùng bất đắc dĩ cũng đành nhận.

Điền mẫu nghe xong, nghiêm mặt nói: “Con trai nghe này, con nhận hối lộ của cấp dưới, đó là bất thành bất nghĩa, bất trung bất hiếu! Ta nghe nói rằng kẻ sĩ nghiêm khắc tu sửa bản thân, giữ mình trong sạch, không nhận của cải tùy tiện; chính trực thẳng thắn, không làm việc giả dối. Việc bất nghĩa không chứa trong tâm, của cải bất nhân không nhận vào nhà, lời nói và việc làm như một, nội tâm thế nào biểu hiện ra ngoài sẽ như thế. Con nhận hối lộ, vì để cho người ta thoát khỏi bị trách tội, nhưng lại làm hại đến quốc pháp, đây là hành vi không trung thực cũng là đánh mất đi lễ nghĩa! Ngày nay quân vương để con làm tướng quốc nước Tề, hưởng thụ bổng lộc hậu hĩnh, nhưng mà ngôn hành của con có thể báo đáp sự tin tưởng và ân tình của quân vương không? Làm trọng thần của đất nước, ở đâu làm gì cũng cần phải làm gương cho các quan khác, việc của quân vương như việc của cha, cần phải tận tâm hết khả năng, trung tín không lừa dối, coi việc trung thành đến chết là nghĩa vụ bản thân, chấp hành mệnh lệnh của quân vương và pháp luật quốc gia, cần phải công chính liêm khiết, như thế sẽ không có tai họa nào xảy đến. Nhưng mà hiện tại con rời quá xa trung nghĩa rồi. Làm thần tử mà bất trung, chẳng khác nào làm một đứa con bất hiếu, lấy danh nghĩa mẹ mà nhận của cải bất nghĩa của người, thực tế là làm việc bất nghĩa mà hãm hại đến người thân. Cho nên con vừa không phải bậc trung thần, vừa không phải một đứa con có hiếu! Đứa con bất hiếu này, không phải con của ta, lập tức hãy cút khỏi cái nhà này!” Nói xong, Điền mẫu thân tay vịn quải trượng, tức giận trở về phòng cũng không ngoảnh đầu nhìn lại.

Điền Tắc nằm rạp xuống đất, khuôn mặt đầy vẻ xấu hổ, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, chỉ ước có thể chui đầu xuống đất. Đợi sau khi mẫu thân rời khỏi sảnh đường, ông lập tức sai người đánh xe đem vàng trả lại cho cấp dưới, mãi đến tối mới về. Hôm sau, Điền Tắc lên triều, diện kiến Tề Tuyên Vương và khẩn cầu xin được trị tội, bãi miễn và cách chức bản thân mình.

Tuyên Vương sau khi phái người dò hỏi, biết được đầu đuôi sự việc, đã tấm tắc tán thưởng khí phách và mẫu đức của Điền mẫu không thôi. Ông đích thân đến phủ thăm hỏi Điền mẫu, hầu cận đi theo cũng từ tận đáy lòng kính nể đối với bà. Tuyên Vương nói với quần thần rằng: “Có hiền mẫu thì tất có lương quan! Mẫu thân của tướng quốc hiền đức như vậy, ta không còn phải lo lại trị (tác phong và uy tín của quan lại) của nước Tề ta không trong sạch”. Ông đứng trước mặt Điền mẫu, biểu dương phẩm đức quang minh lỗi lạc biết hối cải nhận tội của Điền Tắc, nên đã đặc xá cho tội lỗi của Điền Tắc, khôi phục tướng vị, cũng tự mình ban tặng vàng cùng vải vóc cho Điền mẫu, để biểu thị tấm lòng tôn kính với Điền mẫu.

Từ đó về sau, Điền Tắc càng thêm chú ý tu thân bảo trì sự trong sạch, vì thế mà trở thành vị tướng quốc rất có thành tựu thời kỳ Chiến Quốc.

Mặc dù môi trường thời xưa và nay có sự khác biệt lớn, nhưng trách nhiệm làm mẹ thì đều giống nhau, đều cần phải giúp đỡ chồng và dạy dỗ con cái, vả lại cần chú trọng tới việc lấy mình làm tấm gương để giáo dục hơn là giáo dục bằng lời nói, thời thời khắc khắc cần phải chú ý ngôn hành, cử chỉ của bản thân, cần cảnh giác giữ gìn đạo đức phẩm hạnh của mình. Chỉ là do thời xưa chưa từng có xã hội hỗn loạn như bây giờ, lòng người không có phức tạp như bây giờ, không có ao sâu dục vọng khó lấp đầy như bây giờ, cũng không có hưởng thụ vật và sự hấp dẫn bên ngoài cao độ như bây giờ. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã phá vỡ sự đơn thuần của môi trường sống, từ đó dẫn đến các vấn nạn của xã hội, làm gia tăng thêm độ khó đến mức cao nhất của việc diễn tròn vai trò một người mẹ tốt! Nhưng cũng có không hề ít những bà mẹ có tâm, đang kiên trì mò mẫm, trong khi dụng tâm mà có thu hoạch, họ là nhóm người thầm lặng, là nhóm người khiến người ta phải cảm phục.

[1] 1 dật là khoảng 20 lượng vàng (có cách nói là 24 lượng vàng)

Dịch từ: https://www.epochtimes.com/gb/7/9/3/n1822494.htm
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4886

The post Lời dạy của mẹ tể tướng Điền Tắc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Người chăn cừu thấy Quan Âm Bồ Tát đang khóchttps://chanhkien.org/2021/06/nguoi-chan-cuu-thay-quan-am-bo-tat-dang-khoc.htmlWed, 30 Jun 2021 15:16:01 +0000https://chanhkien.org/?p=27610Tác giả: Mộng Tỉnh [ChanhKien.org] Trong lịch sử, khi đạo đức của con người trở nên bại hoại, làm nhiều điều ác, tới lúc sắp bị đào thải, thì Thần Phật luôn từ bi với con người, sẽ thông qua các phương thức để điểm hóa, cảnh tỉnh cho con người, khiến con người hồi […]

The post Người chăn cừu thấy Quan Âm Bồ Tát đang khóc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộng Tỉnh

[ChanhKien.org]

Trong lịch sử, khi đạo đức của con người trở nên bại hoại, làm nhiều điều ác, tới lúc sắp bị đào thải, thì Thần Phật luôn từ bi với con người, sẽ thông qua các phương thức để điểm hóa, cảnh tỉnh cho con người, khiến con người hồi tâm chuyển ý, bỏ cái ác theo cái thiện. Vì để cho con người có cơ hội hối cải, có lúc Thần Phật sẽ dùng cách thức khiến động vật chết thay con người, để con người tỉnh ngộ.

Đây là câu chuyện mà mẹ kể tôi nghe khi còn nhỏ, mẹ kể rằng:

Ngày xưa có một người chăn cừu sống ở rìa làng, một hôm, anh nhìn thấy trên một gò đất có một cụ bà đang khóc, tiếng khóc nghe rất thương tâm. Bà vừa khóc vừa quở trách: Các con ơi, vì sao các con không nghe lời người già, các con thật là có tội lớn lắm, ta sao có thể cứu các con đây! Bà cứ khóc như vậy rất lâu. Người chăn cừu thầm nghĩ, giữa trưa mà bà cụ khóc lâu như vậy, chắc hẳn là con cái không hiếu thuận rồi, mình thử qua xem cụ bà là ai, rồi khuyên bà trở về nhà vậy.

Người chăn cừu còn chưa đi tới trước mặt bà cụ thì thấy một luồng gió lốc thổi lên, anh ngước nhìn lên bầu trời và nhìn thấy Quan Âm Bồ Tát. Người chăn cừu lập tức quỳ xuống đất và nói: “Hỡi Bồ Tát trên cao, con có thể thấy Người, con thật là có diễm phúc, xin Bồ Tát phù hộ!”. Quan Âm Bồ Tát nói: “Ta thấy con cũng vẫn còn là người tốt, hãy đi nói cho người dân trong thôn rằng nếu con người làm những việc xấu như bất kính với Thần Phật, làm trộm cướp, kỹ nữ, ngược đãi người già, thì khi tội ác to lớn rồi, Ông Trời sẽ trừng phạt con người, vì để cho con người cơ hội ăn năn, hối cải, trước tiên sẽ làm cho động vật chết thay con người.”

Người chăn cừu không dám chậm trễ, sau khi trở về thôn làng, anh nhanh chóng lần lượt chạy tới từng nhà để báo tin và cũng nhiều lần dặn dò họ rằng chớ có làm điều xấu nữa, nếu không Ông Trời sẽ trừng phạt. Quan Âm Bồ Tát đã nói, vì để cho chúng ta cơ hội ăn năn, hối cải, trước tiên sẽ làm cho động vật chết thay con người. Có một số người nghe xong rất sợ hãi, bày tỏ rằng sẽ không làm điều xấu nữa, còn một số người nghe xong thì cười ha hả, Quan Âm Bồ Tát ở đâu vậy? Anh bị hoa mắt rồi. Tôi không tin những điều đó.

Từ đó trở đi, đại ôn dịch trong thôn bắt đầu hoành hành. Cả thôn những loài vật nuôi như la, ngựa, bò, dê, lợn, chó, gà, vịt đều chết sạch. Đã mười năm trôi qua, mọi người vẫn tiếp tục làm điều xấu mà không có dấu hiệu hối cải, muốn làm việc xấu thì vẫn làm việc xấu.

Một ngày, người chăn cừu lại thấy một cụ bà đang khóc trên gò đất lớn đó. Bà cụ vừa khóc vừa nói: Các con của ta, các con không nghe lời ta rồi, các con muốn làm việc xấu thì vẫn làm việc xấu, Ông Trời không cần các con nữa. Lúc trước động vật đã chết thay các con, bây giờ thì ai chết thay các con đây! Người chăn cừu trong lòng thầm nghĩ, có lẽ bà lão chính là Quan Âm Bồ Tát, anh nhanh chóng chạy tới để nhìn cho rõ hơn thì chỉ thấy một luồng gió lốc thổi lên, anh ngẩng cao đầu nhìn lên, quả nhiên đúng là Quan Âm Bồ Tát. Người chăn cừu vội vã dập đầu bái lạy: “Thưa Bồ Tát, xin người phù hộ, xin người phù hộ”. Lần này Quan Âm Bồ Tát không nói gì cả rồi biến mất.

Không lâu sau, trong thôn làng bắt đầu xuất hiện đại ôn dịch. Ngoại trừ gia đình người chăn cừu và một vài gia đình biết tích đức hành thiện ra thì hầu như từng hộ từng hộ trong thôn đều chết hết cả. Có người chết trong lúc đi đường hoặc đang làm việc hoặc lúc đang ngủ. Lúc đầu khi có người chết thì còn có người khiêng đi, còn có người đem đi chôn, về sau do không có ai khiêng đi, không có ai đem đi chôn thế nên trên đường đầy những xác người. Thôn làng cứ như vậy cho tới khi trở nên không một bóng người.

Đại dịch bệnh ngày hôm nay chính là sự trừng phạt và đào thải của Ông Trời đối với con người, là do đạo đức của nhân loại đã trở nên bại hoại mà gây ra. Đặc biệt là những ai đang trực tiếp bức hại Đại Pháp vũ trụ “Chân-Thiện-Nhẫn”, nếu không hối cải thì kết cục cũng sẽ vô cùng thảm thương.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/268094

The post Người chăn cừu thấy Quan Âm Bồ Tát đang khóc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cuộc chiến chính tà nơi Thần giớihttps://chanhkien.org/2021/06/cuoc-chien-chinh-ta-noi-than-gioi.htmlSun, 13 Jun 2021 12:00:46 +0000https://chanhkien.org/?p=27555Tác giả: Lỗ Duyên [ChanhKien.org] Tại cõi người này có người tốt và người xấu, mà ở cảnh giới của Thần thì cũng có chút khác biệt. Thậm chí đôi khi cũng nổ ra những cuộc chiến tranh nhỏ. Dựa theo ghi chép trong “Quảng dị ký” thì vào thời nhà Đường ở Trung Quốc […]

The post Cuộc chiến chính tà nơi Thần giới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lỗ Duyên

[ChanhKien.org]

Tại cõi người này có người tốt và người xấu, mà ở cảnh giới của Thần thì cũng có chút khác biệt. Thậm chí đôi khi cũng nổ ra những cuộc chiến tranh nhỏ.

Dựa theo ghi chép trong “Quảng dị ký” thì vào thời nhà Đường ở Trung Quốc vào những năm Khai Nguyên, Thứ sử Hoạt Châu tên là Vi Tú Trang trong một lần nghỉ ngơi tại lầu gác, đang trong lúc xem ngắm cảnh tượng sông Hoàng Hà thì bỗng thấy một người thân mặc áo tím đầu đội mũ đỏ đi tới, tuy nhiên người này chỉ có chiều cao tầm 3 thước {khoảng 1m}. Người này hướng về phía Vi Tú Trang tham bái và xưng tên. Vi Tú Trang biết đây không phải là người phàm, bèn hỏi ông là Thần gì? Người đàn ông này khi đó mới đáp rằng ông là Thành hoàng của tòa thành này. Vi Tú Trang khi đó lại hỏi ông ta đến đây có việc gì, Thành hoàng đáp: “Hoàng Hà Thần muốn phá hủy tòa thành này, để cho dòng của sông Hoàng Hà được thông suốt. Tuy nhiên tôi đã cự tuyệt yêu cầu đó của ông ta. Vì vậy đúng 5 ngày nữa, tôi và ông ấy sẽ có một trận giao chiến tại bờ sông này. Tôi lo ngại rằng bản thân đánh không lại Hoàng Hà Thần nên mới tới đây để cầu viện ông. Nếu như khi đó ông có thể cử 2000 cung thủ đến giúp tôi thì tôi nhất định có thể đánh thắng Hoàng Hà Thần. Thành này là ông sở quản, chuyện này trông cậy cả vào ông đó.”

Sau khi Vi Tú Trang đồng ý yêu cầu của Thành hoàng, thì Thành hoàng liền biến mất. Đúng 5 ngày sau, Vi Tú Trang xuất lĩnh 2000 quân tinh nhuệ lên trên mặt thành trực chiến, khi ấy mặt sông Hoàng Hà bỗng trở nên tối đen như mực, sau đó bốc lên một làn khí trắng cao hơn 10 trượng, đồng thời trên lầu ở cổng thành cũng bốc ra một làn khí xanh, quấn lấy làn khí trắng. Lúc này Vi Tú Trang lệnh cho 2000 cung thủ bắn tên về phía khối khí trắng, khối khí trắng dần dần nhỏ lại rồi tiêu mất, sau cùng chỉ còn lại khối khí xanh ở đó. Một lúc sau, khí xanh bốc lên trên, hóa vào trong mây, rồi bay tới phía lầu gác. Trước khi trận chiến bắt đầu, nước sông Hoàng Hà đã áp sát dưới thành, về sau mới từ từ rút xuống, một mực rút đến khi cách thành 5 – 6 dặm như hiện tại. (Xuất xứ từ “Quảng dị ký”)

Câu chuyện “Phong thần diễn nghĩa” nếu xem trên bề mặt thì chỉ là một quá trình của việc Vũ Vương đánh bại Trụ Vương nhà Thương, lập ra nhà Chu. Mà nguyên nhân thực sự của việc này lại chính là một trận chiến chính tà xảy ra tại thiên giới. Trong đó, rất nhiều Thần không phù hợp tiêu chuẩn thiên giới (ví như Thân Công Báo) đã bị đánh xuống. Cũng có vị mất đi tự do, làm Thần của nhân gian (Khương Tử Nha phong Thần).

Xã hội ngày nay cũng là như vậy, nhìn qua là tranh đấu của nhân loại nhưng kỳ thực đều là có quan hệ với Thần trên trời. Vì sao sự tình nhân gian lại có quan hệ với thiên tượng, điều vốn dĩ được gọi là “Thiên tượng” ấy há chẳng phải là biến hóa của thiên giới đó sao?

Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý trong “Tam quốc diễn nghĩa” đều là những bậc cao thủ xem thiên tượng, trên trời có sao rơi rụng, trên mặt đất liền có yếu nhân tử vong. Đây chính là những biểu hiện [đối chứng] của thiên tượng và nhân gian.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/268001

The post Cuộc chiến chính tà nơi Thần giới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện xưa về ác báo: Hành dâm chiêu họa, tổn hại phúc đứchttps://chanhkien.org/2021/06/chuyen-xua-ve-ac-bao-hanh-dam-chieu-hoa-ton-hai-phuc-duc.htmlSat, 05 Jun 2021 09:27:57 +0000https://chanhkien.org/?p=27532[ChanhKien.org] Bùi Chương người Hà Đông tỉnh Sơn Tây, cha ông có một người bạn rất thân thiết là pháp sư Đàm Chiếu. Pháp sư Đàm Chiếu tinh thông tướng số, khi xem tướng cho Bùi Chương, thấy rằng Bùi Chương vầng trán tròn đầy, nét cằm vuông vắn, sau này nhất định sẽ thành […]

The post Chuyện xưa về ác báo: Hành dâm chiêu họa, tổn hại phúc đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Bùi Chương người Hà Đông tỉnh Sơn Tây, cha ông có một người bạn rất thân thiết là pháp sư Đàm Chiếu. Pháp sư Đàm Chiếu tinh thông tướng số, khi xem tướng cho Bùi Chương, thấy rằng Bùi Chương vầng trán tròn đầy, nét cằm vuông vắn, sau này nhất định sẽ thành tựu công danh sự nghiệp.

Lúc Bùi Chương 20 tuổi, cưới một người vợ là Lý Thị, sau đó một năm Bùi Chương đến Thái Nguyên nhậm chức, để lại người vợ ở nhà. Vài năm sau, Bùi Chương gặp lại pháp sư Đàm Chiếu, pháp sư mười phần kinh ngạc nói: “Mấy năm trước, ta xem thấy tướng mạo của cậu vinh hiển phú quý. Tại sao bây giờ lại thay đổi như vậy? Vầng trán tròn đầy trước kia của cậu nay sao lại lõm xuống thế này? Cằm của cậu trước kia vuông vắn cân xứng thì nay sao lại nhọn như vậy chứ? Ta còn thấy quanh lòng bàn tay của cậu có cả khí đen, e rằng có họa khó lường, cậu hãy nên cẩn thận đề phòng. Tướng mạo của cậu thay đổi nhiều như vậy, liệu có phải đã làm việc gì thất đức không?”

Bùi Chương nghe xong, bắt đầu phản tỉnh lại các hành vi của mình trong những năm qua, chỉ có việc tư thông với phụ nữ ở Thái Nguyên, ngoài đó ra thì không làm việc gì trái với lương tâm. Pháp sư Đàm Chiếu thở dài nói: “Cậu đáng lẽ đã có tiền đồ tốt đẹp, vì sao không biết trân trọng. Cậu hành dâm với con gái nhà người ta, đã làm hao tổn phúc đức của bản thân rồi, đáng tiếc thay!”. Không lâu sau, Bùi Chương thật sự gặp phải tai họa chết người như lời tiên đoán của Đàm Chiếu. Một lần, trong khi đang tắm, hầu cận của ông đã đến ám sát và chém vào bụng, ông đã chết trong tình trạng lục phủ ngũ tạng đều văng ra ngoài.

Dịch từ: http://www.minghui.org/mh/articles/2005/11/26/115164.html

The post Chuyện xưa về ác báo: Hành dâm chiêu họa, tổn hại phúc đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo đức là phương thuốc tốt nhất để giải quyết mọi bệnh tật và tai họahttps://chanhkien.org/2021/04/dao-duc-la-phuong-thuoc-tot-nhat-de-giai-quyet-moi-benh-tat-va-tai-hoa.htmlFri, 23 Apr 2021 15:36:12 +0000https://chanhkien.org/?p=27427Tác giả: Sơ Trung [ChanhKien.org] Trong “Phật gia kinh điển cố sự” (chuyện cổ Phật gia) có ghi lại một câu chuyện như sau: có một người sau khi chết đến gặp Phật Tổ, anh ta vừa khóc vừa nói với Phật Tổ: “Thưa Đức Phật, tại sao Ngài lại nhẫn tâm như vậy? Ngài […]

The post Đạo đức là phương thuốc tốt nhất để giải quyết mọi bệnh tật và tai họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sơ Trung

[ChanhKien.org]

Trong “Phật gia kinh điển cố sự” (chuyện cổ Phật gia) có ghi lại một câu chuyện như sau: có một người sau khi chết đến gặp Phật Tổ, anh ta vừa khóc vừa nói với Phật Tổ: “Thưa Đức Phật, tại sao Ngài lại nhẫn tâm như vậy? Ngài để con cả ngày phải bận rộn, nhưng chẳng được gì cả; ban đêm hồn vía lên mây, run rẩy sợ hãi, không có ngày nào mà con không đau khổ!”

Đức Phật hỏi: “Thế đó là vì sao?”

Người đàn ông trả lời: “Ban ngày vì kiếm tiền để sinh sống, con đã nói nhiều lời dối trá, làm nhiều điều trái với lương tâm, nhưng đó là để sinh tồn, con chẳng để giành được gì cả. Khi đêm đến, con không tài nào ngủ được, cứ như đang ở trong địa ngục vậy. Thưa Đức Phật, cuộc sống con người vốn không dễ dàng, Ngài vì sao cứ muốn hành hạ con như thế?”

Đức Phật nói: “Ngươi lừa dối người khác để kiếm sống, chứ không phải sinh tồn bằng con đường chính đáng. Ta là người nhân từ, sẽ không bao giờ đẩy một người chính trực vào tình cảnh tuyệt vọng. Tâm hồn của ngươi đầy cỏ độc, cần một liều thuốc mới có thể loại bỏ nó.”

Người này vội hỏi: “Đó là loại thuốc gì vậy? Ngài hãy cho con biết tên thuốc, con sẽ mua ngay!”

Đức Phật nói: “Thuốc đó là đạo đức. Đạo đức là thần dược có thể ngăn ngừa mọi bệnh tật.”

Trong thời Nam Bắc triều, cuốn sách cổ “Lục dị truyện” của Lưu Tống đã ghi lại một câu chuyện về một huyện lệnh bị nhiễm bệnh dịch đã cầu xin các vị Thần chữa lành. Câu chuyện như sau: Ngô Sỹ Cơ là quan huyện lệnh Gia Hưng, bị nhiễm bệnh sốt rét. Khi đi ngang qua một ngôi đền ở Vũ Xương, ông đã phái người thay mặt mình đến cúng bái và thành tâm cầu nguyện Thần linh giúp ông thoát khỏi căn bệnh “sốt rét” mà ông đang mắc. Sau khi rời khỏi đền thờ hơn 20 dặm, ông dừng lại nghỉ và ngủ. Trong giấc mơ, ông thấy một người cưỡi ngựa trên mặt hồ đuổi theo ông và gọi, đuổi rất gấp. Cuối cùng cũng đuổi kịp thuyền của Ngô Sỹ Cơ, ông ta và một quan sử lên thuyền, bắt trói một sinh mệnh giống như đứa trẻ con và mang nó đi. Ngô Sỹ Cơ tỉnh dậy, bệnh sốt rét của ông đã khỏi.

Có người cho rằng câu chuyện này khiến người ta khó hiểu, kỳ thực do họ không hiểu văn hóa truyền thống, văn hóa truyền thống là văn hóa Thần truyền, văn hóa nửa Thần nửa nhân. Người xưa tin rằng dịch bệnh và bệnh truyền nhiễm được điều khiển bởi Ôn Thần ở không gian cao tầng, những sinh mệnh trực tiếp khiến con người mắc phải bệnh dịch ở không gian tầng thấp được gọi là ôn quỷ hoặc dịch quỷ, trong đó nhân tố khiến mọi người mắc bệnh sốt rét được gọi là ma sốt rét (ngược quỷ). Sinh mệnh trong hình ảnh đứa trẻ bị Thần linh bắt đi là con ma sốt rét, con ma trong không gian đó đi mất rồi thì bệnh của Ngô Sỹ Cơ ở thế gian này liền khỏi.

Qua câu chuyện văn hóa truyền thống này, có thể thấy con người mắc bệnh không phải là vô duyên vô cớ, mà cũng là do một loại sinh mệnh gây nên. Cầu Thần linh giúp đỡ là giải pháp tốt nhất, mà tin vào Thần Phật đó chẳng phải thuộc phạm trù đạo đức của con người thế gian sao?

Sách cổ “Thái bình quảng ký” ghi lại một câu chuyện có thật như sau: vào thời nhà Tống, phía sau huyện phủ Giang Ninh thành Kiến Khang có một vị vương công mở một quán rượu, cả đời ngay thẳng công bằng, kính tín Thần Phật, ông ấy cũng hết lòng giúp đỡ những người tu luyện. Ông luôn nổi tiếng là mua bán công bằng trung thực nên mọi người gọi ông là “Vương Lão Thực” (Vương Chân Thật).

Tối ngày 15 tháng Hai năm Quý Mão, Tiểu nhị của quán chuẩn bị đóng cửa thì bỗng thấy một số vị tướng mặc áo đỏ, cùng nhiều xe ngựa và người hầu đến quán nghỉ chân. Tiểu nhị vội vàng bẩm báo với Vương Lão Thực, ông Vương nói: “Mau mời vào …” và cung kính bưng rượu thịt ra mời các vị tướng và người hầu. Trong tích tắc, một nhóm tùy tùng mang một bó lớn dây thừng và dụng cụ, đến trước mặt vị tướng bẩm báo: “Xin cho phép bao vây”. Tướng quân gật đầu đồng ý. Những người này ra ngoài đóng các thanh gỗ xuống đất, dùng dây thừng buộc phía trên, vây xung quanh, khắp đường ngang ngõ xóm, ngoài ngõ ngách nhà dân, kể cả những chỗ lồi lõm, tất cả đều được dây thừng bao quanh.

Sau khi hoàn thành, đám tùy tùng bẩm báo: “Đã quây dây thừng xong, quán rượu này cũng đã được vây”. Vị thủ lĩnh tướng quân nói: “Vương Lão Thực cả đời tín Thần, chân thành thiện đãi người, thích làm việc thiện, Thiên đế cũng biết. Chỉ riêng quán này có thể được tha. Nếu không tha thì không thấy được sự công bằng của thiên lý”. Mọi người đồng ý, vội vàng nhổ các thanh gỗ lên, cởi dây thừng, dỡ bỏ hàng rào vây quanh quán.

Sau đó, mọi người lên ngựa phi như bay, biến mất trong nháy mắt. Vương Lão Thực và Tiểu nhị nhìn lại những thanh gỗ và dây thừng được đóng xung quanh thì không thấy đâu nữa, họ hết sức kinh hoàng.

Hai ngày sau, một trận hỏa hoạn lớn xảy ra ở Kiến Khang, tất cả những nơi bị vây dây thừng ngày hôm trước đều bị thiêu rụi không còn một mảnh ngói. Chỉ riêng quán rượu của Vương Lão Thực vẫn bình an vô sự, xung quanh toàn là tro bụi.

Cũng giống như việc con người mắc bệnh, tai nạn ở nhân gian cũng không phải vô duyên vô cớ, mà đều là do Thần linh an bài, có tránh được tai họa hay không đều liên quan đến đạo đức của con người tại thế gian, người tốt không nằm trong số đó. Vương Lão Thực suốt đời thẳng thắn công bằng, kính ngưỡng Thần Phật, mua bán sòng phẳng, thiện đãi người tu luyện, đã tích đức từ trước nên có thể cho ông thấy được quá trình sắp đặt tai họa và nguyên do thoát được tai hoạ, đó là Thần linh khích lệ ông không ngừng làm việc thiện.

Phương thuốc tốt nhất để giải quyết mọi bệnh tật và tai họa trên đời chỉ có thể là đạo đức, là chuẩn mực đạo đức mà Thần Phật công nhận, trước tiên phải tin vào Thần Phật, tôn kính Thần Phật, mới có thể nói là đạo đức chân chính.

Trung Cộng chống lại Thần Phật, tiến hành hàng loạt các cuộc vận động chính trị để phá hủy tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, xoá bỏ nhận thức của con người đối với văn hóa truyền thống, đây chẳng phải là hủy hoại đạo đức của con người từ gốc rễ sao? Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công, phỉ báng Chân – Thiện – Nhẫn, mục đích là hủy hoại triệt để đạo đức con người từ gốc rễ và hủy diệt nhân loại. Đây là lý do thực sự khiến cho Trung Quốc đại lục liên tục hứng chịu thiên tai, bệnh viêm phổi Trung Cộng không ngừng gây hại cho con người. Làm người tốt tuân theo đặc tính Chân – Thiện – Nhẫn của vũ trụ, mới là phương thuốc tốt, phương thuốc bí truyền để giải quyết vận mệnh của nhân loại ngày nay.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/264522

The post Đạo đức là phương thuốc tốt nhất để giải quyết mọi bệnh tật và tai họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiền bạc hoá ra là mầm hoạ, lòng tham ắt sẽ bị trời phạthttps://chanhkien.org/2021/04/tien-bac-hoa-ra-la-mam-hoa-long-tham-khong-day-at-se-bi-troi-trung-tri.htmlWed, 21 Apr 2021 15:24:47 +0000https://chanhkien.org/?p=27424Tác giả: Sơn Hành [ChanhKien.org] Cao Ngũ Nương tham vàng bạc bị trời phạt mà chết Cao Ngũ Nương sống tại Lạc Dương, nét mặt xinh xắn, tái hôn với vị tiên nhân họ Lý. Lý tiên nhân là thần tiên bị thiên thượng giáng chức xuống nhân gian. Sau khi cùng Cao Ngũ Nương […]

The post Tiền bạc hoá ra là mầm hoạ, lòng tham ắt sẽ bị trời phạt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sơn Hành

[ChanhKien.org]

Cao Ngũ Nương tham vàng bạc bị trời phạt mà chết

Cao Ngũ Nương sống tại Lạc Dương, nét mặt xinh xắn, tái hôn với vị tiên nhân họ Lý. Lý tiên nhân là thần tiên bị thiên thượng giáng chức xuống nhân gian. Sau khi cùng Cao Ngũ Nương kết hôn, hai người họ sống tại Lạc Dương, dựa vào thuật luyện vàng để kiếm sống. Cao Ngũ Nương cũng học được kỹ pháp này từ chồng của mình.

Năm Khai Nguyên cuối cùng thời Đường Huyền Tông, Cao Ngũ Nương và Lý tiên nhân lúc này đã kết hôn vợ chồng được 5 – 6 năm. Có một ngày sau canh năm (sau 5 giờ sáng), Lý tiên nhân bỗng nghe thấy từ trong không trung có tiếng gọi, Lý tiên nhân liền khoác áo ra khỏi cửa, nói chuyện cùng người nào đó. Nói xong, ông trở vào nói với Ngũ Nương: “Tôi là tiên nhà trời, trước đây bởi vì sai sót nhỏ, bị giáng chức xuống nhân gian, hiện tại án phạt của tôi đã xong. Thiên thượng cử người đến gọi tôi trở về, tôi không thể ở lại nữa, vợ chồng nhiều năm, hiện tại chia lìa, có thể không bi thương được sao? Sau khi tôi đi, nàng chỉ cần luyện chế vàng bạc tự cấp tự túc là được, nghìn vạn lần cẩn thận, không thể truyền cho người khác. Cũng không luyện nhiều cho người khác, bằng không, không chỉ tổn hại chính bản thân, mà sợ rằng còn bất lợi cho người khác.” Lý tiên nhân nói xong liền bay đi.

Cao Ngũ Nương ban đầu cũng làm theo lời chồng dặn, nhưng về sau do bán ra quá nhiều ngân lượng, nên bị người ta tố giác. Bấy giờ quan Thiếu doãn Hà Nam là Lý Tề biết chuyện, Lý Tề không những không xử phạt mà còn tha cho Cao Ngũ Nương. Sau đó, Lý Tề lại bí mật cho người gọi Cao Ngũ Nương đến. Cao Ngũ Nương tổng cộng đã luyện hơn mười lò ngân khí cho Lý Tề. Lý Tề lại nói việc này cho những kẻ quyền chức khác trong triều. Chưa đầy một năm sau, Lý Tề và Cao Ngũ Nương đều đồng loạt qua đời. Người đương thời biết chuyện đều cho rằng đây hẳn là ông trời đã trừng phạt bọn họ.

(Trích từ “Quảng dị ký”)

Nguồn gốc của danh lợi là phúc phận

Người Trung Quốc có giảng rằng tích đức hướng thiện. Hết thảy mọi thứ của con người đều được đổi lấy từ phúc phận bản thân, cho nên khi một người có vận may, mọi người sẽ nói “tổ tiên người này tích đức”. Chính xác là như vậy, con người nếu không có đức hạnh, không có phúc phận thì không có được bất kỳ điều gì. Nếu như cố cưỡng chế làm để có được thì sẽ phải đánh đổi bằng tính mệnh. Cao Ngũ Nương chính là một ví dụ như vậy.

Dịch từ: https://edit.zhengjian.org/node/266528

The post Tiền bạc hoá ra là mầm hoạ, lòng tham ắt sẽ bị trời phạt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Lòng hiếu thảo được hồi báohttps://chanhkien.org/2021/04/long-hieu-thao-duoc-hoi-bao.htmlTue, 20 Apr 2021 15:26:16 +0000https://chanhkien.org/?p=27423Tác giả: Đại Nguyên [ChanhKien.org] Có câu ngạn ngữ rằng “Cao bất thành, đê bất tựu”, ý nói là việc lớn nhỏ đều làm không xong. Có người việc lớn làm không nổi, việc nhỏ lại không muốn làm, cuối cùng lại chẳng làm nên trò trống gì. Cũng có người không thích câu nệ […]

The post Lòng hiếu thảo được hồi báo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đại Nguyên

[ChanhKien.org]

Có câu ngạn ngữ rằng “Cao bất thành, đê bất tựu”, ý nói là việc lớn nhỏ đều làm không xong. Có người việc lớn làm không nổi, việc nhỏ lại không muốn làm, cuối cùng lại chẳng làm nên trò trống gì. Cũng có người không thích câu nệ tiểu tiết, cho rằng những việc nhỏ vốn dĩ không ảnh hưởng đến đại cục chung nên sẽ lơ đãng không tự ước thúc bản thân. Kỳ thực qua những việc nhỏ, chúng ta mới thấy được bản tính chân thật của một người, vì những việc nhỏ luôn yêu cầu sự kiên trì và bền bỉ, phải kiên nhẫn trong thời gian dài mới có thể làm được.

Trong “Thế thuyết tân ngữ” có một câu chuyện về sự kiên trì, hiếu lễ như sau: Trần Di người quận Ngô, là người vô cùng hiếu thuận với cha mẹ. Mẹ anh thích ăn cơm cháy. Trần Di vốn dĩ giữ chức “Chủ bạ” trong quận, là người chuyên giải quyết sổ sách văn thư. Mỗi ngày, khi đến quận sở làm việc Trần Di đều mang theo một cái túi nhỏ, mỗi khi nấu cơm anh đều dành ra một ít cơm cháy, khi về nhà thì lấy ra cho mẹ ăn. Sau này khi giặc Tôn Ân tiến vào chiếm cứ quận Ngô, quan nội sử trong triều là Viên Sơn Tùng lập tức xuất binh chinh phạt. Lúc đó Trần Di đã dồn được vài đấu cơm cháy, vì tình hình có biến nên không kịp đem cơm về nhà cho mẹ, bèn chỉ biết mang cơm cháy cùng ra chiến trận. Hai bên khai chiến, Viên Sơn Tùng bại trận, quân đội tán loạn, phải chạy trốn đến núi sâu đầm lầy, không có thức ăn, rất nhiều binh lính đã chết đói, chỉ duy nhất một mình Trần Di nhờ ăn cơm cháy mà sống sót. Lúc đó mọi người biết chuyện đều cho rằng điều này là hồi báo cho lòng hiếu thảo thuần hậu của Trần Di đối với mẹ mình.

Người Trung Quốc có câu rằng: “Cha mẹ nằm giường bệnh lâu ngày thì khó có đứa con nào còn hiếu thảo nữa”. Hiếu thuận với cha mẹ xem ra thì vô cùng đơn giản, nhưng cần làm được kiên trì, bền bỉ mới là có hiếu thực sự. Xem qua thì cách hành xử của Trần Di trong câu chuyện trên chỉ là một việc nhỏ: thu lượm cơm cháy cho mẹ sau mỗi ngày nấu cơm, nhưng có thể kiên trì thực hiện một cách không gián đoạn thì thực sự rất khó. Điều này cũng giống như đạo lý “tích tiểu thành đại”, “nước chảy đá mòn”!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/265884

The post Lòng hiếu thảo được hồi báo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thế sự xoay vần, trời xanh liệu có bỏ qua ai?https://chanhkien.org/2021/04/the-su-xoay-van-troi-xanh-lieu-co-bo-qua-ai.htmlSun, 18 Apr 2021 15:49:49 +0000https://chanhkien.org/?p=27420Tác giả: Tân Nguyên [ChanhKien.org] Con người trong cuộc đời sẽ gặp rất nhiều ma nạn, những ma nạn này đều không tách rời hành vi của họ. Ngày hôm nay làm chuyện không tốt thì e rằng ngày mai, năm sau hoặc đời sau, nhất định sẽ có báo ứng tương ứng. 1. Tử […]

The post Thế sự xoay vần, trời xanh liệu có bỏ qua ai? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tân Nguyên

[ChanhKien.org]

Con người trong cuộc đời sẽ gặp rất nhiều ma nạn, những ma nạn này đều không tách rời hành vi của họ. Ngày hôm nay làm chuyện không tốt thì e rằng ngày mai, năm sau hoặc đời sau, nhất định sẽ có báo ứng tương ứng.

1. Tử Tư gieo mầm tai hoạ

Ngũ Tử Tư chinh chiến lập công lao hiển hách cho nước Ngô, tại sao cuối cùng lại chết rất thảm? Nguyên nhân vốn là do trong lúc trên đường chạy trốn khỏi Sở vương, do tâm nghi ngờ của bản thân mà Ngũ Tử Tư đã hại chết một người đáng ra là ân nhân của mình, đây chính là câu chuyện có liên quan đến người phụ nữ giặt vải mà rất nhiều người chúng ta đã biết.

Sách cổ “Chu triều bí sử” có ghi chép lại rằng: Chỉ thấy cách con sông mây mù đầy trời, sóng lớn ầm ĩ, nguyên là Nang Ngõa dẫn binh tới, vì không thấy có thuyền qua lại trên sông nên đã rút binh quay về. Tử Tư thấy vậy rất sợ hãi bèn muốn nhanh chóng chạy sang bờ phía Đông.

Tử Tư cưỡi ngựa đi hơn 50 dặm, thấy một người phụ nữ giặt vải bên sông, Tử Tư cho ngựa đi quanh bờ sông hơn một dặm thì bị lạc đường, phía trước không có người nào để hỏi, vậy nên đành quất ngựa quay về. Đi ngang qua chỗ người phụ nữ giặt vải, Tử Tư nói rằng: “Tôi là Ngũ Viên – thần tử lưu vong của nước Sở! Nguyên vì Sở vương vô đạo, đã giết hại cha và anh trai tôi, nên tôi muốn đầu quân cho Đông Ngô, mượn binh rửa hận, nhưng nay lại lạc mất đường, làm phiền tiểu thư chỉ giúp, tôi quyết không quên báo đáp!” Người phụ nữ chỉ cho con đường đi từ hướng Nam từ đó có thể sang được phía Đông. Tử Tư cảm tạ người phụ nữ này, rồi lên ngựa rời đi, khi đi được mấy bước, Tử Tư còn ngoảnh lại nói với người phụ nữ: “Nếu quân Sở có đuổi tới, nhất định đừng chỉ cho chúng đi về hướng này!” Người phụ nữ đáp lời: “Vâng!” Tử Tư hành lễ cảm tạ rồi lên ngựa đi, tới giữa đường, sợ nữ nhân đầu óc khó đoán, bèn quất ngựa quay lại nói: “Cảm tạ ơn đức sâu dày, tiểu thư đã không chỉ đường cho truy binh truy bắt ta, vậy nên ta xin được biết tính danh, để sau này dễ bề báo đáp?” Cô gái lúc này mới nói: “Thiếp là người họ Mã, vốn chưa có gia đình, cha mất sớm nên mẹ thiếp thủ tiết nuôi con, ngày ngày chỉ biết chăm chỉ trồng dâu dệt vải, lấy đó mà sống qua ngày, thiếp nay vì xót cho tướng quân có mối thù của anh và cha mình nên chỉ đường cho tướng quân khỏi bị lạc, thiếp vốn dĩ chẳng mong báo đáp, nay tướng quân đã đi rồi mà còn quay lại mấy lần, hay chăng là vì nghi ngờ tiểu thiếp chủ tâm bất định, sẽ chỉ đường cho truy binh truy đuổi tướng quân? Nếu quả là vậy thì thiếp nay xin nhảy xuống sông mà chết, chấm dứt nghi ngờ của tướng quân!” Nói xong, nàng ôm một tảng đá lớn nhảy xuống giữa dòng sông mà tuẫn tiết. (Hồi thứ 70 “Khưu Lượng bơi thuyền cứu Tử Tư, cô gái giặt vải ôm đá nhảy sông”).

2. Tử Tư không giết người phụ nữ giặt áo, người phụ nữ giặt áo lại vì ông mà chết

Ngũ Tử Tư vì cha anh mà báo thù, điều ấy có thể hiểu được nhưng không thể vì thế mà khiến vị ân nhân của mình phải nhảy xuống sông tuẫn tiết. Người phụ nữ giặt vải nếu như không nhảy xuống sông thì Ngũ Tử Tư cũng sẽ giết cô ấy, trong mắt ông ta lúc đó việc báo thù là quan trọng nhất, bản thân cũng vì vậy mà đã phải chịu rất nhiều ủy khuất. Như vậy người phụ nữ giặt vải vốn dĩ muốn cứu ông ấy trong tình huống này chẳng phải rất oan uổng sao?

Trong chúng ta, có rất nhiều người khi xem xét một vấn đề nào đó đều đứng trên cơ điểm bản thân mà đo lường đúng sai. Nếu có thiên lý thì tuyệt đối không phải như vậy. Những tội khác có thể tha thứ, nhưng nguyên do cái chết của người phụ nữ giặt vải thì không thể nói là không có liên quan đến Tử Tư. Đây có thể chính là nguyên nhân cái chết sau này của Tử Tư. Cái lý một mạng đền một mạng chính là thiên lý.

Ngày nay rất nhiều người làm việc không có tiết chế và ước thúc. Để đạt được mục đích mà không từ thủ đoạn, theo thiên lý, nhất định đến một ngày người đó sẽ phải bồi thường cho những sai lầm của mình. Mạng của mình là tính mệnh của mình, mạng của người khác chẳng phải cũng vậy sao?

Dịch từ: https://edit.zhengjian.org/node/266461

The post Thế sự xoay vần, trời xanh liệu có bỏ qua ai? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thông minh và chính trựchttps://chanhkien.org/2021/03/thong-minh-va-chinh-truc.htmlTue, 23 Mar 2021 15:30:48 +0000https://chanhkien.org/?p=27340Tác giả: Sơ Trung [ChanhKien.org] Trong “Duyệt vi thảo đường bút ký”, học giả Kỷ Hiểu Lam đời nhà Thanh có ghi chép một câu chuyện giải đáp về sự thông minh và chính trực. Đối với người Trung Quốc ngày hôm nay rất có tác dụng dẫn dắt và ý nghĩa thực tế. Huyện […]

The post Thông minh và chính trực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sơ Trung

[ChanhKien.org]

Trong “Duyệt vi thảo đường bút ký”, học giả Kỷ Hiểu Lam đời nhà Thanh có ghi chép một câu chuyện giải đáp về sự thông minh và chính trực. Đối với người Trung Quốc ngày hôm nay rất có tác dụng dẫn dắt và ý nghĩa thực tế.

Huyện Hiến có một lão nho tên Hàn Sinh. Tính tình cương trực, nhất ngôn nhất hành đều tuân thủ lễ phép,được người quê nhà chọn làm người dâng rượu cúng tế (theo lễ xưa, khi ở thôn quê tụ hội, cần có một người đức cao vọng trọng để nâng rượu tế Thần đất, còn gọi là tế tửu). Một ngày nọ, ông vì lạnh mà mắc bệnh,trong lúc mơ màng thì thấy trước mặt mình một con quỷ nói: “Thành Hoàng gọi nhà ngươi”. Hàn Sinh nghĩ rằng đời này đã có định số, mệnh nên đã tận, cự tuyệt cũng không ích gì, rồi đi theo quỷ đến quan phủ. Sau khi tra danh sách, Thành Hoàng nói: “Người ta muốn bắt cùng họ với nhà người, ta bắt nhầm rồi”. Thành Hoàng phạt con quỷ 20 gậy rồi an bài quỷ đưa Hàn Sinh trở về. Hàn Sinh trong tâm không phục, nói: “Mạng người liên quan tới những việc rất trọng đại, Thành Hoàng sao lại để quỷ hồ đồ mê muội đi làm việc này, để xuất hiện sai lầm như vậy được? Nếu không tra ra tên, tôi chẳng phải chết oan uổng rồi sao? Còn nói là thông minh chính trực gì chứ!” Thành Hoàng cười rồi đáp: “Người ta nói nhà ngươi to gan, hôm nay ta thấy quả thật không sai. Đạo trời vận hành cũng không đảm bảo sẽ không xuất hiện sai lầm, huống chi là các việc làm của quỷ thần? Phạm sai lầm mà lập tức phát hiện ra sai lầm chính là thông minh, thấy cái sai của người mà không che đậy cho họ thì chính là chính trực. Ngươi sao có thể biết điều này chứ? Biết ngươi thường ngày ngôn hành không xúc phạm lễ nghĩa, tạm thời tha thứ, sau này không được nói năng xằng bậy như vậy nữa”. Hàn Sinh đột nhiên tỉnh lại.

Nhân tại mê trung, không thấy được chân tướng của vũ trụ, càng không thấy được hình thức triển hiện của Thiên lý Thiện ác hữu báo, làm thế nào mới tốt, phải dựa vào tự thân mà ngộ. Hàn Sinh tiếp thụ sâu sắc giáo dục của văn hóa truyền thống, vậy mà đối với thông minh và chính trực lý giải còn có chút thiên lệch, huống hồ là người Trung Quốc hôm nay dưới sự độc hại thâm sâu của văn hóa Đảng? Đối với lý giải về thông minh và chính trực thì thậm chí còn làm ngược lại ý đó.

Thời nay ở Trung Quốc có người lý giải thông minh là đoán được lãnh đạo nghĩ gì, không nghĩ thêm xem là đúng hay sai mà cứ thuận theo tâm tư của lãnh đạo mà làm; chỉ muốn vừa lòng lãnh đạo mà không nghĩ về pháp luật và đạo đức, chiểu theo quy tắc ngầm của Trung Cộng mà làm việc, quan thương câu kết, quan chức bao che cho nhau v.v. Họ cũng biết điều này không gọi là “thông minh”, nên gọi thành: “tiểu thông minh”. Họ biết rõ mật lệnh bức hại Pháp Luân Công của Trung Cộng là tà ác, vô nhân tính, biết rõ học viên Pháp Luân Công là tốt, nhưng vẫn theo lệnh mà làm, cực hình bức hại, kết án oan uổng cho học viên Pháp Luân Công. Học viên Pháp Luân Công đã nói làm thế là trái pháp luật, họ biện hộ lại và nói: “Tôi chấp hành mệnh lệnh của lãnh đạo, lãnh đạo chịu trách nhiệm cho tôi”.

Câu chuyện về phép tắc văn hóa truyền thống này như đang hiển lộ cho con người ý nghĩa nguyên gốc của sự thông minh và chính trực, liệu đó có phải là thông qua miệng của Hàn Sinh mà nói thiên cơ cho con người? Khi so sánh với điều con người hôm nay làm, chẳng phải có thể nhìn thấy đạo đức của con người đã bại hoại đến mức độ thật đáng sợ? Đó chính là do Trung Cộng hữu ý làm ra, mục đích chính là hủy diệt nhân loại từ gốc rễ của đạo đức.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/265969

The post Thông minh và chính trực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Thần thoại Hàm Đanhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-than-thoai-ham-dan.htmlSun, 07 Mar 2021 20:47:03 +0000https://chanhkien.org/?p=27237Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Thần thoại Hàm Đan (1): Cây hòe Thần Thần thoại Hàm Đan (2): Thần tích triển hiện trong trận động đất lớn Thần thoại Hàm Đan (3): Đứa trẻ sinh ra đã biết nói Thần thoại Hàm Đan (4): “Minh Nhãn” đến âm phủ […]

The post Loạt bài: Thần thoại Hàm Đan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Thần thoại Hàm Đan (1): Cây hòe Thần

Thần thoại Hàm Đan (2): Thần tích triển hiện trong trận động đất lớn

Thần thoại Hàm Đan (3): Đứa trẻ sinh ra đã biết nói

Thần thoại Hàm Đan (4): “Minh Nhãn” đến âm phủ tìm người

Thần thoại Hàm Đan (5): Năm đóa hoa sen và ba quả cầu lửa

The post Loạt bài: Thần thoại Hàm Đan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ngụy tạo lời ác, huỷ hoại người thanh bạchhttps://chanhkien.org/2021/02/nguy-tao-loi-ac-huy-hoai-nguoi-thanh-bach.htmlWed, 17 Feb 2021 17:24:57 +0000https://chanhkien.org/?p=27071Tác giả: Cam Lộ [ChanhKien.org] Người xưa mở miệng nói chuyện, cầm bút viết chữ không nói về ưu khuyết của người, cũng không cười người thô lỗ quê mùa, cũng không nghị luận sau lưng về khuyết điểm và chuyện nam nữ của người khác, chê bai thất bại của người khác, lại càng […]

The post Ngụy tạo lời ác, huỷ hoại người thanh bạch first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Cam Lộ

[ChanhKien.org]

Người xưa mở miệng nói chuyện, cầm bút viết chữ không nói về ưu khuyết của người, cũng không cười người thô lỗ quê mùa, cũng không nghị luận sau lưng về khuyết điểm và chuyện nam nữ của người khác, chê bai thất bại của người khác, lại càng không gây xích mích ly gián. Cho dù là nói trúng tất cả, cũng là làm chuyện xấu, làm hại người khác, hao tổn phúc đức bản thân, hơn nữa sẽ phải chịu trừng phạt báo ứng tương ứng.

Trong “Thái thượng cảm ứng thiên”, Trần Lương Mô tiên sinh đời Minh có nói tới một chuyện như vậy: Vào lúc Trần Lương Mô tuần sát huyện Công An, có một vị họ Bạch làm chức Giáo dụ (cơ quan giáo dục cao nhất tại một huyện), đi đến kinh thành tham gia thi Hội. Vợ Bạch Giáo dụ rất thiện lương, có vị đạo cô núi Thái Hòa đến hoá duyên, vợ Bạch Giáo dụ lấy danh nghĩa Bạch Giáo dụ bố thí đạo cô một lượng bạc. Lại dùng một trượng vải lanh thêu một lá cờ phướn ghi lại thông tin quyên góp. Đúng lúc có vợ của một người đồng nghiệp với Bạch Giáo dụ tới chơi, trông thấy cờ phướn quyên góp thì nói rằng: “Nho quan dạy học qua lại với đạo cô, sợ rằng sẽ ảnh hưởng đến đường quan.”

Vợ Bạch Giáo dụ sau khi nghe, tin là thật, cho người đuổi theo đạo cô, nhưng không đuổi kịp, cho rằng đường quan của chồng từ nay về sau bị hủy, trong lòng rầu rĩ không vui. Bạch Giáo dụ ở kinh thành thi Hội trở về, đem khối vải lanh may y phục, lại cắt mất cờ phướn, người vợ càng khổ sở hơn, bởi vậy mà treo cổ tự tử.

Về sau, Lâm công ở Phủ viện tra xét các tập kiểm tra đánh giá Nho quan, phát hiện phần kiểm tra đánh giá Bạch Giáo dụ có ghi: “Bạch Giáo dụ và vợ đồng nghiệp có quan hệ không bình thường, vợ Bạch Giáo dụ rất bất mãn đối với Bạch Giáo dụ, Bạch Giáo dụ tức giận ép vợ treo cổ tự tử.”

Vậy là, Trần Lương Mô đem tình huống thực tế của Bạch Giáo dụ nói cho Lâm công ở Phủ viện, Lâm công tỏ ra trầm ngâm. Trần Lương Mô lại nói: “Trước khi phán đoán, xin tra rõ trước xem người kể lại có phải là người phẩm hạnh chu toàn hay không, nếu như không phải xin hãy thận trọng suy xét.” Lâm công nghe xong bừng tỉnh đại ngộ, lập tức xóa đi phần kiểm tra đánh giá Bạch Giáo dụ.

Về sau Bạch Giáo dụ thăng chức Trợ giáo ở Quốc Tử Giám, Trần Lương Mô đảm nhiệm chức Án sát sứ tại Phúc Kiến – chủ quản nghiệp vụ tư pháp ở Phúc Kiến. Trần Lương Mô gặp Lâm công ở Phủ Điền, Lâm công bèn chỉ vào nhà hàng xóm sát vách mà nói với Trần Lương Mô: “Nhà này chủ nhân họ Ngô, đã từng đảm nhiệm qua chức Huấn đạo của huyện Công An, chính là hắn gièm pha hủy hoại Bạch Giáo dụ.”

Về sau Ngô Huấn đạo thăng chức đảm nhiệm Giáo dụ ở Bình Hương, Giang Tây, cũng bị những đồng nghiệp khác gièm pha hủy bãi chức quan, lúc đi qua hồ Bà Dương trên đường về nhà, thuyền lật, suýt nữa bỏ mạng, ngày sau cuộc sống hết sức lạnh lẽo thiếu thốn.

Người xưa nói: Cố ý gièm pha hủy hoại, vu khống hãm hại người khác, ắt gặp nghèo nàn khốn cùng, tai họa bất ngờ, còn bị các loại báo ứng như rút lưỡi, địa ngục v.v., khẩu nghiệp và giết chóc bừa bãi là có tội ngang nhau.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/264920

The post Ngụy tạo lời ác, huỷ hoại người thanh bạch first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhân quả báo ứng: Xử án oan gặp ác báohttps://chanhkien.org/2021/02/ghi-chep-that-ve-nhan-qua-bao-ung.htmlWed, 17 Feb 2021 17:20:08 +0000https://chanhkien.org/?p=27070Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào khoảng thời gian cuối đời nhà Thanh, ở huyện Qua Dương, An Huy xảy ra một loạt án oan, theo đó mà cũng có ác báo ghê gớm, đủ để cảnh cáo thế nhân, nay xin giới thiệu cho mọi người. Vào cùng thời với Thái bình Thiên Quốc, […]

The post Nhân quả báo ứng: Xử án oan gặp ác báo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Vào khoảng thời gian cuối đời nhà Thanh, ở huyện Qua Dương, An Huy xảy ra một loạt án oan, theo đó mà cũng có ác báo ghê gớm, đủ để cảnh cáo thế nhân, nay xin giới thiệu cho mọi người. Vào cùng thời với Thái bình Thiên Quốc, ở An Huy cũng có người gọi là Phản Vương Miêu Phái Lâm, công khai tạo phản, vào lúc thế lực lớn nhất đã khống chế hơn 10 châu huyện, đến năm Đồng Trị thứ 2 (năm 1863) thì bị quân Thanh tiêu diệt.

Sau khi Miêu Phái Lâm bị tiêu diệt, triều đình muốn tiêu diệt dư đảng của ông ta. Lúc này huyện lệnh huyện Qua Dương và phú hộ ở địa phương là Lý Khôn có phát sinh mâu thuẫn, Lý Khôn không chỉ có tiền, còn nhậm chức vụ “Cống sinh”. Cống sinh chính là người tài giỏi trong giới tú tài, nhờ thành tích vượt trội mà được tuyển chọn vào học ở Quốc Tử Giám, chỉ cần trải qua thêm khảo hạch của triều đình là có thể trực tiếp làm quan. Cho nên Lý Khôn không hề sợ huyện lệnh, huyện lệnh hiệu triệu người giàu có quyên tiền, Lý Khôn lại công khai phản đối việc quyên góp.

Huyện lệnh sớm đã ghi hận trong lòng, mượn cơ hội này, ngụy tạo chứng cứ vu khống Lý Khôn là dư đảng Miêu Phái Lâm, bắt bớ cha con Lý Khôn. Thời xưa tạo phản là tội chết, huyện lệnh chính là muốn đưa cha con Lý Khôn vào chỗ chết. Sau khi cha con Lý Khôn bị huyện lệnh vu oan giá hoạ, thì đều bị áp giải lên quận. Thái thú quận thẩm vấn Lý Khôn xong thì biết được là án oan, liền chuẩn bị sửa án cho ông.

Sau khi huyện lệnh nghe được tin tức, vội vã hối lộ trợ tá của Thái thú 500 lượng bạc, vì vậy trợ tá bắt đầu khuyến nghị, o ép Thái thú. Có thể do vì Thái thú làm quan cũng không phải thanh bạch gì cho lắm, nên bị trợ tá nắm đằng chuôi. Thái thú rốt cục làm trái lương tâm mà đồng ý với phán quyết sơ thẩm của huyện lệnh là tử hình Lý Khôn. Cha con Lý Khôn vì vậy mà cuối cùng đều bị giết oan, cả người cha và con cái trong nhà đều mất đi sinh lộ mà chết cả như vậy có thể nói là toàn gia tử tuyệt! Thực sự là vô cùng thê thảm!

Mùa đông năm ấy, có người ăn mày lang thang nọ vào ngủ tối ở miếu Thành hoàng. Hôm sau anh ta đi khắp nơi nói với mọi người về giấc mộng đêm qua của mình: miếu Thành hoàng tại nhân gian ở trong mộng thì chính là nơi ở của Thành hoàng sở tại ở không gian khác, Thần Thành hoàng ngồi ở trên đài cao của Thần, phía dưới có một tù phạm đang quỳ, người ăn mày định thần nhìn lại thì đúng là trợ tá của Thái thú, quỳ ở hai bên là cha con Lý Khôn – đang làm nguyên cáo khiếu nại những kẻ xấu hại chết bọn họ. Người ăn mày đến đó thì tỉnh, cảnh trong mơ vô cùng rõ ràng.

Mọi người nghe xong thì biết Thần đã thụ lý vụ kỳ oan thảm án này, tuy nhìn thấy viên trợ tá còn sống, thế nhưng ở không gian khác thân thể hắn đã bị bắt trói, sắp sửa gặp ác báo. Những kẻ ác cụ thể cuối cùng sẽ gặp điều gì thì vẫn còn chưa biết, mọi người sôi nổi nói ra ý kiến của mình. Không quá mấy ngày sau, Thái thú đột nhiên mắc bệnh mà chết; liền theo sau cả nhà trợ tá Thái thú cũng mắc bệnh, không qua vài ngày thì cả nhà chết hết; lại qua mấy ngày hai đứa con của Huyện lệnh Qua Dương bị chết trẻ; ngay sau đó chính Huyện lệnh cũng mắc phải bệnh lạ, thân thể cứ từ từ lở loét thối rữa, lan tràn tới toàn thân, hơn nữa da dẻ bị long ra, giống như có người lột da ông ta vậy, cuối cùng khi chết toàn thân hầu như không có một khối da thịt lành lặn nào. Huyện lệnh thê thảm kêu rên hơn mười ngày mới chết, trong lúc đó thì không ngừng nói cho mọi người là oan hồn cha con Lý Khôn đang đoạt mạng ông ta, lại còn nói hết ra toàn quá trình bản thân mình hãm hại người vô tội.

Trong chuyện này viên trợ tá và Huyện lệnh đều là tự làm tự chịu, mà Thái thú bởi vì quyết định trái lương tâm mà khiến bản thân cũng phải chịu báo ứng mà chết, cảnh báo mọi người nhất định phải kiên trì chính nghĩa, lương tri, làm ác trái lương tâm thì cũng đồng dạng với tạo nghiệp, phạm tội. Trong chuyện Thái thú gặp báo ứng đầu tiên, sau đó là trợ tá, sau cùng mới là thủ phạm hại người – Huyện lệnh, người sau chết thảm hơn người trước, thuyết minh rằng có đôi khi người xấu nhất, đầu sỏ tội ác kia, ngược ngạo sao lại gặp báo ứng muộn nhất, đương nhiên ác báo của kẻ đó tất nhiên cũng là nặng nhất, kinh khủng nhất. Chúng ta hoàn toàn không nên vì đại ác nhân hoặc thế lực tà ác lớn tạm thời còn chưa gặp báo ứng, mà hoài nghi tính tất yếu của việc thiện ác báo ứng.

Nguồn: 《 Động linh tiểu chí Quyển ngũ Qua Dương án 》

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/264948

The post Nhân quả báo ứng: Xử án oan gặp ác báo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm về nhân quả báo ứnghttps://chanhkien.org/2020/12/26923.htmlSat, 26 Dec 2020 05:48:18 +0000https://chanhkien.org/?p=26923Như Nhất [ChanhKien.org] Nhân quả báo ứng là một cách diễn đạt của thiên lý trong Phật gia. Tục ngữ có câu: “Trồng dưa gặt dưa, trồng đậu gặt đậu”. Đó cũng là thể hiện của nhân quả báo ứng. Con người có kiếp trước, không chỉ trong một đời một kiếp mà kết thúc, […]

The post Mạn đàm về nhân quả báo ứng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Như Nhất

[ChanhKien.org]

Nhân quả báo ứng là một cách diễn đạt của thiên lý trong Phật gia. Tục ngữ có câu: “Trồng dưa gặt dưa, trồng đậu gặt đậu”. Đó cũng là thể hiện của nhân quả báo ứng. Con người có kiếp trước, không chỉ trong một đời một kiếp mà kết thúc, những việc tốt và xấu đã từng làm trong đời này không thể chết là hết, sẽ có những biểu hiện báo ứng. Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng lục đạo luân hồi, đời này của con người kết thúc rồi, sẽ có thể chuyển sinh thành người, động vật, thực vật, v.v… Căn cứ để chuyển sinh chính là sự lựa chọn thiện và ác của con người tại thế gian.

Tổng thư ký Quốc vụ viện Trung Hoa Dân Quốc Quách Tắc Vân trong cuốn “Động linh tiểu chí” đã ghi lại một câu chuyện chuyển thế mà Thiệu Hưởng Dự – vị quan nổi tiếng cuối đời nhà Thanh, từng trải qua. Những điều này được chính miệng Thiệu Hưởng Dự kể cho người trợ lý của mình là Lý Kinh Xa, lại qua lời kể của Từ Nguyên, truyền đến tai Quách Tắc Vân mà được ghi chép lại, nên độ tin cậy rất cao. Từ Nguyên là tiến sĩ khoa kinh tế giữa những năm Quang Tự, năm 1911 ông nhậm chức Giám đốc hải quan Thiên Tân, sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, ông tiếp tục giữ chức Giám đốc hải quan Thiên Tân, kiêm nhiệm chức Giao thiệp viên Bộ Ngoại giao, làm quan từ thời nhà Thanh đến thời Trung Hoa Dân Quốc.

Hai đời trước của Thiệu Hưởng Dự, là một thư sinh đọc sách, nhưng đáng tiếc đã vì một chút lợi ích mà vu cáo cho một quả phụ, kết quả năm đó ông bạo bệnh mà chết. Sau khi chết, nguyên thần của ông bị bắt đến âm tào địa phủ, chịu sự thẩm phán của Minh quan. Minh quan sau khi xem sổ sinh tử, sắc mặt liền thay đổi, nghiêm khắc trách mắng ông: Trong mệnh của ngươi vốn có quan vận nhị phẩm, hiện tại vì ngươi bôi nhọ tiết phụ, toàn bộ thọ mệnh và quan vận của người đều bị tước bỏ, hơn nữa kiếp sau phải làm súc sinh để chịu phạt. Sau đó Minh quan liền sai Minh dịch đem ông áp giải quăng vào đường súc sinh đầu thai.

Ông bị áp giải đến một nơi, ở đó cần phải uống một loại nước canh, ông nghĩ rằng đây có thể là mê hồn thang, uống rồi sẽ mất đi kí ức làm người, thế là ông lặng lẽ đổ đi không uống. Trong nháy mắt, vừa mở mắt ra, ông phát hiện bản thân đã biến thành một con heo con, đang nằm trong chuồng heo. Bản thân vô cùng hối hận lại không cam tâm, rồi tuyệt thực đến chết. Sau khi chết nguyên thần của ông lại được mang đến âm tào địa phủ, Minh quan trách mắng ông mưu toan trốn tránh việc chịu tội, ông lại bị bắt chuyển sinh thành heo. Lần này không dám trốn tránh nữa, đột nhiên nhớ lại khi làm người đã từng đọc qua kinh Phật, vẫn còn nhớ được một số câu trong đó, liền thành tâm mặc niệm. Hai năm sau, có tên trộm muốn trộm tài sản nhà gia chủ, khi đó ông thấy tên trộm chuẩn bị vào, liền ra sức kêu to. Tiếng động lớn trong chuồng lợn làm chủ nhà tỉnh giấc, tên trộm bèn chạy mất. Chủ nhân biết ơn ông có công bảo vệ gia đình chủ, nên không giết con heo này, để ông chết tự nhiên.

Sau khi thân heo đời này chết đi, nguyên thần của ông xuất ra, bị mang tới địa phủ, Minh quan thấy trên đỉnh đầu ông có một vòng kim quang, biết rằng đây là biểu hiện của người thành tâm niệm kinh Phật, liền lập tức báo cáo tình huống lên trên. Sau đó phía trên trả lời rằng: ông có thể đầu thai làm người, hơn nữa đem phúc phận quan nhị phẩm đã bị tước bỏ hoàn trả lại cho ông. Trước khi đầu thai, bởi vì ông đã từng làm súc sinh, phải lột lớp da heo mới có thể thành người. Lúc lột da heo vô cùng đau đớn, khi lột đến cánh tay, bởi vì thực sự rất đau không chịu được mà vùng vẫy, trên cánh tay vẫn còn một mảng da heo chưa lột sạch. Nói đến đây, Thiệu Hưởng Dự liền vắn ống tay áo để lộ ra cánh tay, Lý Kinh Xa nhìn xem, quả nhiên có một vùng mọc một mảng lông, giống như lông heo, chứng cứ rành rành về luân hồi này khiến ông kinh ngạc không thôi.

Không lâu sau đó, Thiệu Hưởng Dự tham gia khoa cử, đậu cử nhân, năm Quang Tự thứ 16 (năm 1890), ông đỗ tiến sĩ vào triều làm quan, nhiều lần đảm nhiệm Thứ cát sĩ Hàn lâm viện, nhận chức chỉnh lý kinh sách, biên soạn kinh sử, tư ngoại lang viên võ binh bộ, mũ quan nhị phẩm, ban thưởng “kỵ mã Tử Cấm Thành”, Cáo mệnh quang lộc đại phu, v.v…

Câu chuyện này tuy ngắn, nhưng không chỉ thể hiện nhân quả báo ứng, mà còn nói cho con người một thiên cơ: Kính tín Thần Phật, đồng hành cùng Thần Phật có thể cải biến vận mệnh. Thiệu Hưởng Dự vì lợi ích mà hãm hại một tiết phụ, gặp phải hiện thế hiện báo: quan vận, thọ mệnh toàn bộ đều bị tước bỏ đồng thời chết bất đắc kỳ tử. Bởi vì nhân ác của đời này mà dẫn đến súc sinh của đời sau. Kết quả lúc lần thứ hai làm heo, dùng tâm mặc niệm kinh Phật trong trí nhớ, lần nữa đắc được thân người và phúc báo làm quan nhị phẩm.

Nhân quả báo ứng là thật sự tồn tại, sau khi Trung Cộng giành chính quyền lại tận lực mà phủ định Thần Phật và lẽ trời, nhân quả báo ứng bị xem thành “mê tín phong kiến” mà ra sức phê phán. Đó là vì sao, chúng ta có thể từ cuốn sách chính của Pháp Luân Công “Chuyển Pháp Luân” mà tìm được đáp án.

Những điều mà Sư phụ Pháp Luân Công hôm nay giảng cho thế nhân đều là chân lý, là thiên cơ mà người xưa có muốn cũng không thể đắc được, hơn nữa còn dùng bạch thoại của con người ngày nay mà giảng ra, ý trên mặt chữ rõ ràng dễ hiểu, không cần mọi người phải đoán, những người không biết chữ có thể đọc được một cách thần kỳ. “Chuyển Pháp Luân” xác thực đã chỉ ra:

“Khi một cá nhân giáng sinh, trong một không gian đặc thù không có khái niệm thời gian, cuộc đời vị ấy đã đồng thời tồn tại ở đó rồi; có [những người] không chỉ là một đời [đồng thời tồn tại ở đó]”.

“Người ta muốn [tác] động [làm thay đổi] những sự việc lớn; người thường hoàn toàn không thể [tác] động đến được. Họ có một cách [tác] động, chính là cá nhân ấy toàn làm điều xấu, không điều ác nào mà không làm; vị ấy có thể thay đổi được cuộc đời của mình, nhưng vị ấy sẽ đương đầu với sự huỷ diệt triệt để”.

“Còn có một cách có thể cho phép con người biến đổi đời của họ; đây là cách duy nhất; chính là cá nhân ấy từ nay trở đi sẽ bước trên con đường tu luyện”.

Nhiều lần thông đọc “Chuyển Pháp Luân”, lý giải của cá nhân tôi là: cuộc đời của con người chính là Thần Phật căn cứ theo hành vi thiện ác đã tích lũy đức và nghiệp lực nhiều hay ít mà an bài, sức của con người căn bản không thể cải biến an bài của Thần Phật, trừ khi người này lựa chọn không việc ác nào không làm hoặc lựa chọn bước trên con đường tu luyện, kết quả của lựa chọn đó là ác báo hoặc thiện báo. Đương nhiên nội hàm trong “Chuyển Pháp Luân” bác đại tinh thâm, những người có mong muốn đọc chỉ cần thông đọc, sẽ có thể có được thể hội thâm sâu hơn.

Trung Cộng đã mê hoặc người dân, bức ép dân chúng theo nó mà không việc ác nào không làm, đi trên con đường tiêu hủy sinh mệnh. Trung Cộng vì sao phải thông qua các loại vận động chính trị phá hủy văn hóa truyền thống? Trung Cộng ngày nay thông qua thủ đoạn phát triển kinh tế, đeo cờ hiệu giao lưu phát triển, ở trong nước dưới danh nghĩa phục hưng văn hóa truyền thống, thực ra là phá hủy văn hóa truyền thống ở tầng sâu; vung tiền ở nước ngoài, tạo ra học viện Khổng Tử, “Một vành đai một con đường”, thực tế là truyền bá văn hóa đảng, phá hủy các giá trị quan truyền thống, hủy diệt toàn nhân loại. Tà linh Trung Cộng biết cái lý nhân quả báo ứng, nó dùi vào chỗ sơ hở của thiên lý, làm loạn tư tưởng của con người, bành trướng sự tham dục và quan niệm của con người. Nếu con người không phân biệt được tốt xấu, con người sẽ hồ đồ theo Trung Cộng làm việc xấu, sinh mệnh sẽ bị Thần Phật tiêu hủy.

Vì sao Trung Cộng phải bức hại Pháp Luân Công? Bởi vì Pháp Luân Công chỉ đạo con người bước trên con đường tu luyện, là cải biến vận mệnh, sinh mệnh có thể đắc được tương lai tốt đẹp hơn, là thiện báo mà con người trên thế gian có làm bao nhiêu việc tốt cũng không đắc được. Trung Cộng trước đó đã làm rất nhiều việc bại hoại đạo đức con người, đều không đạt được mục đích hủy diệt toàn bộ nhân loại, mà thông qua bức hại Pháp Luân Công, bức hại Đại Pháp của vũ trụ, con người trong đời này có thể rất nhanh tạo thành ác nghiệp, sinh mệnh như thế chính là điều Trung Cộng muốn, từ đó mới có thể đạt được mục đích triệt để bị Thần Phật tiêu hủy, hình thần toàn diệt.

Học viên Pháp Luân Công tuân theo ý chỉ của Thần Phật đứng lên giảng chân tướng chính là trồng thiện nhân với chúng sinh. Thế nhân có nghe chân tướng hay không, nguyện ý chiếu theo yêu cầu của chân tướng mà làm lựa chọn hay không, muốn thành tâm mặc niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo” hay không, đó chính là bày trước mặt chúng sinh một câu hỏi để chọn lựa con đường nhân sinh. Chọn lựa Trung Cộng chính là trồng ác nhân hủy diệt bản thân; chọn chân tướng Pháp Luân Công, chính là con đường tân sinh. Nếu có thể thông đọc “Chuyển Pháp Luân”, trong thời gian Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công mà bước trên con đường tu luyện, sinh mệnh ấy quả thật là tốt, đang phát quang lấp lánh trong vũ trụ.

Tôi mong rằng câu chuyện luân hồi của Thiệu Hưởng Dự có thể khởi lại tinh thần đối với người Trung Quốc đại lục. Đi cùng Thần Phật mới là con đường bằng phẳng, quang minh đại đạo, cùng đi ma quỷ Trung Cộng, chính là con đường hủy diệt bản thân. Trồng nhân gì, nhất định đắc được quả đó, nhân quả báo ứng là tồn tại chân thực. Vô thần luận của Trung Cộng, thuyết tiến hóa hoàn toàn là ngụy biện, căn bản là dối trá, Trung Cộng cật lực sùng bài nó cũng là vì muốn hủy diệt toàn nhân loại.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/263329

The post Mạn đàm về nhân quả báo ứng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm về các vị Thần khai thiên tịch địa trong Kinh Thánhhttps://chanhkien.org/2020/10/man-dam-ve-cac-vi-than-khai-thien-tich-dia-trong-kinh-thanh.htmlSun, 04 Oct 2020 15:08:17 +0000https://chanhkien.org/?p=26706Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại hải ngoại [ChanhKien.org] Có nhiều người cho rằng thế giới này được một vị Thần duy nhất là Thượng đế tạo ra và Adam và Eva là tổ tiên duy nhất của loài người. Kỳ thực đọc kỹ Kinh Thánh sẽ phát hiện một số miêu tả trong […]

The post Mạn đàm về các vị Thần khai thiên tịch địa trong Kinh Thánh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại hải ngoại

[ChanhKien.org]

Có nhiều người cho rằng thế giới này được một vị Thần duy nhất là Thượng đế tạo ra và Adam và Eva là tổ tiên duy nhất của loài người. Kỳ thực đọc kỹ Kinh Thánh sẽ phát hiện một số miêu tả trong Kinh Thánh nếu hiểu theo thuyết một vị Thần tạo ra thế giới thì sẽ không thể giải thích được một cách hợp lý, nhưng nếu hiểu theo nhiều vị Thần tạo ra thế giới thì lại giải thích được đầy đủ, tôi xin nêu ra ở đây để chia sẻ với mọi người:

Vấn đề thứ nhất: Sau khi Cain – con trai cả của Adam giết chết người con trai thứ hai Abel, Thần Jehovah định đuổi anh ta ra khỏi quê nhà, Cain rất sợ hãi nói: “Nếu ai nhìn thấy tôi sẽ giết tôi”.

Đoạn 12-15 chương 4 Sáng Thế ký viết:

12. (Thần Jehovah nói với Cain) Người gieo trồng trên đất, đất sẽ không sinh hoa lợi cho ngươi. Ngươi sẽ phải lưu lạc và trốn tránh trên mặt đất.

13. Cain nói với Thần Jehovah: Hình phạt đối với tôi quá lớn, tôi mang không nổi.

14. Hôm nay ngài đuổi tôi ra khỏi đất này, tôi sẽ lánh mặt Ngài. Tôi phải lưu lạc và trốn tránh trên mặt đất, nếu ai nhìn thấy tôi sẽ giết tôi.

15. Thần Jehovah phán rằng: Nếu ai giết Cain thì sẽ chịu báo ứng gấp bảy lần. Thần Jehovah bèn đánh dấu lên mình Cain, để tránh ai gặp phải sẽ giết anh ta.

Đầu tiên, căn cứ theo ghi chép của Kinh Thánh, vào thời điểm đó Adam và Eva chỉ có hai người con là Cain và Abel, để tưởng nhớ Abel, năm Adam 130 tuổi đã sinh ra Seth. Trong Sáng Thế ký đoạn 5:4 viết rằng: “Sau khi Adam sinh ra Seth, Adam sống thêm 800 năm nữa, đồng thời tiếp tục sinh con đẻ cái”. Tức là Kinh Thánh ghi chép rõ rằng sau khi Adam sinh Seth lại tiếp tục sinh con đẻ cái, mà trước khi Seth được sinh ra thì Kinh Thánh chỉ ghi chép rằng Adam và Eva đã sinh ra Cain và Abel. Vậy người mà Cain nói là “ai nhìn thấy tôi sẽ giết tôi” là ai? Chỉ có thể là những người khác ngoài Adam và Eva, những người này không phải do Thần Jehovah tạo ra.

Có người nói, Kinh Thánh đã không ghi chép lại toàn bộ sự việc, sau khi sinh Cain và Abel, Adam và Eva có thể còn sinh ra những đứa con khác. Nói cách khác, người mà Cain lo sợ là các anh chị em của mình. Lập luận này có vấn đề, bởi vì Cain nói “Tôi phải lưu lạc và trốn tránh trên mặt đất, ai nhìn thấy tôi sẽ giết tôi”, tức là nói nếu như Cain không lưu lạc và trốn tránh trên mặt đất mà ở lại quê hương với gia đình, thì Cain sẽ không phải đối mặt với nguy cơ bị giết. Điều này cho thấy nỗi sợ hãi của Cain không xuất phát từ trong gia đình của anh ta, nếu không thì Cain ở chung với gia đình của mình sẽ càng nguy hiểm hơn, dù Cain sống với cha mẹ hoặc sống một mình thì đều đối mặt với vấn đề “ai nhìn thấy tôi sẽ giết tôi”, việc này không có quan hệ với việc bị trục xuất khỏi quê hương.

Hơn nữa, nếu như mối đe dọa của Cain đến từ các anh chị em của anh ta, theo ghi chép trong Kinh Thánh mà suy luận, khi Cain giết Abel là khoảng 100 tuổi, đối với người có thể sống 1000 tuổi, 100 tuổi chưa được tính là người trưởng thành, nếu như Adam và Eva còn có những đứa con khác, thì cũng chỉ có thể có khoảng 100 người con, và phần lớn trong đó vẫn còn là những đứa trẻ nhỏ. Thần Jehovah hoàn toàn có thể bảo Adam nói với những đứa con khác buông tha cho Cain, hoặc Thần Jehovah tự mình nói cũng được, nhưng tại sao Jehovah lại không làm như vậy mà đánh dấu lên mình Cain? Thần Jehovah lẽ nào còn phải nói cho các anh em của Cain dấu hiệu này có ý nghĩa gì sao? Vậy thì dấu hiệu này là thừa rồi.

Thêm nữa, nếu như mối đe dọa của Cain đến từ anh chị em của mình thì việc các anh chị em của Cain muốn mà đòi lại công lý cho Abel chẳng phải là một việc làm chính nghĩa sao? Tại sao Thần Jehovah vì để bảo hộ một tội phạm giết người mà lại giáng tội gấp bảy lần cho các anh chị em đi đòi lại công lý? Chẳng phải là không công bằng sao?

Căn cứ vào những phân tích ở trên, những người mà Cain lo lắng “nhìn thấy tôi sẽ giết tôi” chắc chắn không phải là các anh chị em của Cain, nhưng theo ghi chép trong Kinh Thánh thì Thần Jehovah chỉ tạo ra Adam và Eva, vậy những người mà Cain lo ngại chính là những người được tạo ra bởi các vị Thần khác. Nói cách khác, Cain bị Thần Jehovah “lưu đày” đến nơi không phải là nơi ở của Adam và Eva, người ở nơi đó đều là những người mà Cain chưa từng gặp, giống như một đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi ở một nơi xa xôi, bất cứ lúc nào cũng có thể bị giết hại hoặc bị lừa bán, trong tình huống đó có thể hiểu được nỗi sợ hãi của Cain. Thần Jehovah đánh dấu lên mình Cain để cho những người xa lạ kia biết rằng Cain được Thần bảo hộ mà không dám hành động thiếu suy nghĩ, điều này có thể lý giải được, mà lời nguyền bị báo ứng gấp bảy lần của Jehovah cũng hợp lý, bởi vì những kẻ lạ mặt nếu giết Cain thì chắc chắn xuất phát từ động cơ không tốt.

Vấn đề thứ hai: Đoạn 6:1-3 Sáng Thế ký – Kinh Thánh viết:

1. Khi con người trên mặt đất ngày càng nhiều, và khi loài người đã sinh được con gái rồi.

2. Các con trai của Thần nhìn thấy con gái của loài người dung mạo xinh đẹp, bèn cưới người nào vừa ý mình về làm vợ.

3. Thần Jehovah phán rằng: Thần ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn; trong điều lầm lạc, loài người chỉ là xác thịt; đời người sẽ là 120 năm mà thôi.

Nghĩa là bởi vì những đứa con của Thần nhìn thấy con gái của loài người dung mạo xinh đẹp, liền tùy ý lựa chọn, lấy về làm vợ, Thần Jehovah liền trừng phạt họ, nói rằng sinh mệnh của họ sẽ rút ngắn lại chỉ còn 120 năm.

Về con số 120 năm, có nhiều cách lý giải khác nhau, có người nói là trận đại hồng thủy 120 năm sau đó đã hủy diệt loài người, cũng có người nói rằng tuổi thọ của con người bị giảm từ 1000 năm xuống còn 120 năm. Tuy nhiên cách giải thích thứ hai không thật phù hợp với những gì miêu tả ở phần sau của Kinh Thánh, bởi vì sau trận đại hồng thủy một thời gian con người vẫn có thể sống được khoảng 500 tuổi. Nhưng dù giải thích thế nào, sự trừng phạt của Thần Jehovah đối với con người là rất nặng.

Vấn đề là tại sao các con trai của Thần chọn các con gái của loài người làm vợ lại đem đến cho nhân loại tai họa lớn như vậy? Thời đó số lượng người sinh sống vốn rất ít, hôn nhân cận huyết đều được phép, tại sao không thể lấy những người con gái xinh đẹp của loài người làm vợ? “Các con trai của Thần” là ai? Còn “các con gái của loài người” là ai?

Vấn đề này hiện nay có hai cách giải thích, một là: “các con trai của Thần” chỉ “những người con trai của con dân của Thượng đế”, “các con gái của loài người” là “các con gái của tộc ngoại bang”. Cách giải thích này có mâu thuẫn ở chỗ nếu họ đều là hậu duệ được Adam sinh ra thì dựa vào đâu để phân biệt “người của tộc ngoại bang”? Họ có tín Thần hay không tín Thần? Trong Kinh Thánh không nói về việc người tín Thần không thể kết hôn với người không tín Thần. Điều quan trọng nhất là vì sao hôn nhân của họ lại mang lại tai hoạ cho loài người? Cách giải thích này không rõ. Một cách giải thích khác là “các con của Thần” chỉ “những Thiên sứ sa ngã”, Thiên sứ không thể kết hôn với con người, bởi vì họ đã làm việc này nên bị trừng phạt. Cách giải thích này có vấn đề là trong Kinh Thánh nói rằng Thiên sứ không được kết hôn, hơn nữa Thiên sứ không có nhục thân của con người nên không thể kết hôn với con người, điều quan trọng nhất là cho dù họ có thể kết hôn thì đây là tội của những Thiên sứ bại hoại, con người không may trở thành người bị hại, vì sao Thần Jehovah lại giáng tai hoạ cho loài người? Cho nên cách giải thích này cũng không rõ. Chỉ có một cách giải thích đầy đủ cho đoạn Kinh Thánh này, chính là con người trên trái đất không chỉ có hậu duệ của Adam và Eva, mà còn có những người do Thần khác tạo ra. Những người do những vị Thần khác nhau tạo ra tuyệt đối cấm chỉ kết hôn khác dòng dõi, điều này rất dễ lý giải, bởi vì sau khi họ kết hôn khác dòng dõi thì hậu duệ sau này của họ không còn thuộc về bất cứ vị Thần nào nữa, hơn nữa làm vậy là đi ngược với ước định của họ với Thần. Cho nên khi con người trên mặt đất đều cho rằng có thể làm như vậy hoặc đều đã làm như vậy thì Thần cần phải hủy họ. Đây là cách giải thích phù hợp và logic nhất.

Hai vấn đề nêu ở trên đều hướng đến cùng một đáp án, chính là thế giới này chắc chắn do nhiều vị Thần tạo ra. Như vậy trong Kinh Thánh có manh mối nào chứng tỏ nhiều vị Thần đã tạo ra trời đất chăng? Có! Manh mối thứ nhất là: Chúng ta đều biết trong Kinh Thánh nói rằng, Thần mất sáu ngày để tạo nên vạn vật và con người, nhưng rất nhiều người đều bỏ qua một sự thật, đó là chương thứ nhất của Sáng Thế ký – Kinh Thánh nói rằng khi tạo ra người, tạo ra trời đất thì không có đề cập đến tên “Thần Jehovah”, chỉ nói do “Thần” tạo nên. Tên gọi “Jehovah” chỉ bắt đầu xuất hiện vào chương thứ hai khi tạo ra Adam và Eva. Hơn nữa, rất nhiều người không biết một sự thật vô cùng quan trọng khác, đó là “Thần” trong Thần tạo ra trời đất trong Kinh Thánh bản tiếng Do Thái là danh từ chỉ “số nhiều”! Dịch ra là “nhiều vị Thần”! Người phiên dịch Kinh Thánh đã cố ý dịch “Thần” số nhiều thành danh từ số ít, lý do là trong bản tiếng Do Thái danh từ “Thần” mang hàm ý kính ngưỡng, nên có thể phiên dịch thành danh từ số ít. Nếu như không có hai vấn đề ở trên dẫn đến giả thuyết nhiều vị Thần tạo trời đất, thì lỗi dịch sai nhỏ này hẳn sẽ không ảnh hưởng nhiều đến cách hiểu, nhưng vì đã có hai vấn đề ở trên, danh từ “Thần” ở đây là số ít hay số nhiều sẽ là vấn đề mấu chốt. Mà hai vấn đề ở trên nếu dùng thuyết một vị Thần duy nhất sẽ không thể lý giải được một cách hợp lý nhưng nếu dùng thuyết nhiều vị Thần tồn tại thì có thể giải thích đầy đủ, danh từ “Thần” trong nguyên văn tiếng Do Thái thực ra mang nghĩa số nhiều chứ không phải số ít.

Danh từ “Thần” số nhiều còn giải thích được một vấn đề đang tranh luận, đó là trong đoạn 1:26 Sáng Thế ký viết rằng: “‘Thần nói, chúng ta hãy chiểu theo hình dáng của chúng ta, dựa theo hình dáng của chúng ta mà tạo ra con người”. Theo câu trên, do hiện nay danh từ “Thần” được phiên dịch thành số ít, như vậy sẽ mâu thuẫn với với câu nói tiếp theo dùng danh xưng “chúng ta”, để giải quyết cho mâu thuẫn này đã dẫn ra cách lý giải “tam vị nhất thể” gì đó, hoặc là giải thích Jehovah và Jesus không phải là một vị Thần .v.v. tranh luận tới lui rất hỗn loạn. Nếu như trực tiếp phiên dịch thành: “Các vị Thần nói, chúng ta hãy chiểu theo hình dáng của chúng ta, dựa theo hình dáng của chúng ta mà tạo ra con người”, thì không còn gì mâu thuẫn nữa!

Manh mối thứ hai: Khải Huyền – Kinh Thánh đoạn 4:4 viết: “Xung quanh ngai lại có 24 ghế ngồi, trên đó là 24 vị trưởng lão, tất cả đều mặc áo trắng, đầu đội vương miện vàng”.

Khải Huyền đoạn 5:6 viết: “Tôi lại thấy chính giữa ngôi và bốn con vật, cùng chính giữa các trưởng lão, có một Chiên Con ở đó như đã bị giết; Chiên Con có bảy sừng và bảy mắt, là bảy vị thần của Đức Chúa trời sai xuống khắp thế gian”.

Ý nghĩa là, vào thời điểm Đại Thẩm Phán, trên trời có 24 ghế ngồi, ở trên đó là 24 vị trưởng lão, trong đó có một Chiên Con, chính là Jesus.

Dù là Jehovah và Jesus là cùng một vị Thần hoặc là quan hệ cha con, theo lý giải của con người hiện tại đối với Kinh Thánh, họ vốn là những vị Thần chí cao vô thượng, vậy tại sao vào lúc Đại Thẩm Phán lại xuất hiện 24 vị trưởng lão, vậy 23 vị kia là ai, tại sao lại có thể ngồi cùng ghế với Jesus? Điều này nếu dùng thuyết một vị Thần sẽ không thể lý giải được. Nhưng nếu như nói trời đất này là do Nhiều vị Thần tạo ra, vào lúc Đại Thẩm Phán nhiều vị Thần hội tụ lại để thẩm phán thì rất hợp tình hợp lý, mở đầu và kết thúc của Kinh Thánh sẽ hoàn toàn ăn khớp.

Có người nói, trong Kinh Thánh Jesus nói: “Ta là con đường, là chân lý, là sinh mệnh; nếu chẳng phải nhờ vào ta, không có ai có thể đi đến nơi của Cha”, đây không phải là chứng cứ cho một vị Thần ư? Không nhất thiết! Nếu như Adam và Eva là do Jesus (Jehovah) tạo ra, mục đích mà ông đến thế gian chính là muốn cứu độ hậu duệ của Adam và Eva, như vậy ông nói những lời này với hậu duệ Adam và Eva là vô cùng chính xác, nhưng câu nói này lại không chứng minh vạn vật là do một vị Thần tạo ra. Lấy một ví dụ, một người cha có thể nói với những đứa con của mình rằng ta là cha duy nhất của con, nhưng câu này không thể thuyết minh ông là người cha duy nhất tạo ra thế giới này.

Kỳ thực, khi trầm tĩnh đọc Kinh Thánh sẽ phát hiện trong đó có rất nhiều nội dung mô tả rằng Thần Jehovah chỉ chăm sóc cho người Israel. Ví dụ như trong Xuất Ai Cập, Thần Jehovah nhiều lần xuất hiện và nói với Moses rằng: Ta là vị Thần của con, Ta là vị Thần của tổ tông của con. Thần Jehovah gọi người Israel là “Người của ta”, nhưng từ trước giờ Thần Jehovah lại không nói rằng ông là Thần của người Ai Cập, ông luôn thông qua Moses để truyền đạt lại cho Pharaoh Ai Cập, cũng không bao giờ xuất hiện trước vua Pharaoh Ai Cập hoặc nói Pharaoh hãy để người Israel rời đi. Và khi quân đội Ai Cập đuổi theo người Israel, ông đã dùng nước biển tiêu diệt toàn bộ đội quân Ai Cập. Câu chuyện này để giải thích người Ai Cập không phải hậu duệ của Adam, họ không có bất kỳ quan hệ nào với Thần Jehovah.

Tóm lại, Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng “nhiều vị Thần” sáng tạo ra thế giới và con người không phải là do một vị Thần tạo ra.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/258735

The post Mạn đàm về các vị Thần khai thiên tịch địa trong Kinh Thánh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệthttps://chanhkien.org/2020/10/cau-chuyen-lich-su-cao-tinh-gia-mao-bo-tat-cuoi-cung-bi-diet.htmlSun, 04 Oct 2020 01:05:20 +0000https://chanhkien.org/?p=26698Tác giả: Đức Huệ [Chanhkien.org] Vào thời Đường, tại một thôn trang vùng Đại Châu (nay là huyện Đại, thành phố Hãn Châu, Sơn Tây), gia đình nọ có một cô con gái, anh của cô đóng quân ở xa, trong nhà chỉ có hai mẹ con. Một ngày nọ, họ bỗng nhiên thấy có […]

The post Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đức Huệ

[Chanhkien.org] Vào thời Đường, tại một thôn trang vùng Đại Châu (nay là huyện Đại, thành phố Hãn Châu, Sơn Tây), gia đình nọ có một cô con gái, anh của cô đóng quân ở xa, trong nhà chỉ có hai mẹ con. Một ngày nọ, họ bỗng nhiên thấy có một sinh mệnh mang hình dáng Bồ Tát cưỡi mây tới nhà, nói với bà mẹ: Nhà của ngươi tốt, ta muốn ở tại nơi này, phải chỉnh trang sửa chữa nhanh một chút, không lâu sau ta sẽ quay lại. Người trong thôn sau khi nghe chuyện, đều tranh nhau đến nhà hai mẹ con hỗ trợ, vừa mới sửa sang xong, thứ gọi là “Bồ Tát” kia liền cưỡi mây ngũ sắc đến ở trong nhà, người trong thôn đều đến cung dưỡng, đồ dâng lên rất nhiều.

“Bồ Tát” này còn lệnh cho mọi người chớ nói ra ngoài, lấy lý do là: sợ rằng tín đồ bốn phương tám hướng qua lại không ngớt. Người trong thôn bởi vậy mà dặn dò nhau, không được đem việc này truyền ra ngoài. Qua một khoảng thời gian, “Bồ Tát” làm dơ bẩn con gái nhà đó, lâu dần cô con gái cũng mang thai. Khi “Bồ Tát” đó đến ở chừng một năm thì anh trai cô gái trở về, “Bồ Tát” nói: Ta không muốn thấy nam nhân, lệnh cho bà mẹ đuổi con trai đi. Bà mẹ nghe theo, khiến cho người con trai có nhà mà không thể về. Anh con trai biết nhất định là mẹ và em gái bị loại tà ma yêu quái lừa gạt, bởi vậy đem hết tiền bạc đi cầu đạo sĩ giúp, cầu thời gian lâu mới tìm được một vị đạo sỹ có đạo thuật, thi triển phép thuật giúp anh ta, kiểm tra thứ gọi là “Bồ Tát” kia, phát hiện thấy đó là một con hồ ly già thành tinh biến hóa ra. Anh con trai liền cầm đao về nhà chém chết hồ ly tinh.

Từ câu chuyện yêu tinh cáo có thể biến thành hình dạng Bồ Tát gạt người lừa tình, có thể thấy được tà ác hại người thường trước tiên tiến hành ngụy trang, đem giấu đi bộ mặt thật xấu ác của nó, thậm chí ngụy trang thành chính nghĩa và thiện lương để mê hoặc thế nhân. Ai có thể nghĩ được rằng hơn một ngàn năm sau tại Trung Quốc lại xuất hiện loại tà ác mê hoặc chúng sinh giống như vậy, nó chính là Đảng cộng sản Trung Quốc. Yêu tinh cáo ngụy trang thành Bồ Tát; Trung Cộng lấy danh nghĩa “vì nhân dân phục vụ”, tạo dựng thiên đường nhân gian chủ nghĩa cộng sản, đủ loại khẩu hiệu êm tai lừa dối nhân dân. Yêu tinh cáo tham đồ cung dưỡng, nữ sắc; Trung Cộng dùng các loại danh nghĩa, chiêu bài để cướp đoạt tài sản nhân dân, không ngừng phát động các cuộc vận động chỉnh người trị người, quan chức của nó tham tài háo sắc thành nghiện. Yêu tinh cáo e ngại bộ mặt thật của mình bị nhìn thấu, cấm thôn dân truyền ra ngoài; Trung Cộng biến tất cả phương tiện truyền thông thông tin thành cơ quan ngôn luận của mình, tạo ra tường lửa phong tỏa trên internet, sợ nhân dân “vượt tường” xem được tin tức báo cáo sự thật, Trung Cộng hiểu rất rõ rằng một khi nhân dân hiểu chân tướng, thì những lời nói dối và hành vi phạm tội của nó đều triệt để bại lộ. Yêu tinh cáo khiến cho bà mẹ xua đuổi anh con trai, phá hoại gia đình; Trung Cộng trong nhiều lần vận động làm không biết bao nhiêu gia đình nhà tan cửa nát, vợ con ly tán.

Đương nhiên yêu tinh cáo chỉ đáng làm học trò nếu so sánh với Trung Cộng. Yêu tinh cáo chỉ có thể khống chế một thôn, Trung Cộng lại nắm trong tay một quốc gia to lớn, bóp méo tư tưởng nhân dân coi Trung Cộng như là Trung Quốc, một mặt lợi dụng tư tưởng yêu nước của người ta để duy hộ nó, một mặt khi làm chuyện xấu thì đều dùng danh nghĩa Trung Quốc, làm bại hoại danh dự Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc. Đương nhiên tà ác chính là tà ác, chung quy cũng phải bị lộ tẩy. Yêu tinh cáo cho dù lừa đảo như thế nào, nó chính là sợ kẻ sĩ có hiểu biết nhìn thấu nó; Trung Cộng cho dù khoe khoang nó là đại biểu nhân dân, thế nhưng nó cũng không hỏi xem nhân dân có cần đảng cộng sản đại biểu cho mình hay không, lại càng không dám cho người dân bỏ phiếu lựa chọn, quyết định xem ai lãnh đạo quốc gia. Yêu tinh cáo cuối cùng bị người nhìn rõ bộ mặt thật giết chết; Trung Cộng tương lai cũng nhất định sẽ bị lật đổ bởi những nhân dân Trung Quốc đã thức tỉnh.

Nguồn: “Quảng dị ký”

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/255119

The post Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 2)https://chanhkien.org/2020/07/tuyen-tap-kho-tang-tri-thuc-dao-duc-va-tri-tue-cua-nguoi-xua-phan-2.htmlTue, 28 Jul 2020 23:13:24 +0000https://chanhkien.org/?p=26468Tác giả: Lục Thiện Tiếp theo Phần 1 [ChanhKien.org] 1. Trương Phi dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ Tiên chủ Lưu Bị vừa thấy Mã Siêu, liền giao cho ông ta làm Bình Tây Tướng quân, phong làm Đô Đình Hầu. Mã Siêu thấy Tiên chủ đối đãi với mình […]

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Thiện

Tiếp theo Phần 1

[ChanhKien.org]

1. Trương Phi dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ

Tiên chủ Lưu Bị vừa thấy Mã Siêu, liền giao cho ông ta làm Bình Tây Tướng quân, phong làm Đô Đình Hầu. Mã Siêu thấy Tiên chủ đối đãi với mình rất hậu hĩnh, liền quên mất lễ tiết quân thần trên dưới, thường xưng tên với Tiên chủ.

Quan Vũ vô cùng tức giận, thỉnh cầu giết Mã Siêu. Tiên chủ không đồng ý.

Trương Phi nói: “Nếu không giết hắn, thì phải cho hắn biết thế nào là lễ độ”.

Ngày hôm sau, Tiên chủ Lưu Bị mở đại hội đãi các tướng lĩnh. Quan Vũ, Trương Phi, hai người cầm đao đứng hai bên Tiên chủ.

Mã Siêu tiến vào, không nhìn thấy ghế của Quan Vũ, Trương Phi. Lại cẩn thận nhìn quanh, thấy Quan Vũ và Trương Phi đứng ở hai bên Tiên chủ, trông rất nghiêm trang. Mã Siêu cả kinh biến sắc. Trương Phi (và Quan Vũ) đã dùng hành động thiết thực của mình để dạy cho Mã Siêu biết lễ độ.
Từ đó về sau, Mã Siêu rất mực cung kính Tiên chủ Lưu Bị.

Cổ nhân nói: “Thánh hiền có thể lấy mình làm gương, dùng hành động để dạy dỗ người khác”. Không ngờ rằng Trương Phi cũng có thể dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ.

Phùng Mộng Long viết: Trương Phi từng thể hiện vẻ nghiêm khắc. Bây giờ lại dùng hành động dạy dỗ cho Mã Siêu biết lễ độ. Đây đều là cử chỉ tinh tế, tỉ mỉ của ông. Người đời sau xem Trương Phi như người thô kệch, thực là oan cho tướng quân Trương Phi!

2. Trọng việc nước mà vứt bỏ oán hận cá nhân

Triệu Vương từ Thắng Trì về nước, cho rằng Lạn Tương Như mang ngọc bích trở lại nước Triệu là có công lao rất lớn, lập tức phong cho ông làm Thượng khanh, xếp trên Liêm Pha. Liêm Pha tự phụ cho rằng có chiến công, nhưng Lạn Tương Như lại dựa vào miệng lưỡi mà được phong chức cao hơn ông ta, trong lòng Liêm Pha rất không phục, nói: “Ta mà gặp Lạn Tương Như thì nhất định phải khiến ông ta nhục nhã”.

Lạn Tương Như nghe được những lời này, liền hết sức tránh giáp mặt với Liêm Pha, mỗi lần lên triều thường cáo bệnh không lên, không muốn tranh hơn thua với Liêm Pha. Một lần Lạn Tương Như ra ngoài, từ xa nhìn thấy Liêm Pha liền đánh xe tránh đi. Thấy vậy những môn khách trong nhà của Lạn Tương Như cùng nhau đến gặp ông, nói rằng muốn từ biệt ông ra đi. Lạn Tương Như tha thiết giữ họ lại, nói: “Các tiên sinh thấy Liêm Pha và Tần Vương ai đáng sợ hơn?” Mọi người nói: “Liêm Pha đương nhiên không đáng sợ như Tần Vương”. Lạn Tương Như nói: “Vậy lấy Tần Vương mà nói, uy phong của ông ta lớn như thế mà ta dám trách cứ ông ta trên triều đình, và còn dám nhiếc mắng quần thần của ông ta. Lạn Tương Như ta tuy bất tài, chẳng lẽ lại sợ Liêm Pha sao? Chỉ là ta nghĩ, nước Tần hùng mạnh sở dĩ không dám tấn công nước Triệu chính là vì có hai người ta và Liêm Pha ở đây! Nếu hai bên đấu với nhau, hai bên đều bị tổn thương, tức là bất lợi cho đất nước. Ta sở dĩ nhiều lần tránh né Liêm Pha, là trọng việc nước mà vứt bỏ oán hận cá nhân, đặt việc quốc gia lên trên mà bỏ chuyện riêng cá nhân ra khỏi đầu”.

Liêm Pha sau khi nghe được những lời đó, đã nhờ môn khách đến nói rõ sự tình, rồi cởi trần mang roi một mình đến trước mặt Lạn Tương Như để nhận lỗi. Hai người sau đó kết giao sinh tử.

Còn một chuyện khác, tướng lĩnh dưới quyền tướng quân Cổ Phục thời Đông Hán đánh chết người ở Toánh Xuyên, bị Thái thú Khấu Tuân bắt xử tử. Cổ Phục cảm thấy nhục nhã, lúc đi qua Toánh Xuyên nói với tùy tùng rằng: “Ta mà gặp Khấu Tuân, nhất định sẽ tự tay giết chết ông ta”. Khấu Tuân biết được dự định của Cổ Phục, liền không gặp mặt ông ta. Cháu ngoại Cốc Sùng Sùng thỉnh cầu cử hộ vệ ở bên cạnh Khấu Tuân phòng trừ bất trắc. Khấu Tuân nói: “Hà tất phải làm như thế, trước đây Lạn Tương Như không sợ Tần Vương mà khuất phục được Liêm Pha, là đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu”.

Thái thú Khấu Tuân biết được Cổ Phục tướng quân đi qua, liền lệnh cho các quan huyện chuẩn bị nhiều rượu, mỗi người hai phần. Khấu Tuân ra nghênh đón, rồi cáo bệnh ra về. Quân lính dưới quyền Cổ Phục truy đuổi lùng bắt Thái thú Khấu Tuân, nhưng vì quân tướng đã uống rượu say mèm nên sự việc vì thế mà trôi qua. Khấu Tuân mang việc này tấu lên triều đình, Hoàng đế triệu kiến Khấu Tuân và Cổ Phục, hạ lệnh cho họ kết bạn với nhau. Sau đó, sự việc qua đi.

Phùng Mộng Long viết: Phần Dương Vương Quách Tử Nghi cùng Lý Quang Bích, bái nhau tại công đường, giống với dụng tâm của Lạn Tương Như. Lai Công Khấu Chuẩn đem một con dê nướng đi tiếp đón Đinh Vị, cũng theo cách làm của Khấu Tuân. Sự việc cụ thể như sau:

An Tư Thuận thời nhà Đường làm Tiết độ sứ Sóc Phương, Quách Tử Nghi và Lý Quang Bích đều là thuộc tướng của nha môn, nhưng hai người không hòa hợp nhau. Tuy rằng ngồi cùng một bàn ăn thường liếc mắt nhìn nhau, không nói với nhau câu nào. Về sau Tử Nghi tiếp nhận vị trí của An Tư Thuận, Quanh Bích định bỏ đi, nhưng vẫn do dự chưa quyết định. Mười ngày sau, Hoàng đế ra lệnh cho Quách Tử Nghi dẫn quân tiến đến Sơn Tây và Hà Bắc. Quang Bích gặp Tử Nghi nói: “Xin ban cho tôi được chết, nhưng đừng liên lụy đến vợ con gia đình tôi”. Tử Nghi vội bước xuống, ôm lấy Quang Bích tại công đường, rơi nước mắt nói: “Hôm nay đất nước loạn lạc, ngôi vua thay đổi, không có ông thì không thể đi chinh chiến về phía đông. Đây đâu phải lúc hai người chúng ta bộc lộ mối thù hận cá nhân?” Rồi nắm tay Quang Bích mà bái lạy, hai người hợp mưu dẹp loạn tặc ở An Lộc.

Đinh Vị thời Nhà Tống, lúc phải đi lưu vong ở Thời Châu, đi qua Lôi Châu, Ty hộ Lôi Châu Khấu Chuẩn đem một con dê nướng nghênh tiếp Đinh Vị. Trước kia, lúc Đinh Vị làm Thừa tướng từng muốn gạt Khấu Chuẩn, nên giáng chức ông ta đến Lôi Châu. Lúc này, Đinh Vị muốn gặp Khấu Chuẩn, nhưng bị cự tuyệt. Khấu Chuẩn biết được gia bộc trong nhà mình muốn tìm Đinh Vị báo thù, liền nhanh chóng đóng cửa, gọi gia bộc đến đánh bạc, không cho đi ra. Đợi đến khi Đinh Vị đi xa mới xong.

3. Tài sản quốc gia không thể muốn lấy thì lấy!

Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận ban đầu phục sự cho Chu Thế Tổ Sài Vinh ở Thiền Châu. Tào Bân là thân tín của Chu Thế Tổ, quản lý trà và rượu. Thái Tổ từng xin ông ta rượu để uống, Tào Bân nói: “Đây là rượu dành cho quan, không thể cho”, liền tự mình mua rượu cho ông uống. Đến khi Thái Tổ lên ngôi Hoàng đế, ông nói với quần thần rằng: “Trong các thân tín của Thế Tông, người không lừa gạt chủ nhân chỉ có Tào Bân mà thôi.” Từ đó coi ông ta là tâm phúc, giao trách nhiệm trọng đại.

Tống Thái Tổ tiến đánh Trừ Châu, Chu Thế Tông lệnh cho Đậu Nghi kiểm kê vàng bạc, lụa là trong kho phủ. Vài ngày sau, Thái Tổ lệnh cho Thân Lại đến lấy lụa trong kho, Đậu Nghi nói: “Lúc tướng quân mới đánh phá châu thành, dù có lấy đi toàn bộ của cải, cũng không ai dám nói gì. Hôm nay kiểm kê sổ sách thì đã là của cải quốc gia, không phải ngài muốn lấy là lấy được”. Về sau Thái Tổ lên ngôi, thường tán thưởng Đậu Nghi kiên trì nguyên tắc, muốn đề bạt ông ta làm tể tướng.

4. Nghiêm Chấn bỏ tiền thu được kẻ sỹ

Thời Đường Túc Tông, Nghiêm Chấn làm Tiết độ sứ Sơn Nam Tây Đạo. Có một người đến trước cửa xin ông 300 xâu tiền sống qua ngày. Nghiêm Chấn triệu quan cấp dưới Công Bật đến hỏi về chuyện này.

Công Bật nói: “Đây là một tên điên, đại nhân hà tất phải để ý đến hắn”.

Nghiêm Chấn tức giận nói: “Ông định phá hủy gia phong của ta sao! Lẽ ra nên khuyên ta nỗ lực làm việc thiện, vì sao lại khuyên ta tiếc rẻ tiền tài? Vả lại người này lai lịch chưa rõ ràng, dám xin ta 300 xâu tiền, chắc chắn không phải là người bình thường!” Liền ra lệnh người dưới cho hắn đủ số tiền đó. Thế nên các hiền sỹ ở Tam Xuyên (tên gọi chung của ba thị trấn: Kiểm Nam Tây Xuyên, Kiểm Nam Đông Xuyên, Sơn Nam Tây Đạo), không ai không kính phục quy thuận ông. Nhưng về sau, không có ai lại đến xin tiền của Nghiêm Chấn nữa. (Nỗi lo lắng của Công Bật hoàn toàn không xảy ra).

Phùng Mộng Long viết: Trong thiên hạ có rất nhiều việc xấu đều là từ “không nỡ mất tiền” mà ra, có rất nhiều việc tốt đều là từ “nỡ mất tiền” mà ra. Từ xưa đến nay, không có người tốt nào mà không nỡ mất tiền. Lỗ Túc nước Ngô thời Tam Quốc, Vu Thuận thời Đường, Phạm Trọng Yêm thời Tống, đều là người rất mạnh tay, vui lòng giúp đỡ những bần sĩ. Đổng Thượng Thư ở Tây Ngô (nay là Ô Trình, Giang Tô), gia đình sung túc mà lại chăm giao tế, hễ gặp bần sỹ thì đều không do dự mà cho tặng tiền của.

Trong những năm Hoằng Trị, chùa Chiêu Khánh bị hư hại muốn tu sửa lại. Án sát sứ đến hỏi thăm ba phú hộ, kêu gọi họ cùng bỏ tiền tu sửa. Ngô Mỗ Nhân người huyện Trường Hưng cũng nằm trong số đó. Ngô Mỗ nói: “Việc này tốn không hết bao nhiêu tiền, tiểu nhân xin một mình đảm trách”. Án sát sứ rất vui. Ngô Mỗ về nhà báo cho phụ thân của ông biết, phụ thân nói: “Đứa con trai này của ta có can đảm như thế, tương lai tất có thể kế thừa gia nghiệp của ta!” Hiểu biết của ông lão này quả thực là trác việt phi phàm!

5. Trí tuệ tương thông của Tiêu Hà và Nhâm Mỗ

Lưu Bang công phá kinh thành Hàm Dương của nhà Tần, chư tướng đều tranh nhau tìm kho tiền trước để chia nhau. Duy chỉ có Tiêu Hà, tuy vào thành Hàm Dương trước, nhưng lại đi lục soát và lấy đi các sách pháp luật của Tể tướng và quan Ngự sử nhà Tần. Lưu Bang sở dĩ có thể biết được những điểm mấu chốt, dân số nhiều ít, những điểm mạnh yếu, và những khó khăn của người dân, đều là nhờ Tiêu Hà thu được bản đồ lãnh thổ, sổ hộ tịch và hồ sơ của nhà Tần.

Nhâm Mỗ người huyện Tuyên Khúc, cụ thân sinh ra ông từng làm quan thương khố châu quận. Sau khi nhà Tần diệt vong, hào kiệt các nơi đều đi tranh cướp vàng bạc châu báu. Nhưng Nhâm Mỗ một mình đi đào hầm tích trữ lương thực. Lúc Hán Sở giao tranh ở Huỳnh Dương, chiến loạn liên miên, dân chúng không thể trồng trọt lương thực. Giá một thạch gạo cao đến vạn quan tiền, thế là rất nhiều vàng bạc châu báu của các hào kiệt không thể ăn được, phải mang vàng bạc châu báu đi đổi lương thực. Vì thế, tất cả vàng bạc châu báu đều thuộc về Nhâm Mỗ.

Phùng Mộng Long viết: Trí tuệ của Tiêu Hà và Nhâm Mô khó phân cao thấp, hoán đổi vị trí hai người đều có thể làm được như nhau.

Lại như Trác Thị ở đất Thục, tổ tiên là người nước Triệu, giàu lên nhờ nghề luyện thép, khi nhà Tần diệt nước Triệu, chuyển Trác Thị tới đất Thục, hai vợ chồng đẩy xe đi bộ. Các nhà khác đem số tiền ít ỏi hối lộ quan lại để xin chuyển đến chỗ gần, liền được sắp xếp ở vùng Gia Manh, Xuyên Bắc.

Chỉ có Trác Thị nói: “Nơi này đất đai cằn cỗi, ta nghe nói dưới núi Mân Sơn, đất đai màu mỡ dễ trồng khoai, dân không lo chết đói, người dân dệt vải buôn bán”. Liền xin chuyển tới nơi xa, đến Lâm Cung, dựa vào núi làm nghề đúc luyện, vận chuyển buôn bán, sau đó ông ngày càng giàu có. Hiểu biết của ông quả là hơn người.

6. Dùng binh lính vận chuyển quân lương

Đổng Bác Tiêu người Từ Châu, năm Chí Chính thứ 16 triều Nguyên (năm 1356) kiến nghị lên triều đình, ở vùng Hải Ninh tàu bè không lưu thông được, quân lương chỉ có để vận chuyển bằng đường bộ. Người dân ven biển thường xuyên bị hải tặc quấy nhiễu, cần được quan tâm nhiều hơn. Tạm thời giao cho quân đội vận chuyển lương thực, biện pháp vận chuyển đường bộ là mỗi người đi 10 bước, 36 người có thể đi được 1 dặm, 360 người có thể đi được 10 dặm, 3600 người có thể đi được trăm dặm. Mỗi người gánh bốn đấu gạo, đựng gạo bằng bao vải, được quan lại lý và quận niêm phong lại. Mỗi người gánh gạo vận chuyển liên tục, mỗi ngày 500 lần, tổng cộng vận chuyển được 28 dặm. Đi nhanh 14 dặm, mỗi ngày chuyển đến 200 đấu, mỗi lần vận chuyển có thể cung cấp cho 2 vạn người. Tính ra mỗi ngày vận chuyển lương thực trăm dặm.

Phùng Mộng Long viết: Lúc đi chinh chiến phía bắc ở Trường Lăng, vì đường xa, hiểm trở, xe nặng, người dân mệt mỏi, lương thực thiếu thốn. Liền chọn nơi bằng phẳng, chia đều chặng đường, bố trí trạm canh giữ. Mỗi người dân phu vận chuyển một thạch gạo. Người này chuyển cho người kia, đến hoàng hôn. Người dân không mệt, mà lương thực lại dồi dào, cũng là cách làm này.

7. Hưng Lợi trừ bỏ tệ nạn

Từ xưa, lương thực cấp cho kinh thành dựa vào nguồn cung ứng bằng đường thủy, chỉ có kho của Thông Châu gần sông là thuận tiện. Từ Thông Châu đến kho của kinh thành, vận chuyển bằng đường bộ hơn 40 dặm, chi phí vận chuyển cao mà lại tổn thất lớn, quân đội các nơi vào kinh thành thao luyện thời gian dài, chi phí không đủ. Lưu Bản Đạo suy nghĩ về hai vấn đề nan giải này, liền tấu xin triều đình phê chuẩn cho kho lương Thông Châu, mỗi tháng vào dịp binh sỹ thao luyện không có việc, yêu cầu các binh sỹ luân chuyển lương thực tới kinh thành, cứ vận chuyển 20 thạch thì phát thưởng 1 lượng. Lương thực vận chuyển đường thủy, toàn bộ đều giao nộp cho Thông Châu. Xây dựng thêm 300 gian kho lương để tiện cho việc thu trữ lương thực. Mỗi năm tích lũy dư ra hơn 50 vạn thạch gạo tốt, mở rộng kho tích trữ lương thực của kinh thành, Hoàng thượng đã ban thưởng trang phục nhị phẩm để biểu dương Lưu Bản Đạo.

Phùng Mộng Long viết: Lưu Bản Đạo, người Giang Âm, Thường Châu, lúc làm Chuyên lại được Bá Ngọc Ký ở Tĩnh Viễn khen ngợi, cho làm phụ tá, lại tấu xin Thánh thượng cho làm Bộ hình chiếu ma, đi viễn chinh đến Vân Nam, thường tiếp thu sách lược của ông. Trong những năm Chính Thống (1436-1449), ông theo Thượng thư Kim Liêm đi thảo phạt Phúc Kiến, bắt được hơn vạn tù binh, được thăng chức Viên ngoại lang Bộ Hộ. Đầu những năm Cảnh Thái (năm 1450), biên giới Tây Bắc bất ổn, dân chúng sống không yên. Lưu Bản Đạo tấu xin phê chuẩn ngân khố cấp tiền mua 2000 con trâu, đổi lấy lương thực phát cho dân. Sự kiện kho lương thực biên phòng Quý Châu bị trộm được tiết lộ đã liên lụy đến rất nhiều người, Lưu Đạo Bản được cử đến xử lý, không đầy một tháng, toàn bộ sự việc được làm rõ tường tận, không oan sai bỏ sót. Thánh thượng khen ngợi ông liêm khiết, tài giỏi, ban thưởng cho ông vải ngũ sắc. Đầu những năm Thiên Thuận (năm 1457), ông được thăng chức Hữu thị lang Bộ Hộ, tổng quản lý việc dự trữ lương thực ở các vùng ven kinh thành, Thông Châu, Hoài An.

Lưu Bản Đạo được thăng chức nhờ vào tài năng của mình, hơn nữa bậc tiền bối đề cử người hiền tài không xét thân thế, Hoàng đế dùng người không mang thiên kiến. Người thời nay nên noi theo (ngôn từ ở đây rất súc tích, có thể nói là lời vàng ngọc. Người thời nay xác thực nên làm theo).

9. Dùng cây củ cải để đắp đê

Tô Thức nhận chức Tri châu ở Hàng Châu, năm đó đại hạn, nạn đói, bệnh dịch hoành hành. Tô Thức tấu xin triều đình miễn trừ 1/3 số thóc gạo người dân Hàng Châu phải nộp cho triều đình, cho nên giá gạo không tăng cao, lại nhận được ban thưởng 100 tăng độ điệp, dùng để đổi gạo, cứu tế cho dân. Mùa xuân năm sau còn giảm giá bán gạo, giúp người dân dần thoát khỏi khó khăn do hạn hán gây ra.

Hàng Châu là vùng sông nước, địa thế trũng, nước suối vừa mặn vừa đắng, dân cư thưa thớt. Lý Bí nhà Đường bắt đầu dẫn nước Tây Hồ xây sáu cái giếng lớn, người dân mới có đủ nước dùng, nhân khẩu của các thôn làng càng ngày đông đúc. Bạch Cư Dị đến nhậm chức quan, lại khơi thông Tây Hồ, dẫn nước vào sông Vân, từ sông Vân chảy vào ruộng, tưới nước cho hơn ngàn thửa ruộng. Tuy nhiên, trong hồ mọc đầy cây củ cải, rễ cây bám dày đặc. Bắt đầu từ thời nhà Đường, mỗi năm đều phải xử lý mới có đủ nước trong hồ để dùng. Sau thời Tống lại bị bỏ hoang, không thường xuyên xử lý, vì thế trong hồ mọc lên rất nhiều bụi cây củ cải, rễ mọc dày đặc, trở thành ruộng củ cải rộng hơn 150.000 trượng (1 trượng khoảng 3m), nước còn lại không nhiều, sông Vân cạn nước, phải dẫn nước từ Giang Hồ, nước hồ vẩn đục đầy bùn, sông chảy qua thành thị ba năm phải nạo vét một lần, đây là một vấn đề lớn của thành thị, mà sáu cái giếng cũng bỏ hoang nhiều năm.

Tô Thức vừa tới nhậm chức liền cho khơi thông hai dòng sông Mao Sơn và Diêm Kiều. Để sông Mao Sơn thông với Giang Hồ, sông Diêm Kiều thông với Hồ Thủy. Tiếp theo là xây các đập nước, dùng để khống chế lượng nước chứa và thoát ra từ Hồ Thủy, để nước Hồ Thủy không chảy qua thành phố nữa. Đồng thời lại cho tu sửa sáu cái giếng để người dân trăm họ được chung hưởng lợi ích.

Lúc đến thăm hồ, Tô Thức quan sát rất lâu, nói: “Bây giờ muốn diệt trừ cây củ cải, thì bỏ nó đi đâu đây? Phía nam và phía bắc hồ cách nhau 30 dặm, một ngày không đi hết một vòng hồ. Nếu chất những rễ cây củ cải trong hồ tạo thành con đê dài, trừ hết tác hại của cây củ cải, thì có thể thông suốt dòng chảy bắc nam, thuận lợi cho mọi người đi lại. Người nước Ngô (ý chỉ Nam Giang Tô, Bắc Chiết Giang) trồng lúa mạch, mùa xuân thì cắt đi, không để lại một tấc nào. Nếu bỏ những ruộng cây củ cải này đi, chiêu mộ người trồng lúa mạch, thu hoạch xong để chuẩn bị cho việc sửa hồ. Trong hồ sẽ không xảy ra tình trạng ngập úng và tắc nghẽn, thế là dùng tiền và lương thực còn dư từ việc cứu đói, được hơn 1 vạn thạch, ông lại tấu xin triều đình và được ban thưởng 100 tăng độ điệp dùng để chiêu mộ dân công xây dựng đê, trên đê lại trồng cây phù dung và dương liễu, nhìn từ xa giống như một bức tranh tráng lệ và thú vị! Để ca tụng ân đức của ông, người Hàng Châu gọi đó là “Đê Tô Công”.

9. Trương Nhu giúp dân chúng tăng sản nghiệp, trăm họ đều vui mừng

Trương Nhu lãnh đạo dân chúng rất có phương pháp. Ban đầu ông làm phụ tá Cốc Châu, kênh dẫn nước bị ứ tắc, ruộng lúa nước để hoang phế đã mấy chục năm, các Thái thú kỳ trước đều không thể khơi thông dòng chảy. Trương Nhu vừa mới nhậm chức, Thái thú liền bàn chuyện này với ông, lo rằng sẽ tiêu tốn rất nhiều công sức của dân chúng. Sau khi đích thân khảo sát hiện trường, Trương Nhu nói với Thái thú rằng, nếu có một số nhân lực thì trong ba ngày có thể làm xong. Thái thú cảm thấy kì lạ, cho rằng ông nói khoa trương. Trương Nhu bèn triệu tập nhân lực, tuyển đủ nhân lực cần thiết, mang dụng cụ đến đo đạc đầy đủ số phần phải thi công, phân chia trách nhiệm người phụ trách từng đoạn, mọi người đều tranh nhau làm. Sau ba ngày là hoàn thành. Thái thú kinh ngạc, cho rằng có Thần lực tương trợ! Vì thế đã báo cáo lên triều đình, thăng chức cho Trương Nhu làm Thái thú Bá Châu.

Người dân Bá Châu đi lang bạt rất nhiều. Ở mỗi làng Trương Nhu cho thiết lập một quyển sổ, trong đó đăng ký từng hộ, viết rõ số nhân khẩu, giới tính, tuổi tác của từng người trong gia đình, phân phối nhà ở, lúa mì, giống cây dâu táo, công cụ nghề dệt và định ra số lợn gà phải chăn nuôi, loan truyền rộng rãi cho mọi nhà đều biết. Trương Nhu lúc có thời gian còn thường hạ cố đi đến các hộ dân để kiểm tra sổ dân, nhân khẩu không đủ liền bị xử phạt. Thế là người dân đều cần cù làm lụng, không dám lười biếng, không đến hai năm, người dân đều có tài sản. Trương Nhu giúp cho dân chúng tăng sản nghiệp, bách tính đều vui mừng, phấn khởi.

10. Trừng trị người xấu, ức chế kẻ gian

Huyện Pha thuộc An Phong, trước kia đã xây dựng hai con kênh nước nối hai phía Nam Bắc, tưới tiêu cho đất canh tác vùng sở tại, mang lại lợi ích lớn cho người dân. Về sau do có hạn hán, mọi người đều muốn gieo trồng gấp cho kịp thời vụ, có một số người mưu lợi riêng, thừa cơ lén dẫn nước vào ruộng mình, nên kênh mương bị phá hoại, mất khả năng tưới tiêu. Mọi người đều thiệt hại nặng nề. Lý Nhược Cốc làm Tri Châu ở Thọ Xuân ra lệnh cho Huyện Pha tu sửa kênh mương bị hỏng bờ, không được kêu gọi dân phu rộng rãi, chỉ huy động người dân vùng ven kênh mương đến tu sửa: Vì họ trộm nước dẫn vào ruộng nên kênh nước mới bị phá hoại, gây ra tai họa lớn, làm như vậy để người dân ở đó nhận thức được rằng: trộm cắp, mưu lợi riêng là hành vi tự hại mình, từ nay về sau không dám phá trộm kênh mương nữa.

Ở vùng Vân Hùng, các nhà phú hào rơm rạ đầy đồng, nhưng lại thường hay sai gia bộc đi đào trộm đê quan. Những năm Hàm Bình (998-1003), Triệu Xương Ngôn làm Thái thú, biết rõ tình hình nhưng chưa từng tìm hiểu thêm về vấn đề này. Một hôm đê bị vỡ, quan địa phương khẩn cấp báo cáo lên. Triệu Xương Ngôn hạ lệnh: Những nhà phú hào bỏ ra nhân lực và vật lực, lập tức dùng củi, rơm của nhà phú hào để gia cố cho đê đập. Từ đó về sau, những nhà phú hào không ai còn dám đi đào trộm đê quan nữa.

(Theo Tri Nang toàn thư của Phùng Mộng Long đời nhà Minh)

Ghi chú:

Thạch: đơn vị đo lường (1 thạch tương đương 120 cân)

Tăng độ điệp: một loại chứng nhận được miễn trừ nghĩa vụ phục dịch cho triều đình.

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/246294

The post Tuyển tập kho tàng tri thức: Đạo đức và trí tuệ của người xưa (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đông Phương Sóc giải ẩn đố: thì ra “hoạn nạn” là một sinh mệnhhttps://chanhkien.org/2020/07/dong-phuong-soc-giai-an-do-thi-ra-hoan-nan-la-mot-sinh-menh.htmlSat, 04 Jul 2020 09:54:44 +0000https://chanhkien.org/?p=26446Tác giả: Đông Phong   [ChanhKien.org]  Có câu nói rằng: “Sinh ư ưu hoạn, tử ư an lạc” nghĩa là sinh trong hoạn nạn, chết nơi an lạc, có lẽ chúng ta sẽ cho rằng “hoạn nạn” ấy là một từ mang tính hình tượng, mà lại không biết rằng “hoạn nạn” vốn là sinh mệnh […]

The post Đông Phương Sóc giải ẩn đố: thì ra “hoạn nạn” là một sinh mệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đông Phong

 

[ChanhKien.org]  Có câu nói rằng: “Sinh ư ưu hoạn, tử ư an lạc” nghĩa là sinh trong hoạn nạn, chết nơi an lạc, có lẽ chúng ta sẽ cho rằng “hoạn nạn” ấy là một từ mang tính hình tượng, mà lại không biết rằng “hoạn nạn” vốn là sinh mệnh hết sức thực tại.

Hán Vũ Đế Lưu Triệt trên đường đi du ngoạn về phía Đông, khi đến Hàm Cốc Quan thì đoàn xa giá của ông bị một vật lạ chặn ngang đường. Thứ này có thân dài mấy trượng hình dạng giống như con trâu, đôi mắt màu xanh phát quang lấp lánh, bốn chân của nó lún sâu dưới đất, không ai xê dịch được nó. Các viên quan tùy tùng thảy đều kinh sợ. Khi ấy Đông Phương Sóc bảo người mang rượu đến rót vào thứ ấy, sau khi rót mấy chục bình rượu thì vật đó biến mất.

Hán Vũ Đế hỏi Đông Phương Sóc nguyên do vì sao, Đông Phương Sóc thưa rằng: “Quái vật này có tên là “ưu” (nghĩa là ưu sầu), được sinh ra từ “hoạn” (nghĩa là hoạn nạn). Nơi này xưa là một nhà tù của nhà Tần, trước kia những tội phạm đều bị tập trung ở đây. Vì chỉ có uống rượu mới có thể quên được “ưu sầu”, cho nên có thể dùng rượu để tiêu trừ nó. Hán Vũ Đế cảm thán nói: “Khanh quả là người uyên thâm”.

Rất nhiều thứ mà chúng ta cho rằng nhìn không thấy, sờ không được, kỳ thực đằng sau nó đều có nguyên nhân hết sức thực tại. Những điều mà chúng ta biết được ở trên thế giới này quả thực vô cùng ít ỏi, vũ trụ chân thực vô cùng phức tạp và huyền diệu.

Nguyên văn:
Hán Vũ Đế đi du ngoạn về phía Đông, đến Hàm Cốc Quan, có một vật trên đường, thân dài mấy trượng, hình dáng giống con trâu. Đôi mắt màu xanh phát ánh sáng lấp lánh, bốn chân rúc xuống đất, đẩy thế nào cũng không xê dịch. Các quan đều lo sợ, Đông Phương Sóc bèn bảo lấy rượu rót lên nó, rót hơn chục bình rượu thì nó mới tiêu đi. Đế hỏi nguyên cớ, Đông Phương Sóc đáp rằng: “Thứ này gọi là ưu, do hoạn sinh ra. Nơi này là thuộc đất nhà tù của nhà Tần. Những tù nhân tụ tập ở đây, uống rượu quên sầu, cho nên nó có thể nhờ rượu mà tiêu đi”. Hán Vũ Đế đáp: “Khanh quả là người uyên thâm, việc này mà cũng biết ư?”

 

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/259386

The post Đông Phương Sóc giải ẩn đố: thì ra “hoạn nạn” là một sinh mệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Hãy nghe tôi, dịch bệnh có thuốc chữahttps://chanhkien.org/2020/03/hay-nghe-toi-dich-benh-co-thuoc-chua.htmlTue, 10 Mar 2020 03:14:22 +0000https://chanhkien.org/?p=26105Tác giả: Kính Chỉ   [ChanhKien.org] Nói đến ôn dịch, có hai câu chuyện đã để lại cho tôi ấn tượng vô cùng sâu sắc, câu chuyện cho người ta thấy dịch bệnh đáng sợ như thế nào, đồng thời cũng chỉ ra cho mọi người cách thoát khỏi dịch bệnh. Đại dịch có quy […]

The post Hãy nghe tôi, dịch bệnh có thuốc chữa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Kính Chỉ

 

[ChanhKien.org] Nói đến ôn dịch, có hai câu chuyện đã để lại cho tôi ấn tượng vô cùng sâu sắc, câu chuyện cho người ta thấy dịch bệnh đáng sợ như thế nào, đồng thời cũng chỉ ra cho mọi người cách thoát khỏi dịch bệnh.

Đại dịch có quy mô lớn nhất trong lịch sử là dịch hạch thời La Mã cổ đại. Đại dịch này kéo dài 400 năm, mà trong khoảng thời gian 400 năm ấy, có đến 300 năm La Mã cổ đại bức hại các tín đồ Cơ Đốc. Từ năm 54 đến năm 68 Công nguyên, hoàng đế La Mã Nero đã cố tình phóng hỏa đốt cháy thành Rome nhằm giá họa cho các tín đồ Cơ Đốc. Để kích động tâm lý chống Cơ Đốc trong nhân dân, Nero chỉ đạo một số nhà lý luận bịa đặt nhất nhiều tin đồn chống lại tín đồ Cơ Đốc, đổ tội cho họ đã gây ra toàn bộ các việc xấu xa trong xã hội La Mã cổ đại. Rất nhiều tín đồ Cơ Đốc bị Nero ra lệnh quăng vào giữa trường đấu, giới quý tộc La Mã vừa cười lớn vừa xem những người còn đang sống này bị mãnh thú xé xác ăn thịt đến chết. Ông ta thậm chí còn sai người đem rất nhiều tín đồ Cơ Đốc bó lại cùng với cỏ khô làm đuốc, xếp sẵn trong hoa viên, sau đó đến đêm đem châm lửa đốt để chiếu sáng dạ tiệc hoa viên của hoàng đế.

60 năm sau, vào năm 125, trận đại ôn dịch đầu tiên xảy ra ở La Mã (đại dịch Orosius) đã cướp đi sinh mệnh của một triệu người. Mặc dù vậy, La Mã cổ đại vẫn không chịu bãi bỏ pháp lệnh đàn áp tín đồ Cơ Đốc. 40 năm sau, vào năm 166, La Mã xảy ra trận đại ôn dịch thứ hai (đại dịch Antonius hay Galen). “Có khoảng 2.000 người chết mỗi ngày, hoàng đế Marcus Aurelius cũng không thoát. Dân số La Mã bị hủy đi một phần ba và người dân thủ đô Constantinople chết một nửa”. 80 năm sau, vào năm 250, bạo chúa Desius ra sắc lệnh ép các tín đồ Cơ Đốc từ bỏ đức tin của mình vào một “ngày ăn năn” đã chọn, nếu không sẽ bị thống đốc địa phương xét xử. Quan chức chính phủ là tín đồ Cơ Đốc thì bị bắt làm nô lệ hoặc tịch biên gia sản, những người kiên định nhất bị đem ra xử tử. Đối với dân thường, tình hình thậm chí còn bi thảm hơn. Lần này khoảng cách thời gian đã rút ngắn lại, cùng năm đó, La Mã khởi phát trận đại dịch thứ ba (đại dịch Cyprian), giết chết khoảng 5.000 người mỗi ngày, lan ra toàn La Mã và kéo dài liên tục trong vòng 16 năm. Thế nhưng hoàng đế La Mã vẫn không nhận ra sai lầm của mình. Vào năm 303, hoàng đế Diocletian một lần nữa ban hành sắc lệnh, khai màn cho “cuộc đàn áp tôn giáo lớn nhất của chính quyền đế quốc La Mã”. Vô số giáo hội bị hủy diệt, kinh sách bị tịch thu và các giáo đồ bị tàn sát.

Cùng với cuộc bức hại tín đồ Cơ Đốc, đế quốc La Mã liên tục bị thiên tai và dịch bệnh tấn công, tình hình kinh tế liên tục xấu đi, những bộ lạc từ Đức và đế quốc Ba Tư bắt đầu đánh chiếm các vùng biên giới xa xôi, đế chế La Mã dần đi đến suy tàn. Năm 542, La Mã bắt đầu đợt đại dịch thứ tư (đại dịch Justinian). Nhà sử gia Ivan Griers đã đích thân trải qua cuộc trừng phạt triệt để cuối cùng này. Lần này, trận ôn dịch với sức mạnh ghê gớm đã lan ra toàn bộ lục địa châu Âu. Đế chế La Mã hùng mạnh bị hủy diệt hoàn toàn.

Một đế chế có vẻ rất hùng mạnh, một thành trì vững chắc, nhưng lại bị hủy hoại hoàn toàn trong dịch bệnh. Tự cổ chí kim, Trung Quốc cũng có những thời kỳ lịch sử bị ôn dịch hoành hành, nhưng rất nhiều hoàng đế nhờ kính thiên tín Thần nên thường khống chế và loại bỏ được dịch bệnh. Có một câu chuyện như thế này:

Triều nhà Minh có một người tên là Tấn Vân lúc ấy vẫn chưa có công danh gì, một ngày vào tết Nguyên đán, Tấn Vân dậy sớm, vừa ra khỏi cửa đã gặp rất nhiều ma quỷ hình thù gớm ghiếc. Anh lớn tiếng quát hỏi nguyên do, lũ quỷ thưa: “Chúng tôi là quỷ ôn dịch, cứ đầu năm lại đến nhân gian reo rắc dịch bệnh, chỉ có vậy thôi!”. Tấn Vân nói: “Có tới nhà ta không?”. Quỷ nói: “Không”. Tấn Vân hỏi: “Sao lại tránh nhà ta ra?”. Quỷ trả lời: “Gia đình ngài ba đời tích đức, gặp người hành ác thì ra tay ngăn cản, gặp người hành thiện thì khen ngợi, khích lệ, con cháu công danh lừng lẫy, chúng tôi nào dám tới?”. Nói xong liền biến mất. Năm đó dịch bệnh hoành hành khắp nơi, duy chỉ có nhà Tấn Vân bình an vô sự.

Về mức độ khủng khiếp của dịch bệnh, chỉ cần chứng kiến dịch bệnh Covid-19 đang xảy ra trên thế giới là biết. Thế nhưng cổ nhân đã để lại cho chúng ta một phương thuốc giúp tránh khỏi dịch bệnh, đó là “tích đức hành thiện”. Lão tổ Trần Chuyên có truyền lại rằng: “Ôn vong bất do vận số, mạ địa chú thiên”. Ý nói là khi dịch bệnh giáng xuống, sự tồn vong của sinh mệnh không phải do vận khí tốt xấu của con người, mà vì con người bất kính với thiên địa, Thần linh mới là nguyên nhân dẫn đến đại dịch khủng khiếp hoành hành. Liệu con người có thể bình an qua được lần dịch bệnh nghiêm trọng này hay không, điều này liên quan đến thái độ của con người trước Thần linh, thiên địa. Bởi vậy người hành thiện tích đức có thể tránh được dịch bệnh gõ cửa. Thời cổ đại, hoàng đế gặp phải ôn dịch thì ban “tội kỷ chiếu” (chiếu tự trách tội bản thân), nguyện dùng thân mình chịu phạt để tránh cho thiên hạ bách tính chịu khổ, đức bao trùm muôn dân trăm họ thì mới có thể loại trừ ôn dịch, cứu giúp thiên hạ.

Trong lịch sử nhân loại đã không ít lần xuất hiện ôn dịch, có chuyên gia phân tích, phát hiện thấy rất nhiều dịch bệnh đều khởi phát từ cơ thể động vật lây nhiễm sang người, sau đó qua những con đường lây nhiễm khác nhau mà lan ra cả thành phố, quốc gia cho đến toàn thế giới. Bởi vậy người ta đã tích lũy rất nhiều kinh nghiệm đối phó với dịch bệnh. Giống như trận dịch Covid-19 đang xảy ra ở Trung Quốc và trên thế giới hiện nay, chính phủ và các chuyên gia đưa ra rất nhiều phương án ứng phó khẩn cấp: thường xuyên rửa tay, giữ vệ sinh, không đến nơi đông người, không ăn thịt thú hoang, cách ly những người có dấu hiệu bệnh để điều trị, còn tiến hành phong tỏa cả thành phố, cả tỉnh để ngăn dịch bệnh lây lan. Những phương pháp này cũng đang ức chế sự lây lan của virus ở một mức độ nhất định. Các chuyên gia y tế ở Trung Quốc và trên thế giới đều đang tích cực nghiên cứu phương pháp tiêu diệt virus Covid-19, thế nhưng những biện pháp này chỉ giải quyết được vấn đề trên bề mặt. Con người có thân thể xác thịt và còn có ý thức tinh thần, rất nhiều lúc tinh thần của người ta cũng có thể tác động đến thân thể xác thịt, vật chất và tinh thần ảnh hưởng lẫn nhau. Tôi đã đọc rất nhiều bài báo liên quan đến dịch bệnh, rất ít người phân tích nguyên nhân sự lan truyền của dịch bệnh và giải pháp ngăn chặn dịch bệnh từ góc độ tinh thần, tâm linh. Nhìn từ hai câu chuyện kể trên, có thể thấy cả phương Đông và phương Tây đều coi phương diện tín ngưỡng tinh thần mới là nguyên nhân chủ yếu khiến dịch bệnh bùng phát, vì La Mã cổ đại đã bức hại các tín đồ Cơ Đốc nên mới xuất hiện sự lây nhiễm từ động vật mà dẫn tới ôn dịch. Bởi vì gia đình Tấn Vân thời cổ đại đã hành thiện tích đức nên mặc dù cả vùng xảy ra dịch bệnh nhưng cả nhà ông vẫn may mắn thoát được. Vậy thì đâu là nguyên nhân dẫn đến sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19 hiện nay, nguyên nhân bề mặt là sự truyền nhiễm từ động vật, còn nguyên nhân từ góc độ tâm linh là gì?

Trong bốn lần dịch bệnh ở La Mã cổ đại, người ta dùng biện pháp loại bỏ nguồn lây nhiễm, họ đem chôn ngay những người chết do nhiễm dịch hạch. Đường phố đâu đâu cũng thấy xác chết. Có người vì không chịu được nỗi đau mất người thân mà ôm thi thể vào lòng, hy vọng có thể lây bệnh chết cùng, nhưng lại bình an vô sự. Cũng có người nghĩ đủ mọi biện pháp phòng ngừa nhưng vẫn không thể thoát chết. Dịch bệnh như thể có mắt. Những người nên chết, dù có phòng ngừa tốt đến mấy cũng khó thoát được; người không nên chết thì có ôm lấy thi thể cũng không chết nổi. Đây hẳn là cảnh báo cho nhân loại rằng: dịch bệnh không đơn giản là truyền nhiễm virus, mà nó thể hiện ý chỉ của Thần. Ý chỉ của Thần chính là bảo hộ người thiện, trừng phạt kẻ ác.

Lịch sử như một tấm gương, có thể giúp chúng ta rút ra những bài học giáo huấn, từ đó mà làm được tốt hơn. Đến nay dịch bệnh Covid-19 đã lan rộng một cách bất thường, qua đó chúng ta nên rút ra một vài suy ngẫm:

1. Khoa học hiện đại đã phát triển vượt xa sự tưởng tượng của chúng ta. Sự phát triển của khoa học hiện đại đã đem đến cho xã hội nhân loại những tiến bộ to lớn, nhưng từ đó lại khiến nhân loại sa vào một loại tín ngưỡng khác – mê tín vào khoa học. Mà y học chỉ là một nhánh của khoa học hiện đại, nó xác thực đóng vai trò rất lớn trong việc giải quyết các loại bệnh tật của con người. Thế nhưng khoa học không phải là chiếc chìa khóa vạn năng, y học cũng không thể trị bách bệnh. Y học cũng có giới hạn của nó. Ví như các loại bệnh mãn tính mà chúng ta biết như tiểu đường, nó được gọi là căn bệnh ung thư vô phương cứu chữa. Y học hiện đại căn bản không thể trị tận gốc, chỉ có thể ức chế tạm thời sự phát triển của bệnh. Mà người ta chữa bệnh mục đích để khỏi bệnh chứ không phải chỉ để giảm đau. Vậy nên chúng ta không thể cứ mê tín vào y học được, đôi khi y học cũng có thể dẫn chúng ta vào đường cùng. Vấn đề bệnh tật cần phải xét từ nhiều phương diện và góc độ khác nhau, đừng dùi vào ngõ cụt để rồi không tìm được lối thoát.

2. Con người nên nhận thức lại. Nếu nhìn từ phương diện vật chất thì dường như không thể thấy được quy luật bùng phát của dịch bệnh, nhưng nếu nhìn từ góc độ tinh thần, tín ngưỡng thì có thể phát hiện ra nguyên nhân căn bản của dịch bệnh. Bất cứ khi nào con người bức hại đức tin chân chính, người đứng đầu chính quyền hành sự trái với đạo trời thì sẽ có ôn dịch xuất hiện. Đại dịch hạch La Mã cổ đại cũng vậy, các trận ôn dịch khác nhau tại Trung Quốc thời xưa cũng đều như vậy. Trước thảm họa ôn dịch, hoàng đế cổ đại trước hết sẽ nghĩ đến những khiếm khuyết, sai lầm của mình trong việc trị nước, sau đó ban “Tội kỷ chiếu”, nhờ thế mà mà giải quyết được thiên tai, ôn dịch. Vào triều đại Đường Thái Tông, đại tướng quân Chưởng Nhân Hoằng bị kết án tử hình vì tội tham nhũng. Tuy nhiên, Đường Thái Tông nể trọng Chưởng Nhân Hoằng, cho rằng ông ta là một người có tài có công, nên đã ban thánh chỉ sửa án tử hình thành lưu đày biên cương. Sau sự việc này, Đường Thái Tông nhận ra bản thân đã vì tư tình mà xem thường luật pháp, vậy nên ăn không ngon ngủ không yên, sau đó bèn gọi đại thần đến bàn bạc: “Pháp lệnh của quốc gia, hoàng đế nên là người đi đầu trong việc chấp hành, trẫm lại bênh vực Chưởng Nhân Hoằng, trẫm đã vì tư tâm mà làm loạn quốc pháp rồi”. Sau đó ông ban “Tội kỷ chiếu”, thừa nhận rằng trong vụ việc xử lý Chưởng Nhân Hoằng mình đã có ba lỗi lớn: Một là không biết nhìn người mà sai lầm trọng dụng Chưởng Nhân Hoằng, hai là vì tư tâm mà bảo vệ Chưởng Nhân Hoằng; ba là thưởng phạt không rõ ràng, xử lý không công minh, chính trực.

Năm Trinh Quán thứ hai, Trường An đại hạn, dịch châu chấu hoành hành. Đường Thái Tông thị sát tình hình thiên tai, nhìn thấy rất nhiều châu chấu bèn bắt mấy con vào lòng bàn tay và nói với chúng: “Bách tính dựa vào lương thực mà sống, các ngươi lại ăn mất lương thực của họ, vậy các ngươi chính là côn trùng gây hại! Bách tính gặp vấn đề gì, đều là do ta làm sai. Nếu các ngươi có linh thì hãy ăn tim ta, không được gây họa cho bách tính!” Nói xong toan nuốt châu chấu vào bụng, cận vệ xung quanh lập tức ngăn cản không để Đường Thái Tông đưa vào miệng, nói rằng châu chấu không sạch sẽ, nuốt vào e sinh bệnh. Đường Thái Tông nói: “Trẫm chính là muốn như vậy, trẫm hy vọng ông trời đem tai họa giáng lên thân trẫm, sao trẫm lại sợ mắc bệnh chứ?” Sau đó mặc cho thị vệ phản đối, ngăn cản, ông đã nuốt châu chấu vào bụng. Năm đó, nạn châu chấu biến mất.

Những bài học giáo huấn trong lịch sử để lại cho chúng ta rất nhiều điều đáng suy ngẫm, hy vọng con người ngày nay có thể tiếp thu những bài học giáo huấn từ lịch sử để không phạm phải những sai lầm tương tự.

3. Con người cần phải nâng cao đạo đức. Nếu như nói rằng vì đạo đức suy đồi mà gây ra dịch bệnh thì rất nhiều người sẽ không tin, nhưng ông trời rất công bằng, đạo đức con người trong con mắt của Thần là có tiêu chuẩn đo lường. Đạo đức mà Thần thừa nhận không phải là đạo đức xã hội chủ nghĩa, cũng không phải là sự trung thành với đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), càng không phải là cái gọi là đạo đức mà danh nhân nào đó trong xã hội rao giảng; mà đó là đạo đức của chính giáo chính Pháp lưu truyền ngàn năm, dùng lời đơn giản nhất mà nói, chính là giá trị đạo đức phổ quát “Chân–Thiện–Nhẫn”. Đây là điều mà toàn nhân loại đều thừa nhận, là điều mà tất cả Thần linh đều gia trì. Con người chỉ cần tự nhìn lại mình xem đã làm được “Chân–Thiện–Nhẫn” hay chưa, liền biết được mức độ đạo đức của bản thân đến đâu.

Mỗi ngày xem tin tức báo cáo tình hình dịch bệnh của chính phủ, trong tâm ai nấy đều cảm thấy vô cùng lo lắng cấp bách, hy vọng dịch bệnh mau chóng qua đi, hy vọng sớm nghiên cứu được thuốc chữa, hy vọng sẽ có ít người chết. Thế nhưng trong tâm ai cũng hiểu rõ, tình hình thực tế luôn luôn nghiêm trọng hơn báo cáo từ chính quyền, thậm chí không có chút lạc quan nào. Vậy nên bản thân chúng ta cũng nên tìm hiểu một chút về phương thuốc chữa dịch bệnh này.

Giá trị phổ quát “Chân–Thiện–Nhẫn” cũng là đạo đức mà con người nên tuân theo, hiện nay nó đã được công nhận rộng rãi. Người đầu tiên đề xướng “Chân–Thiện–Nhẫn” chính là nhà sáng lập Pháp Luân Công, hơn 100 triệu học viên đang tu luyện đã minh chứng cho những lợi ích vô cùng to lớn về thân thể và tinh thần mà môn tập mang lại. Trên trang Minh Huệ net, hầu như mỗi ngày đều đăng những câu chuyện nhiều người  trở nên khỏe mạnh, thoát khỏi bệnh tật nhờ tu luyện Pháp Luân Công. Có người nghĩ học Pháp Luân Công mà thân thể cải biến, cũng có thể vì Pháp Luân Công có một số động tác luyện tập, giúp con người nâng cao sức khỏe. Thế nhưng còn có một hiện tượng khác: chính là có người không tập Pháp Luân Công mà chỉ cần ủng hộ triết lý của Pháp Luân Công: “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Chân–Thiện–Nhẫn hảo!” cũng có thể gặp dữ hóa lành, biến nguy thành an. Tôi đã từng thấy một trường hợp bị tai nạn xe hơi nghiêm trọng, bác sĩ cũng nói vô phương cứu chữa, thế nhưng thời điểm ấy trong ý thức anh ấy luôn giữ một niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Chân–Thiện–Nhẫn hảo!”, anh ấy không ngừng niệm như vậy trong tâm, cuối cùng đã sống sót một cách kỳ diệu. Câu chuyện này cho thấy, ngay cả khi chúng ta không tập luyện Pháp Luân Công, chỉ cần chúng ta có thể ủng hộ triết lý của Pháp Luân Công (thực tế đây cũng là một giá trị đạo đức phổ quát) cũng có thể mang lại những thay đổi về thể chất.

Xem tin tức trên trang Minh Huệ net, người ta thấy rằng không phải chỉ có một, hai trường hợp như vậy. Trong suốt 27 năm kể từ khi Pháp Luân Công được truyền ra vào năm 1992 cho đến nay, đã có rất nhiều, rất nhiều trường hợp nhờ tu luyện Pháp Luân Công mà thân thể và tinh thần trở nên khỏe mạnh. Sức khỏe mà Pháp Luân Công mang lại cho con người đã được minh chứng qua thời gian bởi hơn 100 triệu người. Tu luyện Pháp Luân Công thực sự mang lại những lợi ích to lớn, ngay cả những người không tu luyện Pháp Luân công mà thường xuyên niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Chân–Thiện–Nhẫn hảo!” cũng có thể tai qua nạn khỏi, chuyển nguy thành an.

Vậy tại sao Trung Quốc vẫn liên tục đàn áp Pháp Luân Công suốt 20 năm qua? Điều gì đang xảy ra vậy? Đây là tội ác đối với toàn nhân loại. Các thủ đoạn bức hại học viên Pháp Luân Công bị phơi bày đã cho thấy mức độ tàn khốc của cuộc bức hại này, còn tàn nhẫn hơn là ĐCSTQ đã chỉ thị cho các y bác sĩ tay nghề cao mổ lấy nội tạng của học viên Pháp Luân Công đem bán kiếm lợi. Đây là một tội ác chống lại cả nhân loại! Học viên Pháp Luân Công chịu thống khổ cùng cực mà qua đời. Vậy mà tại Trung Quốc, có bao nhiêu người lên án hành vi bạo hành phản nhân loại này của ĐCSTQ đối với học viên Pháp Luân Công? Hiện tại Trung Quốc xảy ra đại dịch, mọi người nếu niệm “Pháp Luân Đại Pháp Hảo! Chân, Thiện, Nhẫn Hảo!” cũng có thể khỏi bệnh, nhưng ĐCSTQ lại cực lực ngăn chặn Pháp Luân Công, không để cho người ta biết được chín chữ chân ngôn cứu mệnh này, chẳng phải là ĐCSTQ muốn hại toàn bộ người dân Trung Quốc sao! Hỡi người dân Trung Quốc, đã đến lúc phải tỉnh táo hơn rồi!

Hiện tại, theo dõi các báo cáo chính thức của chính quyền ĐCSTQ, vẫn không có quan chức nào đứng ra chịu trách nhiệm về dịch bệnh. Điều chúng tôi thấy rõ hơn là các quan chức của ĐCSTQ đang đổ trách nhiệm lẫn nhau, tình hình nhiễm bệnh chân thực của người dân không thể được báo cáo trung thực, mạng internet vẫn đang phong tỏa thông tin xác thực từ dân chúng, nhiều người đã mất mạng trong khi những quan chức ĐCSTQ vẫn đang tranh giành, đấu đá nhau. Sinh mệnh là trân quý, thế nhưng nếu giao cấp sinh mệnh cho ĐCSTQ vốn coi mạng người như cỏ rác thì thật sự quá ngu ngốc. Chỉ có thoát khỏi tư duy của ĐCSTQ, mới có thể suy nghĩ vấn đề một cách đúng đắn, mới có thể tìm ra cách giải quyết vấn đề. Nhìn lại tình hình Trung Quốc gần 10 năm qua, năng lực lãnh đạo đất nước của ĐCSTQ ngày càng kém, thế nhưng năng lực đàn áp người dân thì ngày càng mạnh. Nhìn từ góc độ lịch sử, dịch bệnh hiện nay chính là lời cảnh báo cho chế độ của ĐCSTQ, đế chế La Mã cổ đại hùng mạnh như vậy, chỉ qua bốn lần ôn dịch đã bị phá hủy hoàn toàn, huống hồ là ĐCSTQ. Nếu như tiếp tục hành sự trái với đạo trời như vậy, việc ĐCSTQ diệt vong hoàn toàn có thể xảy ra.

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/256668

The post Hãy nghe tôi, dịch bệnh có thuốc chữa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại Hàm Đan (3): Đứa trẻ sinh ra đã biết nóihttps://chanhkien.org/2020/01/than-thoai-ham-dan-3-dua-tre-sinh-ra-da-biet-noi.htmlSun, 05 Jan 2020 10:59:08 +0000https://chanhkien.org/?p=25758[ChanhKien.org] Một lần ở công viên Long Hồ, tôi nói với một phụ nữ nông thôn gần 60 tuổi sự thật về thuyết hữu Thần. Người phụ nữ này kể với tôi rằng quê bà ở huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, mọi người trong thôn của bà đều tín Thần, kính trời và tất […]

The post Thần thoại Hàm Đan (3): Đứa trẻ sinh ra đã biết nói first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Một lần ở công viên Long Hồ, tôi nói với một phụ nữ nông thôn gần 60 tuổi sự thật về thuyết hữu Thần. Người phụ nữ này kể với tôi rằng quê bà ở huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, mọi người trong thôn của bà đều tín Thần, kính trời và tất nhiên cũng có người tín Phật. Bản thân bà cũng rất tin những câu chuyện về Thần Phật, tại sao vậy? Bởi vì vào những năm 1970 khi bà học cấp hai, ông nội của một bạn nữ cùng lớp với bà khi vừa sinh ra đã biết nói chuyện, khiến bà đỡ đẻ sợ hãi chạy mất. Sự việc thần kỳ này đã ảnh hưởng sâu sắc đến bà, khiến bà rất tin vào những câu chuyện về quỷ thần. Câu chuyện kỳ ​​lạ này cũng lan truyền khắp cả vùng và được người dân bàn tán sôi nổi. Cũng chính nhờ câu chuyện thần kỳ này được lan truyền mà người dân địa phương đều tin những sự việc về quỷ thần, rất thành kính trước ông trời.

Câu chuyện xảy ra vào những năm 1910, trong một ngôi làng có một gia đình bình dân, nhà này có ba người con trai, canh tác hơn 20 mẫu ruộng. Hôm đó, người con trai cả 17 tuổi dắt một con lừa ra ruộng tưới nước, cậu em trai út 12 tuổi đi theo sau, muốn ra đồng chơi.

Vào thời đó để tưới ruộng, người ta dùng lừa kéo gàu nước, múc nước từ kênh đổ vào mương, để nước theo mương chảy vào các thửa ruộng. Người anh dùng xẻng khơi một cái rãnh ở bờ ruộng để dẫn nước chảy vào ruộng, đợi nước chảy đầy ruộng, rồi lại khơi rãnh ở thửa ruộng khác, sau đó lấy đất lấp cái rãnh ở thửa ruộng trước lại, cứ bận rộn làm suốt cả buổi sáng.  Còn cậu em thì chạy khắp nơi chơi cả buổi sáng.

Gần 11:00 trưa, người anh gọi em trai lại nói: “Anh hơi đói bụng rồi, muốn về nhà ăn chút gì đó, em trông hộ anh con lừa để nó tưới nước nhé. Anh đưa cho em cái gậy này, nếu con lừa không đi thì em cầm gậy vụt cho nó một cái. Ăn xong anh sẽ ra trông thay cho em về ăn”. Cậu em nghe anh trai bảo đói, lập tức cảm thấy mình cũng rất đói. Cậu nói với anh trai: “Anh ơi, em cũng đói không chịu nổi rồi. Em muốn chạy về nhà lấy một miếng lương khô rồi sẽ quay lại trông thay anh, được không ạ?”. Người anh rất tốt bụng, lúc nào cũng nhường nhịn em, liền nói với em: “Được thôi, em về trước đi, rồi mau quay lại nhé”.

Cậu em vội vã chạy về nhà, lấy một miếng lương khô ở nhà rồi đi luôn, nó muốn mau chóng ra đồng để trông thay cho anh. Nào ngờ chạy đến cổng làng thì một con chó dại to lớn không biết từ đâu xông ra chặn đường. Con chó dại nhe nanh trợn mắt, hung dữ gầm gừ với cậu, như thể nhìn thấy kẻ thù oan gia. Người em sợ hãi quay đầu bỏ chạy, cậu muốn tránh con chó dại to lớn nên đi vòng sang một bên. Không ngờ con chó dại nhanh như chớp, trong phút chốc nó lao đến giơ nanh hung hãn cắn cậu em, nó đã cắn chết người em trong cái rãnh nước hôi thối bên cạnh cổng làng. Thật đúng là “ thiên hữu bất trắc phong vân, nhân hữu đán tịch họa phúc” (Trời có biến đổi bất ngờ, người có họa phúc khó lường)!

Linh hồn người em trai xuất ra ngoài, trong chốc lát đã đến bên cầu Nại Hà ở âm phủ, cậu thấy bên bờ sông có hai tên quỷ sai đang đổ canh mê hồn vào một ông lão. Chỉ nghe thấy ông lão gào thét vì bị bỏng, bộ dạng rất thống khổ, rót canh mê hồn xong, quỷ sai thuận tay đẩy ông lão xuống sông Nại Hà, ông lão liền rơi xuống sông và đầu thai chuyển kiếp. Đứa trẻ đứng bên cạnh trông thấy sợ khiếp vía, cậu không muốn uống canh mê hồn nên đã quay người bỏ chạy.

Lúc này, âm sai phát hiện ra cậu, liền gọi cậu ta lại: “Đứng lại, không được chạy”, nói xong đuổi theo để bắt cậu trở lại. Đứa trẻ sợ hãi chạy thục mạng, qua hai cánh đồng, chạy đến một ngôi làng và nhảy lên mái nhà. Cậu nhảy lên nhảy xuống lao về phía trước để tránh bị âm sai bắt được. Âm sai chạy rất nhanh, sắp đuổi đến nơi, đứa trẻ trong tình huống nguy cấp, nhìn thấy trong nhà có một người phụ nữ đang sinh con, cậu liền vội vã nhảy xuống đầu thai vào bụng người phụ nữ.

Sản phụ này tuổi đã cao, ngoài 30 tuổi mới sinh đứa con đầu lòng nên rất khó sinh. Bà đỡ đã bận rộn cả nửa ngày nhưng đứa trẻ vẫn chưa sinh ra được, nếu vẫn không ra e rằng thai nhi sẽ chết trong bụng mẹ, như thế sẽ nguy hiểm đến tính mạng của hai mẹ con. May mắn thay, đứa trẻ không uống canh mê hồn chạy thục mạng đầu thai xuống đã tiếp thêm sinh lực cho thai nhi. Đứa trẻ này trong một ngày đã trải qua hai kiếp nạn sinh tử, đã mài giũa ý chí và dũng khí của nó, khiến nó ra sức giãy giụa để được sinh ra, cho nên thai nhi rất mau chóng ra đời.

Đứa trẻ cảm thấy rất kỳ lạ khi bỗng dưng lại trở thành đứa trẻ sơ sinh khóc oa oa chào đời, vừa nãy còn nhảy lên nhảy xuống chạy thục mạng trên mái nhà, bây giờ lại trở thành một đứa trẻ sơ sinh quấn tã lót. Nhưng nó chưa uống canh mê hồn nên vẫn còn nhớ tất cả những sự việc trong đời trước. Lúc này, đứa trẻ rất nhớ ngôi nhà trước kia, nghĩ đến người cha hiền từ, người mẹ thương yêu, và người anh tốt bụng đang chịu đói đợi cậu ở ngoài đồng. Người trong nhà hiện giờ có thể còn chưa biết cậu đã bị con chó dại cắn chết bên rãnh nước hôi thối, làm thế nào bây giờ? Thế là đứa trẻ mở miệng nói với bà đỡ rằng nó tên là gì, nhà nó ở làng nào, bà đỡ sợ hãi kêu trời, nhảy dựng lên. Người cha đời này của đứa bé vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, vừa tức giận nói với bà đỡ: “Đây có phải là yêu quái không? Mau ném nó vào bể nước tiểu và dìm chết nó!”

Bà đỡ nói: “Tôi không dám giết người hại mệnh, làm chuyện trái với đạo lý như vậy! Đứa bé không phải là yêu quái mà mới đầu thai làm người”. Nói xong, bà đỡ sợ hãi đến nỗi vén cửa chạy ra ngoài.

Cha của đứa trẻ này là người chỉ thích lên núi đi săn, xuống sông bắt cá, do toàn làm những việc sát sinh tạo nghiệp này, cho nên gần 40 tuồi rồi mà vẫn chưa có con. Một người hảo tâm mách ông rằng lên chùa cúng bái Quan Âm Bồ Tát thì sẽ xin được con, nào ngờ đứa trẻ vừa sinh ra đã biết nói, khiến ông vô cùng phiền não, không biết nên làm thế nào. Lúc này đứa trẻ nói với ông: “Con không phải yêu quái, con đã đầu thai làm người. Con vốn là con trai út nhà nào, ở thôn nào, giữa trưa hôm nay bị chó dại cắn chết, lúc nãy vì không muốn uống canh mê hồn nên con bị âm sai truy đuổi đến đây, liền chuyển thế đầu thai. Cha mau đến nhà con mời cha mẹ con đến đây, để con nói chuyện với họ, mọi người sẽ biết những lời con nói có thật hay không”.

Cha đứa bé nghe những lời này, trong tâm không sợ hãi nữa, nhưng vẫn còn hơi tức giận, liền nói với đứa bé: “Thôn đó cách đây 12 dặm, hôm nay cũng đã muộn không đi kịp nữa, để ngày mai rồi tính”. Người cha nghĩ một lúc rồi lại nói: “Cha đến nhà cũ của con cũng được, nhưng có một điều kiện, hiện giờ con nói chuyện với cha không sao. Ngày mai con nói chuyện với người nhà cũ của con cũng được, nhưng ngày mai sau khi con nói chuyện với người nhà cũ của con xong, con không được nói nữa. Nếu không người trong thôn sẽ bảo nhà ta sinh ra một quái thai, như vậy cũng bất lợi cho con. Con có đồng ý với điều kiện này không?”. Đứa trẻ liền đồng ý.

Ngày hôm sau, cha đứa bé cưỡi xe bò đi 12 dặm, tìm đến gia đình cũ của đứa bé và đưa họ đến gặp đứa bé. Đứa trẻ khóc nói với cha mẹ cũ rằng nó bị chó dại cắn chết, và những việc xảy ra sau đó. Cha mẹ cũ của đứa trẻ đau đớn khi mất con trai, khóc lóc nức nở, nhưng cũng chẳng làm thế nào được, đành phải khuyên nhủ đứa trẻ: “Con hãy yên tâm, đừng nghĩ nhiều về những chuyện trước đây nữa, hãy sống tốt trong gia đình mới của con, trong nhà còn có hai người anh nữa, họ đều có thể ra đồng làm việc nuôi dưỡng cha mẹ, con không cần phải mong nhớ cha mẹ nữa”.

Sau khi đứa trẻ khóc lóc từ biệt cha mẹ cũ, nó đã giữ lời hứa không nói chuyện nữa, giống như đứa trẻ bình thường. Nhưng bà đỡ đã đem câu chuyện đứa trẻ mới sinh biết nói chuyện kể ra ngoài. Sau này, khi đứa trẻ được mười mấy tuổi, cậu vẫn thường đến thăm cha mẹ cũ. Sáng sớm ngày mùng một đầu năm mới, cậu thường gói chiếc bánh bao đầu tiên vào một chiếc khăn, và tự mình đạp xe đến biếu cha mẹ kiếp trước. Còn tình cảm của đứa trẻ đối với cha mẹ đời này chỉ qua loa đạm bạc, nói chuyện toàn gọi là ông, bà. Nhưng vì đứa trẻ đó là con trai duy nhất trong nhà, nên cha mẹ đời này cũng không quá nghiêm khắc với nó. Đứa trẻ đã từng một lần xuống âm phủ, nên đều coi nhẹ sinh, lão, bệnh, tử, vẫn sống một cuộc sống bình thường theo khuôn phép cũ, chỉ có những người biết cậu kể lại câu chuyện vào sinh ra tử của cậu mà thôi.

Ghi chú: Canh mê hồn còn gọi là canh Mạnh Bà, tương truyền rằng, con người sau khi chết thường sẽ uống một chén canh Mạnh Bà, khiến người ta có thể quên hết tất cả mọi thứ để rồi tiếp tục đầu thai.

 

Xem tiếp phần 4.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254196

The post Thần thoại Hàm Đan (3): Đứa trẻ sinh ra đã biết nói first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại Hàm Đan (2): Thần tích triển hiện trong trận động đất lớnhttps://chanhkien.org/2019/12/than-thoai-ham-dan-2-than-tich-trien-hien-trong-tran-dong-dat-lon.htmlSun, 22 Dec 2019 13:55:21 +0000https://chanhkien.org/?p=25696[ChanhKien.org] Hàm Đan ở Trung Quốc từng là kinh đô của nước Triệu thời kỳ Chiến quốc, có bề dày văn hóa thâm sâu, nơi đây có khá nhiều tín đồ của các tôn giáo khác nhau, là mảnh đất địa linh nhân kiệt, hội tụ những tinh hoa. Vào thời kỳ “Cách mạng Văn […]

The post Thần thoại Hàm Đan (2): Thần tích triển hiện trong trận động đất lớn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Hàm Đan ở Trung Quốc từng là kinh đô của nước Triệu thời kỳ Chiến quốc, có bề dày văn hóa thâm sâu, nơi đây có khá nhiều tín đồ của các tôn giáo khác nhau, là mảnh đất địa linh nhân kiệt, hội tụ những tinh hoa.

Vào thời kỳ “Cách mạng Văn hóa” những năm 1960, phe tạo phản Hồng vệ binh phá Tứ cựu lập ra Tứ tân, vận động phá trừ mê tín, chỉ cho phép con người tin vào vô Thần luận, không được tin vào bất cứ tôn giáo nào. Lúc đó Hồng vệ binh xông vào chùa chiền, đập phá sạch các pho tượng Phật, Bồ Tát. Hòa thượng, ni cô trong chùa đều bị ép hoàn tục, làm xã viên hợp tác xã, lao động trong các đội sản xuất. Rất nhiều chùa chiền bị biến thành công trường, trường tiểu học, trung tâm y tế v.v.

Các giáo đường Thiên Chúa giáo đều bị niêm phong, các linh mục bị bắt giam, các nữ tu bị buộc phải hoàn tục, ai về nhà nấy. Lúc đó, trên đường phố có một số tin đồn khủng khiếp về Công giáo, nói rằng một số tín đồ nữ trẻ bị hãm hiếp, những đứa trẻ sinh ra bị giết, v.v. Vào giữa những năm 1970, các linh mục Công giáo ở các thành phố lớn của tỉnh Hà Bắc bị giam giữ trong một căn phòng nhỏ tối tăm trong nhà tù Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc. Các linh mục bị đối xử như những người phạm trọng tội: tay bị đeo gông, chân bị trói xiềng, mỗi bước đi nặng nề, di chuyển rất bất tiện.

Tháng 07 năm 1976, vào ngày xảy ra trận động đất ở Đường Sơn, các linh mục bị đánh thức khỏi giấc ngủ vào giữa đêm. Những âm thanh lớn phát ra từ sâu dưới lòng đất làm họ thức giấc, chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm của những tòa nhà đổ sập phát ra những âm thanh cực lớn chói tai. Rồi mặt đất rung chuyển dữ dội, trồi lên sụt xuống, lắc lư qua lại. Các linh mục không thể đứng được, tất cả họ đều quỳ trên đất. Trong lúc nguy nan, họ không ngừng cầu nguyện Thượng Đế cứu vớt chúng sinh và bảo hộ mọi người bình an.

Trong quá trình cầu nguyện, các linh mục nghe thấy phía trước, phía sau, bên trái, bên phải họ, đâu đâu cũng có những âm thanh cực lớn của các tòa nhà sụp đổ. Chỉ nghe thấy bên này một tòa nhà sụp xuống ầm ầm, bên kia một căn nhà sập xuống ào ào, cùng với tiếng nhà sụp đổ là tiếng kêu khóc, gào thét của người lớn và trẻ nhỏ, trong những tiếng kêu thê thảm, người ta gọi cha gọi mẹ, kêu la cứu mạng.

Vị linh mục họ Dương ở Hàm Đan sau này kể lại rằng, lúc đó ông rất khổ tâm khi nghe thấy những tiếng gào thét kêu cứu mạng. Ông muốn lao ra để cứu người, nhưng ông không thể làm được gì vì chân tay đã bị xiềng xích. Các linh mục chỉ có thể không ngừng cầu nguyện trong phòng giam tối tăm không một tia sáng mặt trời.

Sau khi trận động đất qua đi, người ta phát hiện rằng toàn bộ nhà tù lớn và những ngôi nhà trong bán kính vài dặm xung quanh nhà tù, dù là nhà mái bằng hay nhà tầng, toàn bộ đều bị san thành bình địa trong trận động đất, duy chỉ có căn phòng nhỏ nơi giam giữ các linh mục Công giáo vẫn nguyên vẹn, các linh mục đều bình an vô sự.

Tận mắt chứng kiến ​​thần tích này, vị linh mục họ Dương ở Hàm Đan càng thêm kiên định tín tâm vào Thượng Đế. Sau đó, vào những năm cuối đời ông trở lại Hàm Đan an dưỡng, bây giờ ông đã ngoài 90 tuổi, sức khỏe rất tốt, mắt không mờ, tai không lãng. Thật ứng với câu nói của người già: đại nạn bất tử tất hữu hậu phúc (gặp nạn lớn mà không chết, chắc chắn sẽ hưởng phúc về sau).

Những thần tích được Thiên thượng hiển thị này chứng tỏ điều gì? Điều này thật đáng để chúng ta suy ngẫm!

 

Xem tiếp phần 3.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254195

The post Thần thoại Hàm Đan (2): Thần tích triển hiện trong trận động đất lớn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại Hàm Đan (4): “Minh Nhãn” đến âm phủ tìm ngườihttps://chanhkien.org/2019/10/than-thoai-ham-dan-4-minh-nhan-den-am-phu-tim-nguoi.htmlWed, 16 Oct 2019 00:18:54 +0000http://chanhkien.org/?p=25638[ChanhKien.org] “Minh Nhãn” ở một số địa phương gọi là “Thần Bà” hoặc là “Thần Hoàng”. Tại Hàm Đan người ta gọi là “Minh Nhãn”, để chỉ những người có thể nhìn thấy quỷ thần ở không gian khác, có thể giúp đỡ mọi người xử lý vấn đề liên quan đến cáo, chồn, quỷ, […]

The post Thần thoại Hàm Đan (4): “Minh Nhãn” đến âm phủ tìm người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

“Minh Nhãn” ở một số địa phương gọi là “Thần Bà” hoặc là “Thần Hoàng”. Tại Hàm Đan người ta gọi là “Minh Nhãn”, để chỉ những người có thể nhìn thấy quỷ thần ở không gian khác, có thể giúp đỡ mọi người xử lý vấn đề liên quan đến cáo, chồn, quỷ, rắn v.v. Lý Mỗ Mỗ trong câu chuyện này chính là một “Minh Nhãn”.

Có một người là lãnh đạo đơn vị. Một hôm, ông mở tiệc mời mọi người, tiệc vừa kết thúc thì ông đột nhiên lên cơn đau tim. Ông nói với những người có mặt rằng chỉ có Lý Mỗ Mỗ mới có thể giúp ông ấy, vừa nói xong thì thấy ông không còn thở nữa, đã chết rồi.

Trong nhóm người ở đó, rất may có một người biết Lý Mỗ Mỗ, anh liền bảo mọi người đưa vị lãnh đạo kia đến nhà của Lý Mỗ Mỗ, lúc đó nhà Lý Mỗ Mỗ không có ai ở nhà, họ liền đứng đợi ngoài cửa.

Một lúc sau, Lý Mỗ Mỗ trở về, mở cửa vào nhà. Nhóm người này nhanh chóng cõng người chết vào, nói với Lý Mỗ Mỗ: “Đây là lãnh đạo của đơn vị chúng tôi, ông ấy nói chỉ có anh mới cứu được ông ấy, anh mau giúp chúng tôi đi”. Lý Mỗ Mỗ thấy tình huống này, liền sắp xếp hai người ra canh giữ cửa, không cho ai vào nhà, gia quyến thân nhân cũng không được vào. Những người khác ở ngoài phòng trông nom người chết. Sau đó Lý Mỗ Mỗ tự mình bước vào trong phòng, nằm lên trên giường niệm thần chú, trong nháy mắt anh đã xuống âm phủ.

Theo lời Lý Mỗ Mỗ thuật lại, anh có sứ mệnh dưới âm phủ, anh không nói rõ sứ mệnh ấy cụ thể là gì, có thể là giải quyết vấn đề cho những người có nhân duyên, đồng thời giúp mọi người biết được âm phủ là có thật. Trên giường bên này Lý Mỗ Mỗ vẫn còn ở âm phủ chưa trở về, vậy mà vị lãnh đạo đơn vị đang nằm dưới đất ở phòng khác đã ngồi dậy, cười ha hả vui vẻ nói rằng: “Lý Mỗ Mỗ đã kéo dài tuổi thọ cho tôi, tôi phải cảm ơn anh ấy”.

Đang nói thì Lý Mỗ Mỗ bước ra khỏi phòng, anh vội dặn những người trong phòng không được nói chuyện này với ai.

Kỳ thực, thiên đường, âm phủ đều có thực, ví dụ trên đã chứng minh điều đó. Những người giả câm giả điếc, bịt mắt không chịu tin chính là đang tự giới hạn chính mình.

 

Xem tiếp phần 5.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254197

The post Thần thoại Hàm Đan (4): “Minh Nhãn” đến âm phủ tìm người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần thoại Hàm Đan (5): Năm đóa hoa sen và ba quả cầu lửahttps://chanhkien.org/2019/10/than-thoai-ham-dan5-nam-doa-hoa-sen-va-ba-qua-cau-lua.htmlFri, 04 Oct 2019 00:52:28 +0000http://chanhkien.org/?p=25624[ChanhKien.org]  Một người đàn ông trung niên hơn 50 tuổi ở công viên Tùng Đài từng nói với tôi, nói rằng mẫu thân của anh ấy rất thành tâm tín Phật, mỗi ngày bà cụ đều thành tâm tụng niệm “A Di Đà Phật”, việc làm đó của bà là vô cùng chân chính, bà […]

The post Thần thoại Hàm Đan (5): Năm đóa hoa sen và ba quả cầu lửa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] 

Một người đàn ông trung niên hơn 50 tuổi ở công viên Tùng Đài từng nói với tôi, nói rằng mẫu thân của anh ấy rất thành tâm tín Phật, mỗi ngày bà cụ đều thành tâm tụng niệm “A Di Đà Phật”, việc làm đó của bà là vô cùng chân chính, bà một lòng nhất tâm hướng thiện, bà đối với ai cũng đều tốt, đối với ai cũng không oán hận, lúc nào cũng hiển lộ ra tâm từ bi, ở đâu cũng đều luôn luôn nghĩ cho người khác trước. Vì thế người đàn ông trung niên này cho rằng mẫu thân của ông ấy là người tốt bụng, thiện lương nhất trên thế gian này.

Thiện hữu thiện báo, mẫu thân của vị trung niên này tận đến khi ngoài 70 vẫn chưa từng có bệnh cho đến lúc cuối đời, đúng là được quả báo thiện. Dựa vào lời vị trung niên nói, mẫu thân của anh trước khi lâm chung đã dự đoán và biết trước được cái ngày mà bà cụ sẽ rời đi. Trước khi lâm chung, bà cụ đã đi gặp các con nói lời cáo biệt, sau đó tự mình thay quần áo, rồi nằm lên giường và an nhiên tạ thế.

Vào ngày đó, các con cháu của bà cụ đều đến đưa tiễn bà nội của mình về nơi vĩnh hằng, con trai của vị trung niên kia đã nói với mọi người, cháu nói cháu nhìn thấy bà nội được Thần Phật rước đi, cháu còn nói mình nhìn thấy có năm đóa hoa sen màu phấn hồng tỏa ánh sáng vàng kim rực rõ, cứ bay qua bay lại trong nhà, chỉ thấy những đóa hoa sen lấp lánh ánh ánh vàng kim, rực rỡ sắc màu, chúng bay tới bay lui trong phòng , rồi bay lượn xung quanh, cháu bé đã kể những cảnh đẹp mà cháu thấy cho những người thân có mặt, các con của bà lão khi nghe được cháu trai kể như vậy thì đều mười phần vui mừng cảm động.

Đến ngày đưa bà cụ đi chôn cất, cháu trai kia của bà cụ lại nhìn thấy, cách nhà anh mấy chục mét, có ba quả cầu lửa to lớn sừng sững đứng liền kề nhau, chỉ nhìn thấy đó là ba quả cầu kim quang lấp lánh, có mây lành bay lên, cảnh tượng đẹp đẽ mỹ diệu vô cùng, cháu trai lại kể cảnh tượng mỹ hảo mà cháu thấy cho người thân của mình nghe, lại một lần nữa mang đến cho người thân của cậu niềm vui mừng cảm động. Khi ấy các con của bà cụ cho rằng: bà cụ đã tu hành công thành, công đức viên mãn, đã đạt được mục tiêu tu hành và đã vui vẻ đi về tới thế giới Cực Lạc! Từ đó về sau, các con của bà cụ cũng đều thành tâm tín Thần Phật, nhất tâm hướng thiện.

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254198

The post Thần thoại Hàm Đan (5): Năm đóa hoa sen và ba quả cầu lửa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 2)https://chanhkien.org/2019/09/dam-luan-ve-trinh-quan-chinh-yeu-phan-2.htmlSat, 21 Sep 2019 21:43:59 +0000http://chanhkien.org/?p=25607Tác giả: Lưu Như Tiếp theo Phần 1 [ChanhKien.org] Trong quản trị học, giới lãnh đạo Nhật Bản xưa nay chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng cốt lõi “ôn cổ tri tân” (học chuyện xưa mà biết chuyện nay) của Khổng Tử. Qua nghiên cứu các sách kinh điển của Trung Quốc, họ […]

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

Tiếp theo Phần 1

[ChanhKien.org] Trong quản trị học, giới lãnh đạo Nhật Bản xưa nay chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng cốt lõi “ôn cổ tri tân” (học chuyện xưa mà biết chuyện nay) của Khổng Tử. Qua nghiên cứu các sách kinh điển của Trung Quốc, họ đã chứng tỏ sự thông minh, xuất chúng khi biết đem những lời giáo huấn và những kinh nghiệm của người xưa vận dụng vào thực tiễn hiện nay, nhằm giải quyết các vấn đề nan giải phát sinh. Đây chính là lý do vì sao từ xưa đến nay ở Nhật Bản, từ Thiên hoàng, tướng quân Mạc phủ cho đến thủ tướng và các nhà kinh doanh hiện nay đều coi Luận Ngữ và Trinh Quán Chính Yếu là những cuốn sách kinh điển quan trọng nhất.

Trinh Quán Chính Yếu là sự vận dụng một cách hoàn hảo lý luận của Luận Ngữ vào thực tiễn

Luận Ngữ của Khổng Tử là một bộ lý luận tổng quát về nhân sinh, là tư tưởng cốt lõi về cách làm người được giảng giải từ các góc độ của người làm quân vương cho đến dân thường. Nhưng trong mắt người Nhật Bản, Trinh Quán Chính Yếu lại là cuốn sách mô tả cụ thể việc đế vương vận dụng những lý luận trong Luận Ngữ vào thực tiễn ra sao, hơn nữa đây là cuốn sách kinh điển vận dụng một cách hoàn hảo nhất lý luận của Luận Ngữ vào thực tiễn. Hai cuốn sách này giúp con người lý giải được rất nhiều vấn đề khúc mắc về nhân sinh, hơn nữa dù làm bất cứ nghề gì trong xã hội cũng có thể vận dụng được dễ dàng. Tại sao như vậy? Mấy nghìn năm nay, các sách kinh điển của Trung Quốc có rất nhiều, tại sao Nhật Bản lại xem trọng hai cuốn sách kinh điển này đến vậy? Đó là vì đây là hai cuốn sách chắt lọc được những điều tinh túy nhất.

Luận Ngữ là cuốn sách kinh điển nhất của Nho gia, là tôn chỉ cho mọi học thuyết của Nho gia, là giáo huấn chân chính làm người. Hậu thế cho dù có bao nhiêu chiêu thuật, xuất hiện bao nhiêu môn phái Nho gia, dù có nhiều người nổi tiếng thế nào đi nữa, chẳng qua chỉ là người đời sau ở các thời đại khác nhau sau khi nghiên cứu Luận Ngữ, áp dụng vào thực tiễn, qua trải nghiệm tự thân mà lĩnh hội được mà thôi.

Giống như Đường Thái Tông, tướng quân Mạc phủ Tokugawa Ieyasu người đã khai sáng thời đại phồn vinh nhất lịch sử Nhật Bản – thời đại Edo kéo dài 300 năm, cũng đã lĩnh hội sâu sắc tư tưởng Nho gia này. Tokugawa Ieyasu hiểu rõ rằng Nhật Bản muốn giàu mạnh, phồn vinh thì phải học tập, phải tiến hành giáo dục Nho gia cho “võ sĩ” – tầng lớp quản lý đất nước thời đó, họ coi cuốn “Luận Ngữ” của Khổng Tử là cuốn sách kinh điển quan trọng nhất. Cho đến nay, trong sách giáo khoa quốc ngữ của học sinh trung học ở Nhật Bản vẫn nhắc đến cuốn sách đầu tiên mà những võ sĩ thời xưa được học là cuốn Luận Ngữ, các sách khác chỉ dùng cho những người khác nhau ở các giai tầng khác nhau tham khảo, nếu không nắm vững tôn chỉ này thì sẽ không thể căn cứ vào tình hình thực tiễn của quốc gia, đặc điểm của dân tộc mà rút ra được những lĩnh ngộ của bản thân. Dù quốc gia nào, dân tộc nào, thời đại nào cũng đều có những giai đoạn khác nhau, hiểu biết của cả dân tộc hay cá nhân con người của dân tộc đó chắc chắn sẽ không giống nhau, nhưng nguyên tắc tôn chỉ sẽ không thay đổi. Chỉ có nắm vững cương lĩnh này mới không đi sai đường, mới không rơi vào giáo điều, mới có thể vận dụng linh hoạt cuốn sách kinh điển này vào những hoàn cảnh xã hội khác nhau.

Tokugawa Ieyasu cũng có điểm tương đồng với Đường Thái Tông, Đường Thái Tông tham gia vào sự nghiệp thống nhất Trung Quốc, xây dựng nên triều đại nhà Đường, triều đại phồn vinh nhất, đạt đến đỉnh cao văn minh của Trung Quốc cổ đại. Còn Tokugawa thống nhất Nhật Bản, khai sáng ra thời đại Mạc phủ Edo, cũng là đỉnh cao văn hóa cổ đại Nhật Bản. Triều Đường và Mạc phủ Edo đều đã trải qua khoảng 300 năm lịch sử. “Nguyên thủ” của hai quốc gia lớn này cũng đồng thời trải qua hai thời kỳ dựng nước và giữ nước, Tokugawa đặc biệt thích nghiên cứu Luận Ngữ và Trinh Quán Chính Yếu, những thành tựu đạt được về phương diện làm người và trị quốc của ông đều giống với Đường Thái Tông. Điều này không khỏi khiến người ta liên tưởng đến liệu đây có phải là kiếp luân hồi mà Phật gia nói, là an bài thiên định của lịch sử mà Đạo gia nói hay không? Nhờ vậy mà văn hóa Thần truyền của Trung Quốc vẫn luôn được bảo tồn ở Nhật Bản.

Khi thời đại chiến quốc của Nhật Bản kết thúc, Tokugawa cần chuyển từ dựng nước sang giữ nước, vấn đề đặt ra trước mắt là làm thế nào giữ vững cơ nghiệp. Chỉ có thể giành thiên hạ trên lưng ngựa, nhưng không thể cai trị thiên hạ trên lưng ngựa, nếu xử lý không tốt thì cơ nghiệp thống nhất đất nước khó khăn mới giành được này sẽ bỗng chốc tan tành. Trước Tokugawa có hai tướng quân thống nhất thiên hạ là Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi. Oda Nobunaga là người tôn sùng vũ lực, yêu thích kỹ thuật của phương Tây, bản tính tự cao tự đại, có tài nhưng vô đức, đối xử tàn nhẫn với người khác, người ta vì khiếp sợ vũ lực mạnh mẽ của ông mà nhất thời đành phải khuất phục, ông cũng không có kết cục tốt đẹp. Còn Toyotomi Hideyoshi xuất thân từ võ sỹ tầng lớp thấp, mười mấy tuổi đã đi phiêu bạt khắp nơi, nếm đủ mọi thống khổ cuộc đời, ông khá am hiểu lòng người, nhưng vì không được giáo dục Nho học chính thống mà chỉ những võ sỹ tầng lớp cao mới được học, không được học Luận Ngữ, nên ông không hiểu được căn bản của học vấn chính là nhân đức. Vì thế, biện pháp của ông chỉ là thu phục lòng người, khiêm tốn đối đãi với người khác, khi thành công thì bắt đầu xa hoa, hưởng lạc, ăn mừng chiến thắng, cuối cùng cũng hủy đi giang sơn.

Cho nên làm thế nào để bảo vệ cơ nghiệp, cai trị tốt đất nước là vấn đề lớn nhất, mà thực tiễn cụ thể của Đường Thái Tông, đạo quân thần, chắc chắn chính là bài học phù hợp nhất, là tham chiếu cụ thể nhất cho Tokugawa. Kinh nghiệm của Tokugawa và Đường Thái Tông không những tương tự nhau, mà sự phồn vinh thịnh vượng trước nay chưa từng có của thời đại Thái Tông cũng là tấm gương tốt nhất để Tokugawa học theo, như vậy Tokugawa chỉ cần học tập phương pháp cai trị mà Thái Tông lưu lại thì chính là con đường ngắn nhất và tốt nhất để trị quốc, để đất nước giàu mạnh. Vì thế hai cuốn sách này đã trở thành những cuốn sách kinh điển trong những cuốn kinh điển về trị quốc và kinh doanh ở Nhật Bản.

Kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ giữ gìn thành quả

Trong cuốn Đế vương học giảng nghĩa, nhà nghiên cứu Hán học đương đại Moriya Hiroshi nói rằng Trinh Quán Chính Yếu là cuốn sách tâm đắc của những nhà lãnh đạo cao nhất trong thời kỳ giữ gìn thành quả. Đó chính là lý do vì sao nó trở thành cuốn sách giáo khoa dành cho bậc đế vương, được người Nhật Bản lưu truyền qua các thế hệ cho đến ngày nay. Ông nhắc đến những năm đầu thời đại Mạc phủ Kamakura, tướng quân Minamoto no Yoritomo khi đó đã đánh giá rất cao Trinh Quán Chính Yếu, ông đã cho người phiên dịch sang tiếng Nhật rồi say mê học tập. Đến tướng quân Tokugawa Ieyasu của Mạc phủ Edo, ông không chỉ mời nhà Nho học nổi tiếng Fujiwasa Seika đến giảng giải Chính Yếu cho mình mà còn lệnh cho trường học Ashikaga tiến hành xuất bản cuốn Chính Yếu để phổ cập ngoài xã hội. Vì thế, đa số lãnh chúa (tương đương tỉnh trưởng hiện tại) các nơi trong thời đại Edo đều thuộc làu cuốn Chính Yếu, cuốn sách này trở thành yếu lĩnh trị quốc phổ biến nhất thời đó.

Tiếp đó, các đời Thiên hoàng vẫn coi Trinh Quán Chính Yếu là cuốn sách giáo khoa dành cho bậc đế vương. Những Thiên hoàng được ghi chép đầy đủ trong lịch sử chỉ vẻn vẹn có mười mấy người. Vào thời đại Showa, cuốn sách một lần nữa lại được quan tâm. 30 năm trở lại đây, kinh tế Nhật Bản từ giai đoạn gây dựng sự nghiệp sau chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn bảo vệ thành quả, một lô lớn những người khai sáng trong lĩnh vực kinh tế đã lùi về tuyến sau, làm thế nào để tuyển chọn những người kế tục, nên giao trọng trách này cho những người như thế nào, vì sao không thể đi theo lợi ích trước mắt, chỉ chú trọng tài trí, đây là những câu hỏi lớn đặt ra cho nước Nhật. Trước thực trạng đó, người ta lại một lần nữa quan tâm đến các cuốn sách kinh điển quan trọng này, cho nên ở Nhật Bản hiện nay, phong trào Đế vương học lại lên cao, đến nay, rất nhiều nhà kinh doanh vẫn tiếp tục nghiên cứu nó.

Qua những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy một điểm, đất nước Nhật Bản khi có vấn đề xuất hiện đều quay trở lại nghiên cứu các sách vở kinh điển của Trung Quốc, quay trở lại quỹ đạo đúng đắn. Họ có thể nhất thời vì theo đuổi sự thành công mà phạm sai lầm, dẫn đến xuất hiện các hiện tượng đạo đức bại hoại trong lĩnh vực chính trị và kinh tế, nhưng chỉ cần nghe theo lời giáo huấn và kinh nghiệm của tổ tiên, chỉ cần văn hóa truyền thống không bị gián đoạn, bẻ cong và bị bôi nhọ, họ sẽ rất nhanh chóng nhận thức được vấn đề. Từ đó có thể phục hưng lại học vấn truyền thống, và đi theo con đường của tổ tiên, hiểu được làm sao để học chuyện xưa mà biết chuyện nay, quay trở về chính đạo, đưa đất nước phát triển lên.

Bắt đầu từ chương sau, chúng tôi sẽ tập trung phân tích cuốn sách kinh điển này, xem xem có thích hợp vận dụng vào thời kỳ bảo vệ thành quả hay không, có phải là sự vận dụng một cách hoàn hảo lý luận của Luận Ngữ vào thực tiễn hay không. Chúng ta nên lấy chuyện xưa vận dụng vào chuyện nay như thế nào để đưa dân tộc chúng ta phát triển hưng thịnh trở lại.

Xem tiếp Phần 3.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/247446

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 1)https://chanhkien.org/2019/09/dam-luan-ve-trinh-quan-chinh-yeu-phan-1.htmlFri, 20 Sep 2019 13:37:30 +0000http://chanhkien.org/?p=25605Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Đàm luận về cuốn sách giáo khoa dành cho đế vương Trinh Quán Chính Yếu Ở Nhật Bản vẫn luôn có những nghiên cứu về Đế vương học (học vấn làm đế vương) và Tể tướng học (học vấn làm tể tướng). Trong đó, cuốn sách lịch sử Trinh Quán […]

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Đàm luận về cuốn sách giáo khoa dành cho đế vương Trinh Quán Chính Yếu

Ở Nhật Bản vẫn luôn có những nghiên cứu về Đế vương học (học vấn làm đế vương) và Tể tướng học (học vấn làm tể tướng). Trong đó, cuốn sách lịch sử Trinh Quán Chính Yếu được xem là cuốn sách giáo khoa điển hình nhất dành cho bậc đế vương, cuốn sách ghi chép về những bàn luận chính trị trong triều đình, thảo luận về cách trị quốc của Đường Thái Tông. Đây không chỉ là cuốn sách gối đầu giường của gia tộc Thiên hoàng và tướng quân Tokygawa Ieyasu của Mạc phủ, mà còn là cuốn sách yêu thích của các học giả, doanh nhân Nhật Bản ngày nay. Trong thời đại “chiến tranh thương mại xuyên quốc gia” ngày nay, thời đại mà người người đều có thể trở thành “đế vương trong doanh nghiệp”, việc nghiên cứu các sách lịch sử Trung Quốc và các sách Hán học kinh điển, nhất là các sách lịch sử ghi chép những bàn luận chính trị và điển cố về đế vương và tể tướng chắc chắn vô cùng quan trọng. Đế vương học hay Tể tướng học, bản chất là phương pháp học làm lãnh đạo, cũng chính là phương pháp học quản lý cấp cao.

Từ nhà Nho học Masahiro Yasuoka, người được coi là người thầy của thủ tướng Nhật Bản cận đại, hay những nhà nghiên cứu Hán học đương đại, cho đến Shibusawa Eiichi – cha đẻ của doanh nghiệp cận đại và Kazuo Inamori – lãnh tụ giới kinh doanh đương đại, nhà kinh doanh nổi tiếng thế giới (nhà sáng lập hai tập đoàn lớn tầm cỡ thế giới là công ty Kyocera và công ty viễn thông KDDI), những người này đều đã lĩnh hội được trí tuệ tinh túy từ Đế vương học và áp dụng vào thực tiễn.

Kazuo Inamori trong tác phẩm có tên Cách sống đã thể hiện rõ triết lý kinh doanh của ông như sau: Lúc mới lập nghiệp, ông không được học quản trị kinh doanh, cũng không hiểu biết gì về kinh doanh. Khi gặp vấn đề khó khăn trong kinh doanh, ông nhớ lại những điều đầu tiên mà cha mẹ dạy bảo ông lúc còn thơ ấu: không nói dối, không tham lợi, thành thực, chính trực, suy nghĩ xem làm người thì việc nào nên làm, việc nào không nên làm. Cuối cùng ông phát hiện rằng khi áp dụng những nguyên lý này thì dù là việc quản trị kinh doanh hay việc chính sự quốc gia, thậm chí việc nhỏ trong gia đình, việc mâu thuẫn với hàng xóm, mọi việc đều trở nên rất đơn giản. Trong kinh doanh, dù phải đối mặt với vấn đề phức tạp như thế nào, biểu hiện bề ngoài rối loạn thế nào, mâu thuẫn đỉnh điểm thế nào, khiến người ta không biết làm gì, chỉ cần vứt bỏ chấp trước vào danh lợi, quay trở về nguyên tắc bất biến làm người tốt, thì sẽ tìm ra mấu chốt của vấn đề, sẽ rất nhanh chóng đưa ra quyết định, tìm ra phương án giải quyết.

Ông còn nói, những năm gần đây trong giới chính trị và thương nhân Nhật Bản đương đại xuất hiện hiện tượng trượt dốc không đáng có, làm đảo lộn mọi thứ. Họ chỉ coi trọng tài trí mà coi nhẹ đạo đức, tuyển chọn nhân sự dựa trên sự thông minh, tài trí, xem trọng sự thành công nhanh chóng và lợi ích trước mắt. Nhưng ông vẫn luôn tuyển chọn nhân sự dựa trên những nguyên tắc: thứ nhất là đạo đức, thứ hai là dũng cảm, thứ ba là tài trí, câu truyện “thần thoại” về sự nghiệp kinh doanh thành công bất bại của ông đã chứng tỏ những điều ông lĩnh hội là thuận theo thiên đạo, đây chính là bằng chứng cho tính đúng đắn của phương thức quản trị kinh doanh lấy đức làm gốc.

Ông đã chỉ ra trí huệ cốt lõi của Đế vương học, chính là bốn chữ “lấy đức làm gốc” của Khổng Tử. Đây là bí quyết trị quốc và kinh doanh, là nguyên lý then chốt trong việc ra quyết định và xử lý những vấn đề phức tạp.

Người có đức sẽ có tất cả, người không có đức thì không được gì. Từ 4.000-5.000 năm trước Thần sáng tạo ra chữ Hán, nội hàm của nó ngay từ đầu đã thể hiện rõ thiên cơ làm người. Mấy ai hiểu rõ được sự thâm sâu của văn hóa Thần truyền. Dân tộc Nhật Bản nhờ kế thừa được chữ Hán truyền thống mà lĩnh ngộ được bản chất, động chạm đến được thiên cơ ở tầng nông cạn, nhờ đó mà đạt được sự phát triển nhanh chóng và thịnh vượng.

Ở Trung Quốc đại lục, Đế vương học và Tể tướng học bị bóp méo thành phái âm mưu tàn khốc và vô tình. Dường như ai ai cũng đều là ngụy quân tử, để duy trì quyền lực mà không từ thủ đoạn tàn sát lẫn nhau, không phân biệt đúng sai, chỉ lo duy trì thể diện của vương thất. Từ điện ảnh, truyền hình đến các tác phẩm văn học, tất cả đều dùng những lý do “sâu sắc, hợp tình hợp lý, sinh động, hình tượng” để bôi nhọ tổ tiên và văn hóa vốn là niềm tự hào của Trung Quốc. May thay, tướng quân Tokygawa Ieyasu của Nhật Bản là người đam mê tìm hiểu chữ Hán, những sách vở kinh điển của Nho gia và những nghiên cứu lịch sử, ông vẫn luôn tuân theo và gìn giữ chữ Hán chính thống đời này qua đời khác. Khi được những người nổi tiếng trong các lĩnh vực áp dụng vào thực tiễn, những chân lý Nho học và hình tượng đế vương bị đảng cộng sản Trung Quốc bóp méo hiện nay đã dần dần khẳng định được tính đúng đắn, lưu lại những bằng chứng và tấm gương quý báu để cho các thế hệ sau học tập noi theo.

Hôm nay chúng tôi sẽ dùng những luận thuật trong cuốn Đế vương học giảng nghĩa của nhà Hán học đương đại Nhật Bản Moriya Hiroshi để giải thích cuốn sách Đế vương học kinh điển Trinh Quán Chính Yếu, với mong muốn khôi phục lại trí tuệ của nhà lãnh đạo trong Hán học.

Ngoài Đế vương học giảng nghĩa, chúng tôi cũng đề cập đến Đông Dương Tể tướng học của Masahiro Yasuoka và những tác phẩm liên quan mà tôi đã trình bày và phân tích trước đây như Luận ngữ giảng nghĩa của Shibusawa Eiichi, chúng ta hãy xem những nhà Hán học, tinh anh của Nhật Bản cận và hiện đại làm thế nào để “ngẫm chuyện xưa mà biết chuyện nay”, làm thế nào tiếp thu những phương pháp trong Đế vương học để trở thành bậc thầy trong các lĩnh vực. Mong rằng con cháu Viêm Hoàng chúng ta trải qua những thời kỳ gió tanh mưa máu đã bị tà linh cộng sản cắt đứt với văn hóa chính thống, chìm trong thù hận và đấu tranh suốt hơn 60 năm qua, sẽ sớm có ngày thoát khỏi sự tẩy não và lừa gạt của văn hóa đảng, khôi phục lại khí phách xưa kia.

Thế nào là Đế vương học

Đế vương học nghĩa hẹp là học vấn đối với người làm vua, làm thế nào tuân theo đạo lý làm người để xử lý việc chính sự, cai trị quốc gia. Tại sao lại nói như vậy?

Còn nhớ trước đây tôi đã mượn giảng nghĩa của Shibusawa Eiichi để giảng giải chương “Học nhi” – Luận ngữ của Khổng tử, giảng về những lời chỉ dạy của Khổng Tử được tập trung thể hiện trong chương “Học nhi”, chương đó là luận điểm trọng tâm, đầu tiên giảng rõ mục đích của giáo dục để cho người đọc sách hiểu rõ mục đích của việc “học tập”, chính là học để hiểu rõ ràng, chính xác đạo lý làm người, sau đó liên tục thực hành, tập luyện trong cuộc sống, đó mới là đạo lý chân chính của việc học và tập. Tiếp đó, vẫn cần chú ý vận dụng đạo trung dung để tránh gặp vấn đề tốt quá hóa dở, mới có thể sống thanh bần vui với đạo, không bị ràng buộc bởi vật chất, dục vọng, công danh, như vậy bạn có thể sống một cuộc sống nhân sinh vui vẻ, thoải mái, đầy tự tin.

Nếu hiểu được đạo lý này thì bạn chính là một người quân tử trí tuệ chân chính, có ý chí hướng tu dưỡng và đạo đức của người quân tử bất động bất biến, vậy thì bạn mới có thể tạo phúc cho nhân dân. Đối với tất cả mọi người, từ quân vương đến thường dân thì việc giáo dục nhân cách căn bản là việc giáo dục bản tính hướng thiện của con người, không phân biệt cao thấp, sang hèn. Nhưng những người khác nhau có công tác xã hội và trách nhiệm khác nhau, vì thế, Nho học lại đưa ra những phân tích lý luận riêng từ các khía cạnh khác nhau. Thương nhân thực hành Nho học thì chính là đạo lý trong kinh doanh, thầy thuốc hành nghề y cũng sẽ hình thành đạo lý trong nghề y, và đế vương thực hành Nho học sẽ hình thành đạo trị quốc.

Mà nguyện vọng lớn nhất của Khổng Tử chính là quân vương có thể đưa mình vào khuôn phép, trên làm dưới theo, thì có thể nhanh chóng quy chính dân chúng, đây là mấu chốt và là con đường ngắn nhất để có được thiên hạ thái bình. Vì thế đầu tiên phải giáo dục thật tốt người đứng đầu, cũng chính là đế vương sau này, bề trên mà chính thì ắt toàn dân sẽ chính, bề trên mà không chính thì bên dưới sẽ nghiêng ngả. Vậy nên ông đã đi chu du các nước để khuyên nhủ các bậc quân vương lấy đức trị quốc. Đây là nguyện vọng lớn nhất của ông. Khi biết rằng nguyện vọng của mình trong thời gian ngắn không thể thực hiện được, Khổng Tử liền bắt đầu làm giáo dục, ông muốn bồi dưỡng tất cả mọi người hiểu được đạo trị quốc, mục đích là dùng đức để giáo hóa thiên hạ.

Vì thế sau chương “Học nhi” lập tức đến chương “Trị quốc”. Nói về đạo lý trị quốc thì cần phải lấy đức làm gốc, sau khi đã hiểu được căn bản của đạo lý làm người mới bắt đầu đứng từ góc độ của đế vương, người tham gia trị quốc, người triển khai cụ thể để thực hành lý luận lấy đức trị quốc. Cũng có nghĩa là bậc đế vương cần thực hành chính lý làm người trong thực tiễn trị quốc như thế nào, những học vấn này chính là Đế vương học. Đương nhiên những học vấn về tể tướng làm thế nào để giúp quân vương trị quốc chính là Tể tướng học. Ở đây tôi chỉ tập trung vào đề tài chính là Đế vương học. Trên thực tế, chỉ cần là quan chức tham gia chính trị hoặc người lãnh đạo doanh nghiệp, chỉ cần bạn đứng ở vị trí người quản lý dân chúng, thì đạo lý cơ bản là giống nhau, đều sẽ phải đối mặt với vấn đề chọn người và dùng người, làm thế nào dẫn dắt mọi người đồng lòng, tự nguyện hoàn thành một công việc nào đó. Đây là nghĩa rộng của Đế vương học.

Việc Đường Thái Tông thực hành đạo trị quốc chính là bằng chứng thực tiễn cho nguyên lý lấy đức trị quốc, đưa thời đại Trinh Quán trở thành đỉnh cao của văn minh nhân loại, tiếng lành của Thái Tông vì thế mà lưu danh thiên cổ. Ông cuối cùng đã hoàn thành lý tưởng của Khổng Tử, từ thực tiễn đã cho ra một bộ Đế vương học hoàn chỉnh, được ghi chép lại thành cuốn Trinh Quán Chính Yếu. Đường Thái Tông đã trở thành tấm gương cho các minh quân mọi thời đại và cũng trở thành chuẩn mực của người lãnh đạo trong thời hiện đại.

Xem tiếp Phần 2.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/247445

The post Đàm luận về “Trinh Quán Chính Yếu” (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một việc đức có thể tiêu trăm điều họahttps://chanhkien.org/2019/08/mot-viec-duc-co-the-tieu-tram-dieu-hoa.htmlThu, 15 Aug 2019 03:39:01 +0000https://www.chanhkien.org/?p=25586Tác giả: Sơ Trung  [ChanhKien.org] Trong cuốn “Thái Bình Quảng Ký” thời nhà Tống có ghi chép một câu chuyện về Lưu Hoằng Kính nhờ tích đại âm đức mà đắc phúc báo: Lưu Hoằng Kính là người Bành Thành thời nhà Đường, tự là Nguyên Phổ. Gia đình ông sống nhiều thế hệ ở […]

The post Một việc đức có thể tiêu trăm điều họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sơ Trung 

[ChanhKien.org] Trong cuốn “Thái Bình Quảng Ký” thời nhà Tống có ghi chép một câu chuyện về Lưu Hoằng Kính nhờ tích đại âm đức mà đắc phúc báo: Lưu Hoằng Kính là người Bành Thành thời nhà Đường, tự là Nguyên Phổ. Gia đình ông sống nhiều thế hệ ở khu vực sông Hoài, Phì Thủy, tài sản hàng trăm vạn lạng. Ông thường tu âm đức mà không khoe khoang, cho nên mọi người đều không hay biết về những việc làm tốt của ông. Mặc dù ông giàu có nhưng không làm người khác buồn phiền hay oán hận, thường hay dùng tiền để giúp đỡ người khác, bố thí cho người khác mà chưa bao giờ mong được hồi đáp.

Những năm đầu Trường Khánh thời Đường Mục Tông, có một thuật sĩ giỏi xem tướng trên đường đến Thọ Xuân trông thấy Lưu Nguyên Phổ, ông nói: “Xin quân tử hãy dừng chân, tôi có lời muốn nói”. Lưu Nguyên Phổ liền mời ông vào quán xá và hỏi chuyện.

Người này nói: “Ngài có rất nhiều của cải nhưng chỉ 2, 3 năm nữa thôi đại nạn sẽ đến, làm thế nào đây?” Lưu Nguyên Phổ rơi lệ nói: “Tuổi thọ của con người là thiên mệnh, tiên sinh có thể giúp gì được cho tôi?” Thuật sĩ nói: “Tướng mạo không bằng phẩm đức, phẩm đức không bằng độ lượng. Mặc dù thọ mệnh của ngài không cao nhưng đức lại dày, ngài cũng là người rất độ lượng, phóng khoáng. Tôi sẽ nói cho ngài biết những việc về sau, trong vòng hai năm tới ngài phải nỗ lực tu mỹ đức, hy vọng có thể kéo dài thọ mệnh. Một việc đức có thể tiêu trăm điều họa, còn được hưởng chức tước, bổng lộc, huống hồ là trường thọ. Cứ nỗ lực như vậy, ba năm nữa tôi sẽ lại đến gặp ngài”. Nói rồi bèn cáo từ, Lưu Nguyên Phổ rơi lệ tiễn biệt.

Từ đó ông bắt đầu chuẩn bị hậu sự. Ông có một cô con gái sắp kết hôn đến Dương Châu muốn xin mấy cô hầu gái đi cùng, ông dùng 80 vạn quan tiền mua bốn cô hầu gái, trong đó một cô tên là Phương Lan Tôn rất xinh đẹp và có phong thái đoan trang, không giống như người sinh ra trong gia đình nghèo khó. Lưu Nguyên Phổ hỏi han sự tình, cô trầm ngâm rất lâu rồi mới trả lời: “Tiện nữ mang tử tội, vốn không dám nhắc đến nữa. Chủ nhân đã hỏi kỹ thì mới dám tiết lộ. Gia đình tôi đời đời là danh tộc, quê ở Hà Lạc. Tiên phụ làm quan ở Hoài Tây, không may gặp giặc Ngô phản loạn hung bạo. Vì thấy họ của ông giống với họ của cường đạo, nên triều đình nghi ngờ là người thân của bọn phản tặc, do vậy cha tôi bị triều đình giết, cả gia đình bị tịch thu tài sản. Từ đó tôi rơi vào cảnh hèn mạt, không có nơi nào để kêu oan. Sau khi giặc Ngô bị dẹp, toàn bộ những người thân khác trong gia đình tôi bị quan quân bắt làm tù binh, cũng không biết lưu lạc ở đâu. Bản thân tiện nữ đã bị đổi hai chủ, giờ mới vào đây”.

Lưu Nguyên Phổ cảm thán hồi lâu rồi nói: “Giày dẫu có mới cũng không thể đội lên đầu, mũ dẫu có cũ cũng không thể dẫm dưới chân. Dù gia đình cô chết oan, nhưng cô vẫn là con nhà quan lại, mà nỗi oan của cô ai nghe cũng phải phẫn nộ, huống hồ ta là bậc nam tử. Hôm nay nếu ta không thể rửa được oan cho cô thì sẽ bị Thần trừng phạt”. Ông bèn hỏi người nhà cô, được biết ông ngoại cô họ Lưu, bèn đem đốt văn tự bán mình của cô, nhận cô làm cháu ngoại. Dùng 50 vạn quan tiền gả con gái mình, sau đó tìm mối tốt gả Phương Lan Tôn.

Một ngày mùa xuân tháng ba năm Tân Mão năm thứ hai Trường Khánh, Phương Lan Tôn đã xuất giá, Lưu Nguyên Phổ nằm mơ thấy một người mặc áo màu xanh, tay cầm thẻ ngà, hướng xuống trần mà bái lạy, Lưu Nguyên Phổ lại gần, ông ấy đột nhiên rơi nước mắt nói: “Tôi chính là phụ thân của Phương Lan Tôn, ân đức của ngài, tôi nhất định sẽ báo đáp! Tôi nghe nói âm đức có thể cảm động đến trời xanh. Đến nay thọ mệnh của ngài đã hết, tôi vừa báo cáo lên Thiên đế để cầu xin cho ngài”. Nói rồi đi mất. Ba ngày sau, Lưu Nguyên Phổ lại nằm mơ thấy phụ thân của Phương Lan Tôn đứng trước tiền đình, mặc áo bào màu tím, thị vệ đứng uy nghiêm xung quanh, ông cảm tạ Lưu Nguyên Phổ, nói: “Kẻ bất tài như tôi may mắn được thỉnh Thiên đế, Thiên đế đã đồng ý kéo dài thọ mệnh cho ngài thêm 25 năm nữa, phúc hưởng ba đời, con cháu không gặp tai ương. Những người đã tàn sát gia đình tôi đều bị xét xử, hiện giờ tai họa khắp thân. Người đã chết thì con cháu phải chịu họa. Thiên đế còn thương xót cho oan tình của tôi, cho khôi phục chức vụ, cai quản vùng sông núi Hoài Hải”. Rồi ông nghẹn ngào bái biệt.

Trời sáng, Lưu Nguyên Phổ vẫn nhớ rõ cảnh tượng giấc mơ những vẫn không tin. Ba năm sau, vị thuật sĩ xem tướng quả nhiên lại đến, vừa gặp đã chúc mừng Lưu Nguyên Phổ: “Thọ mệnh của ngài đã được kéo dài rồi. Để tôi xem khoảng cách giữa lông mày và tóc của ngài nào”.

Lưu Nguyên Phổ bỏ mũ lộ ra vầng trán, thuật sĩ nói: “Ôi, đây đúng là bằng chứng nhờ âm đức mà cảm động đến Thiên đế. Từ nay về sau 25 năm nữa, phúc hưởng ba đời”. Lúc này, Lưu Nguyên Phổ mới kể cho ông ấy nghe chuyện về phụ thân của Phương Lan Tôn. Thuật sĩ nói: “Hàn Quyết nước Tấn thời Xuân thu âm thầm bảo vệ Triệu Thị, Tư Mã Thiên cho rằng mười đời nhà Triệu Thị đều làm đến vương hầu, chính vì có âm đức. Huống hồ gia đình Phương Lan Tôn đã không có người nối dõi, bản thân Phương Lan Tôn chỉ là nô tì. Vậy mà ngài không những không tiếc tiền tài lại không bị mê mẩn bởi nhan sắc xinh đẹp của cô ấy, ngài đã thương cảm giúp đỡ cho cô gái mồ côi, đây đều là âm đức dày của ngài”.

Lưu Hoằng Kính nhờ tích được âm đức lớn nên không chỉ thay đổi được thọ mệnh của mình, mà con cháu ba đời còn được hưởng phúc, không phải chịu tai họa, ở nhân gian mà nhìn thì đây chẳng phải là việc đại hảo sự có cầu cũng không được hay sao? Ông trời sẽ không vô tình làm rơi nhân bánh, phúc phận đều là nhờ tích đức hành thiện mà có được.

Đây không chỉ là đạo lý chân chính trong văn hóa truyền thống, trong xã hội tràn ngập văn hóa đảng ngày nay nó vẫn là đạo lý chân chính. Có đức thì có phúc phận, vô đức thì chẳng được gì, các loại thiên tai nhân họa đều không tránh khỏi. Có thể có người không tin, ở Trung Quốc đại lục ngày nay, muốn làm quan mà không chạy chọt thì sẽ không được cất nhắc làm quan, muốn phát tài mà dựa vào làm ăn chính đáng, không câu kết với quan chức, không đi cửa sau thì e rằng làm ăn còn không nổi, thậm chí còn khó giữ được tính mạng.

Kỳ thực không phải như vậy, đây chỉ là những hiện thực giả tạo do văn hóa đảng tạo ra, khiến con người hình thành những quan niệm sai lầm, thậm chí trở nên tàn ác, nó che mất thiên lý thiện ác hữu báo, dẫn dắt con người theo con đường sai lầm.

Ngày 22 tháng 9 năm 2018, trên trang web Minh Huệ đăng bài viết về một đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục với tiêu đề “Từ chối vào đảng thăng quan, kết quả ba lần thăng chức”, bài viết giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về quan niệm sai lầm này, nguyên văn bài viết có đoạn:

Tôi (tác giả) đã chứng kiến A trưởng thành. Từ nhỏ anh ấy đã theo mẹ tiếp xúc với Pháp Luân Công. Sau khi vào đại học, mặc dù ở xa gia đình, nhưng những hạt giống Chân, Thiện, Nhẫn đã bén rễ sâu trong tâm anh ấy.

Sau khi tốt nghiệp đại học, A xoay xở mấy năm để vào làm việc trong một cơ quan bộ ngành nhạy cảm của chính phủ, phụ trách công việc kỹ thuật. Những người vào được bộ ngành này ai cũng muốn “thăng tiến”, họ đều phấn đấu vào đảng. Vì A đã hiểu được bản chất tà ác của ĐCSTQ nên anh kiên quyết không vào đảng. Lãnh đạo nhiều lần nói chuyện với A, gợi ý rằng nếu muốn thăng tiến thì anh phải vào đảng, anh đều từ chối. Anh biết rất rõ kết cục trời sẽ diệt ĐCSTQ. Ngoài việc làm tốt công việc kỹ thuật ra, mọi việc anh đều để tùy kỳ tự nhiên.

Hơn bốn năm trước, không ngờ A được đề bạt làm phó khoa. Cấp trên tiếp tục nhắc anh vào đảng, anh đều không động tâm.

Hai năm trước, A được thăng chức làm trưởng khoa. Trong thời gian làm trưởng khoa, anh bắt đầu tiếp xúc với người dân, những người dân đến làm việc với anh đều cảm ơn sự giúp đỡ của anh, cục trưởng đánh giá cao năng lực xử lý vấn đề của anh.

Nửa năm trước, trong đơn vị cần đề bạt người không phải đảng viên làm phó cục trưởng, A trở thành người duy nhất đủ tư cách được chọn, anh đã thăng chức thuận lợi.

Hai tháng trước, thành phố lại muốn đề bạt A, cục trưởng muốn anh đăng ký, anh từ chối nói: “Tôi biết năng lực của mình, tôi cũng không có hứng thú với việc này”.

Các đảng viên đấu đá nhau vào đảng để được thăng chức, còn A từ chối vào đảng, nhưng chỉ trong chưa đầy năm năm lại liên tiếp được thăng ba cấp, được phúc báo, anh đã lựa chọn một tương lai tốt đẹp cho mình.

Người nào minh bạch chân tướng, tin vào Thần Phật, từ chối tà đảng, sẽ được Thần Phật giúp đỡ, những người bị văn hóa đảng mê hoặc, không tin vào Thần Phật thì làm sao có thể được Thần Phật giúp đỡ?

Một việc đức thực sự có thể tiêu trăm điều họa, người đã hiểu chân tướng, tuân theo tiêu chuẩn Chân, Thiện, Nhẫn mà tu tâm hướng thiện, vận mệnh chắc chắn sẽ thay đổi, sẽ đắc phúc báo lớn. ĐCSTQ bức hại Pháp Luân Công, nó không dạy con người tích đức mà tạo nghiệp lớn kinh động vũ trụ, từ đó hủy hoại tương lai của bản thân và gia đình.

Trên trang web Minh Huệ ngày 7 tháng 9 năm 2018 có đăng câu chuyện về một nhóm cảnh sát ở trại giam Tam Điều Giai, huyện Liên Hợp Tây, thuộc đội an ninh nội địa Khoan Thành thành phố Trường Xuân đã bắt giam phi pháp anh Mục Quân Khuê một học viên Pháp Luân Công, lại còn lục soát phi pháp nhà riêng, nhà kho để lấy đi những đồ đạc cá nhân của anh. Anh bị giam trong trại giam thứ nhất thành phố Trường Xuân. Trong thời gian bị giam giữ, đội trưởng Hà Vĩ đã dùng gậy đánh đập dã man vào đầu và má trái của anh. Khi kiểm tra sức khỏe, anh lại bị cảnh sát Dương Quang đánh đập, tay bị còng chặt đến mức sưng lên.

Năm 2001, Mục Quân Khuê từng bị bức hại tại trại lao động Đoàn Hà. Do không chịu “chuyển hóa” (từ bỏ tín ngưỡng), anh bị giam cách ly, chân bị mưng mủ và thối rữa gần một năm, cả mùa đông phải đi dép lê. Trong thời gian đó, anh bị ép phải cạo đầu trọc, bị nhốt riêng trong một phòng nhỏ, ép ngồi trên ghế nhỏ, chỉ mấy ngày sau, mông đã phồng rộp và thối rữa.

Một lần, cảnh sát trói anh trên giường, nhét vải vào mồm (để ngăn không cho cắn lưỡi chết), sau đó dùng dùi cui điện điện áp 15 vạn vôn xốc điện vào chân, gót chân, ngực, lưng, trán, gáy của anh. Lúc đó, cả căn phòng đầy mùi khét lẹt. Mục Quân Khuê dốc toàn sức lực, cắn chặt răng chịu đựng nỗi đau thấu xương, đầu anh từ trong ra ngoài đau đớn như vỡ ra, mồ hôi ướt đẫm quần áo. Do cắn răng mạnh quá khiến anh nửa tháng không thể nhai được, mới hơn 30 tuổi mà toàn bộ răng của anh đã bị lung lay.

Những cực hình mà Mục Quân Khuê phải chịu đựng chỉ là một phần nhỏ trong số hàng triệu học viên Pháp Luân Công bị bức hại, còn vô số học viên Pháp Luân Công bị mổ cướp nội tạng. Tội ác bức hại Thần Phật, bức hại người tu luyện này, con người thực sự không trả nổi, ĐCSTQ chính là lợi dụng phương thức này để hủy hoại nhân loại.

Học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng chính là muốn thức tỉnh thiện niệm và lương tri của con người, để họ không mù quáng bị giả, ác, đấu của ĐCSTQ dắt mũi, tự tạo tội nghiệp mà không biết, mà làm người tốt theo tiêu chuẩn Chân, Thiện, Nhẫn, làm người tốt ở cảnh giới cao hơn, sinh mệnh được phúc báo và có tương lai tốt đẹp.

Dịch từ:  http://www.zhengjian.org/node/250742

The post Một việc đức có thể tiêu trăm điều họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiển đàm về “Thành tín”https://chanhkien.org/2019/08/thien-dam-ve-thanh-tin.htmlMon, 05 Aug 2019 02:50:18 +0000http://chanhkien.org/?p=25583Tác giả: Lý Lượng [ChanhKien.org] “Thành” (诚) nghĩa là gì? Theo từ điển giải thích là “chân tâm”, “thực sự”. Mạnh Tử nói: “Thành giả, thiên chi đạo dã; tư thành giả, nhân chi đạo dã” (thành tín là đạo của trời; dùng tư tưởng để làm việc thành tín là đạo làm người). “Thành” […]

The post Thiển đàm về “Thành tín” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lý Lượng

[ChanhKien.org]


“Thành” (诚) nghĩa là gì? Theo từ điển giải thích là “chân tâm”, “thực sự”. Mạnh Tử nói: “Thành giả, thiên chi đạo dã; tư thành giả, nhân chi đạo dã” (thành tín là đạo của trời; dùng tư tưởng để làm việc thành tín là đạo làm người). “Thành” vốn là đức tính cố hữu tự nhiên của ‘Thiên-Địa-Nhân’. Làm người nên thuận theo đạo trời, thành thực, đáng tin. Chu Hi thời Đại Tống – nhà sáng lập ra Lý học cho rằng “Thành giả, chân thực vô vọng chi vị” (Người thành tín là người chân thực không nói lời xằng bậy). Ông khẳng định rằng “thành” là một đức tính chân thực, không dối trá.

“Tín” (信) là gì? “Tín” là một trong ngũ đức của Nho gia “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Khổng Tử nói: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã” (người mà không có chữ tín, thì không thể làm nên việc được). Ông cho rằng nếu con người không giữ chữ tín sẽ không có chỗ đứng trong xã hội, làm việc gì cũng không thành.

“Thành” chủ yếu là nói về đạo của trời, “Tín” chủ yếu là nói về đạo của con người. Trong “Thuyết văn giải tự”, Hứa Thận nói: “thành, tín dã” (thành cũng là tín). Trong “Lã Thị Xuân Thu – Quý Tín” viết: nếu vua tôi không giữ chữ tín thì trăm họ sẽ phỉ báng triều đình, quốc gia không yên ổn; làm quan mà không giữ chữ tín thì dưới không sợ trên, sang hèn coi khinh nhau; thưởng phạt không giữ chữ tín thì người dân dễ phạm pháp, khó thực thi mệnh lệnh; bạn bè không giữ chữ tín thì oán hận lẫn nhau, không thể kết giao hòa thuận; làm hàng thủ công không giữ chữ tín thì chất lượng sản phẩm sẽ kém, trông như hàng nhái, nước sơn cũng không sắc nét.

Trong lịch sử mấy nghìn năm của Trung Hoa có rất nhiều luận thuật về thành tín, cũng lưu truyền nhiều câu chuyện về thành tín. Những điển tích quý báu này giờ đây cũng có thể cho chúng ta những gợi mở và nhận thức sâu sắc. Sau đây xin kể một số câu chuyện về thành tín:

Quý Bố nhờ “lời hứa đáng giá nghìn vàng” mà thoát tai ương

Người xưa có câu: người tìm vật trong phòng tối, không gì quý hơn lửa; người tìm đạo ở thế gian, không gì quý hơn thành tín. Có nghĩa là tốt nhất nên nhờ ánh sáng để tìm vật trong bóng tối; và chỉ có thành tín mới có thể giữ chữ tín trong thiên hạ, “có được nhiều sự trợ giúp để đắc đạo”. Cuối đời Tần có một người tên là Quý Bố luôn biết giữ lời nói, danh tiếng rất lớn, rất nhiều người đều muốn kết tình bằng hữu thân thiết với ông. Thời đó thậm chí còn lưu truyền câu tục ngữ: “Đắc hoàng kim bách cân, bất như đắc Quý Bố nhất nặc” (Được trăm lạng vàng không bằng được một lời hứa của Quý Bố). Đó chính là nguồn gốc của câu thành ngữ “lời hứa đáng giá nghìn vàng”. Sau đó vì đắc tội với Hán Cao Tổ Lưu Bang, ông bị triều đình treo thưởng cho ai bắt được ông ta. Nhưng những người bạn cũ của ông không những không bị tiền thưởng cám dỗ mà còn bất chấp nguy hiểm bị chu di chín tộc để bảo vệ ông, giúp ông tránh khỏi tai họa. Điều này cho thấy một người trung thực và đáng tin cậy tự nhiên sẽ có nhiều người giúp đỡ, được mọi người tôn trọng và yêu mến.

Lưu Bình giữ chữ tín để cứu tính mạng mẹ

Thời nhà Hán, thiên hạ đại loạn. Có một người tên là Lưu Bình dẫn mẹ đi lánh nạn. Trên đường đi phải sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn không đủ no. Một hôm đói đến nỗi không lê nổi bước chân, Lưu Bình đành phải giấu mẹ vào một hẻm núi, còn mình ra ngoài kiếm thức ăn.

Anh gặp một nhóm cướp cũng đang đói muốn làm thịt anh để ăn. Anh vội quỳ xuống đất cầu xin, nói rằng vì mẹ đang đói nên anh phải đến đây tìm rau dại, anh cầu xin toán cướp hãy thả anh và thề rằng nếu anh mang được đồ ăn về cho mẹ ăn no bụng thì anh nhất định sẽ quay lại, quyết không nuốt lời. Toán cướp động lòng thương xót trước tấm lòng hiếu thảo của anh nên đã thả anh về.

Sau khi Lưu Bình tìm được đồ ăn và đợi mẹ ăn no, anh kể với mẹ những điều vừa xảy ra. Anh nói đã hứa với người ta rồi thì phải quay lại, thế là anh bái biệt mẹ và thực sự đã quay trở lại chỗ toán cướp.

Khi toán cướp thấy Lưu Bình thực sự trở lại, chúng đã hết sức kinh ngạc. Chúng không ngờ trên đời này còn có người giữ chữ tín như vậy. Cuối cùng, toán cướp không những không làm khó anh mà còn cung kính tiễn anh đi.

Tuần Cự Bá nhờ giữ chữ tín cứu bạn mà đẩy lùi quân giặc

Nhân vật chính của câu chuyện này cũng là người đời Hán tên là Tuần Cự Bá. Một hôm nghe nói bạn mình bị bệnh nằm liệt giường nên anh đến thăm bạn. Thật không may, đúng lúc đó giặc Hồ đến xâm lược, người dân trong thành nghe tin giặc đến lập tức chạy trốn. Nhưng Tuần Cự Bá không chạy. Người bạn khuyên anh mau rời khỏi thành. Anh nói: “Trong lúc nguy cấp thế này, tôi sao có thể bỏ bạn lại một mình được, việc bất nhân bất nghĩa như thế tôi sao có thể làm được”. Quân lính Hồ mau chóng phát hiện ra Tuần Cự Bá và người bạn bị bệnh nằm trên giường. Trong một khu thành trống trơn vậy mà vẫn còn có người! Đây là điều mà những kẻ xâm lược không bao giờ nghĩ tới. Quân lính Hồ cảm thấy khó hiểu, hỏi tại sao Tuần Cự Bá không chạy. Tuần Cự Bá nói: “Bạn tôi bị ốm đang nằm ở đây, tôi sao có thể bỏ rơi không chăm sóc anh ấy được. Nếu bạn tôi hôm nay thoát nạn, tôi mong rằng có thể chết thay anh ấy”.

Nghe xong những lời của Tuần Cự Bá, Quân lính Hồ xúc động nói rằng: chúng tôi là đội quân bất nghĩa tấn công vào một nước có nghĩa. Cảm thấy hổ thẹn, giặc Hồ thực sự đã thoái lui.

Chu U Vương thất tín với quần thần nên mất thiên hạ

Mọi người đều biết điển cố “Phong hỏa hí chư hầu”, kể rằng Chu U Vương có một ái phi là Bao Tự, vì để đổi lấy một nụ cười của nàng, Chu U Vương đã ra lệnh đốt lửa hơn 20 tháp đèn hiệu gần đô thành – ngọn lửa là tín hiệu báo động từ vùng biên ải, nó chỉ được thắp sáng khi có quân địch ngoại bang xâm lược cần kêu gọi các nước chư hầu đến cứu viện. Kết quả là các nước chư hầu nhìn thấy lửa hiệu bèn vội kéo quân tướng đến, đến nơi mới hiểu rằng đó chỉ là trò chơi của nhà vua để tìm nụ cười cho ái phi, bèn giận dữ bỏ về. Bao Tự thấy các chư hầu bình thường vốn uy nghiêm, lừng lẫy mà nay dáng vẻ vô cùng lúng túng liền nở một nụ cười. Năm năm sau, hai tộc Khuyển, Nhung cất quân đánh nhà Chu, U Vương lại đốt lửa hiệu nhưng các chư hầu không đến, bởi không ai muốn lặp lại sai lầm lần thứ hai. Kết quả U Vương bị bức tử và Bao Tự cũng bị rơi vào tay giặc.

Thương nhân thất tín hết đường sống

Câu chuyện này được ghi lại trong “Úc Li Tử”, Ở Tế Dương có một thương nhân khi qua sông thì thuyền bị chìm, ông ta nắm lấy một cây gai dầu và kêu cứu. Một ngư dân nghe thấy liền đến, thương nhân kia vội vàng hét lên: “Tôi là người giàu nhất ở Tế Dương, nếu anh có thể cứu tôi, tôi sẽ cho anh 100 lượng vàng”. Sau khi được cứu lên bờ, ông ta trở mặt không thực hiện lời hứa, ông ta chỉ cho người đánh cá 10 lượng. Người đánh cá trách ông ta không giữ chữ tín, nói một đằng làm một nẻo. Gã nhà giàu nói: “Anh đánh cá cả đời không kiếm nổi mấy đồng, bỗng nhiên được 10 lượng vàng còn kêu ít sao?” Người đánh cá đành phải ngậm ngùi bỏ đi. Không ngờ sau đó gã nhà giàu lại bị lật thuyền một lần nữa ở chỗ cũ. Có người muốn cứu, người ngư dân đã bị ông ta lừa dối nói: “Hắn chính là kẻ không giữ lời hứa!” Thế là gã thương nhân chết chìm.

Từ các điển cố kể trên có thể thấy thành tín là một trong những mỹ đức trong truyền thống dân tộc Trung Hoa, thành tín là một phẩm chất tốt đẹp mà mọi người cần phải có. Thành tín là nền tảng căn bản để làm người, là luật pháp của chính trị, là đạo của tề gia, là cơ sở trong kết giao bằng hữu, là linh hồn của kinh doanh. Thành tín còn là liều thuốc tốt của tâm linh. Người xưa nói: “Phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên” (quay về với thành tín, không gì vui hơn). Chỉ có giữ được sự chân thành, vô vi mới có thể khiến nội tâm không hổ thẹn, thản nhiên, điềm tĩnh mới mang đến cho bạn tinh thần lạc quan nhất. Nếu dùng cách nhìn của con người hiện đại để đo lường lời nói và hành động của hai nhân vật Lưu Bình và Tuần Cự Bá thì cả hai đều có thể bị coi là “kẻ ngốc”. Tuy nhiên Lưu Bình lấy tín lập thân, Tuần Cự Bá dùng nghĩa đẩy lùi giặc đã trở thành giai thoại về sự thành thực, giữ chữ tín trong một giai đoạn lịch sử, và cũng được người đời sau vĩnh viễn tôn vinh.

Chỉ đáng tiếc trong xã hội ngày nay, những người nhắc đến “Thành tín” quả thực quá ít. Người ta luôn vì lợi ích của bản thân mà làm trái với đạo trời, không từ một thủ đoạn nào, vì lợi cho mình mà hại người khác, đặt ra ngoài lề các chuẩn mực đạo đức, uy tín và danh dự, tuân thủ pháp luật, làm rất nhiều hành vi bỉ ổi. Trong giới quan chức thì dối trên lừa dưới, tranh giành đấu đá, tham ô hủ bại… Trong giới kinh doanh thì đầu cơ trục lợi, táng tận lương tâm, lấy giả làm thật, lấy xấu làm tốt, thậm chí đầu độc người dân… Trong quan hệ giữa người với người thì không tín nhiệm lẫn nhau, lạnh nhạt vô cảm, thậm chí dối trá lừa gạt nhau… Quả thật là một chính phủ thất tín đang dẫn dắt một xã hội thất tín lao vào vòng nguy hiểm với tốc độ phi mã, phải chăng đây chính là xã hội nhân loại thời mạt kiếp như Đức Phật và các nhà tiên tri đã dự báo?

Vào thời mạt kiếp này, tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chính là con đường duy nhất đưa con người quay trở về với đạo đức.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/75136

 

The post Thiển đàm về “Thành tín” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cổ phong chính khí: Sự vô tư của người xưa là thuận theo Thiên ýhttps://chanhkien.org/2019/06/co-phong-chinh-khi-su-vo-tu-cua-nguoi-xua-la-thuan-theo-thien-y.htmlThu, 27 Jun 2019 04:53:51 +0000http://chanhkien.org/?p=25567Tác giả: Tân Vũ [ChanhKien.org] Chúng ta đều biết người xưa hầu hết đều coi trọng tín và nghĩa, đặc biệt là các hoàng đế thời cổ đại lại càng không mưu cầu tư lợi. Tại sao họ lại có được tâm thái như vậy? Do họ ngốc nghếch hay họ có tiêu chuẩn đạo […]

The post Cổ phong chính khí: Sự vô tư của người xưa là thuận theo Thiên ý first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tân Vũ

[ChanhKien.org] Chúng ta đều biết người xưa hầu hết đều coi trọng tín và nghĩa, đặc biệt là các hoàng đế thời cổ đại lại càng không mưu cầu tư lợi. Tại sao họ lại có được tâm thái như vậy? Do họ ngốc nghếch hay họ có tiêu chuẩn đạo đức cao? Thực ra, quan trọng nhất là họ biết thuận theo Thiên ý, tinh thông bản chất của sự vật.

Theo ghi chép trong “Lã Thị Xuân Thu”, một vị khách hỏi Quý Tử rằng: “Dựa vào đâu mà biết vua Thuấn có tài năng?” Quý Tử nói: “Vua Nghiêu vốn đã cai trị tốt thiên hạ rồi, vua Thuấn đàm luận về cách cai trị thiên hạ phù hợp với cách nghĩ của vua Nghiêu, cho nên mới biết được Vua Thuấn có tài năng”. Vị khách hỏi: “Mặc dù ông biết vua Thuấn có tài năng, nhưng dựa vào đâu mà biết vua Thuấn sẽ không mưu cầu tư lợi?” Quý Tử nói: “Những người có thể cai trị thiên hạ nhất định là người thông hiểu bản chất của sinh mệnh, vậy thì chắc chắn là người không có tư tâm”. Ngày mùa hè không mặc áo lông không phải vì quý tiếc cái áo lông, mà là vì đã quá ấm áp rồi. Ngày mùa đông không dùng quạt không phải vì quý tiếc cái quạt, mà là vì đã quá mát lạnh rồi. Thánh nhân không mưu cầu tư lợi không phải vì quý tiếc của cải, mà là vì phải tiết chế bản thân. Nếu có thể tiết chế bản thân, lại có thể ức chế được lòng tham và dục vọng, sao có thể không gọi là Thánh nhân được?

Hứa Do khước từ thiên hạ cũng không phải miễn cưỡng làm được, mà là vì có điều thông hiểu về bản tính của sinh mệnh.

Khi người ta hiểu được đúng sai thì ai còn dám làm điều xấu nữa? Khi người ta biết được không có tư tâm là tốt thì ai còn muốn đi trộm cướp nữa? Tại sao trong lịch sử xuất hiện Phật giáo, Đạo giáo và Cơ Đốc giáo, vì họ muốn truyền cho con người Thiên lý chân chính, bản chất của Thiên đạo. Nếu ai bức hại người tu đạo, ấy là đã phạm tội rất lớn. Đó có lẽ là gốc rễ sự sinh tồn của nhân loại.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/158095

The post Cổ phong chính khí: Sự vô tư của người xưa là thuận theo Thiên ý first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
So sánh văn nhân thời xưa với văn nhân thời nayhttps://chanhkien.org/2019/06/so-sanh-van-nhan-thoi-xua-voi-van-nhan-thoi-nay.htmlThu, 27 Jun 2019 04:49:39 +0000http://chanhkien.org/?p=25566[ChanhKien.org] Văn nhân, dân chúng gọi là người trí thức, là những người có học vấn, từng đọc sách thánh hiền, thông hiểu đạo lý, nên được mọi người tôn kính. Văn nhân có vai trò gì? Người xưa đã tổng kết như sau: “Đặt tâm vào trời đất, đặt sinh mệnh vào cuộc sống […]

The post So sánh văn nhân thời xưa với văn nhân thời nay first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Văn nhân, dân chúng gọi là người trí thức, là những người có học vấn, từng đọc sách thánh hiền, thông hiểu đạo lý, nên được mọi người tôn kính. Văn nhân có vai trò gì? Người xưa đã tổng kết như sau: “Đặt tâm vào trời đất, đặt sinh mệnh vào cuộc sống của nhân dân, kế tục học vấn của thánh nhân, mở ra cuộc sống thái bình cho vạn thế hệ sau”. Họ được đánh giá rất cao và là trụ cột của quốc gia, là tấm gương đạo đức cho mọi người. Nhưng người Trung Quốc đại lục ngày nay lại không còn chút kính trọng nào đối với người trí thức, thậm chí là khinh bỉ, vì sao như vậy?

Chúng ta hãy so sánh văn nhân thời xưa và văn nhân thời nay để hiểu được điều này.

Vị quan tốt đem bổng lộc phân phát cho người dân

Có một người tên là Công Tôn Cảnh Mậu làm quan thời Nam Bắc triều và triều Tùy. Trong cuộc chiến tranh bình định Nam Tống, một số binh lính bị bệnh trên đường đi, Cảnh Mậu dùng bổng lộc của mình để mua cháo và thuốc chữa bệnh cho họ, sau nhiều lần cứu giúp, số người được cứu sống lên đến hàng nghìn người.

Một lần, Cảnh Mậu vì mắc bệnh phải từ chức, người trong quan phủ và dân chúng khóc lóc không muốn ông rời đi.

Sau đó, Cảnh Mậu nhậm chức Tiết sứ Đạo Châu. Ông đem hết bổng lộc đi mua trâu, nghé, lợn, gà phân phát cho những người mẹ góa con côi, người nghèo khó, những người không đủ khả năng lo cho cuộc sống của mình. Ông thích cưỡi ngựa một mình, quan sát cuộc sống của người dân, đích thân vào thăm nhà của người dân, xem xét tài sản của người dân có đầy đủ hay không. Có người làm việc tốt, ông sẽ biểu dương tán thưởng ngay trên công đường; nếu có người làm quá nhiều điều xấu, ông sẽ dạy bảo, uốn nắn riêng chứ không công bố những việc làm sai của họ, cho họ cơ hội sửa chữa. Vì thế, người dân đều trọng lễ nghĩa, nhường nhịn, giúp đỡ lẫn nhau. Khi làm ruộng, nam giới trong thôn đều giúp đỡ người khác cày ruộng; khi dệt vải, phụ nữ đều giúp đỡ người khác dệt chứ không chỉ dệt vải của mình, hiện tượng “mọi người đều chỉ quét tuyết trước cửa nhà mình, mặc kệ tuyết trên mái nhà khác” đã không còn tồn tại. Những thôn lớn có trên 100 nhà đều coi nhau như một gia đình, đều quan tâm việc của người khác như việc của nhà mình.

Ngày Cảnh Mậu qua đời, hàng nghìn người dân và quan lại Đạo Châu đã đến đưa tiễn ông. Những người không kịp đến tham gia tang lễ đều đau buồn thương tiếc ông.

Quan lấy tiền của mình nộp thuế thay cho dân

Mâu Toại thời nhà Thanh, vào năm Khang Hy thứ 17 nhận chức huyện lệnh huyện Nghi Thủy, Sơn Đông. Lúc đó vùng Sơn Đông xảy ra nạn đói, triều đình chuẩn bị mua lúa gạo từ Tế Nam sang phát chẩn cứu đói.

Vì đường xa, thời gian đi lại mất nhiều ngày, hơn nữa phí vận chuyển lớn, điều kiện không thuận tiện, nên Mâu Toại đã thỉnh cầu cho phép cấp bạc trắng cho người dân để họ tự đi mua lương thực. Quan sử phụ trách cho rằng làm như vậy là không tuân chỉ thánh lệnh của vua nên không nghe theo. Mâu Toại cố gắng giải thích rằng việc tuân lệnh thánh chỉ cần phải phù hợp với từng hoàn cảnh, ông nhanh chóng soạn tấu chương bẩm báo lên trên và được phê chuẩn. Lúc phát cho dân thì tiền trong kho của phủ quan không đủ, Mâu Toại liền bỏ tiền của ông ra để cứu tế cho dân. Nạn đói qua đi, rất nhiều người dân thoát khỏi chết đói, Mâu Toại còn bỏ tiền riêng của ông để nộp thuế thay người dân. Ông mua trâu, hạt giống, gọi những người dân tha hương trở về, giúp họ khôi phục cuộc sống.

Năm Khang Hy thứ 34, Mâu Toại nhậm chức huyện lệnh Định Hải, tỉnh Triết Giang. Vì nước biển mặn không uống được, ông đã cho xây dựng đê ngăn nước mặn và dự trữ nước ngọt. Đất Định Hải thổ nhưỡng cằn cỗi, người dân nghèo khó, không thể giao nộp thuế đúng thời hạn, thường phải nộp thuế trễ hạn, Mâu Toại liền thay người dân nộp thuế lên trên trước, sau khi thu hoạch vụ thu mới thu lại thuế từ người dân.

Huyện này trước đây có nguồn thu thuế từ ngư dân đánh cá, sau đó vùng đánh cá bị chiếm, ngư dân khốn khổ về nộp thuế, Mâu Toại đã bẩm tấu lên trên thỉnh cầu miễn thuế cho ngư dân.

Đồ dùng thiết yếu hàng ngày của người dân phần lớn đều dựa vào nguồn hàng mua từ các thành thị xung quanh được vận chuyển bằng đường biển, phải qua các trạm thu phí rất cao, Mâu Toại đã thỉnh cầu cấm vĩnh viễn các trạm thu phí này, lập bia đá ở cửa khẩu làm chứng.

Trong tâm người dân đều có thể đo lường, đánh giá, dân mến quan, quan yêu dân. Đối với những vị quan tốt, thanh liêm, người dân luôn kính yêu, ủng hộ ông từ tận đáy lòng. Trong các sách cổ có ghi chép rất nhiều câu chuyện về những vị quan tốt yêu dân như con, đồng thời cũng có ghi chép rất nhiều câu chuyện về người dân yêu mến quan.

Năm Khang Hy thứ 23, có một một vị quan tốt là Tổ Tiến Triều, vì sơ suất trong giám sát mà bị giáng chức và điều đi nơi khác, nhưng người dân đều thỉnh cầu cho ông giữ lại chức, nhờ sự khoan dung của hoàng đế Khang Hy, Tổ Tiến Triều được phục chức. Sau khi Tổ Tiến Triều cáo lão về quê, người dân vẫn còn nhắc tới ông suốt một thời gian dài.

Tống Tất Đạt triều Thanh, khi tại chức đã làm rất nhiều việc tốt cho người dân, vì làm việc tốt có lợi cho dân nhưng lại không đúng ý chỉ triều đình nên bị xử tội và bãi chức quan, người dân Ninh Đô đều buồn khóc đưa tiễn ông, những lễ vật người dân mang tặng ông đều từ chối không nhận. Sau khi Tống Tất Đạt bị bãi quan, ông đi theo con đường nhỏ xuống Nam Xương, trên đường đi bị đạo tặc bắt cóc, ép ông phải đầu hàng, ông không khuất phục nên bị giam giữ 7 ngày. Nửa đêm có khoảng hơn 10 người tay cầm binh khí, trèo tường vào nói: “Tống Gia ở đâu? Chúng tôi đều là người dân ở Ninh Đô”. Rồi họ cõng Tống Tất Đạt đi, Tống Tất Đạt đã thoát nạn vô sự. Tống Tất Đạt nghĩ cho người dân nhiều như vậy, nên dân chúng cũng không tiếc sinh mệnh để cứu ông. Sau khi Tống Tất Đạt qua đời, người dân Ninh Đô hàng năm đều cúng bái, tưởng nhớ đến ông.

Thang Gia Tương triều Thanh là người Sơn Tây. Năm Thuận Trị thứ 8, ông nhận chức huyện lệnh Thường Thục. Giang Nam mất mùa, thất thu mấy triệu tiền thuế ruộng đất, triều đình hạ lệnh nghiêm khắc bãi chức những quan nào không thu đủ thuế. Thang Gia Tương bị liên lụy mất chức. Người dân lập tức tranh nhau nộp thuế thóc, không quá một đêm, định mức thuế ruộng đất đã nộp đủ. Đồng thời người dân cũng bẩm báo lên triều đình thẩm tra lại vụ việc, thỉnh cầu cho phép Thang Gia Tương được giữ chức và không được bắt huyện lệnh họ Thang.

Ở Trung Quốc đại lục ngày nay, quan tốt quả là hiếm thấy. Quan thời xưa phạm tội, người dân lập tức tranh nhau nộp thuế thóc và cùng nhau bảo vệ cho quan; còn quan tham của ĐCSTQ phạm tội thì người dân vỗ tay sung sướng. Quan tham của ĐCSTQ bị bắt thì người dân còn vui mừng hả hê, câu chuyện quan chức cao cấp bị bắt trở thành chuyện mua vui bên bàn ăn, tiệc trà, muốn người dân không tiếc sinh mệnh giúp đỡ những quan tham bị bắt là điều không thể. Quan tham của ĐCSTQ ai mà không có bằng cấp cao? Tự cho rằng học thức cao, nhưng toàn làm những việc cướp gà trộm chó, ăn chơi đàn đúm, tham ô nhận hối lộ làm hại dân, quan chức ĐCSTQ ngày nay từ lớn đến nhỏ đều lần lượt bị bắt, người dân đều thờ ơ, lạnh nhạt, coi xem ai sẽ bị quả báo tiếp theo.

Vì sao văn nhân thời xưa và văn nhân thời nay lại khác nhau đến vậy? Vì sao họ lại đánh mất vị thế trong lòng người dân như thế?

Văn hóa cổ đại là văn hóa Thần truyền, trong các sách văn hóa cổ tràn ngập lòng tôn kính trời đất, thiên lý thiện ác hữu bảo. Đọc những sách thánh hiền như vậy, trong tâm con người sẽ tràn đầy lòng kính ngưỡng với Thần Phật, trời đất, chú trọng tu tâm dưỡng tính, quan tâm đến đời sống nhân dân, có tiêu chuẩn rõ ràng về thiện ác, đúng sai, đó chính là thiên lý. Văn nhân thời xưa chỉ cần có lợi cho dân, phù hợp với thiên lý và nhân tính, thì dù đối mặt với uy quyền của hoàng đế hay tính mạng bị uy hiếp cũng phản kháng lại, họ kiên trì với quan niệm đúng đắn của mình, vì thế có câu rằng người xưa “văn tử gián, võ tử chiến” (văn sỹ dám chết vì can gián, võ sỹ dám chết vì chiến đấu). Các văn nhân, quan chức ĐCSTQ ngày nay có thể làm được như vậy không?

Lô Khắc Trung thời nhà Kim, vì có công thảo phạt Bắc Tống nên được nhậm chức Thứ sử và Tiết độ sứ. Có mấy binh lính của Tuy Đức châu đi ngang qua thành Phu, xin tá túc nhà người dân. Nửa đêm có kẻ trộm lẻn vào nhà chủ trộm đồ. Quan địa phương bắt được những binh lính xin tác túc, tống vào nhà lao, tra tấn, hãm hại và kết án. Lô Khắc Trung biết được nỗi oan của họ, quyết không ký tên lên bản án. Không lâu sau, kẻ trộm thực sự đã bị bắt. Những binh lính tá túc được phán vô tội và thả tự do.

Học viên Pháp Luân công bị vu oan, bị kết án oan, quan chức ĐCSTQ các cấp đặc biệt là bộ công an, viện kiểm soát, tòa án đều biết rõ điều này. Nhưng trước uy quyền và áp lực của phòng 610 và ủy ban tư pháp, các thẩm phán của ĐCSTQ có mấy người dám đứng ra xả thân vì chính nghĩa, có mấy người dám từ chối ký tên lên bản án, thậm chí là từ chối mở phiên tòa?

Đối chiếu, so sánh có thể thấy được văn hóa đảng đã đầu độc con người nặng đến mức nào. Tại sao ĐCSTQ phải thông qua các cuộc vận động để tàn sát, giết hại bao người dân lương thiện? Vì sao phải phản cánh hữu, bức hại thành phần trí thức? Vì sao phải dốc sức phá hủy văn hóa truyền thống? Vì ĐCSTQ không muốn dưới chế độ độc tài của nó lại xuất hiện những quan thanh liêm, quan tốt, xuất hiện những người trí thức dũng cảm, kiên trì chân lý, không muốn trong tâm người dân có sự lương thiện, nó căn bản không muốn xã hội có người tốt. Nó mong muốn mỗi người đều là ma quỷ, đều làm việc xấu, nó muốn trên mặt đất tràn ngập máu tanh, bản chất ma quỷ và tà linh của ĐCSTQ đã bộc lộ rõ, hủy diệt nhân loại mới là mục đích thực sự của nó khi đến thế gian này. Vì thế ĐCSTQ sợ có nhiều người tốt. Thế giới cần Chân-Thiện-Nhẫn, duy chỉ có ĐCSTQ sợ Chân-Thiện-Nhẫn. Đài Loan nơi có chung nguồn gốc với Trung Quốc lại coi việc mở rộng Chân-Thiện-Nhẫn là sự nghiệp công ích to lớn, họ mong muốn người tốt sống theo Chân-Thiện-Nhẫn để ngày càng tốt hơn, nhưng ĐCSTQ đến nay vẫn dùng các thủ đoạn lừa dối, bạo lực để bức hại các học viên Pháp Luân Công, dùng Giả-Ác-Đấu để chống lại Chân-Thiện-Nhẫn, nó vẫn đang lừa dối và đầu độc dân chúng.

Văn nhân Trung Quốc bị tẩy não trong văn hóa đảng đã trở thành tay sai của ĐCSTQ, trở thành đồng lõa của ĐCSTQ. Khói bụi nghiêm trọng đã uy hiếp đến tính mạng và sức khỏe của con người, có chuyên gia nói rằng: Nguyên nhân của khói bụi ở Bắc Kinh là do có quá nhiều xe đạp; nguyên nhân của tình trạng khói bụi nghiêm trọng của chúng ta là mái nhà, mặt đường và lan can quá dày. Khi bị cáo buộc về quá khứ gian dối của ĐCSTQ, chủ nhiệm phòng nghiên cứu lịch sử đảng của trường đảng Trung ương đã nói: Đi theo đảng cộng sản, không giả tạo thì sống làm sao được? Đoàn nghệ thuật Thần Vận với sứ mệnh khôi phục văn hóa truyền thống tinh khiết thuần thiện thuần mỹ, nhưng lại bị ĐCSTQ dùng những văn nhân đăng lời nói xấu, bôi nhọ Thần Vận trên mạng internet, mục đích là ngăn cản mọi người đến xem biểu diễn Thần Vận, ngăn cản mọi người tìm hiểu văn hóa truyền thống chân chính.

Sự trượt dốc và biến chất của giới văn nhân xuất phát từ bản chất tà giáo và bản tính lưu manh của ĐCSTQ. Nếu ĐCSTQ không suy vong thì văn hóa truyền thống sẽ không thể phục hưng, văn nhân của Trung Quốc đại lục sẽ như không có xương sống, nghĩa là không thể gánh được trọng trách khôi phục văn hóa truyền thống 5000 năm huy hoàng của dân tộc Trung Hoa. Đây chính là lúc nhận thức rõ bản chất của ĐCSTQ, rời xa ĐCSTQ, thay đổi sự đối lập giữa quan và dân, trở về với sự hài hòa, thiên nhân hợp nhất.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/156323

The post So sánh văn nhân thời xưa với văn nhân thời nay first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiện ác hữu báo là đạo lý cổ kimhttps://chanhkien.org/2019/01/thien-ac-huu-bao-la-dao-ly-co-kim.htmlThu, 03 Jan 2019 04:44:35 +0000http://chanhkien.org/?p=25521[ChanhKien.org] Vào đầu những năm Khang Hy, gỗ đàn hương rất đắt. Ở quận Tô có một cửa hàng bán hương liệu, trước đó đã dùng ba lượng vàng để thỉnh về một bức tượng Quan Âm làm bằng gỗ đàn hương. Người trong cửa tiệm đó lén bàn với nhau rằng: “Nếu mài bức […]

The post Thiện ác hữu báo là đạo lý cổ kim first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Vào đầu những năm Khang Hy, gỗ đàn hương rất đắt. Ở quận Tô có một cửa hàng bán hương liệu, trước đó đã dùng ba lượng vàng để thỉnh về một bức tượng Quan Âm làm bằng gỗ đàn hương. Người trong cửa tiệm đó lén bàn với nhau rằng: “Nếu mài bức tượng này đi, làm thành gỗ đàn hương thì có thể bán được 16 lượng vàng”.

Thế là họ quyết định phá hủy bức tượng Phật, nhưng có một gia nhân sợ đắc tội với Thần nên ngăn cản việc đó. Lúc đó, con rể của chủ tiệm đến thăm nhạc phụ và muốn đón vợ mình về, đúng lúc anh đang ở nhà nhạc phụ, anh đứng dậy nói với gia nhân đó rằng: “Ngươi là một đầy tớ thì việc gì đến ngươi? Cứ làm theo lệnh là được rồi”.

Đêm hôm đó, con gái của chủ tiệm bị đau bụng nên không thể về nhà, đành phải ở lại nhà của phụ thân đợi khỏi bệnh rồi mới về. Anh con rể cũng đành phải tiếp tục ở lại nhà nhạc phụ.

Ngày hôm sau, có một đứa trẻ sáu tuổi cùng phụ thân đi ngang qua cửa tiệm, đứa bé đột nhiên chỉ vào cửa tiệm và hỏi cha: “Tại sao ngôi nhà kia lại bị dán giấy niêm phong đỏ to như vậy?” Phụ thân đứa bé không nhìn thấy giấy niêm phong đỏ, tưởng rằng con mình nhìn nhầm nên cấm đứa bé nói linh tinh.

Tối hôm đó, cửa hàng hương liệu bị hỏa hoạn, cả gia đình bị thiêu chết. Tuy nhiên, đám cháy lại không hề lan sang những nhà xung quanh.

Người con rể muốn chui ra ngoài qua cái lỗ ở lầu trên, nhưng bị một vật gì đó chắn lại, anh ta kêu la thảm thiết vì không thoát được, cuối cùng bị thiêu sống trong biển lửa. Còn người gia nhân từng ngăn cản phá hoại bức tượng Quan Âm, sáng sớm hôm đó đã được một cửa hàng hương liệu khác một mực nhờ sang làm giúp hai ngày, nên anh không bị thiêu chết.

Chu Thị An viết: “Hủy hoại tượng Phật, làm thân Phật chảy máu sẽ bị đày đến địa ngục vô gián, nếu không khuyên can, sẽ có một ngôi sao xấu giáng xuống, một khi xuất thiện tâm, sẽ có Thần tốt bảo hộ. Người con rể và gia nhân, tâm chỉ có một chút khác biệt, nhưng kết quả lại hoàn toàn khác nhau: người con rể vốn dĩ muốn về nhà, nhưng lại khiến cho anh ta không về được, phải chịu tai ương, người gia nhân không muốn đi, nhưng lại có người cưỡng ép anh ta phải đi, nên tránh được kiếp nạn. Đúng là họa phúc vô môn, tự mình chuốc lấy!” (Trích từ “An Sỹ Toàn Thư” của Chu Tư Nhân thời nhà Thanh).

Thiện ác hữu báo là đạo lý kim cổ. Theo báo cáo từ Minh Huệ, Tiền Lâm, đội trưởng đội an ninh nội địa Mục Dã, thuộc cục Công an thành phố Tân Hương, tỉnh Hà Nam, đã ly hôn, có một đứa con trai sống ở nơi khác không hề qua lại với anh ta. Hơn 10 năm nay, Tiền Lâm đã tích cực theo tập đoàn chính trị lưu manh Giang Trạch Dân để bức hại Pháp Luân Công, anh ta đích thân tham dự, chỉ đạo và lên kế hoạch bức hại các học viên Pháp Luân Công tại địa phương. Anh ta còn tuyên bố rằng mình chưa từng bỏ qua một học viên Pháp Luân Công nào. Ngay cả các học viên Pháp Luân Công cùng ngành anh ta cũng không bỏ qua, đích thân chỉ đạo bắt cóc và bức hại. Một ngày nọ, anh ta hút thuốc ở nhà gây ra hỏa hoạn. Khi anh ta kêu lớn cứu mạng, mọi người đều thờ ơ lãnh đạm. Nhập viện cấp cứu không kịp, anh ta qua đời vào ngày 25/8/2018 tại bệnh viện thứ hai Tân Hương, phải chịu quả báo.

Cũng tương tự như câu chuyện kể trên, đám cháy không làm tổn thương người vô tội, nguyên nhân và kết cục đều giống nhau. Một người hám lợi nhỏ mà hủy hoại tượng Phật, một người tham dục vọng mà bức hại người tu luyện đang đi trên con đường thành Thần, kết cục đều phải chịu quả báo thảm khốc, mất đi mạng sống.

Theo báo cáo trên Minh Huệ, vào ngày 7/9 năm nay, Trương Ngọc Mai, một học viên Pháp Luân Công tại thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, đã bị bắt cóc đến đồn công an huyện Khoan Thành, bị cảnh sát Dương Quang tát vào mặt và đánh đập, khiến cánh tay cô bị bong gân, khám y tế huyết áp lên đến 150/170, đưa đến trạm tạm giam số 4 bị từ chối. Dương Quang tiếp tục tát Trương Ngọc Mai mười mấy cái và hét lên: “Tao tên là Dương Quang, mày đi kiện đi!”.

Mệnh lệnh đàn áp của đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trên bề mặt khiến người ta cảm thấy nó rất độc ác, thực ra nó lại đang hại người, bởi vì thiện ác hữu báo là thiên lý, thuyết vô thần của ĐCSTQ phủ nhận Thần Phật và thiên lý, mục đích là mê hoặc con người khiến người ta không phân biệt được thiện ác, đúng sai, trong vô tri nghe theo ĐCSTQ làm những điều xấu và bị Thần Phật tiêu hủy, từ đó đạt được mục đích hủy diệt nhân loại.

Những người vẫn đang theo sau mật lệnh bức hại của tà đảng Trung cộng, xin đừng vì ích kỷ bản thân, không phân rõ thiện ác mà tiếp tục bức hại Pháp Luân Công. Thật không đáng để lấy thân mình ra thử với thiên lý.

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/246882

The post Thiện ác hữu báo là đạo lý cổ kim first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Học cổ tùy bút: Hữu dũng vô mưu, khó thành đại sựhttps://chanhkien.org/2018/08/hoc-co-tuy-but-huu-dung-vo-muu-kho-thanh-dai-su.htmlTue, 28 Aug 2018 04:03:27 +0000http://chanhkien.org/?p=25392Tác giả: Tuệ Miễn  [ChanhKien.org] Từ xa xưa con người vẫn luôn ca ngợi và tôn sùng lòng dũng cảm. Điểm qua các tác phẩm kinh điển và những ghi chép lịch sử có Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu trong “Tam Quốc Chí”; có Lâm Xung, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm trong “Thuỷ Hử […]

The post Học cổ tùy bút: Hữu dũng vô mưu, khó thành đại sự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tuệ Miễn 

[ChanhKien.org] Từ xa xưa con người vẫn luôn ca ngợi và tôn sùng lòng dũng cảm. Điểm qua các tác phẩm kinh điển và những ghi chép lịch sử có Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu trong “Tam Quốc Chí”; có Lâm Xung, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm trong “Thuỷ Hử Truyện”; trong số mấy chục anh hùng hảo hán trong Tập lục “Thái Bình Quảng Ký”, có Triệu Vân “can đảm, kiên cường”, có Lã Mông “không vào hang cọp sao bắt được cọp”, có Dương Đại Hiệp “dũng khí hiếm có, chạy như bay”, có Tần Quỳnh “phụng mệnh lên ngựa, vác thương mà tiến, xuyên qua vạn người, người ngựa xông pha”, còn có Tiết Nhân Quý “đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi” v.v…

Những tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long, Kim Dung sở dĩ khiến độc giả mê mẩn là bởi các nhà văn đã khắc họa nên những nhân vật anh hùng “dũng cảm quên mình, rút đao tương trợ”, những vị anh hùng này luôn dũng cảm đứng lên phản kháng lũ tham quan ô lại, lũ lưu manh ác bá, liều mình bảo vệ chính nghĩa trong xã hội thối nát không có đạo lý, họ cũng rất coi trọng nghĩa khí, trọng tình cảm, kề vai sát cánh bên bằng hữu, cho dù phải mất đi tính mạng cũng không hối tiếc. Những nhân vật anh hùng như thế luôn là hình tượng mà con người hướng tới và cũng khiến ác đảng, bè lũ xã hội đen phải khiếp sợ.

Tử Lộ là đệ tử của Khổng Tử, ông là người nổi tiếng ngay thẳng và dũng cảm, trong “Luận Ngữ – Công Dã Tràng”, Khổng Tử từng trêu đùa về sự dũng cảm của Tử Lộ (Chu Trọng Do):

Khổng Tử nói: “Nếu chủ trương của ta không thể thực hiện được, người có thể cùng ta ngồi trên bè gỗ nhỏ ra biển khơi chỉ có Trọng Do thôi”. Tử Lộ nghe xong, vô cùng vui mừng.

Khổng Tử nói: “Trọng Do, con dũng cảm hơn ta, nhưng các mặt khác thì thật sự không có mặt nào được cả!”.

Khổng Tử cũng không tán thưởng những người hữu dũng vô mưu, mà luôn tôn sùng người biết kết hợp “trí, nhân, dũng”. Ông cho rằng: “Có ba đạo quân tử: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ” (Luận ngữ – hiến vấn). Khổng Tử xem “trí, nhân, dũng” là thể thống nhất không thể phân tách, người có nhân đức luôn lạc quan vui vẻ, hiểu rõ sự đời mà không có ưu phiền, người thông minh và có trí huệ thì không bị mê hoặc hay dụ dỗ, người dũng cảm thì trong tâm không sợ hãi. Trong ba phẩm chất này thì nhân là trung tâm, trí là trí nhân (có trí tuệ và nhân nghĩa), dũng là hành nhân (có hành động dũng cảm và nhân nghĩa). Vì vậy, “Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân” (Luận ngữ – Hiến vấn). Vì lòng dũng cảm chân chính phải được sinh ra từ lòng nhân nghĩa, do đó người có lòng nhân nghĩa chắc chắn sẽ dũng cảm, còn người dũng cảm chưa chắc đã có nhân nghĩa. Dũng là cái dũng của người nhân nghĩa, là cái dũng của người có mưu trí chứ tuyệt đối không phải là cái dũng của kẻ thất phu (hữu dũng vô mưu).

Về cái dũng của kẻ thất phu và cái dũng của người mưu trí, trong “Luận ngữ – Thuật nhi” có đoạn như sau:

Tử Lộ hỏi: “Nếu bây giờ thầy dẫn ba quân tác chiến, thầy sẽ chọn ai làm trợ thủ?”.

Khổng Tử trả lời: “Tay không mà đánh hổ, chân đất mà qua sông, người chết không hối tiếc, ta không thể cho đi cùng. Phải là người gặp sự việc biết cẩn thận suy nghĩ, giỏi vạch kế hoạch để hoàn thành nhiệm vụ mới có thể đi cùng ta được”. Khổng Tử không muốn cùng thống lĩnh quân đội với người “tay không đánh hổ, chân đất qua sông, chết không hối tiếc”, vì theo ông, loại người này mặc dù coi thường cái chết nhưng hữu dũng vô mưu, dễ mắc sai lầm. “Dũng” là một phẩm hạnh trong phạm trù đạo đức của Khổng Tử, nhưng dũng cảm không phải là ỷ mạnh làm càn, mà là người trí dũng song toàn “Lâm sự mà sợ, hảo mưu mà thành”.

Thời Đông Hán, Ban Siêu làm đặc sứ triều Hán đi sứ sang các nước Tây vực. Đến nước Thiện Thiện, lúc đầu được vua Thiện Thiện đón tiếp rất cung kính, sau đó lại thay đổi thái độ trở nên lạnh nhạt. Ban Siêu biết được nguyên nhân là do đoàn sứ giả của nước Hung Nô tới, liền triệu tập 36 tuỳ tùng tới nói: “Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con. Kế hoạch của ta là phải ra tay trước để chiếm ưu thế, ban đêm dùng hỏa tấn công, tiêu diệt toàn bộ quân Hung Nô, khiến quân Thiện Thiện phải khiếp sợ, đây là đại công cáo thành”. Nửa đêm, Ban Siêu thống lĩnh bộ hạ phi ngựa tới trận địa Hung Nô, sau một trận chiến đấu ác liệt, vua Hung Nô sợ hãi khấu đầu tạ tội, bày tỏ sự phục tùng nhà Hán, về sau nhất định không dám hai lòng. Ban Siêu bằng sự mưu trí và dũng cảm của mình đã thu phục được nước Thiện Thiện, đây mới là lòng dũng cảm chân chính.

Nhà văn Cervantes người Tây Ban Nha nói: “Quá nhát gan là hèn yếu, quá lớn mật là lỗ mãng, dũng cảm là thích hợp”. Người mang tâm hư vinh, tâm hiếu kỳ hoặc là tâm tham lam mà mạo hiểm sinh mệnh lao vào nguy hiểm thì không phải người dũng cảm, dũng cảm khác với trạng thái bị kích động mà bất chấp tất cả, nó là một phẩm chất ổn định lâu dài của con người, giống như cây tùng cây bách không tàn lụi qua mùa đông, bốn mùa đều xanh tốt.

Lòng dũng cảm không phân biệt người già hay trẻ, người truy cầu tiến bộ, truy cầu chân lý, truy cầu chính nghĩa là người dũng cảm; trên chiến trường, người xông pha chiến đấu, dũng cảm quên mình là người dũng cảm; trong sự nghiệp, người mạnh dạn đi đầu, trong khó khăn không ngừng phấn đấu là người dũng cảm; trong quá trình trưởng thành, người kiên cường đấu tranh với những nhân tố gây trở ngại cho tiến bộ và đấu tranh với những dục vọng, quan niệm xấu của bản thân là người dũng cảm.

Lòng dũng cảm không thể hiện ở sức mạnh cơ bắp mà ở đầu não thanh tỉnh.

Nhìn chung, trong cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay, một bên là Donald Trump với tư tưởng thuận theo Thiên lý, hợp lòng dân, ủng hộ nhân nghĩa; bên kia là ác đảng Trung cộng làm trái Thiên lý, trái ý dân, tham ô hủ bại. Người đứng về lẽ phải và nhân nghĩa tất thắng, kẻ tà ác hèn hạ tất bại.


Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245455

 

The post Học cổ tùy bút: Hữu dũng vô mưu, khó thành đại sự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Gặp báo ứng vì bức hại Phật Pháphttps://chanhkien.org/2016/08/gap-bao-ung-vi-buc-hai-phat-phap.htmlThu, 04 Aug 2016 05:06:20 +0000http://chanhkien.org/?p=24828[ChanhKien.org] Một lần, trước bữa ăn, tôn giả Mục Kiền Liên nhìn thấy một ngạ quỷ (con quỷ đói) đáng thương, thân thể nó giống như cây cột bị đốt cháy khét, bụng to như cái trống, cổ họng thì bé như cây kim, miệng khạc ra lửa tự thiêu chính mặt mình. Bất cứ […]

The post Gặp báo ứng vì bức hại Phật Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Một lần, trước bữa ăn, tôn giả Mục Kiền Liên nhìn thấy một ngạ quỷ (con quỷ đói) đáng thương, thân thể nó giống như cây cột bị đốt cháy khét, bụng to như cái trống, cổ họng thì bé như cây kim, miệng khạc ra lửa tự thiêu chính mặt mình. Bất cứ thứ gì đưa đến gần miệng nó đều bị thiêu thành thứ dung dịch nóng chảy. Nó đói khát không chịu nổi, cả ngày gào khóc, hối hả ngược xuôi tìm kiếm đồ ăn. Tôn giả Mục Kiền Liên bèn xin thỉnh giáo Phật Đà: “Xin thầy cho con biết nhân duyên đời trước của tên ngạ quỷ này như thế nào?” Phật Đà kể cho chúng đệ tử nghe một câu chuyện như sau: “Cách đây rất lâu, ở thành Xá Vệ có một người giàu có, anh ta thuê rất nhiều nhân công ép mía lấy nước để bán, công việc làm ăn rất phát đạt. Một lần, một vị Bích Chi Phật đến nhà ông ta xin nước mía. Người này nhìn thấy Bích Chi Phật, trong tâm rất cung kính, đang lúc chuẩn bị bố thí thì có việc gấp cần ra ngoài nên ông đành dặn dò vợ: ‘Nàng thay ta lấy ít nước mía cho Bích Chi Phật nhé’”.

“Người vợ đồng ý, nhưng lúc ép nước mía thì chị ta lại thay đổi suy nghĩ: ‘Có được chút nước mía này thật không dễ, trước giờ chúng ta chẳng dám cho ai. Nếu hôm nay mình bố thí cho ông ta thì sau này chẳng phải sẽ có nhiều người đến xin nữa sao?’ Vậy là bà ta sinh lòng keo kiệt, bèn đổ nước bẩn vào bình bát, sau đó đổ lên trên một ít nước mía rồi đem ra cho Bích Chi Phật. Bích Chi Phật nhận ra được mánh khóe của bà ta bèn đổ nước bẩn trong bát đi.

“Người đàn bà keo kiệt, tham lam này không lâu sau qua đời. Do bất kính với Phật, lừa dối Phật nên bà ta bị đọa vào đường ngạ quỷ, phải chịu đói khát, bị lửa nghiệp thiêu thân. Cuối cùng, Phật nói với chúng đệ tử: ‘Bà ta phải chịu thống khổ suốt 9 vạn năm để hoàn trả nghiệp báo’. Có thể thấy rằng tội bất kính với Thần Phật phải chịu báo ứng đáng sợ đến thế nào!

Văn hóa Trung Hoa 5.000 năm là nền văn hóa Thần truyền, nền văn hóa này đã giáo dục, vun đắp cho con người niềm tin vào thiện ác hữu báo, tinh thần kính Phật trọng Đạo, giúp con người có tâm pháp để ước thúc hành vi, hiểu được niềm vui do thiện báo, nỗi khổ do ác báo. Nhưng cũng có những người không tin, bởi bất kính với Thần Phật nên họ phải chịu ác báo, những câu chuyện về họ cũng được người đời ghi chép lại làm bài học cho thế hệ sau.

Theo Hiện quả tùy lục ghi chép, ở Ma Thành có hai người, một người tín Phật còn người kia lại phỉ báng Phật, họ cùng nhau đọc sách trong điện thờ Địa Tạng Bồ tát. Có một người mang thịt chó đến bán cho họ ăn. Người tín Phật muốn đuổi đi, không cho phép anh ta vào trong điện, còn chạy ra cửa để tránh. Người phỉ báng Phật nói: “Ta chỉ tín phụng Nho giáo, không biết Phật giáo, Đạo giáo là gì”. Thế là anh ta bèn mua thịt chó vào ăn ngay trong điện; lại còn lấy đũa gắp thịt định đưa lên miệng tượng Địa Tạng Bồ tát để trêu đùa. Nhưng vừa mới cầm đũa gắp miếng thịt, anh ta bỗng cảm thấy có ai đó đẩy mình, rồi anh ta ngã ra đất và chết ngay sau đó. Một lúc sau, người trốn ở ngoài cửa cũng chết, anh ta nhìn thấy người phỉ báng Phật kia ở dưới địa ngục phải chịu hàng trăm nhục hình, cổ đeo gông lửa, bị thiêu cháy khắp người. Diêm vương nói với người tín Phật rằng: “Ngươi có thành tâm tín ngưỡng nên không phải đến nơi đây, mục đích ta bảo ngươi đến đây là muốn cho ngươi nhìn thấy người phỉ báng Phật phải chịu khổ như thế nào để về nói cho con người thế gian biết.” Nói xong bèn đưa anh trở lại dương gian, và anh ta lập tức sống lại.

Ngày nay, tại Trung Quốc đại lục, dưới sự đầu độc của văn hóa đảng, nhiều người đã không còn tin vào thiện ác hữu báo nữa, họ chỉ coi trọng lợi ích nhỏ nhoi trước mắt, thậm chí chỉ vì danh, lợi, tình của cá nhân mà không từ thủ đoạn nào, không việc ác nào mà không dám làm. Trong cuộc bức hại Pháp Luân Công, có người bị mê hoặc bởi những lời dối trá của tà đảng Trung Cộng đã dùng những hình thức tàn khốc như tố cáo, bắt bớ, tạm giam, kết án, tra tấn, đánh đập… để bức hại các học viên Pháp Luân Công, khiến cho biết bao học viên Pháp Luân Công bị chết, bị thương, bị tàn phế, phải lưu lạc khắp nơi. Hàng trăm nghìn đệ tử Đại Pháp bị mổ cướp nội tạng sống kiếm lời bất chính, những tội ác động trời này sao có thể không bị báo ứng chứ?

Ngày 02 tháng 05 năm 2016, website Minh Huệ đã đăng tuần báo với tiêu đề “Ác báo lần lượt xảy ra thuận theo Thiên lý”, nội dung kể về những ác báo mà những người tham gia bức hại Pháp Luân Công gặp phải, dưới đây xin trích ra một số trường hợp:

Khương Trung Cần – Chủ nhiệm phòng 610 thành phố Yên Đài, tỉnh Sơn Đông gặp ác báo

Trung tuần tháng 12 năm 2015, chủ nhiệm Phòng 610 thành phố Yên Đài là Khương Trung Cần và vợ là Trương Tấn Hoa bị kết án với tội danh tham ô, nhận hối lộ. Con trai của họ đang ở nước ngoài cũng bị phát lệnh truy nã trên internet. Cơ quan kiểm tra kỷ luật đã tiến hành điều tra Khương Trung Cần từ năm 2014, nhưng dựa vào sự nhanh trí và các mối quan hệ nên hơn một năm qua hắn vẫn ngang nhiên ngoài vòng pháp luật cho đến khi bị bắt. Thiện ác hữu báo, hơn 10 năm qua Khương Trung Cần đã tích cực tham gia bức hại các học viên Pháp Luân Công, và hiện nay đã gặp báo ứng.

Từ năm 2005, trong thời gian Khương Trung Cần đảm nhận chức phó bí thư và phó bí thư ủy ban chính trị pháp luật thành phố Chiếu Viễn, các học viên Pháp Luân Công tại thành phố Chiếu Viễn đã bị bức hại vô cùng nghiêm trọng. Cô Triệu Kim Hoa ở Chiếu Viễn là trường hợp học viên Pháp Luân Công đầu tiên trên cả nước bị đánh đến chết, cái chết của cô có quan hệ trực tiếp tới Khương Trung Cần. Nhờ không nương tay bức hại các học viên Pháp Luân Công nên Khương Trung Cần đã được thăng chức rất nhanh và được làm chủ nhiệm Phòng 610 thành phố Yên Đài.

Các học viên Pháp Luân Công ở Yên Đài đã bị bức hại rất dã man, từ năm 2005 đến năm 2015, tên của Khương Trung Cần luôn có trong danh sách những kẻ ác bức hại Pháp Luân Công.

Phó trưởng phòng tòa án hình sự thành phố Đức Huệ tỉnh Sơn Đông bị ác báo mất mạng

Đổng Huấn Hỷ, 50 tuổi là phó trưởng phòng tòa án hình sự thành phố Đức Huệ tỉnh Sơn Đông. Từng có người có thiện ý nhắc nhở ông ta hãy thiện đãi các học viên Pháp Luân Công nhưng ông ta không nghe. Chỉ vì chức tước và lợi ích trước mắt, ông ta đã nhiều lần tham gia xét xử và kết án phi pháp các học viên Pháp Luân Công. Khoảng năm 2010, ông ta đột nhiên mắc bệnh nặng, xuất hiện nhiều mụn ở chân, ông đã đến bệnh viện ở Trường Xuân và Bắc Kinh để chữa trị nhưng cuối cùng vẫn tử vong.

Vu Tây Bình – Bí thư ủy ban chính trị pháp luật thành phố Phong Phụ, tỉnh An Huy bị bắt

Ngày 20 tháng 12 năm 2015, Vu Tây Bình, bí thư ủy ban chính trị và pháp luật thành phố Phong Phụ bị bắt với tội danh tham nhũng. Từ tháng 07 năm 1999, Vu Tây Bình luôn theo gót Giang Trạch Dân bức hại các đệ tử Đại Pháp tại thành phố Phong Phụ. Các vụ án bức hại học viên Pháp Luân Công tại Phong Phụ đều do Vu Tây Bình chỉ đạo thi hành.

Thực ra, Vu Tây Bình đã chịu quả báo do bức hại các đệ tử Pháp Luân Công.

Lưu Vệ Quốc – phó giám đốc công ty khai thác dầu mỏ Cẩm Châu, Bàn Cẩm tỉnh Liêu Ninh

Lưu Vệ Quốc nguyên là phó giám đốc công ty khai thác dầu mỏ thuộc mỏ dầu Liêu Hà, thành phố Bàn Cẩm, tỉnh Liêu Ninh. Tại đại hội công nhân viên chức, Lưu Vệ Quốc từng tuyên truyền những lời dối trá do Giang Trạch Dân thêu dệt để bức hại Pháp Luân Công, dù đã nhiều lần được nghe các học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng nhưng ông ta vẫn cố chấp với nhận thức của bản thân mình và tin vào những lời dối trá đó. Đầu tháng 02 năm 2012, Lưu Vệ Quốc gặp ác báo bị tai nạn giao thông tử vong, khi đó ông ta mới khoảng 50 tuổi.

Gặp ác báo do thù hận Pháp Luân Công, lăng mạ Sư phụ Đại Pháp

Một người họ Lý ở Nhậm Thành, thành phố Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, do bị đầu độc bởi những lời lừa dối của Giang Trạch Dân nên vẫn luôn thù hận Pháp Luân Công và những người tin vào Chân Thiện Nhẫn, không chịu nghe chân tướng. Mùa thu năm 2015, một học viên Pháp Luân Công nói rõ sự thật cho một người dân trong thôn, kể về việc bản thân mình nhờ tu luyện Pháp Luân Công nên đã 80 tuổi mà sức khỏe vẫn rất tốt, không cần người chăm sóc, người dân trong thôn đều công nhận.

Lúc này người họ Lý đi đến, nghe thấy vậy anh ta liền nói những lời khó nghe lăng mạ Đại Pháp và Sư phụ Đại Pháp, học viên Pháp Luân Công lập tức ngăn anh ta lại và nói: “Anh đừng làm như vậy, làm vậy sẽ không tốt cho anh đâu”. Anh ta không những không nghe lại còn nói: “Tôi cứ chửi đấy, tôi còn chửi cả bà nữa, tôi muốn đánh chết bà đi!”

Ngày 28 tháng 11 năm 2015 âm lịch, người họ Lý này đi tắm ở hồ bơi trong thôn, hồ bơi đến hơn 8 giờ sáng mới mở nhưng anh ta mới 7 giờ 30 đã đến. Quản lý không cho vào nhưng anh ta cứ cố tình xông vào, vậy là chỉ có một mình anh ta tắm. Kết quả là khi người khác vào thì phát hiện anh ta chết dưới hồ.

Từ xưa đến nay, những người thù hận Phật Pháp đều không có kết cục tốt đẹp, đây là do Thiên lý thiện ác hữu báo quyết định, không thể thay đổi theo ý nguyện của bất kỳ người nào hay tổ chức nào. Nhân gian không phải là nơi tà đảng Trung Cộng muốn làm gì thì làm, những tà thuyết méo mó của Trung Cộng tuyệt đối không phải là chân lý.

Làm nhiều việc ác ắt tự hại mình. Tháng 06 năm 2002, tại huyện Bình Đường, tỉnh Quý Châu đã phát hiện một khối đá lớn trên 2,6 triệu năm tuổi. Đây là bản án tử hình đối với kẻ làm nhiều việc xấu xa, đồi bại như ĐCSTQ. Hành động từ bi của các học viên Pháp Luân Công khuyên người thoái khỏi các tổ chức đảng, đoàn, đội của ĐCSTQ chính là trời cao muốn lưu lại cho con người một con đường sống, muốn đi con đường nào thì phải xem lựa chọn của bản thân người đó. Tiếp tục theo Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công thì chỉ có một con đường chết, đến lúc kiếp nạn trời diệt Trung Cộng đến, cũng chính là lúc ác báo xảy ra thì có hối hận cũng đã muộn rồi. Bình tâm lắng nghe chân tướng, tin rằng “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo”, dũng cảm thoái xuất khỏi tổ chức đảng đoàn đội của Trung Cộng, truyền rộng chân tướng, chính là đang lựa chọn cho mình một tương lai xán lạn, tốt đẹp.

Chúng ta nên tích cực tiếp thu những bài học lịch sử, chớ vì nhất thời hồ đồ mà đánh mất đi tương lai của chính mình, khi đánh mất thì đó sẽ là điều đáng tiếc nhất trong suốt cuộc đời.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/02/09/151048.迫害佛法的报应.html

The post Gặp báo ứng vì bức hại Phật Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ôn chuyện xưa ngẫm chuyện nay: Hủy diệt Phật Pháp, bị tru di cửu tộchttps://chanhkien.org/2015/12/on-chuyen-xua-ngam-chuyen-nay-huy-diet-phat-phap-bi-tru-di-cuu-toc.htmlWed, 16 Dec 2015 16:16:42 +0000http://chanhkien.org/?p=24566Tác giả: La Thiện chỉnh lý [ChanhKien.org] Hòa thượng Đàm Thủy, người Quan Trung (phía tây nước Tần xưa, nay là Hàm Cốc Quan, tỉnh Thiểm Tây), từ khi xuất gia có rất nhiều sự tích kỳ lạ. Năm cuối Thái Nguyên triều Đông Tấn (376-396), ông mang theo mấy chục bộ kinh Phật và […]

The post Ôn chuyện xưa ngẫm chuyện nay: Hủy diệt Phật Pháp, bị tru di cửu tộc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: La Thiện chỉnh lý

[ChanhKien.org] Hòa thượng Đàm Thủy, người Quan Trung (phía tây nước Tần xưa, nay là Hàm Cốc Quan, tỉnh Thiểm Tây), từ khi xuất gia có rất nhiều sự tích kỳ lạ. Năm cuối Thái Nguyên triều Đông Tấn (376-396), ông mang theo mấy chục bộ kinh Phật và giới luật đến Liêu Đông (phía đông khu Tân Tân, tỉnh Liêu Ninh ngày nay) để hoằng dương Phật Pháp, giảng dạy Tam thừa, phổ độ chúng tăng, khởi đầu cho việc truyền bá Phật giáo ở cố quốc Cao Câu Lệ. Mãi cho đến những năm đầu Nghĩa Hy (405-418) ông mới trở về Quan Trung, giảng kinh thuyết Pháp ở vùng Trường An.

Đàm Thủy có đôi bàn chân rất trắng, dù đi chân không lặn lội bùn đất nhưng chưa từng bị bẩn, bởi vậy được tiếng khen là “Bạch Túc hòa thượng” (hòa thượng chân trắng). Lúc ấy, một người tên là Vương Hồ ở Trường An có người chú đã mất nhiều năm bỗng nhiên hiển linh, dẫn ông du ngoạn khắp âm tào địa phủ, chứng kiến đủ mọi cảnh tượng nhân quả báo ứng, Vương Hồ kinh hoàng khiếp sợ mà cáo từ. Khi tiễn ông về, chú ông nói: “Con đã thấy được nhân quả báo ứng rồi thì nên trở về phụng dưỡng Bạch Túc hòa thượng.”

Vương Hồ sau khi từ Âm phủ trở về trần gian đã tìm kiếm rất nhiều hòa thượng trong chùa, thấy Đàm Thủy có đôi bàn chân còn trắng hơn cả mặt, liền theo hầu ông.

Vào những năm cuối triều Đông Tấn, Hách Liên Bột Bột, thủ lĩnh bộ tộc Hung Nô, đã đánh chiếm Trường An và giết người cướp bóc không chút kiêng nể gì. Lúc ấy, Đàm Thủy cũng gặp phải nạn binh đao này. Nhưng ông đao thương bất nhập, Hách Liên Bột Bột rất kinh ngạc, bèn hạ lệnh quân sĩ không được cướp phá nhà chùa, giết hại nhà sư. Đàm Thủy từ đó rời chùa đi khất thực đó đây, sống ẩn cư trong thâm sơn cùng cốc.

Về sau Thác Bạt Đào lấy lại Trường An, danh tiếng truyền xa. Lúc ấy, Thôi Hạo được phong làm tể tướng, thời niên thiếu ông ta đã theo học tà đạo nên thù hận chính giáo Phật gia, ỷ vào sự tin cậy của Thác Bạt Đào (Thế Tổ Thái Võ Đế, triều đại Bắc Ngụy năm 408-452), ông ta cùng với Khấu Khiêm Chi đã phỉ báng Phật giáo, gây hại cho dân, xúi bẩy hoàng đế hạ chỉ hủy diệt Phật giáo. Thác Bạt Đào tin theo lời sàm ngôn của Thôi Hạo, năm thứ 7 Thái Bình Chân Quân (năm 446) đã ra lệnh hủy diệt Phật Pháp, phái binh đốt phá chùa chiền, cưỡng ép tăng ni hoàn tục. Ai kháng chỉ bỏ trốn liền bị truy bắt, chém đầu để răn đe dân chúng. Toàn lãnh thổ nước Ngụy không còn bóng dáng tăng nhân nào.

Đàm Thủy sống ẩn cư trong rừng sâu vắng vẻ, ít người lui tới, đến những năm cuối Thái Bình Chân Quân (năm 440-451), ông đoán biết Thác Bạt Đảo thọ mệnh sắp hết, nên vào một đêm tết Nguyên tiêu, ông hiên ngang lẫm liệt chống gậy tích trượng xông vào cửa cung. Quan viên bẩm báo Thác Bạt Đảo: “Tâu bệ hạ, có một hòa thượng đang xông vào trong cung!”

Thác Bạt Đảo hạ lệnh mang Đàm Thủy ra xử tử, nhưng bao nhiêu lần trảm mà Đàm Thủy không hề hấn gì. Nghe quan viên bẩm báo lại, Thác Bạt Đảo rất giận dữ bèn đích thân cầm kiếm đi trảm Đàm Thủy, Đàm Thủy vẫn không xây xát chút nào, chỗ da bị kiếm chém chỉ để lại một vết hằn mỏng như đường chỉ.

Lúc ấy, trong cung Bắc Viện có nuôi một con mãnh hổ trong chuồng, Thác Bạt Đảo hạ chỉ: “Đem Đàm Thủy ra cho hổ ăn thịt!” Không ngờ, con hổ kia nhìn thấy Đàm Thủy thì phủ phục không dám tới gần; nhưng lúc Khấu Khiêm Chi tới gần chuồng, con hổ liền gầm thét không ngớt. Thác Bạt Đảo rốt cục đã hiểu ra Phật Pháp cao hơn thường nhân, vội cung thỉnh Đàm Thủy lên điện, dập đầu quỳ lạy ông để bày tỏ sự ăn năn hối lỗi.

Đàm Thủy giảng kinh thuyết Pháp về luật nhân quả báo ứng, Thác Bạt Đảo nghe xong vừa cảm kích vừa xấu hổ, sợ hãi. Không lâu sau, Thác Bạt Đảo mắc bệnh nan y. Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi (hai kẻ trước kia đã xui khiến hoàng đế hạ chỉ hủy diệt Phật giáo) cũng lần lượt mắc bệnh nan y. Thác Bạt Đảo cho rằng hai kẻ này đã gây ra tội ác hủy diệt Phật giáo, liền ra lệnh giết hai kẻ phạm tội, tịch thu tài sản, chu di cửu tộc, đồng thời hạ chỉ lập tức phục hưng Phật giáo trong cả nước.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2014/01/22/126507.酌古鉴今:毁灭佛法者,被灭九族!.html

The post Ôn chuyện xưa ngẫm chuyện nay: Hủy diệt Phật Pháp, bị tru di cửu tộc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian”https://chanhkien.org/2015/06/vu-tru-la-vo-han-ve-ca-khong-gian-va-thoi-gian.htmlMon, 01 Jun 2015 07:36:06 +0000http://chanhkien.org/?p=24156Tác giả: Sử Kha (chỉnh lý) [ChanhKien.org] Tiểu sử của Trương Hành Trương Hành (Nguồn: Internet) Trương Hành, tự là Bình Tử, sinh ra ở quận Nam Dương, huyện Tây Ngạc, trấn Thạch Kiều (nay là thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, cách Thành Bắc 25 km), vào năm thứ ba Chương Đế Kiến […]

The post “Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sử Kha (chỉnh lý)

[ChanhKien.org]

Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Tiểu sử của Trương Hành

0012ZhangHeng6539w

Trương Hành (Nguồn: Internet)

Trương Hành, tự là Bình Tử, sinh ra ở quận Nam Dương, huyện Tây Ngạc, trấn Thạch Kiều (nay là thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, cách Thành Bắc 25 km), vào năm thứ ba Chương Đế Kiến Sơ tại vị (tức năm 78 SCN). Năm 16 tuổi, ông rời quê hương đi du học vòng quanh Trung Quốc. Ông đã gặp rất nhiều học giả nổi tiếng. Một lần ông đến Trường An, kinh đô cũ của triều Hán. Ở đó, ông đã đến thăm các danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử địa phương, và nghiên cứu địa hình, các sản vật, phong tục và nhân tình thế thái ở vùng núi xung quanh. Sau đó, ông đã đến Lạc Dương, thủ đô của Đông Hán, và theo học tại Đại học, trường học cao nhất ở đó.

Trương Hành cũng đặc biệt yêu thích văn học. Ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm văn học với nhiều phong cách khác nhau, đáng chú ý gồm có Quy điền phú, Nhị kinh phú, Tứ sầu thi, Đồng thanh ca. Vào năm thứ tư An Đế Vĩnh Sơ tại vị (tức năm 111 SCN), Trương Hành theo lệnh tiến kinh, nhậm các chức Lang Trung, Thái Sử Lệnh, chức quan nhỏ Công Xa Tư Mã Lệnh, rồi đến cấp quan bậc trung. Trong đó thời gian đảm nhận chức Thái Sử Lệnh là dài nhất, được 14 năm. Thái Sử Lệnh là quan viên phụ trách các sự vụ như quan trắc thiên tượng, biên soạn hiệu đính lịch, dự báo thời tiết, và tổ chức các nghiên cứu về thời tiết và khí trời. Trong khoảng thời gian đảm đương chức vụ này, ông đã tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ về lịch thiên văn, và đã có nhiều cống hiến vô cùng to lớn.

Theo kiến thức và quan sát thực tế của ông về quy luật vận hành của các thiên thể, Trương Hành đã tạo ra bộ máy “Hỗn thiên nghi”, diễn tả chính xác quy luật vận hành của các tinh cầu và thuyết Hỗn Thiên (cho rằng trời giống như một cái vỏ trứng gà, đất như lòng đỏ trứng gà). Ông tinh thông thiên văn và lịch toán. Ông đã viết rất nhiều sách về thiên văn học, trong đó có Linh hiến, Linh hiến đồHỗn Thiên nghi đồ chú là các trứ tác về thiên văn học. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu cho những người theo thuyết Hỗn Thiên trong thời kỳ Đông Hán.

Linh hiến – Thiên văn học trứ tác

Linh hiến là tác phẩm nổi tiếng nhất trong những cuốn sách của Trương Hành. Đó là một cuốn sách thiên văn học mô tả sự phát triển và vận động của thiên, địa, nhật, nguyệt và các ngôi sao. Trong Linh hiến, Trương Hành nói rằng: các chiều không gian mà chúng ta có thể quan sát được là có giới hạn, còn những chiều không gian mà chúng ta không thể thấy được thì vô cùng vô tận. Tác phẩm của ông đề xuất một cách rõ ràng lý thuyết rằng vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian.

Trong Linh hiến, Trương Hành chỉ ra rằng Mặt Trăng tự nó không thể phát sáng mà là nhờ phản chiếu lại ánh sáng của Mặt Trời. Ông cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng giống như nước với lửa. Lửa có thể phát ra ánh sáng và nước thì có thể phản chiếu ánh sáng. Ông chỉ ra rằng ánh sáng Mặt Trăng tỏa ra là do chiếu xạ ánh sáng Mặt Trời, và vào ban ngày không nhìn thấy được ánh trăng, là vì lúc đó nó bị ánh sáng Mặt Trời áp đảo. Đồng thời ông cũng giải thích về nguyên nhân xuất hiện nguyệt thực. Ông tin rằng khi trăng tròn, chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ mặt trăng; nhưng sẽ có lúc chúng ta không thể, đó là khi Trái Đất được mặt trời chiếu sáng, ông gọi bóng của Trái Đất là “Ám hư” và khi Mặt Trăng đi qua vị trí của “Ám hư”, hiện tượng nguyệt thực sẽ xảy ra. Lý giải của ông về nguyên lý của nguyệt thực rất sâu sắc.

Ngoài ra, trong Linh hiến, Trương Hành cũng tính toán đường kính góc của Mặt Trời và Mặt Trăng, và ghi chép lại 2.500 ngôi sao mà ông quan sát thấy trong thời gian ở Lạc Dương, các tính toán này rất gần với kết quả của các nhà thiên văn học hiện đại. Trong một cuốn sách thiên văn học khác tên là Hỗn thiên nghi đồ chú, ông đã đo được một năm Mặt Trời là “365 độ và một phần tư”, rất giống với con số mà các nhà thiên văn hiện đại tính toán được là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút và 46 giây.

Trong Linh hiến, Trương Hành sử dụng một số thuật ngữ hiện đại như đường xích đạo, hình e-lip, Nam Cực và Bắc Cực. Ông cũng là người đầu tiên vẽ hoàn chỉnh biểu đồ sao ở Trung Quốc, trong đó có 2.500 vì tinh tú. Theo Trương Hành: “Có 124 ngôi sao luôn phát sáng và 320 ngôi sao có tên. Tổng số các sao là 2.500, vẫn còn một số ngôi sao chưa được liệt kê vào đây.” Biểu đồ sao mà Trương Hành thực hiện không chỉ vượt qua rất nhiều những người tiền nhiệm trước đó, mà còn là biểu đồ hàng đầu trong một thời gian dài sau đó. Trong giai đoạn cuối triều Hán, Trung Quốc rơi vào hỗn loạn và biểu đồ sao của Trương Hành đã bị thất lạc. Vào đầu triều Tấn, biểu đồ sao Trương Hành chỉ còn 1.464 ngôi sao, trong đó chỉ có một nửa số ngôi sao được sắp xếp bởi Trương Hành. Phải đến thời Khang Hy Hoàng đế của triều Thanh, một biểu đồ sao phức tạp hơn đã được tạo ra nhờ sử dụng một kính viễn vọng, và biểu đồ lần này bao gồm hơn 3.000 ngôi sao.

Hỗn thiên nghiHậu phong địa động nghi

f3aeb1e0-9f0d-4a2f-b6b7-32452704ca82
Hỗn thiên nghi (nhà Minh)

Vào năm 117 SCN, Trương Hành đã chế tạo ra máy định vị thiên thể Hỗn thiên nghi đầu tiên trên thế giới và nó được điều khiển bởi các bánh răng bằng đồng. Hỗn thiên nghi có một quả cầu bên ngoài và một quả cầu bên trong, cả hai quả cầu đều quay. Trên bề mặt được chạm khắc Nam Cực, Bắc Cực, đường xích đạo, hoàng đạo, 24 tiết khí, Mặt Trời, Mặt Trăng, và các tinh tú. Các vị trí của Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, cũng như trạng thái của quỹ đạo của chúng tương ứng với vị trí thực tế trong vũ trụ.

Vào năm 132 SCN, Trương Hành phát minh ra Hậu Phong địa động nghi, được làm bằng đồng tinh luyện, có hình một nồi rượu. Trên bề mặt có tám con rồng. Đầu của mỗi con rồng nhìn ra tám hướng đông, nam, tây, bắc, đông bắc, đông nam, tây bắc và tây nam. Mỗi con rồng ngậm một quả bóng đồng và có một con ếch ngồi dưới đầu của nó. Khi một trận động đất xảy ra, miệng của rồng ở hướng của trận động đất sẽ tự động mở ra, và quả bóng đồng sẽ rơi vào miệng của con ếch tương ứng, ngay lập tức các nhân viên sẽ ghi lại thời gian và phương hướng của trận động đất. Năm 138 SCN, chiếc máy địa chấn này đã phát hiện chính xác một trận động đất xảy ra ở Lũng Tây. Địa động nghi mà Trương Hành phát minh ra là bộ máy đầu tiên trên thế giới có khả năng đo được hướng của một trận động đất, và nó đã có từ 1.700 năm trước khi máy địa chấn châu Âu được phát minh.

ZhangHengSeismograph6533crw

Địa động nghi của Trương Hành

Trương Hành cũng phát minh ra máy đo quãng đường có thể gõ một tiếng trống sau khi xe đi được một (0,5 km), cơ cấu la bàn có kim luôn chỉ về hướng Nam, đồng hồ Mặt Trời của Trung Quốc cổ đại để đo vị trí của Mặt Trời, một con chim gỗ bay, và nhiều thứ khác nữa. Ông cũng ước tính pi là căn bậc hai của 10, ông đã viết hơn 30 cuốn sách về thiên văn học lẫn văn học và có nhiều đóng góp to lớn trong lịch pháp, toán học, văn học và nghệ thuật.

Dịch từ: http://pureinsight.org/node/1045

The post “Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Hiên Viên Hoàng Đếhttps://chanhkien.org/2015/05/hien-vien-hoang-de.htmlWed, 20 May 2015 15:35:56 +0000http://chanhkien.org/?p=24143Tác giả: Hành Kiện [ChanhKien.org] Hoàng Đế, họ Công Tôn, tên Hiên Viên, hiệu Hữu Hùng, khoảng 5000 năm trước ông sinh ra tại Giáng Long Hiệp, Tự Nguyên Quan, vùng ven sông Tự Thủy (một nhánh của lưu vực sông Trường Giang) trên cao nguyên Hoàng Thổ thuộc vùng tây bắc Trung Hoa, vào […]

The post Hiên Viên Hoàng Đế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hành Kiện

[ChanhKien.org] Hoàng Đế, họ Công Tôn, tên Hiên Viên, hiệu Hữu Hùng, khoảng 5000 năm trước ông sinh ra tại Giáng Long Hiệp, Tự Nguyên Quan, vùng ven sông Tự Thủy (một nhánh của lưu vực sông Trường Giang) trên cao nguyên Hoàng Thổ thuộc vùng tây bắc Trung Hoa, vào khoảng mùng 02 tháng 02 âm lịch. Từ đó có câu nói trong dân gian về sự may mắn: “mùng 02 tháng 02, rồng ngẩng đầu”.

Trong lịch sử văn minh cổ đại có ghi chép về Tam hoàng Ngũ đế, Hoàng Đế là một trong ba vị Tam hoàng, cũng là vị đứng đầu trong Ngũ đế. Nói về sau thời Viêm Đế, Hoàng Đế khởi binh dẹp loạn, lấy đức bình trị thiên hạ, cuộc dã chiến với Xi Vưu tộc Cửu Lê trong trận Trác Lộc, cuộc chiến với Viêm Đế trong trận Phản Tuyền, đã kết thúc cuộc chiến tranh thời viễn cổ.

711262052091616

Hoàng Đế

Hoàng Đế định đô tại Hữu Hùng, hết lòng vì sự phồn vinh và phát triển của các bộ tộc. Ông tuyển chọn hiền tài, lập ra các chức quan, cai trị đất nước, phân chia bờ cõi, phân chia ruộng đất, dạy người dân trồng ngũ cốc và rau quả theo mùa, thuần dưỡng vật nuôi. Hoàng Đế và quan thần của ông có rất nhiều phát minh. Tương truyền ông chỉ thị cho Đại Nạo chế định ra thiên can địa chi, dùng để tính toán ngày tháng năm, từ đó mà Trung Quốc có cách tính ngày tháng năm, và được gọi là “Hoàng Đế lịch” hay “Hoàng lịch”, sau này có câu thơ: “Viêm quốc tang bảo, Hoàng lịch khai duệ” (Nước Viêm mất đi bảo vật, Hoàng lịch mở ra sự sáng suốt).

Hoàng Đế chỉ thị Dung Thành chế tác Cái Thiên (thiết bị định vị thiên thể) dùng để quan sát thiên tượng; chỉ thị Hy Hòa quan sát sự vận hành của mặt trời, Thường Nghi quan sát sự vận hành của mặt trăng, Du Khu quan sát sự vận hành của các tinh tú; chỉ thị cho Lệ Thủ làm toán số, chế định ra đơn vị đo, dùng để tính toán sự nặng nhẹ, dài ngắn, nhiều ít của các vật; chỉ thị cho Thương Hiệt tạo ra chữ tượng hình; sai Ninh Phong làm chức Đào Chính, chế tạo nồi chảo, chõ, bát, đĩa, hoàn thiện hơn các dụng cụ nấu nướng và ăn uống của người dân; chỉ thị Xích Tương làm Mộc Chính, Cộng Cổ, Hoa Hồ khoét gỗ làm thuyền, vót gỗ làm mái chèo, Ấp Di làm xe lớn, Huy làm cung, Di Mưu làm tên, Ưng Phụ làm chày cối; chỉ thị Linh Luân định ra các âm luật, cắt các ống trúc thành 12 đoạn dài ngắn khác nhau, theo mức độ cao thấp, trong đục của âm thanh mà phân ra thành 12 thang âm khác nhau, và tạo ra các loại nhạc khí đánh lên các âm thanh đó; sai Vinh Viên đúc 12 chuông, để hòa ngũ âm; chỉ thị nguyên phi Lụy Tổ dạy người dân nuôi tằm nhả tơ, làm nguyên liệu may quần áo; Bá Dư làm xiêm y và giày.

8007708557

Cái Thiên thời Đông Hán, sau này còn được Trương Hành cải tiến lại. (Ảnh tham khảo. Cái Thiên thời Hoàng Đế không được lưu lại hình ảnh. Nguồn: Internet)

Hoàng Đế làm mũ miện chuỗi ngọc thõng xuống, bông tơ khắp mũ, định ra áo màu đen váy quần màu vàng, từ đó làm ra áo và mũ dùng khi tế lễ của vua. Xây dựng cung thất để tránh nắng và tránh rét. Ông cùng Kỳ Bá, Lôi Công bàn luận về y dược. Chỉ thị cho Du Phụ, Kỳ Bá, Lôi Công quan sát minh đường (một thuật ngữ trong phong thủy), nghiên cứu tức mạch (mạch hơi thở); Vu Bành, Đồng Quân nghiên cứu thuốc để phòng ngừa bệnh tật.

Thời Hoàng Đế đã phát minh, sáng tạo ra rất nhiều thành tựu huy hoàng và to lớn, đưa nền văn minh cổ đại Trung Quốc lên vị trí hàng đầu thế giới, vì thế mà ông được tôn làm tổ tiên của dân tộc Trung Hoa. Những năm cuối đời, Hoàng Đế thu xếp mọi việc trong thiên hạ, cuối cùng vào núi tu đạo, sau khi tu thành đạo, có rồng vàng râu dài rủ xuống đến đón ông lên trời. Thời đầu Đạo giáo xưng là Hoàng Lão Đạo, tức Hoàng Đế và Lão Tử cùng là tổ sư của Đạo giáo. Thời kỳ Hoàng Đế là thời kỳ người và Thần cùng tồn tại. Thần không chỉ đem tới nền văn minh cần thiết cho sự sinh tồn của nhân loại một cách có hệ thống, mà còn bước đầu làm phong phú và quy chính tư tưởng của con người, cũng là đặt định ra cơ sở để hôm nay Đại Pháp hồng truyền.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2002/05/30/16255.轩辕黄帝.html

The post Hiên Viên Hoàng Đế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một nghìn năm trước, Trung Quốc dẫn đầu thế giớihttps://chanhkien.org/2014/09/mot-nghin-nam-truoc-trung-quoc-dan-dau-the-gioi.htmlWed, 17 Sep 2014 09:44:56 +0000http://chanhkien.org/?p=23180Hơn một nghìn năm trước, khi khuất ánh mặt trời, các thành phố trên thế giới chìm trong bóng tối, chỉ có những thành phố ở Trung Quốc là tràn đầy ánh sáng và sự lộng lẫy.

The post Một nghìn năm trước, Trung Quốc dẫn đầu thế giới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cảnh tượng náo nhiệt ở chợ Tây thành Trường An thời cổ đại.

Cảnh tượng náo nhiệt ở chợ Tây thành Trường An thời cổ đại.

[Chanhkien.org] Hơn một nghìn năm trước, khi khuất ánh mặt trời, các thành phố trên thế giới chìm trong bóng tối, chỉ có những thành phố ở Trung Quốc là tràn đầy ánh sáng và sự lộng lẫy. Hơn một nghìn năm trước, vào ban đêm, các thành phố trên thế giới đều yên ắng, chỉ có những thành phố ở Trung Quốc là đi lại đông đúc, đầy tiếng cười nói và hát hò.

Một nghìn năm trước, khoảng cách giữa Trung Quốc và thế giới như thế nào?

Hơn một nghìn năm trước, trên thế giới chỉ duy nhất Trung Quốc là có các siêu đô thị mà dân số đạt hơn một triệu người. Vào thế kỷ thứ 11, quy mô của các thành phố lớn nhất ở Châu Âu như thành phố London (Anh), Paris (Pháp), Venice và Florence (Ý), cùng các thành phố khác là không quá một vạn người. Trong khi thủ đô của Trung Quốc có tới hơn 1.500.000 người. Một nghìn năm trước, tại Trung Quốc, có 6 thành phố mà dân số lớn hơn 200.000 người và 46 thành phố có số dân vượt quá 100.000 người.

Một nghìn năm trước, các thành phố ở Trung Quốc đã có Cục Thi Dược (Cục thực hành thuốc), Cục Từ Ấu (Cục yêu thương trẻ em), Viện Dưỡng Tế (Viện nuôi dưỡng người cơ nhỡ), các công trình phúc lợi như công viên Lậu Trạch, đó là những tính năng của một thành phố tiên tiến hiện đại. Cùng thời điểm đó, tình hình ở Châu Âu rất loạn lạc, nghèo khó và lạc hậu; Châu Mỹ còn chưa khai phá, Châu Phi còn rất nguyên thủy.

Một nghìn năm trước, khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước khác trên thế giới lớn như thế nào? Một nghìn năm trước, khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước khác trên thế giới là không nhỏ, không phải gấp đôi mà là hàng chục lần. Một nghìn năm trước, Trung Quốc đã vượt xa phần còn lại của thế giới.

Vào thế kỷ 13, ngoại trừ Trung Quốc, thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất trên thế giới là Baghdad, có khoảng 300.000-500.000 người. Thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất ở phương Tây lúc bấy giờ là Venice, chỉ có 100.000 người. Châu Âu vào thế kỷ 14, chỉ có 40.000 người ở London, 60.000 người ở Paris. Trung Quốc vào thế kỷ 13, các thành phố như Hàng Châu, Tô Châu, Thành Đô là hơn một triệu người.

Một nghìn năm trước, khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước khác trên thế giới lớn như thế nào? Vào thế kỷ 13, nơi giàu có nhất của Châu Âu là Venice của Ý. Người Venice đã đi đến Tuyền Châu, Trung Quốc và không khỏi bất ngờ khi thấy Tuyền Châu là thành phố của ánh sáng. Vào thế kỷ 13, một người ở thành phố Venice thuộc vương quốc Ý – nơi giàu có nhất Châu Âu – đã được may mắn đi đến Hàng Châu, Trung Quốc và ông không khỏi ngỡ ngàng trước một thành phố đẹp như thiên đường. Hàng Châu là thành phố đẹp nhất thế giới thời bấy giờ.

Hơn một nghìn năm trước, những triều đại của Trung Quốc đã tập trung phát triển mạnh về hàng hải. Khi đó, người Venice của Ý đều thán phục những lái buôn Trung Quốc đến Tây phương, họ kể rằng: “Những con tàu của Trung Quốc là to lớn nhất, mọi người thử tưởng tượng những con tàu có 6 tầng cột buồm, 12 cánh buồm lớn, 4 tầng sàn, có sức chứa hơn 1.000 người. Những con thuyền ấy được đóng rất chính xác, bản đồ tuyến đường đi rất kỳ diệu, chứng tỏ họ có những kiến thức về hình học cũng như những hiểu biết về chiêm tinh học rất tốt; với tài năng của mình, họ đã khéo léo sử dụng đá nam châm để làm la bàn; qua đó, họ có thể tìm được những con đường đến nhiều vùng đất khác nhau trên thế giới. Họ như được sự ủng hộ và giúp đỡ của Thượng Đế vậy”.

Hơn một nghìn năm trước, người Ý thích món mỳ nổi tiếng của Trung Quốc, vì vậy họ đã tạo ra món Spaghetti nổi tiếng ngày nay. Không chỉ vậy, người Ý còn thích món kem của Trung Quốc, vì vậy bây giờ họ tưởng rằng họ đã phát minh ra kem. Một nghìn năm trước chúng đã có ở Trung Quốc, người Trung Quốc đã đi khắp nơi trên thế giới, những điều ấy hôm nay liệu ai biết được?

Thành Hàng Châu thời Trung Quốc cổ đại.

Thành Hàng Châu thời Trung Quốc cổ đại.

Một nghìn năm trước, Trung Quốc dẫn đầu thế giới

Hơn một nghìn năm trước, sản lượng thép trong ngành công nghiệp ở phía Bắc Trung Quốc đạt sản lượng 1,25 triệu tấn mỗi năm, đó là những khái niệm gì? Vào năm 1788 trước cách mạng Tân Hợi, ngành công nghiệp của Châu Âu vừa bắt đầu, với sản lượng thép của Anh mới chỉ đạt 76.000 tấn. Một nghìn năm trước, khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước khác trên thế giới không phải là một chút mà là hàng chục lần. Một nghìn năm trước, ngành công nghiệp Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới.

Vào thế kỷ 11, Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng tiền giấy, nhưng tận tới thế kỷ 17 người Châu Âu mới bắt đầu sử dụng tiền giấy. Năm 1661 sau Công Nguyên, những ngân hàng của Thụy Điển bắt đầu phát hành tiền giấy và trở thành đất nước đầu tiên ở Châu Âu sử dụng tiền giấy. Hơn một nghìn năm trước, giá trị tiền tệ của Trung Quốc đã cao hơn nhiều những đồng Đô-la hay đồng Euro ngày nay.

Hơn một nghìn năm trước, người Trung Quốc đã buôn bán kinh doanh đứng đầu thế giới. Người dân triều Tống đã biết dùng đất sét (đất nung) để làm ra những đồ gốm sứ và vật dụng sinh hoạt, ngoài ra họ còn làm ra rất nhiều đồ trang sức bằng vàng bạc. Hơn một nghìn năm trước, người Trung Quốc đã biết trao đổi công nghệ cao để lấy những nguồn vật liệu tài nguyên. Và hơn một nghìn năm sau, người Trung Quốc lại bán sức lao động giá rẻ và tài nguyên để tồn tại. Hơn một nghìn năm trước, người Trung Quốc rất có giá trị, thợ thủ công Trung Quốc là những người có tài năng và được ví như kho báu của thế giới. Hơn một nghìn năm trước, người Trung Quốc đã dùng khoa học kỹ thuật cao để kiếm tiền; nhưng một nghìn năm sau, Trung Quốc lại dựa vào lao động giá rẻ để kiếm tiền.

Một nghìn năm trước, người dân Trung Quốc rất tự hào khi nói rằng: “Tôi rất hạnh phúc vì tôi là con người, không phải là động vật; tôi là một người đàn ông, không phải một người phụ nữ; tôi là người Trung Quốc, không phải kẻ man rợ; tôi rất hạnh phúc bởi vì tôi sống trong thành phố tuyệt vời nhất, thành phố Lạc Dương”.

Một nghìn năm trước, Trung Quốc đã thoát khỏi sự lệ thuộc vào các tôn giáo của ngoại bang. Một nghìn năm trước, các tôn giáo do Trung Quốc sản sinh như Nho giáo, Đạo giáo đã tỏa ánh hào quang, mãi mãi áp chế ngoại quốc; đây là biểu hiện niềm tự tôn dân tộc của một quốc gia cường đại về văn hóa.

Một nghìn năm trước, sản xuất nông nghiệp, thương mại, chế tạo, thủ công mỹ nghệ, vui chơi giải trí ở Trung Quốc là phát triển nhất thế giới; các ngành công nghiệp, kiến trúc và dịch vụ đều đứng đầu thế giới. Một nghìn năm trước, Trung Quốc dẫn đầu thế giới về mọi mặt. Một nghìn năm trước, Trung Quốc là trung tâm của thế giới, xứng với danh xưng “Trung Quốc”. Một nghìn năm trước, kinh tế, chính trị, khoa học, công nghệ, văn hóa, giải trí, học thuật, toán học, thậm chí cả quân sự của Trung Quốc cũng phát triển nhất thế giới.

Một nghìn năm sau, người phương Tây nói: “Một nghìn năm trước, GDP của Trung Quốc chiếm tới 80% GDP của toàn thế giới.” Một nghìn năm sau, người Trung Quốc kinh ngạc hỏi: “Liệu có thể như vậy sao?” Một nghìn năm trước, Trung Quốc và thế giới có khoảng cách lớn ngần nào? Điều này có đáng để chúng ta suy ngẫm không?

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/20623

The post Một nghìn năm trước, Trung Quốc dẫn đầu thế giới first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ghi chép về rồng trong sách cổ: Thần long hộ Pháphttps://chanhkien.org/2014/07/ghi-chep-ve-rong-trong-sach-co-than-long-ho-phap.htmlThu, 17 Jul 2014 03:03:24 +0000http://chanhkien.org/?p=22063Thời Nam Tống ở Trung Quốc có một vị hòa thượng tên là Phổ Am, là một vị cao tăng đắc Đạo, hậu thế tôn xưng ông là "Phổ Am tổ sư".

The post Ghi chép về rồng trong sách cổ: Thần long hộ Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Minh Tâm chỉnh lý

[Chanhkien.org] Thời Nam Tống ở Trung Quốc có một vị hòa thượng tên là Phổ Am, là một vị cao tăng đắc Đạo, hậu thế tôn xưng ông là “Phổ Am tổ sư”.

Có một lần, năm Thiệu Hưng thứ 26 (năm 1156 SCN), Pháp hội tổ chức vào tháng Bảy, do lúc bình thường tín chúng thụ ích rất nhiều, nên trong chùa hương khói không ngớt. Bấy giờ một số đạo sĩ trong lòng đố kỵ, mật báo với phủ tổng đốc, nói rằng Phổ Am là yêu tăng, mê hoặc tín chúng; tổng đốc đại nhân nghe vậy bèn phái tuần tư dẫn mấy trăm sai nha đi lùng bắt Phổ Am. Khi đoàn người ngựa ùn ùn kéo đến tòa Phật tự, lúc chỉ cách ngôi chùa có mấy dặm, thì đột nhiên trời giáng mưa phùn, rồi bỗng chốc mây đen kéo đến.

Lúc này chỉ thấy trên trời xuất hiện một con rồng lớn dài mấy dặm, trên đầu có sừng, hiển ánh hào quang, bay lượn giữa tầng mây. Đoàn người lùng bắt Phổ Am thấy vậy kinh hoàng sợ hãi, chấn động không thôi, sau đó quan tuần kiểm quỳ dưới đất dập đầu sám hối, thì lập tức rồng biến mất, mưa cũng ngừng rơi. Vậy là đoàn nhân mã quay trở lại phủ tổng đốc, quan tuần kiểm trình báo với tổng đốc đại nhân rằng: “Phổ Am đại sư chính là thánh tăng, không phải yêu tăng!”

Người tu luyện chân chính đều có Thiên long bát bộ hộ Pháp, cho dù viện lý do gì, thì bức hại người tu luyện đều là có tội. Thần long hộ Pháp xuất hiện trên mây, cũng là cảnh cáo người đời không được tin lời lừa dối để bức hại người tu luyện, nếu không chính là phạm tội.

Tiếc rằng người ta không chịu tiếp thu bài học giáo huấn xưa. Ngày nay, rất nhiều người Trung Quốc bị lời bịa đặt của Giang Trạch Dân lừa dối, bức hại các học viên Pháp Luân Công, rất nhiều người đã chịu ác báo, thật đáng thương đáng tiếc thay!

(Tư liệu gốc: “Phổ Am truyện”)

Xem thêm:

>> Bí ẩn về loài rồng

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/28365

The post Ghi chép về rồng trong sách cổ: Thần long hộ Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèohttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-te-cong-xe-quat-giup-nguoi-ngheo.htmlhttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-te-cong-xe-quat-giup-nguoi-ngheo.html#respondThu, 26 Jun 2014 01:42:26 +0000http://chanhkien.org/?p=21646Vào triều Tống, trong thành Hàng Châu có một ngõ gọi là "ngõ quạt", rất nổi tiếng.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trịnh Niệm Hành

[Chanhkien.org] Vào triều Tống, trong thành Hàng Châu có một ngõ gọi là “ngõ quạt”, rất nổi tiếng. Tên này đến từ đâu? Nguyên là câu chuyện Tế Công xé quạt giúp người nghèo bắt đầu tại nơi đây.

Ngõ quạt này, vốn là một ngõ nhỏ vô danh, trong ngõ toàn là dân nghèo sinh sống. Trong đó có một cặp vợ chồng già, tuổi đều đã ngoài sáu mươi, lấy đan quạt, sửa quạt, bán quạt làm nghề mưu sinh. Thời trẻ tay nghề tinh thông, sức khỏe dồi dào, quạt làm ra đem lên chợ bán, sống ngày qua ngày. Tuy nhiên hiện giờ tuổi già sức yếu, sau không bằng trước, làm không đủ ăn, hai cái miệng già chịu đói, xem chừng sống không nổi nữa rồi.

Một hôm, trời đã quá trưa mà hai cụ già vẫn không có gạo cho vào nồi, bếp lò nguội ngắt. Cụ bà ngồi bên bếp lò, mơ màng sắp ngủ, còn cụ ông tựa vào khung cửa, vừa định chợp mắt.

Lúc này, một hòa thượng điên điên rồ rồ vừa đến trước cửa, ngó nhìn vào nhà, than thở một tiếng, lại nhìn cụ già ngồi tựa cửa, tâm đầy thông cảm. Hòa thượng giơ tay lên, thấy chiếc quạt trong tay, bỗng nhiên mắt sáng lên, trong tâm đã có chủ ý.

Hòa thượng dùng quạt quạt vào đầu cụ già một cái. Cụ già giật mình, dụi mắt nhìn thấy một hòa thượng điên đứng trước mặt, mới hỏi: “Sư phụ có việc gì không?”

“Ta cần sửa quạt!” Nói rồi giơ cây quạt trước mặt cụ già.

“Được, được, mời vào nhà!” Cụ già thấy có kế làm ăn, trong lòng cao hứng, vội vàng dẫn người vào nhà.

Tế Công nhấc chân bước vào nhà, ném chiếc quạt lên bàn, nói: “Sửa mau đi, đợi một lát nữa ta tới lấy!” Nói xong, ngoảnh đầu bước đi.

Cụ già cầm chiếc quạt lên xem, trong lòng ngờ vực: “Chiếc quạt này rách thế, nan không ra nan, khung không ra khung, sửa làm sao được”. Nghĩ rồi định nói với hòa thượng chiếc quạt này rách quá, thực sự không sửa được, thế nhưng hòa thượng đã đi xa rồi. Cụ già vừa sửa quạt vừa than, lẩm bẩm một mình: “Ta ở đây có một chiếc quạt mới, lát nữa ông ấy về ta đưa ông ấy là được rồi”.

Một canh giờ trôi qua, hòa thượng điên đã về, vừa đến cửa đã hỏi: “Quạt sửa xong chưa?”

“Sửa xong rồi”, lão nhân vừa cầm trong tay chiếc quạt mới vừa nói.

“Ha ha, tay nghề không tệ, sửa trông như quạt mới vậy!” Hòa thượng điên hài lòng nói.

Cụ già cười gượng, trong lòng hơi buồn, nói: “Nguyên là một chiếc quạt mới mà!”

Hòa thượng điên cầm một nén bạc đặt lên trên án, xoay mình sải bước về phía cửa, rồi lại quay đầu quạt mấy cái về phía cửa, miệng còn niệm thơ từ nghênh ngang đi.

Cụ già đuổi đến tận ngoài cửa, miệng lắp bắp không thôi: “Tạ ơn sư phụ!” Quay đầu nhìn lại trên cửa, thấy có câu đối không biết dán từ bao giờ:

Vế trên: Thủ nghệ tinh tâm thiện phúc tích

Vế dưới: Phiến tử mỹ thủ cần tài đáo

(Nghĩa là: Đặt tâm rèn luyện tay nghề sẽ tích được thiện và phúc, Cần cù chịu khó làm quạt đẹp thì tiền tài tới)

Bức hoành phi: Khổ tận điềm lai (Hết cay đắng thì tới ngọt bùi)

Cuộc gặp gỡ kỳ lạ của lão nhân bán quạt không lâu truyền khắp nơi nơi, mọi người đua nhau tới nhà cụ già xem câu đối, người mua quạt tới nườm nượp. Từ đó, hai cụ già sống trong sung túc.

Ngõ vô danh từ đó được gọi là “ngõ quạt”.

Không lâu sau, mọi người đều tỉnh ngộ, nói: “Hòa thượng điên kia nhất định là Phật sống Tế Công, đến để giải khốn cho hai cụ già nghèo”.

Ấy chính là:

Lão nhân nghèo khổ có thiện tâm,
Hòa thượng Tế Công thấy thương tình,
Thực hành mưu kế giải khốn khó,
Từ đó thịnh vượng kế mưu sinh.
Người có duyên phận được Phật cứu?
Mọi người thử ngẫm sẽ tường minh!

(Truyện trong «Cao tăng truyền kỳ»)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/3/24/58533.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-te-cong-xe-quat-giup-nguoi-ngheo.html/feed0