Tác giả: Hồ Nãi Văn
[ChanhKien.org]
Trung y sử dụng các loại phương pháp như dùng châm cứu, cứu ngải và thuốc để điều trị bệnh. Nhưng chúng ta đều biết rằng sử dụng thuốc là công việc của nhà chuyên môn, châm cứu cũng là công việc của nhà chuyên môn; nếu không phải là nhà chuyên môn có thể học châm cứu không? Thầy lang chân đất đã tồn tại từ thời cổ đại. Họ không dễ dàng học được cách tìm huyệt đạo, vì vậy các vị Thánh thời xưa đã dạy một số phương pháp tìm huyệt đạo đơn giản và rõ ràng, đồng thời truyền dạy những khía cạnh tinh tế nhất của châm cứu cho người thường bằng nhiều phương pháp đơn giản.
Một người bình thường chỉ cần có hứng thú đến y thuật, thì có thể nhanh chóng học được một số chiêu thuật châm cứu từ sư phụ và cũng có thể chữa được rất nhiều bệnh. Khi đã tìm được huyệt đạo, có thể dùng ngải cứu để cứu, dùng kim để châm hoặc xoa bóp bằng ngón tay, nhiều bệnh có thể được chữa khỏi nhanh chóng. Như vậy, khối lượng công việc của các danh y có thể được giảm bớt. Các phương pháp này được truyền dạy từ đời này qua đời khác và cũng truyền ra một số phương pháp tìm huyệt đạo rất đặc thù.
Một huyệt đạo châm cứu khá nổi tiếng trong lịch sử được gọi là “huyệt A Thị”, huyệt A Thị đã được Tôn Tư Mạc ghi chép trong “Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương” của ông vào thời nhà Đường.
Thế nào gọi là “huyệt A Thị”? Tức là khi bị bệnh, có thể dùng ngón tay ấn xung quanh vùng nhiễm bệnh để tìm điểm đau đặc biệt, điểm đau mà ngón tay ấn vào đó chính là “huyệt A Thị”. Bởi vì khi ấn ngón tay vào điểm đau, bệnh nhân sẽ kêu lên: a…a…a…đúng rồi…đúng rồi (âm Hán Việt: a…a…a… thị…thị), nên nó được gọi với cái tên đặc biệt là “huyệt A Thị”. Huyệt A Thị còn được gọi là “huyệt Thiên Ứng”, tại sao lại gọi là “Thiên Ứng”? Ý nghĩa chính là khi có bệnh thì sẽ xuất hiện cái huyệt đó ở vị trí đối ứng.
Điều kỳ diệu là khi một người mắc bệnh, trên cơ thể sẽ xuất hiện một huyệt vị ở vị trí tương ứng có khả năng chữa lành bệnh, cho nên, ta có thể coi đó là Ông Trời ban cho và gọi nó là “huyệt Thiên Ứng”.
Ngoài huyệt A Thị, còn có một số huyệt đạo châm cứu khác khó sử dụng hơn nhưng chắc chắn có thể tìm thấy, nhưng khác với cách tìm huyệt A Thị. Trong “Châm cứu đại thành” đã chọn một số huyệt đạo từ “Y học nhập môn”, chẳng hạn như huyệt Tứ Hoa, huyệt Cao Hoàng, huyệt Kỵ Trúc Mã, huyệt Cứu Lao, v.v.
1. Thôi Thị chọn huyệt Tứ Hoa
Phương pháp tìm huyệt Tứ Hoa được gọi là “Phương pháp tìm huyệt Tứ Hoa của Thôi Thị”. Đúng là nhìn chữ mà biết tên gọi, “Tứ Hoa” có nghĩa là có bốn huyệt đạo. Làm thế nào để chọn chúng?
Trước tiên hãy nói về vị trí giải phẫu, phần thịt mềm phía sau đầu gối được gọi là “khoeo chân”, và có một huyệt đạo ở giữa khoeo gọi là “huyệt Ủy Trung”. Lấy một sợi dây và kéo căng từ ngón chân cái qua lòng bàn chân đến gót chân, tiếp tục kéo đầu dây còn lại đến khoeo và đo đến huyệt Ủy Trung. Rồi dùng chiều dài của sợi dây này, chọn điểm giữa của nó, đặt lên cổ, lên huyệt Thiên Đột ở yết hầu, sau đó buông thả sợi dây ra sau lưng và treo sau đầu, dùng bút mực đánh dấu nơi giao nhau của hai điểm. Ngoài ra, đo chiều dài miệng bệnh nhân, tức là một “thốn khẩu”, có thể yêu cầu bệnh nhân ngồi xuống, ngậm miệng lại và không dùng lực, đo chiều dài từ khóe miệng trái sang khóe miệng phải, dùng thước kẻ hoặc sợi tre đo chiều dài, cắt thành một tờ giấy hình vuông và chọc một lỗ ở giữa tờ giấy, lỗ này nên được đặt tại vị trí vừa đánh dấu bằng chấm mực, vị trí bốn góc giấy chạm vào nhau chính là huyệt Tứ Hoa.
Vào thời kỳ đầu của Trung Quốc, phụ nữ có tục bó chân, nếu chân đã bị bó, thì không thể dùng phương pháp này để đo chiều dài được nữa. Vì vậy các nhà châm cứu sẽ dùng một cách đo khác, đó là đo từ “huyệt Kiên Ngung” nằm ở giữa xương đòn và mỏm vai và theo cánh tay đến đầu ngón giữa, độ dài này cũng được chấp nhận. Tôi đã tự mình thử, độ dài của hai cách là như nhau.
Huyệt Tứ Hoa có tác dụng gì? Nó có thể chữa “ngũ lao thất thương, khí hư huyết nhược, cốt chưng trào nhiệt, khái thấu đàm suyễn, uông luy cố tật” (Tạm dịch: năm chứng mệt mỏi, bảy loại thương tổn, khí hư huyết nhược, xương cốt nóng âm ỉ, ho hen đờm suyễn, và các bệnh mãn tính).
Nếu bất kỳ một trong năm cơ quan nội tạng bị bệnh, bởi vì chữa lâu mà không khỏi, nên nó sẽ trở thành một căn bệnh mãn tính khó chữa, được gọi là bệnh “lao”. “Can, tâm, tỳ, phế và thận” đều có thể bị chứng mệt mỏi, nên được gọi là “ngũ lao”. Tình cảm không lương thiện của một người có thể gây ra bệnh tật, và khi ở mức thái quá, thì có thể dẫn đến “hư tổn”; hư tổn sẽ làm tổn hại đến “tinh, thần, hồn, phách, trí, ý, chí”, gọi là “thất thương”. Nếu bị lao mãn tính, thì sẽ dẫn đến khí hư. Đặc biệt, bệnh nhân âm hư thường có hiện tượng sốt vào buổi chiều, gọi là “bốc hỏa”, lấy nhiệt kế đo nhiệt độ thì không cao lắm, nhưng bản thân người bệnh sẽ cảm thấy rất nóng, như thể từ trong xương phóng ra, nên gọi là “cốt chưng”. Người bị bệnh lao chủ yếu là bệnh phổi, trước đây thường được gọi là “phế lao” (lao phổi), người bị lao phổi thường bị chứng bốc hỏa, ho và hen suyễn. Huyệt Tứ Hoa có thể dùng để chữa trị “ngũ lao thất thương”.
Huyệt Tứ Hoa cũng có thể chữa “uông luy cố tật”, uông luy tức là người bệnh rất gầy yếu, phần lớn liên quan đến bệnh mãn tính lâu ngày không được chữa khỏi.
Sử dụng phương pháp đo trên để tìm huyệt Tứ Hoa, thì có thể dùng phương pháp cứu ngải để chữa trị bệnh. Theo châm cứu lâm sàng, huyệt Tứ Hoa này chính là “Đảm Du” và “Cách Du”. Huyệt Đảm Du nằm ở đốt sống thứ mười cách mỗi bên khoảng một thốn rưỡi, còn huyệt Cách Du nằm ở đốt sống thứ bảy khoảng một thốn rưỡi, tổng cộng có bốn huyệt.
2. Huyệt Cao Hoang
Xin giới thiệu một phương pháp đơn giản để tìm huyệt “Cao Hoang”. “Bệnh nhập Cao Hoàng” được dùng để mô tả một căn bệnh rất khó chữa, và huyệt “Cao Hoang” nằm cách đốt sống thứ tư của cột sống ba thốn, cạnh xương bả vai.
Yêu cầu bệnh nhân ngồi trên mặt đất, co chân lại, đầu gối chạm ngực, sau đó vòng tay ôm lấy đầu gối mình, có thể mở xương bả vai ở lưng và cho phép bệnh nhân chạm vào cột sống, sau khi chạm vào đốt sống thứ tư, di chuyển xuống một phân, tức là hai phân trên đốt sống thứ năm. Dùng mực đánh dấu điểm này, sau đó tại vị trí khoảng ba thốn về phía bên kia của điểm này chính là huyệt “Cao Hoang”.
Khi ấn mạnh vào huyệt Cao Hoang, bệnh nhân sẽ cảm thấy đau ở đầu ngón tay, nơi đây chính là huyệt vị thực sự. Ở đây có thể cứu ngải từ 100 đến 1.000 mồi. Lấy một viên ngải cứu hình nón tam giác, nhỏ hơn hạt gạo, đốt ngải cứu trên đó, mỗi lần cứu một viên ngải cứu gọi là “nhất trang” (một mồi), huyệt Cao Hoang có thể dùng viên ngải để cứu từ 100 đến 1.000 viên.
Vì huyệt Cao Hoang nằm ở phía sau ngực, sau khi châm cứu, có thể cảm thấy khí huyết bị ứ trệ và hướng lên trên, nhưng ta có thể châm cứu huyệt Khí Hải và Túc Tam Lý, hỏa sẽ được dẫn từ trên xuống. Huyệt Khí Hải ở dưới rốn, huyệt Túc Tam Lý nằm dưới xương bánh chè.
Huyệt Cao Hoang có thể dùng để điều trị tình trạng dương khí quá yếu, gọi là “Dương khí suy nhược”. Nó còn có thể dùng để điều trị “nhiều loại cảm lạnh do gió, xuất tinh về đêm, khó thở, nấc cụt, khó nuốt (chứng ế cách), phát điên”. Người xưa nói rằng sau khi cứu ở huyệt Cao Hoang, không được buông thả dục vọng.
3. Huyệt Kỵ Trúc Mã
Lại tiếp tục kể về một huyệt đạo rất đặc biệt, được gọi là huyệt “Kỵ Trúc Mã”.
Nam bên trái, nữ bên phải, dùng dải tre đo chiều dài từ đường cong khuỷu tay đến ngón giữa, sau đó cắt dải tre. Lại dùng những dải tre đo vị trí một thốn cách đồng thân thốn. Đồng thân thốn (hay còn gọi là tấc đồng thân) là độ dài khoảng cách giữa hai đầu của hai đường rãnh ngang được tạo thành bởi cách cong ngón giữa chạm vào đầu ngón cái tạo thành vòng tròn, nam tay trái nữ tay phải.
Bệnh nhân được yêu cầu cởi quần áo ra và ngồi trên một cây sào tre như đang cưỡi ngựa. Sau khi bệnh nhân đã cưỡi ổn định, hai người từ từ nhấc cây sào tre lên sao cho chân bệnh nhân cách mặt đất khoảng ba thốn. Hai người nữa ở hai bên giữ chặt bệnh nhân. Dùng các dải tre dài đã đo trước đó dán vào cây gậy tre và dựng thẳng đứng, đo từ xương cụt dọc theo cột sống đến cuối các dải tre, sau đó dùng mực đánh dấu, từ vị trí này, cách mỗi bên khoảng một thốn rưỡi, đó chính là vị trí huyệt đạo, và phải châm cứu bảy lần. Theo “Châm cứu tụ anh” nói rằng, huyệt đạo này phải dài một thốn rưỡi, và đó là huyệt Cách Du và huyệt Can Du.
Huyệt “Kỵ Trúc Mã” này dùng để chữa các vết loét và bệnh lao hạch ở vùng cổ như “nhọt độc, loét ác tính, nhọt ở lưng, tràng nhạc và các bệnh liên quan đến phong”.
4. Huyệt Cứu Lao
Chúng ta hãy xem tiếp một huyệt đạo nữa gọi là “Cứu Lao”. Lao là căn bệnh kéo dài rất lâu cũng không thể chữa khỏi, tức là bệnh mạn tính kéo dài. “Huyệt Cứu Lao” có thể chữa chứng lòng bàn tay, lòng bàn chân nóng, đổ mồ hôi đêm, mệt mỏi về tinh thần, đau xương khớp, ho ban đầu sau đó khạc ra mủ và máu, cơ bắp gầy yếu, da xanh xao vàng vọt, ăn ít, mệt mỏi không có sức, v.v.
Bảo bệnh nhân ngồi thẳng, dùng một cọng cỏ dài hoặc sợi dây thừng, đo từ đầu ngón chân giữa của bàn chân trái đối với nam và chân phải đối với nữ, qua lòng bàn chân, lên đến huyệt “Ủy Trung”, cắt cọng cỏ hoặc sợi dây thừng, sau đó dùng cọng cỏ đo từ chóp mũi, qua chính giữa đầu, rẽ tóc ra, đo đến cột sống, dùng mực đánh dấu nơi đầu cọng cỏ, sau đó dùng cọng cỏ khác đo một thốn khẩu, đo chiều dài của thốn khẩu này đến tận cùng của cọng cỏ nằm cạnh chấm mực ở hai bên chính là huyệt Cứu Lao. Khi dùng ngải cứu vào huyệt này, số mồi ngải cứu sẽ bằng số tuổi của bệnh nhân cộng một. Ví dụ, nếu bệnh nhân 30 tuổi, sẽ dùng 31 mồi để cứu. Bởi vì huyệt này chính là huyệt Tâm Du, mà tâm lại chủ quản huyết, cho nên cứu ngải mới có hiệu quả.
Trí tuệ cổ xưa của Trung y không đòi hỏi bất kỳ đạo lý sâu xa nào cả, cũng không có khuôn khổ kiến thức nào, mà được truyền lại một cách chậm rãi trong dân gian, khiến thế hệ sau phải cảm phục và kính trọng tổ tiên.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778