Loạt bài Mexico 2012 (15): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.1)
Tác giả: Vương Bân
[ChanhKien.org]
Trong thời kỳ thế chiến lần thứ hai, một binh sĩ của quân đội Hoa Kỳ là Heber đã bị tách khỏi đồng đội và bị bỏ lại trong khu rừng rậm của Miến Điện trong khi tác chiến với quân đội Nhật ở Miến Điện. Một ngày nọ, anh ta vô ý phát hiện ra một lối vào hang động bị tảng đá khổng lồ che khuất. Heber mạo hiểm tiến vào hang động, đột nhiên phát hiện bên trong được chiếu sáng bằng nguồn sáng nhân tạo như ban ngày, giống hệt như một thành phố khổng lồ dưới lòng đất. Khi Heber vẫn đang kinh ngạc nhìn thì đột nhiên bị bắt lại và bị nhốt trong bốn năm, sau đó mới tìm được cơ hội thoát ra ngoài. Theo ông, vương quốc dưới lòng đất này có bảy đường hầm thông lên mặt đất và có lối ra vào bí mật phân bố ở các nơi khác nhau trên thế giới. Năm 1963, trong lúc hai thợ mỏ người Mỹ đang đào than đã phát hiện ra một đường hầm. Họ thuận theo đường hầm một mạch đi xuống, cuối cùng đã tìm thấy một cánh cửa khổng lồ ở cuối đường hầm. Sau khi mở cửa, họ phát hiện ra một cầu thang bằng đá cẩm thạch. Vì sợ hãi, hai người thợ mỏ này đã không dám đi xuống sâu hơn. Mà cũng vào thời kỳ đó, ở nước Anh, trong khi một vài người thợ mỏ đang khai thác một đường hầm thì nghe thấy tiếng thiết bị máy móc di chuyển dưới lòng đất vọng đến. Một thợ mỏ cho biết, họ còn phát hiện ra một cầu thang thông xuống một cái giếng ngầm, khi đến cuối cầu thang, tiếng thiết bị máy móc trở nên rõ ràng hơn. Sau đó những người này tưởng rằng mình đã nhìn thấy ma nên sợ hãi và đã bỏ chạy khỏi đường hầm. Khi họ gọi một lượng lớn công nhân đến chuẩn bị tìm hiểu xem rốt cuộc là chuyện gì thì cầu thang và cửa xuống giếng ngầm đã mất tích không dấu vết. Ngoài ra một số nhân viên thăm dò dầu khí và những nhà thám hiểm đều phát hiện thấy dưới lòng đất có người khổng lồ.
Hình tưởng tượng thế giới dưới lòng đất( Agartha)
Vương quốc dưới lòng đất Agartha
“Agharta” là một thế giới dưới lòng đất có nền văn minh cao độ trong truyền thuyết. Theo truyền thuyết, dưới lòng đất có vô số hang động, đường hầm và mạng lưới hành lang ngầm quanh co khúc khuỷu giao nhau, hơn nữa còn chôn giấu bí mật của nền văn minh cổ đại và vô số bảo tàng quý giá. Năm 1906, William Reed đã cho ra mắt cuốn “Ảo ảnh vùng cực”, trong đó ông tuyên bố rằng không ai có thể khám phá ra Bắc Cực và Nam Cực vì chúng không tồn tại và chúng là lối vào thế giới dưới lòng đất. Marshall Gardner (bút danh của nhà văn, nhà khoa học Martin Gardner) đã viết một cuốn sách vào năm 1913 có tựa đề “Hành trình vào bên trong Trái Đất”. Trong cuốn sách ông đã cam đoan rằng bên trong lõi rỗng của Trái Đất có một Mặt Trời có đường kính lên tới 600 dặm. Gardner cũng tuyên bố rằng ở hai cực của Trái Đất có những khe hở rộng.
Trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Hitler đã vô cùng thèm khát những kho báu vô tận và kỹ thuật cực kỳ tiên tiến rất có khả năng tồn tại ở thế giới dưới lòng đất. Ông ta cũng từng nhiều lần cử đội khảo sát đến Tây Tạng, Nam Bắc Cực, thậm chí trà trộn vào Mỹ. Một số thành viên Đức quốc xã còn chắc chắn rằng ai tìm ra thế giới dưới lòng đất trước thì người đó có thể nắm quyền chủ động cuộc chiến. Tại châu Mỹ, hai đội khảo sát của Mỹ và Đức đã phát động một cuộc chiến tranh đoạt, tình tiết giống hệt như trong bộ phim “Indian Jones” của đạo diễn Hollywood nổi tiếng Spielberg.
Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng và sau đó Mỹ tuyên chiến với Nhật Bản, Chiến tranh Thái Bình Dương từ đó bùng nổ. Sau đó Đức cũng tuyên chiến với Mỹ. Khi trận chiến đang như nước sôi lửa bỏng, tổng thống Roosevelt đã giao cho vợ chồng David Lamb một nhiệm vụ đặc biệt, cố gắng tìm ra Vương quốc dưới lòng đất nhanh nhất có thể nhằm thu được một lượng lớn kho báu vàng v.v., từ đó giành được ưu thế dẫn đầu chiến lược. Sau khi vợ chồng David Lamb nhận được lệnh, đã dẫn đầu một đội khảo sát của Mỹ tới rừng rậm Chiapas ở Mexico để tìm lối vào hành lang dưới lòng đất. Vào tháng 3 năm 1942, vợ chồng Lamb đã được mời về Nhà Trắng để báo cáo trước Tổng thống về quá trình khảo sát của họ. Dựa theo trí nhớ của vợ chồng Lamb, khi họ đang đi xuyên qua khu rừng nhiệt đới ở địa phương, họ gặp phải những người Indian có làn da xanh trắng đang canh giữ lối vào hành lang dưới lòng đất, đồng thời phát hiện ra manh mối về lối vào bí mật. Nhưng những người Indian này đã bao vây đoàn khảo sát trong khu rừng nhiệt đới và nghiêm khắc ra hiệu cho họ lập tức rời khỏi. Người Indian dẫn đường của vợ chồng Lamb cho biết họ là hậu duệ của người Maya, là một nhánh của bộ tộc Indian, gọi là người Lacandons. Họ đã canh giữ thánh địa này qua nhiều thế hệ và đó là lối vào Vương quốc ngầm “Agharta”. Không cho phép bất kỳ ai bước vào cấm địa nửa bước. Hai vợ chồng chỉ đành thất vọng quay về. Vợ chồng Lamb không thể bước vào đường hầm dưới lòng đất do người Lacandons canh giữ.
Trên thực tế, đối với nước Đức tại thời điểm đó, hành động của nước Mỹ đã quá lỗi thời. Hitler và Tổng tư lệnh Gestapo – Himmler từ lâu đã bị hấp dẫn bởi những điều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Họ đã cử một lượng lớn những đội thám hiểm đi khắp thế giới. Đội thám hiểm của Hitler tới châu Á đã phát hiện ra một cuốn sách tiếng Phạn, trong sách ghi lại rất chi tiết câu chuyện về Vương quốc ngầm Agharta. Đồng thời nhắc đến một phương tiện được mệnh danh là “chiếc xe của Thần” có thể bay lơ lửng trong đường hầm một cách kỳ diệu. Một năm trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cũng vào năm 1938, Đức Quốc xã đã từng cử đi một đoàn thám hiểm bao gồm 82 nhà khoa học và học giả tiến xuống Nam Cực. Năm 1942, Hitler đã bí mật đưa một nhóm tăng nhân Lạt Ma Tây Tạng tới Berlin và dò hỏi các Lạt Ma chuyện liên quan đến Shangri-La.
Tìm kiếm bí mật của Đức Quốc xã
Khi Hitler nghe những câu chuyện liên quan đến Vương quốc dưới lòng đất đã được lưu truyền từ cổ đại ở Tiệp Khắc cũ, những cư dân ở đó đã làm chủ được một loại năng lượng mạnh mẽ và chưa được biết đến có tên là “Buriru”, ông ta càng nóng lòng hạ lệnh xâm lược Tiệp Khắc nhằm mục đích kết thành liên minh với cư dân của Vương quốc dưới lòng đất. Trên thực tế, khi chiến tranh gần kết thúc, Hitler đã có thể làm điều này. Nước Đức từ một quốc gia bại trận trong thế chiến thứ nhất đã trở thành một quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật cao nhất thế giới vào thời điểm đó, ngay cả hiện nay cũng có một số khoa học kỹ thuật rất khó đuổi kịp họ. Một tướng lĩnh cấp cao của quân Đồng minh cho biết: “Việc chiếm cứ các cơ sở nghiên cứu khoa học của Đức Quốc xã đã cho chúng ta thấy một sự thực, chúng ta đã lạc hậu quá xa so với họ trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu….”. Tên lửa và đạn tự hành đầu tiên là do Đức phát minh đã làm cho quân Đồng minh phải kinh hoàng khiếp sợ. Bom nguyên tử cũng là do người Đức nghiên cứu phát triển đầu tiên, sau này nước Mỹ đã đạt được thành công sau khi thu nạp nhân tài người Đức. Trong số rất nhiều tài liệu kỹ thuật mà quân đội Đức để lại, quân Đồng minh còn phát hiện một nguyên mẫu máy bay hình đĩa đã bị quân Đức phá hủy sau khi bại trận. Năm 1952, một cựu thượng úy không quân Đức kiêm chuyên gia hàng không Schrivo tuyên bố rằng đã từng vẽ một bản thiết kế máy bay hình đĩa ở gần Praha. Chiếc máy bay huyền thoại này được thiết kế với tốc độ 2600km/h, có thể xoay vuông góc 90 độ, đồng thời có thể cất cánh theo phương thẳng đứng. Tạp chí khoa học “P.M.” của Đức cũng từng đưa tin, Hitler đã ra lệnh cho các nhà khoa học Đức Quốc xã bí mật nghiên cứu phát triển đĩa bay, nghe nói rằng dự án này đã đạt được tiến triển có tính đột phá trong các thí nghiệm phá vỡ trọng lực và nguyên mẫu của dự án có thể cũng đã tiến hành qua các chuyến bay thử nghiệm. Báo chí dẫn lời những người đã chứng kiến nói rằng, vào năm 1944 họ từng nhìn thấy một chiếc đĩa bay được trang trí logo hình chữ thập bằng sắt của quân đội Đức bay ở độ cao thấp trên sông Thames. Khi quân Đức bại trận, phần lớn tài liệu về hạng mục đĩa bay hầu hết bị tiêu hủy. Tất cả dữ liệu thiết kế đã bị đốt cháy.
Karl Dönitz (1891-1980) là tổng tư lệnh hạm đội tàu ngầm Đức Quốc xã trong thế chiến thứ hai và sau này trở thành tổng tư lệnh hải quân Đức Quốc xã. Nghe nói ông đã từng nói hai câu sau đây và cho đến nay nó vẫn còn là bí ẩn. Ông nói: Những người lính tàu ngầm của tôi đã tìm thấy một Thiên đường nhân gian. Dönitz tuyên bố vào năm 1943: Hạm đội tàu ngầm Đức rất tự hào rằng, ở một nơi như Shangri-La, họ đã xây dựng một pháo đài bất khả xâm phạm cho Quốc trưởng ở “phía bên kia” thế giới.
Sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, ở Nam Cực và cực Nam lục địa Nam Mỹ đã lan truyền hàng loạt vụ việc có liên quan đến tàu ngầm U-boat của Đức. Ngày 18 tháng 7 năm 1945, các tờ báo lớn trên thế giới đều liên tục hướng sự chú ý đến Nam Cực. Tiêu đề lớn của New York Times có nội dung “Báo cáo về Thiên đường ở Nam Cực”, tuyên bố rằng Hitler đã đến Nam Cực. Những tiêu đề này đã gây chấn động thế giới lúc bấy giờ. Năm 1945, tổng thống Mỹ mới nhậm chức Truman tại hội nghị Potsdam đã nêu ra câu hỏi: “Hitler có thực sự chết chưa?” Stalin đã trực tiếp trả lời: “Chưa”. Sau khi quân đội của nguyên soái Zhukov chiếm được Berlin, họ đã tiến hành một cuộc điều tra triệt để, cuối cùng Zhukov nói rằng: “Chúng tôi không tìm thấy thi thể của Hitler”. Vào năm 1952, tổng thống Mỹ Eisenhower cũng từng nói: “Chúng tôi cũng không tìm thấy một chút bằng chứng nào về cái chết của Hitler. Nhiều người tin rằng Hitler đã trốn thoát khỏi Berlin”.
Trên thực tế, vào năm 1946 sau chiến tranh, quân Đồng minh đã phát hiện gần 60 tàu ngầm cùng hơn 6000 nhân viên kỹ thuật và nhà khoa học của Đức Quốc xã đã mất tích một cách bí ẩn. Khoảng 40.000 lao động nô lệ và 250.000 công dân Đức cũng mất tích một cách bí ẩn trước khi kết thúc thế chiến thứ hai. Vào mùa hè của Nam Cực năm đó, Mỹ đã tổ chức một cuộc khảo sát lớn tại Nam Cực có tên “chiến dịch nhảy cao”. Hành động lần này do Đô đốc hải quân Richard Evelyn Byrd, Jr chỉ huy. Tham gia vào “chiến dịch nhảy cao” gồm có hơn 4000 sĩ quan, 13 tàu chiến và 1 tàu sân bay, 6 trực thăng, 6 thuỷ phi cơ, 2 máy bay đa năng và 15 máy bay khác, v.v. Chính phủ cho biết mục đích của hành động lần này là thí nghiệm vật liệu mới dưới nhiệt độ khắc nghiệt ở Nam Cực. Tuy nhiên đây là mùa hè đầu tiên ở Nam Cực sau khi kết thúc thế chiến thứ 2, lúc đó kinh tế đang lâm vào tình trạng hỗn loạn, hải quân Mỹ phải cắt giảm quy mô lớn sau khi trải qua chiến tranh, rất nhiều tàu chiến phải dừng hoạt động và phần lớn nhân sự bị cắt giảm. Việc sử dụng nhiều trang thiết bị quân sự cực kỳ tốn kém như vậy tới Nam Cực, nếu chỉ để “thử nghiệm vật liệu mới” thì không thể giải thích được.
Vào ngày 5 tháng 3 năm 1947, tờ “El Mercurio” của Santiago, Chile, đã đăng tải một cuộc phỏng vấn độc quyền với tướng Baird với tiêu đề “Olympus căng buồm trong sóng gió”. Tướng quân nói: “Ngày hôm nay là một ngày trọng đại đối với nước Mỹ, chúng ta phải dốc hết toàn lực để đối phó với một khu vực thù địch”. Tướng quân tiếp tục nói rằng ông không định hù dọa bất kỳ ai mà chỉ muốn nói nước Mỹ xác thực đang phải đối mặt với một cuộc chiến mới, một thứ có thể bay từ cực này sang cực kia của Trái Đất với tốc độ đáng kinh ngạc. Tướng quân Baird lại nhắc lại quan điểm của mình tại cuộc họp báo tin tức quốc tế. Căn cứ vào trải nghiệm của ông, ông cho rằng tốc độ của loại máy bay đó là cực kỳ đáng sợ. Chuyến thám hiểm theo kế hoạch kéo dài sáu tháng đã phải huỷ bỏ chỉ sau hai tháng.
Chuyến thám hiểm Bắc Cực của Baird
Thiếu tướng Baird là nhân vật truyền kỳ của Mỹ, ông là người đầu tiên bay xuyên qua hai cực Trái Đất. Theo nhật ký thám hiểm Bắc Cực của Baird: Ông liên tục bay về hướng Bắc Cực, thực sự đã nhìn thấy một thung lũng tràn đầy cảnh mùa xuân, trong đó có những dòng suối nhỏ chảy qua, và những khu rừng rậm rạp nằm rải rác trên sườn núi. Trong kính viễn vọng ông ngạc nhiên khi phát hiện thấy loài voi Ma Mút vốn đã tuyệt chủng trên Trái Đất! Sau đó lại nhìn thấy những ngọn đồi nhấp nhô, nhiệt độ bên ngoài khoảng 27 độ C. Mặt đất càng trở nên bằng phẳng hơn, Baird phát hiện có tồn tại một thành phố mà những chiếc máy bay trên không trung dường như có sức nâng rất thần kỳ. Kết quả là máy bay của Baird bị một cỗ lực lượng vô hình khống chế và không thể điều khiển được. Sau đó động cơ máy bay ngừng hoạt động, và máy bay hạ cánh an toàn với một chấn động nhỏ, dường như được một thang máy vô hình nâng đỡ. Xuất hiện vài người có thân hình cao lớn tóc vàng, đôi mắt xanh và làn da trắng ngần, những người này không đem theo bất kỳ vũ khí nào. Baird và các phóng viên thông tấn truyền hình được họ khoản đãi nhiệt tình và được mời lên một chiếc xe ô tô không bánh và nhanh chóng lao về phía thành phố rực rỡ. Thành phố này dường như được xây dựng bằng pha lê, lấp lánh ánh sáng, toàn bộ thành phố phát ra ánh sáng như cầu vồng theo quy luật. Bước vào một căn phòng kiến trúc đồ sộ, và thưởng thức đồ uống nóng hổi có hương vị tuyệt vời. 10 phút sau, Baird tạm thời rời khỏi nhóm phóng viên, ông được đưa vào một thang máy, đi xuống trong vài phút, sau đó cửa thang máy nhẹ nhàng mở lên. Ông đi qua một hành lang trồng đầy hoa hồng đỏ và phát hiện những tia sáng phát ra từ trên bức tường. Ông dừng lại trước một cánh cửa lớn, trên cửa còn có dòng chữ rất kỳ lạ.
Chuyện sau khi ông tiến vào phòng càng chấn động hơn. Baird liên tục sử dụng những từ ngữ như “chưa từng có trước đây”, “không thể tin được”, “khó có thể hình dung” để miêu tả cảnh tượng mà ông tận mắt nhìn thấy. Căn phòng lộng lẫy tinh xảo, giọng nói của những người đó vừa êm tai lại nhiệt tình, họ nói với tướng quân rằng vì ông có phẩm chất cao quý, lại có một danh tiếng nhất định ở thế giới bề mặt, nên mới để ông vào. Những người đó còn nói với ông rằng, thế giới thần bí này có tên là “Ariani”, từ sau khi quân đội Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima, Nhật Bản, họ mới bắt đầu để ý đến thế giới bên ngoài. Đồng thời trong thời kỳ hiểm hoạ khắp nơi đó, họ đã điều động rất nhiều máy bay đến thế giới bề mặt để tiến hành điều tra. Họ cho biết, kỹ thuật và văn hoá ở thế giới dưới lòng đất phát triển hơn so với thế giới bề mặt hàng nghìn năm, ban đầu họ không có ý định muốn can thiệp vào cuộc chiến trên thế giới bề mặt, tuy nhiên vì không muốn nhìn thấy con người lại sử dụng vũ khí nguyên tử nữa, vì vậy đã phái mật sứ đến thăm hỏi các quốc gia phát triển, nhưng không nhận được sự coi trọng. Lần này mượn cơ hội mời tướng quân truyền đạt lại thông điệp rằng thế giới bề mặt có thể sẽ đi đến bước đường tự huỷ diệt. Những người mà họ cử lên trên thế giới bề mặt đã nhận được sự đối xử không thân thiện,và máy bay cử đi cũng thường gặp phải máy bay chiến đấu tấn công ác ý.
Sau cuộc gặp gỡ, Baird theo đường cũ quay trở về và hội họp cùng đám phóng viên đang lộ vẻ mặt đầy nghi ngờ. Dưới sự dẫn đường của hai chiếc máy bay, họ đã bay lên độ cao 823 mét, sau đó trở lại căn cứ an toàn. Trước khi khởi hành, radio truyền tới âm thanh “tạm biệt” bằng tiếng Đức, và hạ cánh sau 27 phút. Tháng 2 năm 1947, Baird tham dự hội nghị cố vấn của Bộ quốc phòng Mỹ, tất cả mọi phát biểu đều được ghi âm lại chi tiết, đồng thời được báo cáo lên tổng thống Truman. Hội nghị diễn ra trong 6 tiếng 40 phút, ông còn phải tiếp nhận điều tra của bộ phận an ninh cấp cao và đội y tế, sau đó ông được các lĩnh vực liên quan yêu cầu giữ kín bí mật. Sau này ông viết: “Vùng đất ở Bắc Cực, căn cứ đó là một bí ẩn lớn”.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/80334
Ngày đăng: 10-01-2024
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.