Tác giả: Tử Vi
[ChanhKien.org]
Lời tựa:
Đây là một câu chuyện có thực liên quan đến sinh mệnh luân hồi.
Nhân vật chính trong câu chuyện là Lam, con gái của đồng tu A. Năm 8 tuổi, Lam đắc Pháp. Hơn 20 năm đã trôi qua, trong khoảng thời gian đó, cô đã trải qua tình cảnh bố mẹ và bản thân bị bắt giữ, sau này, cô lên đại học, đi làm, dòng chảy lớn của xã hội khiến cô ngày càng rời xa Pháp. Năm 2019, khi đồng tu A qua đời, Lam đau đớn khóc nức nở. Tôi nói với Lam rằng tôi đã thấy mẹ của cô bé đang ở Thiên giới, khoác một tấm vải bố màu vàng, toàn thân phát ra ánh sáng dịu dàng. Khi biết được chốn quay về của đồng tu là mẹ mình, Lam đã ngừng khóc, tâm trạng ổn định trở lại. Từ đó, cô bắt đầu học Pháp và cũng sẵn lòng cùng chúng tôi phát chính niệm.
Mùa thu năm 2020, Lam từ nơi xa trở về, khi ở cùng chỗ của chúng tôi, Lam nói rằng đã từng nhìn thấy một đôi mắt cáo đang nhìn chằm chằm vào cô; ánh mắt đó vô cùng già nua, chỉ lướt qua một cái rồi biến mất. Vào năm 2022, Lam nói với tôi: “Dì ơi, không hiểu sao cháu lại có chút sợ dì”. Đồng tu B nói: “Là những nhân tố phía sau cháu đang sợ hãi, sợ bị phát hiện”. Lam rất chấp trước vào việc ăn uống và thường ngủ rất nhiều. Tôi cùng đồng tu giúp cô bé phát chính niệm, cô trở nên tinh tấn, nhưng sau khi rời đi, cô lại bắt đầu dần trở nên giải đãi trong tu luyện.
Vào cuối tháng 9 năm nay, Lam trở về, tôi đến thăm cô bé. Khi chúng tôi cùng nhau phát chính niệm, tôi nhìn thấy một tòa sen bay đến, trên đó phủ một tấm vải màu vàng. Tôi nghĩ: “Dưới lớp vải vàng ấy là gì nhỉ?” Tôi muốn biết. Tấm vải vàng tự động mở ra, trên tòa sen có một cái trục, cái trục ấy tự bay lên rồi từ từ mở rộng ra. Tôi nhìn thấy hai chữ “Thệ Ước” màu vàng kim, đang phát ra ánh sáng lấp lánh, từng dòng chữ trong bản thệ ước hiện ra. Tôi hiểu rằng đây chính là thệ ước của Lam, cô từng lập lời thệ ước trước mặt Phật Chủ, vì để cứu độ chúng sinh, muốn xuống nhân gian hiểm ác.
Tôi hiểu được rằng mỗi đệ tử Đại Pháp đều có thệ ước, và chỉ có hoàn thành thệ ước, mới có thể quy vị. Ngày ấy, các vị Phật, Đạo, Thần ở các giới vì muốn cứu vớt thế giới của mình, đã rời khỏi bảo tọa, không chút do dự mà hạ xuống. Có vị Thần phát thệ: “Hoàn thành thệ ước, quay về vinh quang! Nếu không, bảo tọa biến mất, thần thể tiêu tan”.
Tôi kể cho Lam về cảnh tượng tôi đã thấy. Đồng tu B khuyên Lam hãy chăm chỉ học Pháp, không được buông lơi.
Trong buổi giao lưu chia sẻ với Lam và đồng tu B, chúng tôi bàn luận về những lĩnh ngộ trong Kinh văn mới. Sư phụ giảng:
“Bởi vì mỗi cá nhân khi trở thành đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp, phía minh bạch của mình đều đã ký thệ ước với Thần, dùng sinh mệnh để bảo chứng hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà đệ tử Đại Pháp phải gánh vác, từ đó sinh mệnh không quy về Tam giới quản. Cho nên Sư phụ đã lấy tên của các đệ tử Đại Pháp, từ Tam giới, từ nhân gian, từ âm gian, bao gồm địa ngục, xóa tên toàn bộ. Từ đó sinh mệnh của đệ tử Đại Pháp chỉ quy về Đại Pháp quản, không tái nhập luân hồi, có tội lỗi cũng không quy về địa ngục quản. Ai tu được tốt sẽ công thành viên mãn, quy vị vũ trụ mới, đảm trách thế giới thiên quốc của bản thân mình. Ai tu không thành, làm trái với thệ ước, phạm tội với Đại Pháp, sẽ nhất định thực hiện cam kết dùng sinh mệnh để bảo chứng kia! (Tu luyện Đại Pháp là nghiêm túc)
Chúng tôi ngộ ra tầm quan trọng của việc thực hiện thệ ước. Đồng tu B nói: “Không thực hiện thệ ước thì không thể trở về”. Tôi nói: “Khi ở Thiên giới, chúng ta đã phát lời thệ, thanh âm trong trẻo, xuyên vượt khung vũ, vô số Thiên Thần đã kiến chứng cho thời khắc đó. Giờ không thể nói rằng, tôi không nhớ có thệ ước nào mà phủ nhận. Hãy nhớ rằng năm đó, lời thệ ước được lập trên trời, chư Thần làm chứng”.
Trong những lần phát chính niệm sau đó, tôi biết được những lần luân hồi của Lam, Lam từng là nữ Thần trấn giữ hồ Ngoạ Đường ở Tây Tạng, từng làm pháp sư hô mưa gọi gió, từng là người hái thuốc, và từng là đời thứ sáu của Đạt Lai Lạt Ma, Thương Ương Gia Thố,…
Sau đây, tôi sẽ nói một chút về những trải nghiệm luân hồi của Lam.
(1) Nữ Thần hồ Ngọa Đường
Trong bài viết “Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa”, công chúa Văn Thành biết rằng địa hình Tây Tạng mang hình dáng một ma nữ đang nằm ngửa, một địa hình hung hiểm, vô cùng bất lợi cho đế quốc Thổ Phiên và người dân nơi đây. Vậy nguồn gốc của địa hình ma nữ nằm ngửa này là từ đâu?
Vào thời kỳ thượng cổ, đã từng xảy ra trận chiến giữa Thần và ma. Ma muốn trở thành chủ tể của Thiên giới, nên chúng đã tập hợp lực lượng để chống lại Thiên Thần. Các Thần Tiên hợp sức đánh bại lũ ma, rồi trấn áp chúng, giam chúng dưới các ngọn núi ở phàm giới, nơi này tương ứng với địa giới của Thổ Phiên. Thân thể ma bị trấn áp vẫn liên tục phát ra vật chất âm ám, tạo thành phong thủy ác liệt cho vùng Thổ Phiên.
Sau đó, Sáng Thế Chủ đã sai các vị Thần Tiên tạo ra con người, và con người sau này, nguyên thần đều có lai lịch rất cao. Những người này chuyển sinh đến khắp nơi trên thế giới, họ cần kết duyên với Chính Pháp, kết duyên với chúng sinh. Vì vậy, hoàn cảnh sinh tồn của họ không thể quá ác liệt. Sáng Thế Chủ đã an bài cho những sinh mệnh từ Thần giới đến vùng Thổ Phiên để hoàn thành một sứ mệnh nhất định.
Trong lịch sử, các nhân vật như Tùng Tán Cán Bố, công chúa Văn Thành, và công chúa Xích Tôn chính là những sinh mệnh cao cấp đến nhân gian để thực hiện sứ mệnh đó. Họ phải thúc đẩy lưu truyền Phật Pháp trên cao nguyên Tuyết Vực. Tuy nhiên, trong Tam Giới, do sự chế ước của lý tương sinh tương khắc, nên những sinh mệnh cống hiến cho nhân loại cũng sẽ gặp phải những khó khăn không thể tưởng tượng và những rắc rối sau này.
Khi Tùng Tán Cán Bố xây dựng chùa Đại Chiêu, vị trí được chọn nằm ở hồ Ngọa Đường, vì vậy phải lấp hồ để xây chùa. Lúc đầu, đất đá đổ xuống hồ đều biến mất không thấy tăm hơi. Tại sao lại như vậy? Người ta vẫn nói núi có sơn Thần, nước có thủy Thần. Còn hồ Ngọa Đường thì có hồ Thần, là một vị nữ Thần mặc áo màu xanh lam như mặt hồ, cô đã biết rằng Tùng Tán Cán Bố muốn xây chùa Phật và vị trí được chọn chính là hồ Ngọa Đường. Nữ Thần đã nhận được ý chỉ từ Thiên Thần, rời khỏi hồ Ngọa Đường. Cô đã sẵn sàng chuẩn bị rời đi. Trong một khoảnh khắc, nữ Thần thấy được an bài từ Thần giới: bởi vì công lao “nhường lại hồ”, cô sẽ được tắm trong hào quang của Phật Pháp trong tương lai và sẽ đắc được sinh mệnh vĩnh hằng.
Thế nhưng, trong vũ trụ, ở các chiều không gian khác nhau, khi cái chính hễ động thì những nhân tố phụ diện cũng sẽ động theo. Có thể hệ thần bại hoại, cũng làm một an bài tương ứng đối với sự việc ở nhân gian. Kỳ thực, chúng chính là nhúng tay vào an bài của Chính Pháp, tất cả những gì chúng làm đều là phá hoại an bài của Sáng Thế Chủ. Và những an bài bại hoại đó đều có biểu hiện ở thế gian.
Ban đêm, khi nữ Thần đang nghỉ ngơi dưới đáy hồ, trong lúc không tỉnh táo cô thấy từ một lối đi dưới đáy hồ xuất hiện một người phụ nữ bịt mặt. Người phụ nữ ấy thân thiết gọi cô: “Muội muội à, có kẻ muốn chiếm địa bàn của muội, sao muội có thể cứ dửng dưng như vậy? Tỷ tỷ đây nguyện giúp muội giữ lấy mặt hồ trong xanh gợn sóng này”. Trong cơn mê man, nữ Thần nói: “Thần Tiên đã bảo ta phải rời khỏi nơi này. Ta sắp phải rời đi rồi”. Người phụ nữ bịt mặt nói: “Tại sao muội không cố giữ lấy mảnh đất này? Ta nhất định sẽ giúp muội”. Vừa nói, người đó búng tay một cái về phía nữ Thần. Nữ Thần đột nhiên cảm thấy thần trí trở nên không thanh tỉnh, không thể nói nên lời. Người phụ nữ bịt mặt nói: “Hãy giao hết mọi thứ cho ta, ta sẽ giúp muội”. Trong cơn mê man, Thần hồ cảm thấy người phụ nữ này đang làm loạn đáy hồ, bố trí rất nhiều thứ trong đó.
Ban ngày, Thần hồ rời khỏi hồ, đứng ở đằng xa quan sát. Cô nhìn thấy những con cừu trắng đang liên tục chở những bao đất đến bên hồ, hết lượt này đến lượt khác, nhưng kết quả là lượng đất lớn đổ xuống đáy hồ lại chẳng thấy đâu cả, Thần hồ cảm thấy kỳ lạ.
Công chúa Xích Tôn đã tìm gặp Tùng Tán Cán Bố và kể lại hiện tượng kỳ lạ ấy. Tùng Tán Cán Bố và công chúa Xích Tôn liền gặp công chúa Văn Thành, cùng nhau bái Phật, hy vọng nhận được sự gia trì từ Phật. Các vị Thần Phật đều giúp sức gia trì khác nhau cho việc xây dựng Phật tự, và vị Đại Lực Kim Cang ở phía trước Phật đã dùng Thần lực truyền năng lượng gia trì vào chiếc nhẫn của Tùng Tán Cán Bố. Công chúa Văn Thành nhìn thấy ánh sáng phát ra từ chiếc nhẫn và nói với Tùng Tán Cán Bố rằng chiếc nhẫn có thể trấn tà. Tùng Tán Cán Bố tịnh tâm thành ý, kiên định tín tâm vào sự bảo hộ của Phật. Ông đến bên hồ Ngọa Đường, tháo chiếc nhẫn ra và ném vào giữa hồ, xoáy nước dữ dội vốn đang làm loạn trên mặt hồ liền lặng xuống, công cuộc lấp hồ được đẩy nhanh tiến độ.
Thần linh trên thượng giới nhìn rất rõ ràng, hồ Ngọa Đường nằm đúng vị trí trái tim của ma nữ dưới lòng đất. Những sinh mệnh hắc ám đó không muốn bị trấn áp, nên có sinh mệnh đã hóa thành người phụ nữ bịt mặt để mê hoặc Thần hồ, sau đó bố trí hắc thủ dưới đáy hồ. Kết quả, hắc thủ bị chiếc nhẫn bao lấy, dần co rút lại, không còn năng lực tác quái. Việc lấp hồ xây chùa từ đó đã có khởi sắc. Lấp hồ xây chùa, sau đó xây dựng chùa Đại Chiêu Tự, bên trong thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni hướng thẳng về phía tâm mạch của ma nữ dưới lòng đất.
Theo ý chỉ của Thần, nữ Thần hồ Ngọa Đường rời khỏi hồ, cô mang theo một túi nước, cô muốn giữ túi nước ấy như một món đồ kỷ niệm. Nhưng cô không biết rằng, bên trong túi nước có một bộ các thứ cơ chế của tà ác, thứ đó sẽ gây bất lợi cho cô. 81 ngày sau, khi nữ Thần đang chợp mắt, chiếc túi nước bỗng lật ngược lại. Thứ bên trong giống như một bộ y phục, phủ lên người nữ Thần, rồi ẩn vào giữa các khe hở trong thân thể nữ Thần. Những thứ đó cực kỳ tà ác, nó giống như một con ác ma đang tiềm phục, tồn tại rất kín đáo trong tầng vi quan. Đến một thời điểm nhất định (kỳ thực là khi cơ chế tà ác bắt đầu vận hành), nó sẽ thức tỉnh. Nó sẽ lấy chủ nhân làm tải thể, dùng hình tượng của chủ nhân để làm điều xấu, hoặc là khống chế chủ nhân đi làm điều xấu. Sau mỗi lần làm điều xấu, hình tượng của ma nữ sẽ hiện lên trong khoảnh khắc.
Thể hệ Thần bại hoại dùng hình thức ký sinh như vậy để đưa những thứ của mình vào trong thể hệ sinh mệnh chính, chuẩn bị sau này đến lúc sẽ dùng.
(2) Người tu hành phá giới, đi lạc sang đường tà
Nữ Thần từng chuyển sinh thành một người tu luyện Mật tông tên là Quỳnh Ba, theo sư phụ tu hành.
Sư phụ của Quỳnh Ba đã mang theo anh ta tu luyện bí mật. Trong tu hành Mật tông có những thứ của nam nữ song tu. Nam nữ song tu, nếu là người tu luyện có tố chất thì sẽ không lạc sang tà đạo. Thế nhưng, ngay trước khi bắt đầu tu luyện, Quỳnh Ba đột nhiên xuất hiện trạng thái khác thường, anh cảm thấy có một thứ như ngọn lửa đang thiêu đốt chính mình, anh đã mất hết lý trí, sắc tâm trỗi dậy mãnh liệt. Sư phụ nhìn thấy biểu hiện của anh ta, biết là do ma sắc nhập vào thân thể, nhưng không thể trừ ma thành công, sư phụ đành trục xuất Quỳnh Ba ra khỏi sư môn.
Sau khi bị đuổi khỏi sư môn, Quỳnh Ba sinh lòng oán hận, trong tâm sinh ác ý. Anh ta đã đầu độc vào trong thức ăn của gia đình người cháu của sư phụ. Nhưng chẳng bao lâu sau, anh ta cảm thấy vô cùng hối hận, vội vã quay lại cứu người, nhưng chỉ cứu được một bé gái, anh gửi bé đến nơi khác để nuôi dưỡng. Bé gái đó tên là Phương Khảm, có một lần, trong giấc mơ, Phương Khảm thấy người đã cứu và chu cấp cho cô chính là kẻ đã hại chết cha mẹ cô. Sau khi tỉnh dậy, cô tin chắc rằng giấc mơ này là sự thật, trong lòng dần dần nảy sinh hạt giống báo thù, nhưng cô không tìm được cơ hội để trả thù.
Quỳnh Ba gặp được một người biết thuật phù thủy, người này đối xử với Quỳnh Ba rất tốt, và dạy cho anh ta những thứ của vu thuật. Quỳnh Ba học xong, sử dụng thấy rất linh nghiệm. Kết quả là ngày càng có nhiều người tìm đến anh, đưa tiền bạc nhờ anh thi triển vu thuật. Cứ như vậy, trong thể hệ sinh mệnh của Quỳnh Ba, đã gắn thêm nhân tố của vu thuật. Quỳnh Ba cũng nhờ đó mà thỏa mãn được những ham muốn ái tình và dục vọng nơi thế tục.
Một lần, trong giấc mơ, Quỳnh Ba thấy sư phụ của mình, sư phụ đang nhìn anh một cách nghiêm khắc. Quỳnh Ba trong lòng sợ hãi. Sau khi tỉnh dậy, Quỳnh Ba không muốn tiếp tục sử dụng vu thuật nữa. Thế nhưng, vẫn có người liên tục đến tìm anh, nhờ anh giúp đỡ. Quỳnh Ba không biết rằng, theo thời gian, những thứ tà ác như cành cành nhánh nhánh mọc thêm vào thể hệ sinh mệnh của anh, sẽ trở thành gánh nặng của sinh mệnh, trói buộc khiến anh khó tiến bước về phía trước.
Có lúc Quỳnh Ba nghĩ: sống một cuộc sống xa rời những điều cấm kỵ, sống những tháng ngày tiêu dao, cũng tốt. Nhưng trong lòng anh vẫn bảo lưu bộ phận khao khát với tu hành cao cấp. Mỗi khi anh suy nghĩ thuần tịnh, tâm ôm giữ lòng khao khát, chư Thần, chư Phật đều gia trì chính niệm cho anh; còn mỗi khi tà niệm nổi lên trong tâm, thì những sinh mệnh xấu sẽ ùn ùn kéo đến, gia tăng dục niệm trong lòng anh.
(3) Người hái thuốc giết chết hồ ly
Quỳnh Ba từng chuyển sinh đến vùng Vân Quý (tức Vân Nam – Quý Châu), là một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, tên là Lý Ba. Từ nhỏ, cha mẹ Lý Ba đều qua đời, cậu trở thành một đứa bé ăn xin. Một người hái thuốc thấy cậu đáng thương nên cưu mang cậu, cậu trở thành đồ đệ của người hái thuốc. Lý Ba thân thủ nhanh nhẹn, có thể leo lên những vách núi cao mà người khác không leo lên được, vì vậy hái được nhiều loại thuốc quý hiếm. Sư phụ rất tự hào vì có được một đệ tử như vậy.
Một lần, sư phụ nằm mơ, mơ thấy một vách núi rất hiểm trở, trên đó mọc rất nhiều hoa lan và hoa đỏ. Sau khi tỉnh dậy, ông vẽ lại địa hình trong mộng và giao cho Lý Ba đi tìm nơi đó. Quả nhiên, Lý Ba đã tìm thấy, cậu bắt đầu trèo lên vách núi này, nhưng leo vài lần đều không leo lên được, cậu rất tức giận, liền bắt đầu oán trách sư phụ, rồi chửi cả ngọn núi. Lúc Lý Ba oán trách sư phụ, sư phụ đang ở nhà hắt hơi một cái, ông biết rằng Lý Ba gặp khi leo núi chắc chắn đang không thuận lợi. Còn khi Lý Ba mắng núi, sơn Thần nghe thấy được, sơn Thần đúng lúc đang tuần tra vội đến gần chỗ của Lý Ba, ông quyết định cho Lý Ba nếm mùi xui xẻo. Sơn Thần búng ngón tay, bắn ra một quả óc chó, quả óc chó này đánh trúng Lý Ba đang leo lên vách núi.
Lý Ba rơi vào một vách đá, cậu co người lại, chui sâu vào trong, kết quả tiến vào một hang động. Trong hang động có một con hồ ly đang say mèm. Lý Ba từng nghe sư phụ nói, có một số hồ ly biết tu luyện, trong thân thể có đan, biết mê hoặc con người, còn biết trộm rượu uống. Lý Ba lập tức giết chết con hồ ly, lột da nó, và tìm được đan như lời sư phụ từng kể. Cậu gói viên đan lại, bỏ vào túi thuốc. Sau đó, Lý Ba còn dùng “khói lưu huỳnh” mà sư phụ đưa để bôi khắp sơn động, còn lấy mấy lá bùa chú ra, dùng để trấn giữ sơn động. Lý Ba từ một cửa hang khác chui ra, đi vòng vòng tìm lại vách núi ban nãy, nhưng không cách nào tìm được nữa. Cậu hái ít thảo dược rồi trở về nhà.
Lý Ba không biết rằng anh ta đã tiến nhập vào không gian khác, nhưng sơn Thần thì biết. Sơn Thần biết trong không gian khác có một ngọn núi tên là “Ma Bàn Sơn”, trong núi có một con hồ ly rất ngang ngược, thường xuyên sang bên núi này ăn trộm, còn mê hoặc con người. Có lần, hồ ly còn đi tiểu vào suối trên núi, khiến dòng suối bị ô nhiễm suốt một thời gian dài. Sơn Thần rất bực tức, nhưng không dám đụng đến con hồ ly đó. Con hồ ly ấy đã tu luyện rất lâu rồi, vô cùng xảo quyệt. Sơn Thần muốn khiến Lý Ba gặp đen đủi, thế nhưng, sơn Thần không thể ngờ rằng, Lý Ba lại giết chết được hồ ly. Có điều như vậy cũng tốt, con hồ ly ấy sẽ không còn gây hại cho vùng này nữa, sơn Thần cảm thấy thanh tịnh hơn rất nhiều. Có lúc, sơn Thần cũng nghĩ, cậu thanh niên từng mắng nhiếc mình kia, quả thật không tầm thường, nhờ một lần âm sai dương thác, lại diệt được con hồ ly.
Lý Ba quay trở về, đưa số thuốc hái được cho sư phụ, rồi kể lại toàn bộ trải nghiệm của mình. Sư phụ nghiền viên đan ra, phối hợp với các loại thảo dược, dùng để chữa bệnh cho người ta, điều kỳ lạ là, ông đưa hết tiền thuốc cho Lý Ba. Một lần, Lý Ba nghe thấy sư phụ vừa thở dài vừa lẩm bẩm: “Dị tiên đừng tìm ta gây phiền phức nữa, là Lý Ba giết, ngươi hãy đi tìm Lý Ba”. Lý Ba thấy rất kỳ lạ: “Sư phụ vốn có thể hàng yêu, sao lại nói như vậy?” Lý Ba bắt đầu chú ý đến lời nói và hành vi của sư phụ, rồi phát hiện ra quả thực có sinh mệnh nào đó đang quấy rối, đang gây chuyện với sư phụ.
Lý Ba muốn tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Có một lần, cậu cố ý chuốc rượu cho sư phụ say. Trong cơn say, sư phụ nói: “Lý Ba, có sinh mệnh đã tìm đến ta, nói con hồ ly mà con giết đã tu luyện từ rất lâu, cuối cùng chết thảm, đến cơ hội mượn xác hoàn hồn cũng không còn. Sinh mệnh đó bảo rằng, có phiền phức đang chờ con, nợ nghiệp của thiên hồ sẽ đeo bám lấy con, còn bắt ta đuổi con đi. Con nhớ kỹ, sau này dù ta có đuổi con thế nào, con cũng đừng đi, vì người đuổi con đi nhất định không phải là ta, ta có thể bảo hộ con, giúp con tránh khỏi kiếp nạn của thiên hồ. Sau này khi chuyển sinh, con nhất định phải bái một vị sư phụ tu hành cao thâm, mới có thể tránh được món nợ mạng này”.
Lý Ba ghi nhớ kỹ lời dặn của sư phụ, về sau, quả nhiên sư phụ thường xuyên làm khó cậu, muốn đuổi cậu đi. Nhưng dù thế nào, Lý Ba cũng không rời đi, vẫn luôn hiếu kính với sư phụ. Sư phụ truyền dạy cho Lý Ba những pháp thuật có thể tự bảo vệ bản thân. Trước lúc lâm chung, sư phụ nói với Lý Ba: “Đồ nhi, sau này nhất định phải tu hành, đừng để chết bởi món nợ mạng của hồ ly. Có một vị Lạt ma vân du qua vùng này từng nói, sau này sẽ có một tòa bảo tọa phát sáng chờ đợi con, con là người có quả vị. Nhưng mà, thành tựu quả vị lớn bao nhiêu, thì cũng phải giải quyết những phiền phức phía sau lớn bấy nhiêu. Sư phụ chúc con thành công!” Lý Ba nói: “Sư phụ, đến khi đó con có gặp lại người không?” Sư phụ đáp: “Ta cũng phải đi tìm một vị sư phụ có thể giúp sinh mệnh đạt được vĩnh sinh”. Lý Ba nói: “Con hy vọng chúng ta sẽ cùng tìm được cùng một vị sư phụ. Nếu như đến lúc đó chúng ta gặp lại nhau, xin người nhất định hãy đánh thức con, đốc thúc con tu hành tinh tấn”. Sư phụ đồng ý với lời thỉnh cầu của Lý Ba.
Sau khi sư phụ qua đời, Lý Ba đã chôn cất sư phụ, rồi bắt đầu lên đường vân du, mong tìm được một vị sư phụ cao minh, nhưng mãi vẫn không tìm ra. Về sau, Lý Ba đến Tây Tạng, tình cờ thấy một vị Phật sống xuất hành. Trong lòng cậu dấy lên niềm kính ngưỡng với Phật sống, trong tâm như thể có một luồng ánh sáng rực rỡ đang từ từ dâng lên. Điều tốt đẹp không thể biểu đạt thành lời ấy mãi vang vọng trong lòng Lý Ba. Lý Ba còn rất may mắn chứng kiến hiện tượng hồng hóa của một vị cao tăng đắc Đạo. Khi vị cao tăng viên tịch, trong chớp mắt biến thành một luồng ánh sáng đỏ, toàn thân thể đều hóa mất. Từ các vị thượng sư tu hành, Lý Ba biết được đó là nguyên thần mang theo công mà viên mãn. Lý Ba cũng biết được rằng, những vị cao tăng tu hành kém một chút thì khi viên tịch sẽ để lại vài sợi tóc và móng tay, còn những vị tu kém hơn nữa thì thân thể sẽ co lại thành người cao khoảng hơn một thước, nghĩa là thân thể chưa hoàn toàn chuyển hóa thành vật chất cao năng lượng. Lý Ba đối với con đường tu hành như vậy tràn đầy khát vọng. Cậu định cư ở Tây Tạng, bắt đầu tín ngưỡng các vị Thần linh Tây Tạng, cậu không chỉ một lần thành tâm quỳ bái trước sơn Thần, hy vọng sinh mệnh mình có thể thăng hoa.
Nguyện vọng trong tâm con người thực sự rất quan trọng, nó sẽ trải thảm cho kiếp sau, hoặc vài đời sau. Kỳ thực, nguyên nhân chân thực là: Lý Ba vốn là một sinh mệnh có lai lịch, nếu truy ngược về cảnh giới bản nguyên sinh mệnh, thì cũng là rất cao. Hơn nữa, kịch bản của một người trong đời đời kiếp kiếp, trong Tam giới đã sớm được an bài. Đời người, kỳ thực chỉ là đang diễn lại một vở kịch đã được viết sẵn. Những thứ liên quan đến túc mệnh, quả thực là có tồn tại.
(4) Phật sống Thương Ương Gia Thố
Sau vài kiếp luân hồi, Lý Ba chuyển sinh thành một vị chuyển thế linh đồng.
Chuyển thế linh đồng là một hiện tượng tu luyện lưu truyền lại trong phái Gelug (Hoàng giáo) của Phật giáo Tây Tạng. Sau khi người đứng đầu của Hoàng giáo viên tịch, để đảm bảo sự kế thừa chính thống của môn phái, sinh mệnh ấy sẽ đầu thai chuyển sinh trở lại, tiếp tục tu hành. Do cấu thành của sinh mệnh bao gồm chủ nguyên thần và phó nguyên thần, nên đôi khi có thể tìm thấy ba hoặc bốn linh đồng. Vì mang theo ký ức từ tiền kiếp, nên có linh đồng khai mở trí huệ, rất nhiều người thậm chí chưa từng học kinh sách nhưng có thể đọc thuộc lòng kinh Phật trước công chúng, và sở hữu những công năng phi phàm.
Nguyên thần của Lý Ba chuyển sinh thành linh đồng, tức là vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ sáu Thương Ương Gia Thố. Thương Ương Gia Thố là pháp danh, ông vốn là con trai của một nông nô, căn cứ theo lời tiên tri được để lại bởi vị Phật sống đời trước, các tăng nhân đã tìm được ông khi mới năm tuổi. Đến năm 14 tuổi, Đệ Ba (Tạng vương) Tang Kết Gia Thố đã phái người đưa ông vào cung điện Bố Đạt Lạp. Kỳ thực, thành phần sinh mệnh của Thương Ương Gia Thố là như này: nguyên thần của Lý Ba chuyển sinh thành linh đồng, và đồng thời giáng sinh vào trong sinh mệnh của linh đồng cùng với nguyên thần của Lý Ba còn có bốn phó nguyên thần. Trong đó, một phó nguyên thần chính là phó nguyên thần của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm.
Đối với Thương Ương Gia Thố mà nói, ông không hiển hiện ra những công năng dị thường, mà lại biểu hiện ra sự theo đuổi và khát khao đối với dục vọng như một người bình thường. Người đời có những đánh giá khác nhau đối với ông, có người nói ông có linh tính, có người nói ông có tài hoa, có người nói ông là thi sĩ, cũng có người coi ông là Phật sống để sùng bái. Thơ của ông vừa đậm chất trữ tình và phóng túng: “Sống trong cung Bố Đạt Lạp, Ta là vị vua lớn nhất xứ tuyết; Phiêu bạt trên phố Lạp Tát, Ta là tình lang đẹp nhất thế gian”. Vừa có nỗi ngậm ngùi thấu hiểu thế sự: “Việc thế gian ngoài sinh tử ra, Những chuyện còn lại đều là chuyện vặt”. Và cũng chan chứa tình cảm trong lòng: “Thế gian nào có pháp lưỡng toàn, Không phụ Như Lai, chẳng phụ nàng”.
Thương Ương Gia Thố không thích sống trong cung Bố Đạt Lạp, cũng không thích tụng niệm những kinh văn dài trong thời gian dài, ông cho rằng cuộc sống như vậy quá nhàm chán và khô khan. Đôi khi, Thương Ương Gia Thố nhìn thấy một vài cảnh tượng, nhưng ông lại không thể lĩnh ngộ rõ ràng những nội hàm điểm hóa đó. Có lần ông thấy một chiếc quần màu đen đang cháy, mà không biết đó là nghiệp hỏa sắp xuất hiện, đây là một hình thức biểu hiện khác của dục vọng. Ông cũng từng thấy một chiếc mũ tăng màu vàng kim, trên đó có phân chim, và trong phân có sâu bọ. Đây là lời nhắc nhở ông rằng nên thanh tĩnh tu hành, đừng để những vọng niệm thế gian chiếm cứ tư tưởng của người tu hành.
Đối mặt với những nhắc nhở và điểm hóa như vậy của Thần Phật, Thương Ương Gia Thố lại không thể ngộ ra nội hàm trong đó. Phải chăng ông không có căn cơ trí huệ? Không phải, mà là vì tư duy của ông đã bị can thiệp, căn cơ trí huệ đã bị che lấp, có nhân tố sinh mệnh bại hoại đang cản trở ông. Thương Ương Gia Thố cũng nhìn thấy những cảnh tượng thế tục, đối ứng với những thứ lưu luyến và yêu thích của ông đối với tình. Ông không biết bài xích những thứ này, trái lại, ông lại cảm thấy rất thích. Trong mộng, ông từng lấy vợ, sinh con, tận hưởng trọn vẹn niềm vui luân thường của con người. Khi tỉnh dậy, ông cảm thấy trống trải và mất mát, liên tục hồi tưởng lại giấc mơ ấy. Một người tu hành, nếu chân ngã không thể làm chủ được tư tưởng và hành vi của mình, để mặc cho những điều bất hảo chi phối, thì những sinh mệnh bại hoại sẽ sinh sôi, lan rộng, chân ngã tất nhiên sẽ ngày càng mê lạc. Dù có tụng đọc kinh sách mỗi ngày, cũng chỉ là vô ích.
Cuối cùng vào một đêm nọ, Thương Ương Gia Thố lặng lẽ xuống núi, đi vào chốn phồn hoa đô thị. Sự ồn ào náo nhiệt của thế tục, khói lửa chốn nhân gian, khiến ông cảm thấy hưng phấn, một trái tim từng tĩnh lặng như được đánh thức, trái tim của tuổi trẻ lại trỗi dậy, tràn đầy ham muốn đối với thế tục. Thương Ương Gia Thố gặp được Trác Mã, một người phụ nữ xinh đẹp. Trong ánh mắt nàng, chứa đựng sự yêu mến dành cho ông, còn sự nhiệt tình của nàng khiến trái tim Thương Ương Gia Thố bay bổng. Ông khao khát tình yêu thế tục. Tình khiến con người mê mờ lý trí, khiến con người hành động theo ý mình, khiến ông rời xa sứ mệnh tu hành. Chàng trai trẻ buông thả bản thân, niềm vui dâng trào trong biển dục đã che lấp đi linh tính của ông. Ông đã viết nên những bài thơ tình, được người đời sau truyền tụng say mê. Có người ca ngợi Thương Ương Gia Thố, cho rằng ông là một vị tình tăng của thời đại. Nhưng tôi cho rằng, đánh giá như vậy rất không thỏa đáng. Người tu hành, nếu không tu khứ tình, thì không thể sinh ra lòng từ bi; tình cảm nặng sẽ làm lạc mất phương hướng tu luyện.
Thật ra, mỗi lần lén lút xuống núi, đều có một tư duy lý tính đang ngăn cản ông: “Ngươi không thể như thế này được”. Nhưng trái tim Thương Ương Gia Thố đã bị những nhân tố bại hoại che mờ, ông chỉ hơi nghĩ ngợi chốc lát, rồi đôi chân vẫn tiếp tục bước xuống núi, những điều thuộc về linh thức đã không còn tác dụng với ông nữa. Có một lần, ông thậm chí đã nói thẳng với tư duy lý tính đó: “Ngươi đừng quản ta nữa”. Nói ra cảm thấy kỳ lạ, Thương Ương Gia Thố cảm thấy mình nghe được một tiếng thở dài đầy bất lực, tiếng thở dài ấy phát ra từ trong đầu ông. Thương Ương Gia Thố chỉ thoáng nghi hoặc, rồi vẫn tiếp tục chạy xuống núi. Sự cám dỗ của thế gian đã lấn át cả nhân tố tu hành, chân của Thương Ương Gia Thố đã một bước giẫm vào không trung rồi.
Thương Ương Gia Thố vẫn tiếp tục nhận được những điểm hóa từ Thần Phật. Ông nhìn thấy chiếc mũ tăng cùng với đầu mình đang bốc cháy, nhưng ông chỉ mừng vì điều đó không thật sự xảy ra, mà không hiểu rằng Thần Phật đang nhắc nhở ông: Dục vọng mãnh liệt giống như ngọn lửa, đã thiêu rụi lý tính của ông rồi. Ông còn thấy một con chim đứng trên cành cây trơ trụi, chân nó đã hóa thành cành, còn trong mắt nó tuôn ra máu. Cảnh điểm hóa ấy chính là phản ánh tình cảnh của ông, ông không thể tu thành, cũng không còn sức (bay) về trời nữa.
Vào những đêm yên tĩnh rảnh rỗi, Thương Ương Gia Thố thích ngắm những vì sao trên trời, ông không hề biết rằng, ở những chiều không gian khác nhau đều có vô số con mắt, nhiều hơn cả sao trời, đang dõi theo ông. Đặc biệt là những sinh mệnh mà ông từng mắc nợ nghiệp trong quá khứ, chúng nắm chắc chấp trước của ông, không để ông tu luyện. Những sinh mệnh đó muốn hủy diệt ông, muốn khiến ông làm ra vụ việc tai tiếng lớn nhất thế gian.
Thương Ương Gia Thố đứng giữa cơn lốc chính trị, cuối cùng đã bị phe đối địch nắm được đằng chuôi. Vị Đệ Ba (Tạng vương) Tang Kết Gia Thố là người bảo trợ cho Thương Ương Gia Thố có mâu thuẫn ngày càng gay gắt với Lạp Tàng Hãn, dẫn đến chiến tranh giữa hai bên. Quân Mông Cổ của Lạp Tàng Hãn đánh bại quân Tây Tạng và giết chết Đệ Ba Tang Kết Gia Thố. Lạp Tàng Hãn tuyên bố rằng: vị linh đồng do Đệ Ba tìm thấy là giả, Thương Ương Gia Thố là Đạt Lai giả. Lạp Tàng Hãn còn dâng thư lên Hoàng đế Khang Hy, tố cáo Tang Kết Gia Thố âm mưu phản loạn, nói rằng Thương Ương Gia Thố vị Đạt Lai đời thứ sáu do Tang Kết Gia Thố lập nên chỉ đắm chìm trong tửu sắc, không quan tâm đến giáo vụ, là Đạt Lai giả, xin được phế truất và xử tử. Hoàng đế Khang Hy, cân nhắc tình hình Tây Tạng lúc đó, đã hạ chiếu chỉ: “Lạp Tàng Hãn tấu xin phế bỏ Đạt Lai đời thứ sáu do Tang Kết lập nên, truyền giải về kinh sư”.
Đáng tiếc, vị Phật sống từng được người người kính ngưỡng, giờ đây đã trở thành tù nhân bị giam cầm, sắp bị áp giải về kinh đô xa xôi của đế quốc. Trong đám đông, người tình xinh đẹp là Trác Mã nhìn thấy người từng là tình lang tuấn tú của mình, đang mang xiềng xích, bước chân khó nhọc. Trong lòng nàng đau khổ khôn xiết, nhưng có một loại ý thức vui sướng khác lại hiện lên trong đầu: “Tội hắn đáng bị như thế”. Hai luồng suy nghĩ trái ngược hoàn toàn khiến người phụ nữ ấy bối rối. Người phụ nữ ấy từng là Phương Khảm trong tiền kiếp, và giờ nàng đã báo được mối hận từ kiếp trước.
Khi đoàn lính áp giải Thương Ương Gia Thố đi đến chân núi chùa Triết Bạng, một nhóm dân Tây Tạng đã tổ chức giải cứu Thương Ương Gia Thố, khi một người dân Tạng bị rơi mũ, binh lính phát hiện họ là võ tăng đến từ chùa Triết Bạng. Chùa Triết Bạng là một ngôi chùa nổi tiếng của Hoàng giáo, bốn đời Đạt Lai Lạt Ma trước đó đều từng tu hành tại đây. Thương Ương Gia Thố được các võ tăng giải cứu và tiến vào chùa Triết Bạng. Trong ba ngày ba đêm ấy, người trong chùa kính cẩn đối đãi ông như Thần linh, còn các võ tăng thì bảo vệ ngôi chùa, chiến đấu kịch liệt. Thương Ương Gia Thố muốn rời khỏi chùa, nhưng những người trong chùa đều quỳ rạp trước mặt ông, khẩn cầu ông đừng bước ra ngoài.
Vào ngày thứ ba, trong chùa có một vị Lạt Ma đang bế quan tu luyện bỗng nhiên xuất quan, ông đến gặp Thương Ương Gia Thố. Vị Lạt Ma ấy không quỳ lạy ông như những người khác, ngược lại, ông bước đến gần Thương Ương Gia Thố, đặt tay lên trán ông, rồi nói: “Lý Ba, con quên ta rồi sao?” Ngay khoảnh khắc ấy, Thương Ương Gia Thố lập tức nhớ lại tiền kiếp, ông thấy được một đời mình từng là người hái thuốc, còn nhìn thấy cả một đời của Quỳnh Ba. Ông biết rằng vị Lạt Ma trước mặt chính là sư phụ của mình trong hai kiếp ấy. Thương Ương Gia Thố bỗng òa lên khóc nức nở, rồi quỳ xuống trước mặt Lạt Ma.
Lạt Ma bắt đầu giảng cho ông nghe về căn nguyên của những chướng ngại trong tu luyện. Thương Ương Gia Thố hiểu ra rằng, nguyện vọng trong tiền kiếp đã thúc đẩy thành tu hành ở kiếp này; nợ mạng đưa đẩy khiến ông gặp được Trác Mã, và cũng có nhân tố hồ ly từ kiếp trước cũng mê hoặc ông. Lạt Ma nói: “Hành vi trong tiền kiếp quyết định vận mệnh đời sau, đây là nhân quả. Những khổ nạn trong đời đều có sự sắp đặt từ định mệnh. Nhưng những lựa chọn trong đời lại vô cùng quan trọng, vì nó đang tạo ra định mệnh. Con đừng sa sút tinh thần, hãy kiên định tin vào Phật, bình thản đối diện với số phận, nương nhờ Phật lực, rồi cuối cùng sinh mệnh con sẽ được giải thoát”. Thương Ương Gia Thố tha thiết thỉnh cầu Lạt Ma giảng kinh cho ông, và hỏi rằng liệu kiếp sau có thể gặp lại hay không. Lạt Ma đáp: “Đời sau chúng ta nhất định sẽ gặp lại. Chỉ sợ đến lúc đó, con lại trốn tránh ta mà thôi. Trong tương lai, chúng ta sẽ gặp được vị Vô Thượng Pháp Vương chuyển động đại Pháp Luân, Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi biển khổ, nhưng vào thời điểm ấy, thế gian sẽ bại hoại hơn bây giờ rất nhiều, con nhất định phải giữ vững bản thân! Hãy nhớ, sống trong trần thế, nhất định phải nỗ lực hành thiện, đừng truy cầu hưởng lạc ở thế tục!” Thương Ương Gia Thố và Lạt Ma hẹn ước: đến thời mạt kiếp sẽ tương phùng, hy vọng Lạt Ma sẽ nhắc nhở bản thân không buông bỏ việc tu hành. Lạt Ma đồng ý, rồi trao cho Thương Ương Gia Thố xâu chuỗi niệm Phật đang xoay trong tay ông.
Trong đêm ấy, Thương Ương Gia Thố trằn trọc không ngủ, ông viết một bài thơ và đặt dưới gối. Bài thơ viết:
Ta đã gặp lại tôn sư
Thấu hiểu được kiếp nhân sinh
Ràng buộc trong luân hồi
Khiến nguyện của ta không thể như ý
Giải thoát lần nào đó
Mới thực sự là thật
Ta mong đợi Vô Thượng Pháp Vương
Chuyển động Pháp Luân
Sinh mệnh được đắc cứu
Thoát khỏi xiềng xích luân hồi
Vui ca đắc được cuộc sống vĩnh hằng
Ngày thứ tư, Thương Ương Gia Thố lấy cái chết ra để ép buộc, cuối cùng các tăng nhân trong chùa Triết Bạng đành nhượng bộ, để mặc cho Thương Ương Gia Thố một mình rời khỏi chùa. Lúc ấy, trụ trì của chùa là Xích Ba, đứng từ xa nhìn theo bóng dáng sau lưng của Thương Ương Gia Thố đang rời đi, đột nhiên rơi lệ, trong lòng những người còn lại cũng tràn ngập bi thương. Vị trụ trì Xích Ba này biết rõ tiền kiếp của Thương Ương Gia Thố và lai lịch của vị Lạt Ma xuất quan hôm trước. Dù đang tịnh tu trong tịnh thất ở cách xa, ông vẫn nghe được cuộc đối thoại giữa Lạt Ma và Thương Ương Gia Thố. Ông biết rằng vị Lạt Ma ấy từng cố gắng hóa giải vấn đề của con hồ ly, nhưng không thể giải quyết được, bởi sau lưng con hồ ly ấy có nhân tố rất phức tạp, lại còn có trợ thủ trợ lực. Tám năm trước, khi Lạt Ma lặn lội phong trần đến chùa, Xích Ba đã biết được duyên phận giữa ông và Lạt Ma đời thứ sáu. Khi ấy, Lạt Ma yêu cầu một tịnh thất để chuyên tâm tu hành, và nguyên thần của ông không chỉ một lần xuất ra để giúp đỡ Thương Ương Gia Thố. Nhưng thần thông không thể thắng nghiệp lực, vị Thương Ương Gia Thố từng ngồi trên pháp tọa tôn quý kia, do từng nợ nghiệp mạng, đã định sẵn phải chịu vận mệnh bi thương.
Xích Ba đã thấy trước được rắc rối của Thương Ương Gia Thố, và cũng biết rằng Lạt Ma sẽ muốn gặp lại Thương Ương Gia Thố một lần, nên khi võ tăng trong chùa muốn tổ chức giải cứu Thương Ương Gia Thố, Xích Ba đều không ngăn cản. Xích Ba còn biết trước cả ngày chết của Thương Ương Gia Thố. Sau khi Thương Ương Gia Thố rời khỏi chùa, Xích Ba nhìn thấy pháp nhãn của Lạt Ma vẫn đang dõi theo bên ngoài chùa, thế là Xích Ba đả xuất thủ ấn, truyền ý cho Lạt Ma, hy vọng tương lai khi Phật giảng Pháp, ta có thể cùng các vị gặp lại, và có thể góp một phần sức lực nhỏ nhoi. Lạt Ma chắp tay hợp thập cảm tạ Xích Ba.
Rời khỏi chùa Triết Bạng, Thương Ương Gia Thố khiến các binh lính Mông Cổ đều kính phục. Thương Ương Gia Thố đã ước hẹn với tướng lĩnh rằng không được trả thù ngôi chùa. Khi đoàn người áp giải Thương Ương Gia Thố đi đến hồ Thanh Hải, ông ngã bệnh. Trong cơn mê man, ông nhìn thấy hai sinh mệnh một đen, một trắng xuất hiện, ông thấy một bộ còng tay, được gọi là còng đoạt mệnh. Nội tâm Thương Ương Gia Thố đột nhiên có cảm giác an tĩnh chưa từng có, cuộc đời này, ông vẫn chưa đạt được mục đích tu hành, bức màn đang dần khép lại.
Ông gắng sức ngồi dậy, tư duy của ông trở nên thanh tỉnh trước giờ chưa từng có, và một bài thơ như dòng suối chảy trào ra từ lồng ngực:
Ta
Kẻ đệ tử chẳng ra gì nơi cửa Phật
Khi nghiệp hỏa bừng lên
Tẩy tịnh tội nghiệp
Ta khao khát lại được kết Phật duyên
Mắt của trời cao
Dõi nhìn thân phận thấp hèn của ta
Thoát khỏi lớp da trần thế
Để trả hết những oan oán
Ta sau khi được tái sinh
Chỉ mong nhận được sự thương xót của Phật
Ta vẫn muốn quy y trước Phật
Hoàn thành lời nguyện của kiếp sau.
Thương Ương Gia Thố tọa hóa viên tịch bên bờ hồ Thanh Hải. Những binh lính áp giải ông đã mời người hành thiên táng đến an táng cho ông. Những cánh chim trên trời, trong làn gió thổi trên mặt hồ Thanh Hải, đã mang theo cuộc đời 23 năm của Thương Ương Gia Thố tan vào hư không.
Còn về Trác Mã, sau khi báo được mối oán thù từ kiếp trước, thật ra sau lưng Trác Mã cũng có một số sinh mệnh đang tham dự. Có những sinh mệnh cao cấp đã sắp đặt cho cuộc hội ngộ giữa nàng và Thương Ương Gia Thố để thực hiện lời nguyện từ tiền kiếp; có sinh mệnh thuộc cõi dục giới tham dự, và cũng có những sinh mệnh tầng thấp, trong đó bao gồm cả nhân tố hồ ly mê hoặc. Trong tiền kiếp, khi còn là người hái thuốc, Thương Ương Gia Thố từng giết một con hồ ly. Về sau, linh hồn của hồ ly ấy chiếm được thân thể của một một con bạch hồ, vẫn luôn tìm kẻ đã sát hại nó. Khi cuối cùng nó biết được nơi ở của người ấy, nó ngẩng đầu nhìn về cung điện nguy nga, cố tìm mọi cách báo thù, nó còn cầu viện những sinh mệnh dị loại khác. Tuy không dám tiến gần cung điện, nhưng nó lại không chịu buông bỏ.
Thương Ương Gia Thố đã quá dễ dàng để những sinh mệnh muốn báo thù tìm được cơ hội, ông lén lút xuống núi, uống rượu cuồng hoan, rồi còn phạm giới sắc. Nhưng con hồ ly phát hiện, vẫn còn có sinh mệnh đang bảo hộ kẻ thù của nó, nên hồ ly đành phải chuyển mục tiêu sang Trác Mã, dùi vào sơ hở trong đạo lý thế gian. Trác Mã, là một người phụ nữ, trong lòng luôn mong muốn hấp dẫn tình lang, chính nguyện vọng ấy đã chiêu mời những nhân tố khác. Thương Ương Gia Thố, lúc ấy dùng tên giả là Đạt Tang Uông Ba, có phong độ của quý công tử, hào phóng rộng rãi, ông chỉ cảm thấy người tình xinh đẹp quyến rũ, khiến mình rung động, đâu nghĩ đến được những điều khác. Kỳ thực, đằng sau những câu chuyện rối rắm nơi thế gian, luôn có những sinh mệnh đến từ các tầng không gian khác tham dự vào. Số phận của Thương Ương Gia Thố chính là như thế. Vận mệnh ông đã được định sẵn trước cả khi ông sinh ra, đã được an bài rồi. Sinh mệnh một khi đã rơi vào chốn hồng trần, thì không còn tự do nữa, các loại nhân duyên và nghiệp lực đang trói buộc con người.
Khi Thương Ương Gia Thố ngã xuống khỏi điện thờ của Thần, có rất nhiều người cảm thông cho ông. Đặc biệt là các văn nhân mặc khách đời sau, từ góc độ nhân tính và tình dục, đã dành cho ông rất nhiều sự đồng cảm và biện hộ. Có thể nói, Thương Ương Gia Thố không chỉ đánh mất chính mình, mà còn mê hoặc chúng sinh. Người tu luyện xét một sự việc dưới góc độ hoàn toàn khác với người phàm. Là một người tu hành, trong thân thể tồn tại cả Phật tính và ma tính, muốn đi theo con đường nào là do bản thân quyết định. Chấp trước vào tình dục, trong con mắt người đời sẽ cho đó là truy cầu nhân sinh chính thường.Trong mắt người tu luyện, đó là chấp trước cần tu bỏ. Lý ở thế gian là phản lý. Khi phá giới, nhất là giới sắc, thì báo ứng sẽ đến rất nhanh. Ông đã phá hỏng phương pháp tu luyện của một môn, khiến Hộ Pháp không thể bảo hộ được cho ông. Việc ông mất hết vinh hoa phú quý thế gian, gặp tai ương hoạn nạn, là điều không thể tránh khỏi.
Khi viết về Thương Ương Gia Thố, tôi luôn có một loại cảm giác như thế này, một cái tôi thanh tỉnh, đang đứng ở một nơi rất cao trên thiên không, nhìn xuống Thương Ương Gia Thố và khẽ thở dài: “Ôi, đứa trẻ đáng thương…” Cảm giác bi thương ấy đến một cách vô cùng chân thực, không chút gượng ép. Đó là cảm xúc của tôi hiện tại chăng? Hay là trong đó đã hoà lẫn cả tiếng thở dài của vị Lạt Ma ở chùa Triết Bạng? Vị Lạt ma ấy, sau khi trò chuyện thân thiết với Thương Ương Gia Thố, đã tọa hóa viên tịch vào trưa hôm sau. Nguyên thần của ông đã theo Thương Ương Gia Thố đến bên bờ hồ Thanh Hải, chứng kiến ông viên tịch và thiên táng. Sau đó, nguyên thần Lạt Ma lại bước vào luân hồi.
Một con người, tâm nguyện phát ra từ sâu thẳm nội tâm rất quan trọng. Bởi vì nguồn gốc sinh mệnh đáng trân quý, nên dù Thương Ương Gia Thố từng si mê trong hồng trần, từng tạo nghiệp giữa những cám dỗ, nhưng vào khoảnh khắc cuối cùng của đời mình, khi tỉnh ngộ, ông đã phát ra nguyện vọng từ sâu thẳm trong sinh mệnh: được tiếp nối Phật duyên. Phật đã nhìn thấy tấm lòng chân thành đó, đã thương xót ông. Đến thời mạt thế, ông sẽ lại kết duyên với Phật.
(5) Thánh ân của Phật Chủ, giải khai xiềng xích sinh mệnh
Những trải nghiệm và nghiệp lực tích tụ từ tiền kiếp của Lam đã trở thành chướng ngại trong tu luyện đời này của cô.
Cha mẹ của Lam đều là người tu luyện. Mẹ Lam hy vọng Lam sẽ học Pháp một cách nghiêm túc, khi mới 8 tuổi, Lam đã không vui vẻ với điều đó, cô nhìn vào sách Đại Pháp, kết quả là tư tưởng lại lạc đi nơi khác, có những thứ của một bộ tư duy khác đang vận hành, giống như tự động biên tạo ra những câu chuyện, Lam cảm thấy điều đó rất thú vị, rất tốt. Kết quả là bộ tư duy này vẫn cứ đang can nhiễu cô học Pháp. Kỳ thực, khi cô diễn vai Thương Ương Gia Thố, cũng có hai bộ tư duy đang vận hành, Thương Ương Gia Thố một bên niệm kinh Phật, một bên khác thì đầu óc bay nhảy như thiên mã hành không. Đó là một bộ các thứ được tạo ra một cách hữu ý.
Vào năm 2022, Lam từng nói với tôi rằng có một bộ tư duy khác đang can nhiễu cô khi học Pháp. Cô còn nói rằng cô luôn cố tránh mặt tôi, mỗi lần tôi đến nhà, cô nhất định sẽ tìm đủ lý do để ra ngoài, sau đó trong tư tưởng còn cảm thấy vui mừng, mang theo một chút may mắn đắc ý: “Đó, không bị phát hiện!” Về sau, tôi mới biết rằng, tôi từng là sư phụ của Lam. Khi cô tu hành trong Mật tông, khi còn là người hái thuốc, thì sư phụ của cô trong các kiếp đó chính là những đời trước của tôi.
Trong lần gặp mặt năm nay, Lam nói: “Chỉ cần nghe đồng tu B nói rằng địa hình Tây Tạng là một ma nữ phơi xác, là sống lưng cháu liền lạnh toát từng cơn”. Tôi đáp: “Vậy có thể là trong hệ thống sinh mệnh của cháu vẫn còn tồn tại những nhân tố do ma nữ lưu lại”. Khi bão luân, tôi nhìn thấy một cái miệng, môi sẫm đen, đang lẩm bẩm niệm gì đó. Tôi hiểu ra rằng đây chính là lời nhắc nhở tôi, đằng sau Lam, vẫn còn có nhân tố vu thuật.
Lần gặp mặt này, dưới sự an bài của Sư tôn, chính là thời điểm để phá bỏ mê mờ, giải quyết vấn đề.
Vào chiều ngày 28 tháng 9, tôi nói với Lam: “Cháu từng là nữ Thần của hồ Ngọa Đường”. Lam đáp: “Khi phát chính niệm, cháu từng nhìn thấy một hồ nước xanh lam pha lục, trên mặt hồ hiện ra khuôn mặt của một người phụ nữ”.
Vào ngày 29 tháng 9, tôi biết được rằng Lam từng là vị Phật sống Thương Ương Gia Thố, tôi đã nói điều đó với Lam, và Lam cũng biết được toàn bộ cuộc đời của Thương Ương Gia Thố. Khi một lần nữa lại nhắc đến Thương Ương Gia Thố, Lam nói: “14 tuổi tiến nhập cung điện Bố Đạt La, tuổi đó đã lớn rồi, chuyện thế gian cái gì cũng hiểu cả”. Câu nói ấy có lẽ giống như lời biện hộ mà người đời thường dành cho Thương Ương Gia Thố: Khi tình cảm mới chớm nở thì bước vào tu luyện; lúc thanh xuân rực rỡ thì phạm giới sắc, vị hòa thượng này, đáng được cảm thông.
Sáng ngày 3 tháng 10, tôi thấy người mẹ trên Thiên Thượng của Lam xuất hiện, chính là người mẹ sinh ra nguyên thần của cô. Bà mang vẻ đẹp thanh khiết linh nhã, thuần khiết rực rỡ, ánh mắt đầy quan tâm và lo lắng của bà đang chăm chú nhìn Lam. Tôi biết rằng bà đang mong mỏi Lam sớm quay trở về Thiên giới. Cũng trong ngày hôm đó, tôi nhìn thấy trong trường không gian của Lam xuất hiện ma tôn. Sư tôn đã nắm lấy ma tôn trong tay và tiêu hủy nó. (ma tôn khi ở các không gian khác nhau thì hình tượng cũng khác nhau: có cái mang hình tượng của ma, thân thể của ma ở bất cứ bộ phận nào cũng có ma vương và ma chúng cư ngụ; có cái mang hình dáng một bình chứa, và hình tượng tôi nhìn thấy chính là chiếc bình ấy; có cái mang hình tượng ngọn núi; có nơi lại hiện ra như ma nữ. Tóm lại là hình tướng không giống nhau).
Tôi còn nhìn thấy một cảnh tượng từ thời kỳ rất xa xưa nơi thiên giới, có rất nhiều vị Thần mang hình dạng phương Tây (có cánh) xuất hiện, họ đang đứng trước Chủ Thần, lập lời thệ nguyện. Tôi đã thấy trong đó có cả Lam. Tôi hiểu ra rằng, trong nền văn minh phương Tây lần này, Lam từng là một vị Thần thuộc thể hệ Thần phương Tây. Sau khi phát chính niệm xong, Lam nói mơ hồ thấy những đôi cánh đang vỗ nhẹ.
Trong lần phát chính niệm ngày 4 tháng 10, tôi thấy người hái thuốc Lý Ba đang leo núi, nhưng không leo lên được, anh ta liền oán trách sư phụ, mắng cả ngọn núi. Kết quả, anh ta rơi vào một khe núi, tiến vào một không gian khác, nơi đó có núi Ma Bàn Sơn, trong núi Ma Bàn Sơn có một con cáo đã tu luyện hàng nghìn năm. Ở Thượng Giới, có một vị ác thần tên Hồng La Đại Tiên đang bảo hộ con cáo đó. Kỳ thực, núi Ma Bàn Sơn tương ứng với một cơ chế được cựu thế lực an bài ở tầng vi quan hơn, gọi là “đĩa ma”.
Trong một lần phát chính niệm tiếp đó, tôi nhìn thấy Sư tôn xuất hiện cùng với chư Thần, cảnh tượng tráng quan giống như màn trời trong Thần Vận. Sư tôn đứng trên một cỗ xe bánh vàng kim, bốn vị Thiên Tướng cưỡi ngựa chia ra bốn hướng, từ họ phát ra những luồng ánh sáng trắng, cùng xoắn chặt lấy một khối vật thể. Sư tôn vung tay đánh ra một đạo quang, tia sáng ấy bắn trúng vào khối vật kia. Khối vật trắng mờ mịt ấy không ngừng nở bung như hoa, từng lớp từng lớp nổ tung ra, có thứ gì đó đang rơi xuống địa ngục. Tôi nghĩ, có lẽ đó là những thứ tà ác từ thời viễn cổ từng bị ép xuống Tam giới đã bị tiêu hủy rồi.
Trong chính niệm, tôi còn nhìn thấy một cái bếp lò, bên trên có một nắp sắt tròn, từng vòng từng vòng khít chặt không kẽ hở. Công giáng xuống nắp mà bếp lò vẫn không hề lay chuyển. Tôi không hiểu điều này có ý nghĩa gì. Rất nhanh sau đó, tôi thấy Sư tôn dùng tay nhấc bật toàn bộ nắp lò, bên trong lộ ra những sinh vật như hồ ly trắng, gà lôi và nhím, những thứ này cuối cùng cũng không còn nơi ẩn náu, và bị tiêu diệt. Sau đó, tôi còn nhìn thấy một cỗ chiến xa được che chắn rất kín. Một luồng sức mạnh cường đại đã bổ đôi chiến xa đó. Tôi thấy bốn chân chiến xa là chân rùa. Tôi hiểu ra chiến xa này đại biểu cho những thứ sắc dục. Sau khi Sư tôn đã giải quyết xong những rắc rối trong tiền kiếp của Lam, Ngài cùng chư Thần rời đi.
Trong những lần phát chính niệm sau đó, tôi cảm nhận được vẫn còn một số sinh mệnh bất hảo đang can nhiễu Lam, và những sinh mệnh này cũng đã bị thanh lý. Trong quá trình giúp đỡ Lam, ngoài sự can nhiễu về thân thể, tôi còn cảm nhận được sự can nhiễu của ma sắc. Sau này, tôi hỏi Lam: “Khi trong tư tưởng xuất hiện sự can nhiễu của những thứ sắc dục, trạng thái khi đó như thế nào?” Lam trả lời: “Cảm giác giống như có thứ gì đó ‘bùm’ một cái nổ tung ra vậy”. Tôi nghĩ đây hẳn là loại nghiệp lực tích tụ lâu ngày tạo thành khối.
Tôi nói với Lam: “Có phải cháu thường hay xuất hiện niệm đầu xấu không?” Lam nói: “Loại niệm đầu đó rất mơ hồ, là niệm đầu xấu”. Tôi nói: “Những nhân tố đằng sau cháu đang bức hại thân thể dì”. Lam nói: “Cháu biết rồi”. Tôi lại nói: “Ly cà phê mà cháu pha cho dì cũng có vấn đề”. Lam nói: “Lúc đang đổ sữa vào cà phê, trong đầu cháu chợt nảy ra một ý nghĩ, như thể đang pha thuốc độc vậy”. Tôi nói: “Cà phê đó rất khó uống. Dì đã do dự, nhưng vẫn uống hết”.
Tôi nói: “Những nhân tố sau lưng cháu còn muốn ra tay với con của dì, nhưng đã không thực hiện được. Đứa trẻ đang học trong phòng, sinh mệnh xấu đã bị Hộ Pháp tiêu diệt. Dù sao thì đứa trẻ cũng có Thần Hộ Pháp bảo vệ, có Sư tôn che chở”. Lam nói: “Hôm qua, đột nhiên trong đầu cháu nảy ra một ý nghĩ xấu: muốn hại con của dì. Sau khi nghĩ vậy, cháu nghĩ, không đúng, không thể làm chuyện xấu”. Tôi nói: “Khi những sinh mệnh kia làm chuyện xấu, chúng đả xuất ra ý niệm để cháu biết, mục đích là để khiến việc xấu đó tính lên người cháu. Cháu nhất định phải kịp thời phủ định và thanh lý chúng, không được thừa nhận chúng”. Lam gật đầu đồng ý.
Lam hỏi tôi và đồng tu B rằng nên tu luyện như thế nào. Chúng tôi khuyên: “Phải tu từ từng ý từng niệm, không được chạy theo những niệm đầu bại hoại đó. Cần nhận thức rõ rằng đó không phải là suy nghĩ thực sự của bản thân, phải giải thể những tư tưởng không tốt kia. Chúng tôi khuyên Lam học thuộc “Chuyển Pháp Luân”, tư tưởng đặt trong Pháp, phải thanh tịnh. Nếu thời gian gấp rút, cho dù chỉ học thuộc một bài thơ trong Hồng Ngâm, đọc đi đọc lại nhiều lần, cũng có thể giúp bài trừ những niệm đầu xấu xa kia. Lam đã đồng ý.
Trong kiếp này, bên cạnh Lam có một người bạn thân tên là Lê. Cô là một cô gái vô cùng tài hoa. Sau khi quen biết nhau, Lam và Lê cùng thuê một phòng trọ, cùng chia sẻ tiền thuê phòng. Lê là một cô gái có cá tính và tài năng, vậy mà lại sống rất hòa hợp với Lam. Ngay cả mẹ của Lê cũng cảm thấy kỳ lạ, bà nói: “Con gái tôi rất khó ở chung với người khác lâu như vậy mà không xảy ra tranh cãi”. Tôi nói với Lam: “Lê chính là người tình trong kiếp trước của cháu ở Lạp Tát, chính là Trác Mã, cũng là cô gái Phương Khảm mà cháu từng cứu. Vì những oán hận tình thù trong lịch sử, Trác Mã khi đó đã quyến rũ Thương Ương Gia Thố. Khi oán hận được hóa giải, hai người lại tái ngộ. Duyên phận nơi thế gian quả thật là kỳ diệu”.
Trong luân hồi đời đời kiếp kiếp, con người đều sẽ tạo nợ nghiệp, có những món nợ nghiệp liên quan đến rất nhiều bối cảnh phức tạp. Những rối ren chồng chất ấy sẽ hợp lại trở thành phiền phức khiến người tu luyện khó vượt qua. Thế nhưng, rốt cuộc vẫn có sự an bài ở tầng cao hơn, đến từ vi quan, mang theo uy lực cứu độ chúng sinh. Tất cả can nhiễu và trở ngại cuối cùng cũng sẽ tan biến thành tro bụi, sinh mệnh đến từ tầng cao sẽ được tháo bỏ xiềng xích, và sẽ bước hướng về con đường rộng mở, quang minh.
Do đó mới nói, cho dù ở bất kỳ thời điểm nào, chúng ta đều phải cảm tạ Sư tôn vĩ đại. Sư tôn đã giúp đệ tử hóa giải những oán hận và nghiệp lực từ tiền kiếp, giải quyết những rắc rối trên con đường tu luyện của đệ tử. Những rắc rối lớn ấy, thật sự chỉ có Sư tôn mới có thể giải quyết được!
Một lần nữa, con xin thành tâm cảm tạ Sư tôn vĩ đại! Cảm ân thánh duyên với Sư tôn, đã hóa thành cuộc gặp gỡ Sư tôn trong đời này. Có thể tu luyện trong Đại Pháp chưa từng có từ cổ chí kim, thật là vinh dự biết bao! Nhờ có Đại Pháp, sinh mệnh được thăng hoa; nhờ có Sư tôn, sinh mệnh trở nên vô cùng may mắn; nhờ được kết nối bằng thánh duyên, các đệ tử Đại Pháp mới có thể gặp được nhau trong lịch sử ngày hôm nay.
Nguyện rằng chúng ta không phụ lời thệ ước, không phụ lòng chúng sinh, không phụ kỳ vọng mong mỏi của Sư tôn!
Lời kết:
Khi bài viết này sắp kết thúc, tôi nhìn thấy trong thiên vũ xuất hiện một vị Thần Tiên, mặc đạo bào màu tím. Ông nói: “Những gì cô nhìn thấy chưa đầy đủ, đằng sau những con động vật đó còn có thể hệ thần bại hoại, chúng cũng đã bị thanh trừ rồi”. Tôi nói: “Cảm ơn ngài đã nhắc nhở. Những điều tôi thấy chỉ là cục bộ, không thể nhìn toàn cảnh sự việc trong mọi không gian tầng thứ và các nhân tố phía sau. Nhưng tôi tin chắc rằng, giải quyết sau cùng và triệt để mọi việc đều phải dựa vào Sư tôn vĩ đại!”
Ngoài ra, tôi còn muốn bổ sung thêm một vài điều.
Đồng tu A chính là công chúa Xích Tôn trong lịch sử, còn đồng tu B là công chúa Văn Thành. Trong quá trình công chúa Xích Tôn xây dựng chùa Trấn Ma, thân thể đã chịu tổn thương rất lớn. Còn công chúa Văn Thành trong quá trình tu sửa chùa Trấn Ma, ở các khớp tay chân đều có cảm giác bị trói buộc. Lần này, trong quá trình thanh trừ không gian của Lam, tôi tình cờ thấy sự trói buộc ở mắt cá chân của đồng tu B cũng đang được tháo gỡ. Tôi nghĩ: Có lẽ là do trong lịch sử họ từng lập nguyện cứu độ chúng sinh, nên khi hạ thế đã chia sẻ gánh vác một số điều cho nhau. Đương nhiên, cũng không loại trừ khả năng có nhân tố đảo loạn do cựu thần an bài.
Khi mẹ của Lam qua đời, Lê đã vượt hàng ngàn dặm đến viếng. Đồng tu B đã giảng chân tướng cho cô ấy, và cô đã thoái xuất khỏi các tổ chức của tà đảng. Lê vốn mang lại cho người ta cảm giác sắc sảo, thông minh, nhưng trước mặt người tu luyện, cô lại rất chân thành.
Vị trụ trì Xích Ba của chùa Triết Bạng trong quá khứ, trong kiếp này chúng tôi lại gặp nhau, ở đây gọi là đồng tu C. Đồng tu C vì tránh né sự bức hại của tà ác nên từng đến ở khu vực của tôi. Mọi người gặp lại nhau, vui vẻ trò chuyện, nào ngờ tất cả đều có uyên nguyên từ tiền kiếp. Nguyện vọng “giúp một tay” của đồng tu C, quả thật đã được thực hiện trong đời này.
Năm nay, khi tôi ở cùng Lam, tôi vô tình nhìn thấy trên thiên vũ những đồng tu đã rời thế gian, họ đang lặng lẽ ngồi nhìn chúng tôi. Có người khoác tấm vải vàng, có người mặc đạo bào tím. Tôi còn thấy được các đồng tu tại địa phương của tôi, trong đó có cả cha mẹ của Lam. (Cha của Lam bị bắt cóc và bức hại vào năm 2008, chẳng bao lâu sau thì qua đời). Tôi chợt nhớ đến lời Sư tôn từng giảng:
“Những ai sớm rời đi [khỏi thế gian], dù thực thi được tốt hay thực thi không tốt, hoặc vì nguyên nhân nào đó, những đệ tử Đại Pháp ấy đều đang ở một không gian đặc biệt, đang ở đó tĩnh tĩnh quan sát chư vị, đang ở đó đợi kết thúc cuối cùng”. (Giảng Pháp tại Washington DC năm 2018)
Gần đây, tôi đã xem video ca khúc chủ đề bộ phim “Trở lại Thành Thần” trên trang Chánh Kiến Net, và thu được lợi ích rất lớn, khiến tôi vô cùng chấn động. Cuối video, có dòng chữ hiện lên: “Đây là câu chuyện Thần thoại của tôi và bạn, mong rằng bạn sẽ viết nốt đoạn kết cho câu chuyện này”.
Lúc này, tôi và Lam ở cách xa nhau, tôi muốn nói: Lam à, dì đã biết được tiền kiếp của cháu, đã gặp được cháu trong đời này, đây là một câu chuyện thần thoại mang tầm sử thi. Mỗi linh hồn nơi thế gian con người đều đến từ nơi cao quý, đều mang theo tín tức của vũ trụ, mang theo lời thệ ước đã bị phong ấn. Đừng góp sóng theo dòng, đừng mê lạc bản thân. Hãy gánh vác sứ mệnh, để ánh sáng vi quan trong sinh mệnh tỏa sáng từ trong ra ngoài, làm mới từng tầng thiên vũ liên đới, không cô phụ sự chờ mong và hy vọng của chúng sinh, không cô phụ lòng từ bi cứu độ của Sư tôn!
Nguyện cho bạn và tôi đều tinh tấn, cùng nhau viết tiếp chương cuối của câu chuyện thần thoại này.
Nguyện cho chúng sinh bước lên chiếc thang từ trời bắc xuống nhân gian, bước về những ước nguyện từ tiền kiếp, bước lên con đường trở về, để sinh mệnh một lần nữa trở lại thành Thần!
Nguyện cho người tu luyện bước đi vững chắc trên con đường tu luyện của chính mình!