Tu luyện cố sự | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnSat, 23 Nov 2024 08:08:09 +0000en-UShourly1Chuyện cổ Phật gia: Hành xử cho chính với những việc liên quan tới tiền tàihttps://chanhkien.org/2024/09/chuyen-co-phat-gia-hanh-xu-cho-chinh-voi-nhung-viec-lien-quan-toi-tien-tai.htmlFri, 13 Sep 2024 03:54:00 +0000https://chanhkien.org/?p=34136Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào thời Tống, ở Hàng Châu có một ngôi chùa tên là Bảo Tàng Tự. “Chủ tàng tăng” của chùa có pháp danh là Chí Thuyên. “Chủ tàng tăng” có nghĩa là tăng nhân trưởng quản, phụ trách việc quản lý tài sản, thu chi trong chùa. Ông luôn nghiêm […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Hành xử cho chính với những việc liên quan tới tiền tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Vào thời Tống, ở Hàng Châu có một ngôi chùa tên là Bảo Tàng Tự. “Chủ tàng tăng” của chùa có pháp danh là Chí Thuyên. “Chủ tàng tăng” có nghĩa là tăng nhân trưởng quản, phụ trách việc quản lý tài sản, thu chi trong chùa. Ông luôn nghiêm chỉnh chấp hành giới luật, tài sản người khác bố thí cho chùa ông đều quản lý hết sức tận tâm và đầy trách nhiệm, trước nay không bao giờ chiếm đoạt hay lạm dụng một tơ một hào nào.

Lần nọ, có một tăng nhân thủ thỉ với ông rằng: Cho ta mượn 10 ngàn quan tiền từ kho tiền của nhà chùa để quay vòng vốn, sau này ngoài tiền gốc ra, ta còn trả thêm cho ông ba ngàn tiền lời. Vì việc này là lấy của công làm việc riêng nên lúc đầu ông đã từ chối, nhưng rồi ông không sao cưỡng lại nổi trước những lời nỉ non của đối phương, thế nên ông đã lấy tiền của chùa cho tăng nhân kia mượn. Vài tháng sau khi đến ngày trả tiền, đối phương như đã giao hẹn trả lại cả tiền gốc lẫn lãi. Đối mặt với số tiền lãi ba ngàn, đầu tiên ông nghĩ: đây không phải là tài sản của chùa, mà là tài sản riêng của mình; nhưng sau đó lại nghĩ: suy cho cùng số tiền này có được từ việc mình lợi dụng tiền của nhà chùa, mình chắc chắn không thể dùng nó vào mục đích cá nhân được, vậy nên ta sẽ dùng toàn bộ số tiền đó để làm tiền hương hỏa cúng dường Phật. Thế là ông dùng toàn bộ ba ngàn tiền lãi mua nhang và nến cúng dường Phật, không dùng một xu nào cho mục đích cá nhân, nên ông thấy không có vấn đề gì.

Chí Thuyên thường ngày nuôi một con mèo, nhưng ngày nọ con mèo hết thọ mệnh mà chết đi. Không lâu sau Chí Thuyên có một giấc mơ kì lạ, trong mơ, nguyên thần của ông rời khỏi thân thể, đến một nơi như âm phủ. Một quý nhân thân mặc y phục màu vàng tím từ trong quan phòng bước ra, đối đãi với Chí Thuyên rất cung kính, ngữ khí trong khi nói chuyện dường như vô cùng quen thuộc. Chí Thuyên không nhận ra đối phương, bèn hỏi tại sao lại cung kính như thế?

Đối phương trả lời: Đời trước do phạm tội, nên tôi phải chuyển sinh thành động vật, bị Thần linh trừng phạt đầu thai thành mèo, tôi rất cảm kích và biết ơn ông đã nuôi dưỡng, đối xử tử tế với tôi khi còn ở trong chùa. Bây giờ tội nghiệp của tôi đã hoàn trả xong, vì tôi tính tình ngay thẳng nên đã được Thượng thiên giao cho làm quan ở âm phủ. Hôm nay tôi mời ông đến là vì muốn nghiêm túc nhắc nhở ông: việc ông lợi dụng tài sản của chùa và nhận ba ngàn tiền lãi là việc phạm đại tội! Trong sổ ghi chép của âm phủ, hành vi của ông phạm phải tội chiếm dụng tài sản của chùa. Bây giờ cho dù ông trả lại toàn bộ số tiền cả gốc lẫn lãi để mua nhang và nến cúng dường Đức Phật cũng không miễn được tội này. Những việc này đều không thể bù đắp cho tội ông chiếm dụng tài sản của chùa trước đây. Loại tội như thế này, nhất định sẽ bị hạ địa ngục và phải chịu “một kiếp đầy đọa đau khổ”, cho dù ông có làm thêm rất nhiều việc “công đức” thì cuối cùng cũng “không thể thoát được”!

Chí Thuyên sau khi nghe xong biết mình đã sai, vì vậy đã cố gắng hết sức cầu xin vị quan tha thứ. Vị quan cuối cùng cũng mở miệng, nói: Thật ra tôi cũng thường hướng đến Thần linh tầng cao hơn để xin chỉ thị, liệu có thể khiến ông chịu nhận ác báo ở thế gian, từ đó được miễn trừ việc chịu khổ trong địa ngục không. Bây giờ Thần linh ở tầng cao hơn đã trả lời rồi, chỉ có thể khiến ông “ở trong thế gian chịu cái khổ của 13 trượng” mới có thể tiêu trừ việc chịu khổ trong địa ngục, ngoài đó ra thì không có cách nào. Âm phủ chúng tôi đã an bài như vậy rồi. Vị quan nói xong thì Chí Thuyên cũng tỉnh giấc.

Chí Thuyên sau khi tỉnh dậy, ngộ ra rằng nguyên thần của mình đã đến âm phủ, việc này là thật chứ không phải giả, vậy nên ông nghĩ: ta là Chủ tàng tăng của chùa, là người quản lý tài sản của chùa rất lâu rồi, bất kể là những tăng nhân khác hay người thường đều rất tôn trọng ta, làm sao ta có thể chịu nhận sự trừng phạt của quan phủ, như thế thì vô cùng mất mặt, còn mặt mũi nào làm bậc trưởng lão của chùa kia chứ. Có lẽ ta nên tu khổ hạnh và ăn năn sám hối, nỗ lực tiêu trừ tội nghiệp, mới có thể miễn trừ nỗi khổ của 13 trượng xấu hổ này.

Thế là ông đem hết tất cả tài sản của mình quyên góp cho chùa cúng dường Phật, và ở trước mặt Đức Phật thành kính ăn năn sám hối về tội lạm dụng tài sản của chùa, đồng thời tu khổ hạnh. Cứ như thế cho đến năm sau vào một ngày nọ, quan huyện lệnh huyện Tiền Đường đưa gia đình đến Bảo Tàng Tự, đúng lúc các tăng nhân khác đều ra ngoài để nhận cúng dường từ gia chủ, hay đi ra ngoài tổ chức các hoạt động Pháp sự, cho nên không một tăng nhân nào nghênh tiếp quan huyện. Quan huyện trong lòng vô cùng tức giận nên mới vào phòng của phương trượng, vừa hay lúc đó ông dẫm phải một cục phân mèo, trong lòng càng nổi giận lôi đình. Đoàn người tùy tùng của quan huyện tìm kiếm khắp nơi trong chùa, phát hiện có một tăng nhân đang sám hối trong phòng sám hối, liền lôi ra ngoài, tăng nhân đó chính là Chí Thuyên.

Người tùy tùng nói với quan huyện rằng: Tăng nhân này là sư trụ trì, ông ta không chịu đi dọn dẹp vệ sinh cho sạch sẽ mà còn trốn ở đây. Chí Thuyên cả năm nay một mực tận tâm tận lực tu khổ hạnh và ăn năn hối lỗi, nên căn bản không biết đã phát sinh những chuyện gì, người ta hỏi gì cũng không trả lời được. Quan phủ nghiến răng nghiến lợi tức giận hét lớn: Đánh ông ta 500 trượng cho ta! Sau đó đoàn tùy tùng bắt đầu đánh Chí Thuyên bằng gậy gỗ, đánh đến trượng thứ 13, quan huyện đột nhiên hết giận, liền quay lưng đem theo đoàn người rời đi. Chí Thuyên sau khi chịu phạt 13 trượng thì liền minh bạch ra, tất cả mọi việc đều được ghi chép lại nơi âm tào rồi, đều có Thần linh an bài, tất cả hành vi tốt xấu đều có báo ứng, từ đó thường dùng sự việc này để cảnh cáo các tăng nhân, tuyệt đối không được lạm dụng, chiếm đoạt tài sản của chùa, các việc liên quan đến tiền bạc nhất định phải hành xử cho chính.

Câu chuyện của Chí Thuyên nói rõ một đạo lý, lạm dụng chính là lạm dụng, chiếm đoạt chính là chiếm đoạt, sai chính là đã sai rồi, mượn bất cứ cớ gì để che đậy đều vô dụng, cho dù có đem tiền lời, hay đem tất cả số tiền của bản thân có dùng để hương hỏa cúng dường Phật, cũng không thể nào che đậy hay tiêu trừ được tội nghiệp. Từ trước đến nay một số người có quan niệm sai lầm rằng, chỉ cần động cơ hay mục đích là tốt, thì cách làm trong quá trình đó dù có sai lầm hay thiếu sót cũng có thể bỏ qua, thực ra điều đó là không được.

Quay đầu nhìn lại lịch sử, khi tà thuyết cộng sản nổi lên, nó cũng đã lợi dụng quan niệm sai lầm này để đầu độc người ta, trước tiên nó vẽ cho bạn một chiếc bánh chủ nghĩa cộng sản tà ác, rồi nói với bạn rằng hiện thực chủ nghĩa cộng sản tà ác là cao quý nhất, là đúng đắn nhất. Sau đó vì cái mục tiêu gọi là cao quý nhất, đúng đắn nhất đó (thực ra là sự lừa dối của tà ác) có thể lục thân không nhận, giết người hại mệnh, dùng bất cứ thủ đoạn nào để tranh đấu, thậm chí phạm đủ loại tội ác nghiêm trọng mà vẫn cảm thấy vẻ vang, tự cho rằng đang góp một phần nhỏ cho sự nghiệp vĩ đại, thật vô cùng tự hào vì điều này, lại còn vọng tưởng cho rằng mình đạo đức ưu việt hơn người.

Thực ra thiện ác báo ứng mới là tình huống chân thực của vũ trụ, trong quá trình làm người, làm mọi việc, thì thiện và ác tất nhiên sẽ sản sinh ra thiện quả và ác quả tương ứng. Làm việc thiện, làm việc chân chính, thì sẽ có thiện quả; làm điều ác, làm việc khuất tất chắc chắn có ác quả. Cho dù bạn tự cho rằng động cơ hay mục đích của mình tốt đến đâu cũng không được.

Nguồn tư liệu: Theo “Xuân Chử Ký Vấn – Quyển 4 – Thụ trượng chuẩn địa ngục” của Hà Xuyên thời nhà Tống

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/291275

The post Chuyện cổ Phật gia: Hành xử cho chính với những việc liên quan tới tiền tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Truyền thuyết về Khẩn Na La Vương ở Thiếu Lâm Tựhttps://chanhkien.org/2024/08/chuyen-co-phat-gia-truyen-thuyet-ve-khan-na-la-vuong-o-thieu-lam-tu.htmlWed, 07 Aug 2024 03:57:46 +0000https://chanhkien.org/?p=33695Tác giả: Học viên Đại Lục [ChanhKien.org] Trong Thiên Long Bát Bộ “Khẩn Na La” là một trong tám vị Thần hộ pháp của Phật giáo, thường không được thờ cúng đặc biệt, nhưng ở phía đông Đại Hùng bảo điện của Thiếu Lâm Tự lại thờ cúng vị Thần hộ pháp này. Vì sao […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Truyền thuyết về Khẩn Na La Vương ở Thiếu Lâm Tự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Học viên Đại Lục

[ChanhKien.org]

Trong Thiên Long Bát Bộ “Khẩn Na La” là một trong tám vị Thần hộ pháp của Phật giáo, thường không được thờ cúng đặc biệt, nhưng ở phía đông Đại Hùng bảo điện của Thiếu Lâm Tự lại thờ cúng vị Thần hộ pháp này. Vì sao lại như thế? Có một truyền thuyết được kể lại như sau:

Người ta nói rằng trong những năm Chí Chính của thời nhà Nguyên (1341-1370, lúc đó là thời vua Nguyên Thuận Đế), có một vị tăng nhân đầu bù tóc rối, đi chân trần đến Thiếu Lâm Tự. Người ở Thiếu Lâm Tự thu nhận ông ở lại và để ông làm việc trong nhà bếp. Ông rất chăm chỉ nhặt củi, nhóm lửa và làm các công việc lặt vặt khác, đối với người khác thì trầm mặc ít nói, khi có thời gian thì liền nhắm mắt đả tọa tu luyện, người khác cũng không biết tên của ông ấy.

Cuối triều Nguyên thiên hạ đại loạn, một ngày đội quân tạo phản Khăn Đỏ bao vây Thiếu Lâm Tự, định tiến hành cướp bóc. Các tăng nhân trong chùa tuy có người luyện võ, nhưng sự việc phát sinh đột ngột, nên cũng không biết phải làm thế nào, vào lúc nguy cấp đó, vị tăng nhân làm việc vặt đốt lửa này tay cầm cây gậy thổi lửa, lao ra cửa núi. Cơ thể ông đột nhiên cao lớn lên hàng chục thước, đứng trên đỉnh núi, hét to lên rằng: “Ta là Khẩn Na La Vương”, cây gậy đốt lửa trong tay cũng đột nhiên trở nên to lớn như cái cột trụ chống trời. Trong tay ông cầm cây gậy đốt lửa bay nhảy lên xuống, uy phong lẫm liệt. Đội quân Khăn Đỏ nhìn thấy thần tích thì vô cùng sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Khi quân Khăn Đỏ bỏ chạy qua Đường trang, định từ Hiếu Nghĩa tháo chạy ra thì lúc đó lại xuất hiện một vị Khẩn Na La Vương khác. Quân Khăn Đỏ thu binh hướng về phía Tây, đang chuẩn bị trốn thoát khỏi Đại Kim điện, định chạy về phía Lâm Nhữ thì lại gặp một vị Khẩn Na La Vương khác. Tướng sĩ của quân Khăn Đỏ cảm thấy không còn đường nào có thể chạy, chỉ đành quay trở về Thiếu Lâm Tự, hướng lên không trung mà khấu bái, sau khi sám hối nhận sai mới có thể an toàn rời khỏi Thiếu Lâm Tự. Vì thế mà Thiếu Lâm Tự thoát khỏi những họa loạn cuối thời nhà Nguyên.

Vị tăng nhân sau khi hiển hiện thần tích thì liền rời đi, không thấy dấu tích, có thuyết kể rằng ông đã viên tịch. Về sau những tăng nhân trong Thiếu Lâm Tự cho rằng ông là hóa thân của Khẩn Na La Vương, bèn cho làm tượng để tưởng nhớ việc ông triển hiện thần tích. Từ đó Khẩn Na La Vương được coi là Thần hộ pháp của Thiếu Lâm Tự, và ông được xây dựng một điện riêng để thờ cúng; bởi vì ông làm việc trong nhà bếp mà tu luyện, nên được tạo tượng theo hình người làm việc trong bếp. Ông được cung phụng là “Giám trai sứ giả”, hằng năm đều được làm lễ tế tự; các tăng nhân luyện võ cũng coi ông như là người sáng lập ra Thiếu Lâm Côn Pháp. Sau này có người nói với các tăng nhân rằng: “Người khiến quân Khăn Đỏ rút lui là hóa thân của Quan Thế Âm, cũng chính là Khẩn Na La Vương”, vì thế người đời cũng coi đó là một trong những hóa thân của Quan Thế Âm.

Câu chuyện về vị Thần tăng Khẩn Na La Vương này trong “Hà Nam phủ chí”, “Đăng Phong huyện chí”, “Thiếu Lâm Côn Pháp”, “Tung Thư” và một số cổ thư đều có ghi chép lại, cho ta thấy đây không phải là bằng chứng duy nhất, để thấy độ tin cậy của câu chuyện này rất cao, đủ để nói rằng tu luyện Phật Pháp có thể xuất hiện thần tích. Trước khi Thần tăng hiển hiện thần tích thì đều ở trong bếp làm việc vặt, đến nỗi tên tuổi hay quê quán của tiểu hòa thượng cũng không có ai quan tâm. Có thể thấy trong Phật giáo hay trong tu viện việc tu luyện cao hay thấp không hề có quan hệ đến địa vị và chức vụ cao thấp. Vậy làm thế nào để tu luyện? Như thế nào mới có thể tu được cao? Các tôn giáo ngày nay đã đến thời kỳ mạt pháp, sớm đã không thể đưa ra câu trả lời thuyết phục. Thậm chí bây giờ sư trụ trì của Thiếu Lâm còn đang lợi dụng Phật giáo để kiếm tiền, bị người đời cười nhạo gọi là “Phật môn CEO”. Có phải con người bây giờ không có cách nào tu luyện? Không phải. Hiện tại Pháp Luân Công được phổ truyền khắp thế giới chính là công pháp tu luyện chân truyền chân chính của Phật gia, là Phật Pháp chân chính, nếu như bạn có thể thực sự tập trung, tĩnh tâm đọc các kinh sách của Pháp Luân Công, bạn sẽ phát hiện tất cả những bí mật của tu luyện đều ở trong đó. Người có duyên chớ để lỡ mất cơ hội.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/248412

The post Chuyện cổ Phật gia: Truyền thuyết về Khẩn Na La Vương ở Thiếu Lâm Tự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia làm tănghttps://chanhkien.org/2024/07/chuyen-co-phat-gia-xuat-gia-lam-tang.htmlSat, 06 Jul 2024 22:38:31 +0000https://chanhkien.org/?p=33471Tác giả: Quả Chính [ChanhKien.org] Trong số các đệ tử của Phật Đà, Đại Ca Diếp tôn giả là một nhà sư tu khổ hạnh, ông từ nhỏ đã rời xa thế tục, sống một mình, lại thông minh hiểu chuyện hơn người. Tuy sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng không quen với […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia làm tăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Quả Chính

[ChanhKien.org]

Xuất gia làm tăng. Hình ảnh: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

Trong số các đệ tử của Phật Đà, Đại Ca Diếp tôn giả là một nhà sư tu khổ hạnh, ông từ nhỏ đã rời xa thế tục, sống một mình, lại thông minh hiểu chuyện hơn người. Tuy sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng không quen với cuộc sống xa hoa.

Ngày tháng thoi đưa, Đại Ca Diếp đã trở thành một thanh niên anh tuấn, vì ông có tài năng và diện mạo hơn người khiến cho rất nhiều cô gái hâm mộ, cha mẹ cũng yêu mến ông, rất muốn tuyển chọn cho ông một thê tử môn đăng hộ đối mà lại mỹ lệ hơn người. Sau khi Đại Ca Diếp biết, ông liền từ chối hết lần này đến lần khác.

Bởi vì trong tâm ông chỉ nghĩ đến việc tu hành, có thê tử rồi thì sẽ gây trở ngại cho việc thực hiện nguyện vọng của ông. Nhưng cha mẹ không đồng ý, liên tục thúc ép, thậm chí đến mức không quan tâm rằng ông có đồng ý hay không, tự mình tất bật chọn lựa con dâu.

Dưới tình thế không thể khước từ, Đại Ca Diếp nghĩ ra một kế, ông tự vẽ một bức chân dung, người trong bức chân dung giống như cô gái xuất hiện trong lúc ông ngồi đả tọa, thập phần mỹ lệ mà lại từ bi trang nghiêm.

Ông đem bức chân dung đến đưa cho cha mẹ và nói: “Nếu nhất định muốn con lấy vợ, trừ khi tìm được người giống như cô gái trong bức chân dung này, bằng không con thà sống cô độc cả đời”.

Nghe xong cha mẹ ông vô cùng lo lắng, thế là liền tìm bạn bè giúp đỡ, kết quả là bạn bè đi khắp nơi đưa tin rằng, phàm là ai biết hoặc nghe nói nhà nào có thiếu nữ dung mạo xinh đẹp đều có thể đối chiếu với bức chân dung này, một khi gặp thiếu nữ có dung mạo xinh đẹp giống như vậy, thì có thể làm vợ của Đại Ca Diếp.

Thật trùng hợp, trong nhà của một phú ông ở thành Tỳ Xá Ly (Vesāli) có một cô con gái đẹp như tiên, tên là Diệu Hiền, khi phú ông này nhìn thấy người trong bức chân dung gần giống như con gái mình, bèn nhờ người chuyển tin đến cha mẹ của Đại Ca Diếp, nói rằng con gái của ông chính là người trong bức chân dung.

Thế là hai gia đình lập tức đính hôn, và chọn ngày để đón tân nương về nhà. Nhưng vào đêm tân hôn, mỹ nhân mặc áo gấm đeo dải dây tua rua với đôi lông mày trên mặt nhíu lại ngồi yên không nói gì, Đại Ca Diếp trong lòng ngổn ngang trăm mối, cũng không nói một lời.

Cuối cùng, khi bình minh dần ló dạng, Đại Ca Diếp phá vỡ sự im lặng và hỏi: “Nàng có tâm sự gì không?”

Diệu Hiền trả lời: “Hạnh phúc của ta bị chàng làm hỏng rồi”.

Đại Ca Diếp rất kinh ngạc và hỏi: “Chẳng nhẽ trong lòng nàng có người khác rồi sao?”

Diệu Hiền rơi nước mắt nói: “Không, chàng đã phá vỡ nguyện vọng của ta”.

Đại Ca Diếp lại hỏi: “Rốt cuộc ta đã làm điều gì không nên không phải, xin nàng nói rõ ra được không?”

Diệu Hiền bi thương nói: “Ta nhất tâm chỉ muốn thanh tĩnh tu hành, chán ghét ngũ dục, muốn thoát ly khỏi nguồn gốc của mọi đau khổ, nhưng phụ mẫu vì thấy sự giàu có của nhà chàng, bất chấp nguyện vọng của ta, mà muốn hủy ta đi”.

Đại Ca Diếp vừa nghe thấy thì mừng vui khôn xiết, liền hiểu đây chính là thiên ý, ông cũng không muốn lấy vợ, vì cha mẹ bức bách mà bất đắc dĩ, ông cũng cảm nhận được sâu sắc mọi thống khổ trên thế gian con người tất cả là vì dục vọng mà ra, ông chán ghét ngũ dục, nhất tâm muốn thanh tĩnh tu hành.

Vì vậy, họ quyết định làm theo ý chí của mình, trở thành vợ chồng trên danh nghĩa, nhưng trên thực tế lại là đồng tu.

Hai chiếc giường đặt trong phòng rất nhanh đã bị cha mẹ phát hiện và ra lệnh gỡ bỏ đi một chiếc.

Đại Ca Diếp nói với Diệu Hiền: “Đừng nản lòng, chúng ta luân phiên ngủ, luân phiên đả tọa. Điều này chẳng phải là càng tốt cho việc tu hành sao? Kỳ thực họ đang thúc giục chúng ta tu hành tinh tấn vậy!”

Diệu Hiền nghe xong cũng rất vui mừng, nên họ đã làm theo sáng kiến của Đại Ca Diếp.

Có một đêm, Diệu Hiền đang ngủ trên giường, Đại Ca Diếp vừa đả tọa xong, liền nhìn thấy một con rắn độc ở trước giường, đúng lúc tay của Diệu Hiền đang để ra ngoài giường, rất gần con rắn độc. Đại Ca Diếp vô cùng lo lắng, vội vàng lấy y phục quấn lấy tay của mình, rồi nhẹ nhàng cầm tay của Diệu Hiền đặt lại lên giường. Hành động này đã đánh thức Diệu Hiền khỏi giấc ngủ, cô có chút tức giận hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?” Sau khi nghe Đại Ca Diếp giải thích, cô cảm thấy yên lòng, đồng thời xin lỗi vì sự hiểu lầm vừa rồi đối với Đại Ca Diếp.

Bằng cách này, họ đã cùng nhau trải qua 12 năm cho đến khi cha mẹ họ qua đời.

Đại Ca Diếp nói với Diệu Hiền: “Bây giờ ta quyết định xuất gia, nàng ở đây chờ ta, đợi ta tìm được người thầy chân chính hiền minh, ta sẽ quay lại đón nàng cùng xuất gia”.

Sau khi Đại Ca Diếp rời khỏi nhà, ông vất vả tìm sư, cho đến khi gặp được Phật Đà, dưới sự cảm hóa uy đức của Phật Đà, ông tiếp nhận chỉ dạy, và quy y làm đệ tử của Phật Đà.

Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu truyền pháp của Phật Đà không có nữ đệ tử, cho nên Đại Ca Diếp không có cách nào đưa Diệu Hiền cùng đi xuất gia.

Lại nói đến Diệu Hiền ở nhà chờ tin tức của chồng, một năm rồi hai năm vẫn không có tin tức gì về Đại Ca Diếp, nàng không chút do dự đem tài sản phân phát cho người khác, tự mình đến bờ sông Hằng, bái những người tu hành ngoại đạo ở đó làm sư.

Sau này, Phật Đà cho phép nữ nhân xuất gia, và thành lập đoàn Tì Khưu Ni, Đại Ca Diếp đã thỉnh được sự cho phép của Phật Đà, đón Diệu Hiền gia nhập vào đoàn Tì Khưu Ni.

Nhưng bởi vì vẻ ngoài xinh đẹp hơn người nên cô thường xuyên trở thành đề tài nói xấu và tật đố của người khác, Diệu Hiền cảm thán được nỗi khổ khi mang thân nữ nhi, cô luôn tránh mặt mọi người khi đi khất thực, và không lộ diện ở chỗ đông người. Kể cả như vậy, cô vẫn không tránh khỏi bị người khác nghị luận bàn tán, vì điều này mà cô cảm thấy vô cùng xấu hổ, nên không đi khất thực nữa.

Đại Ca Diếp thấy vậy thương cảm, nên cầu xin Phật Đà cho phép hằng ngày đem phần cơm của mình xin được chia cho cô một nửa.

Vì sự việc này, lại dẫn đến nhiều nghị luận: “Có người nói họ ở nhà chưa từng ngủ chung giường trong suốt 12 năm kết hôn, trái lại hiện tại xuất gia tu hành rồi, nhưng tư tình vẫn không dứt…”

Sau khi nghe được điều này, tôn giả Đại Ca Diếp càng không có bất kỳ rối loạn tâm tư nào, nhưng vì để động viên Diệu Hiền cố gắng nỗ lực tu hành, từ đó ông đã ngừng chia lương thực cho cô, và không gặp lại cô nữa.

Trải qua những khó khăn trắc trở này, Diệu Hiền tu luyện vô cùng nghiêm túc, ngày đêm không ngủ, nhất tâm tu hành, càng thêm tinh tấn, cuối cùng khai ngộ.

Sau này, Phật Đà khen ngợi Bà: “Trong số các Tì Khưu Ni, Diệu Hiền có Túc Mệnh Thông cao nhất”.

Người ta cho rằng hạnh phúc trên đời này là được thỏa mãn những dục vọng của mình. Trên thực tế, những người có trí huệ nhìn nhận rằng, những người khổ nhất là những người cho rằng dục vọng của mình được thỏa mãn, đó là nguồn gốc của hết thảy mọi đau khổ.

Chỉ có xả bỏ mới là con đường giải thoát duy nhất.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38741

The post Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia làm tăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Cao tăng Huệ Quả thời Đường tôn kính sư phụ mọi thời khắc, thần tích hiển dưới ánh trănghttps://chanhkien.org/2024/03/cau-chuyen-phat-gia-cao-tang-hue-qua-thoi-duong-ton-kinh-su-phu-moi-thoi-khac-than-tich-hien-duoi-anh-trang.htmlTue, 12 Mar 2024 04:13:21 +0000https://chanhkien.org/?p=32766Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Huệ Quả là cao tăng nổi tiếng thời nhà Đường, trước khi xuất gia ông mang họ Mã, sống một thời gian dài ở chùa Thanh Long, thuộc Trường An, vì thế ông còn được gọi là “Thanh Long A Đồ Lê”. A Đồ Lê là phiên âm của tiếng […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Cao tăng Huệ Quả thời Đường tôn kính sư phụ mọi thời khắc, thần tích hiển dưới ánh trăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Cao Tăng Huệ Quả Tôn Kính Sư Phụ (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Huệ Quả là cao tăng nổi tiếng thời nhà Đường, trước khi xuất gia ông mang họ Mã, sống một thời gian dài ở chùa Thanh Long, thuộc Trường An, vì thế ông còn được gọi là “Thanh Long A Đồ Lê”. A Đồ Lê là phiên âm của tiếng Phạn có nghĩa là đạo sư. Ông là một cao tăng có thần thông, tức là người có công năng đặc dị. Vì để truyền bá Phật giáo, ông đã từng sử dụng công năng chữa bệnh cho hoàng đế Đường Đại Tông Lý Dự, công chúa Hoa Dương và những người khác, hiệu quả rất tốt. Vào năm Đại Lịch thứ 11 (năm 776) thời Đường Đại Tông, hòa thượng Huệ Quả dùng công năng để chữa bệnh cho hoàng đế, kết quả đã chữa khỏi bệnh.

Hoàng đế Đại Tông vô cùng mừng rỡ, quyết định ban thưởng cho ông một bộ quần áo tím. Nhà Đường lấy Đạo giáo làm quốc giáo. Đạo giáo nhấn mạnh “khí tím đến từ phương Đông” và màu tím là màu cao quý nhất. Do đó, được ban thưởng quần áo màu tím là niềm vinh dự cao quý nhất. Tuy nhiên, hòa thượng Huệ Quả nói: “Bần tăng không dám nhận”. Hoàng đế Đại Tông hỏi: “Tại sao hòa thượng lại không nhận bộ quần áo tím mà trẫm ban tặng?” Hòa thượng Huệ Quả trả lời: “Bởi vì tiên hoàng đã từng ban cho tiên sư (sư phụ đã khuất) của bần tăng vinh dự mặc quần áo tím, còn bần tăng đây chỉ là một hòa thượng thấp kém may mắn được tiên sư truyền thụ Phật Pháp mới có được thành tựu như ngày hôm nay, ân đức của tiên sư, đệ tử luôn ghi nhớ trong tim. Vì vậy, bệ hạ ban cho bần tăng bộ quần áo tím, với tư cách đệ tử của tiên sư, bần tăng tuyệt đối không dám, cũng không nên, càng không xứng đáng mặc quần áo cùng màu và đẳng cấp với sư phụ mình”.

Sau khi hoàng đế Đại Tông hiểu rõ ngọn nguồn, ông cảm động nói: “Luôn luôn nhớ đến sư ân, hòa thượng quả là rất hiếu kính sư tôn của mình, về điểm này trẫm đã sơ suất”. Vì vậy, hoàng đế Đại Tông đã ban hành chiếu chỉ rằng: Tấm lòng sùng kính và đại hiếu của hòa thượng Huệ Quả đối với sư tôn thật sự làm người ta cảm động, là tấm gương cho mọi người noi theo, từ nay trở đi ông sẽ là quốc sư của Đại Đường và sẽ được ban thưởng một bộ quần áo nâu – đẳng cấp tôn quý chỉ xếp thứ hai sau màu tím.

Ngoài ra, hoàng đế Đại Tông còn ban tặng cho hòa thượng Huệ Quả rất nhiều tiền của, trị giá hơn một nghìn quan, một quan tương đương với một nghìn tiền đồng xu, hơn một nghìn quan tức là hơn một triệu tiền đồng xu. Hòa thượng Huệ Quả không hề sử dụng số tài vật này cho bản thân, mà ông đem tất cả chúng để làm các việc công đức như xây chùa tháp, v.v. Vào năm Đại Lịch thứ 13 (năm 778), hòa thượng Huệ Quả đã hai lần mời hoàng đế đến thăm Nam Đài. Theo ngữ cảnh của văn bản, “Nam Đài” hẳn là tên gọi của một ngôi chùa hoặc kiến trúc Phật giáo đương thời. Hoàng đế Đại Tông đã hai lần xuất cung để đến thăm Nam Đài kính bái Thần Phật theo lời của hòa thượng Huệ Quả.

Sau chuyến viếng thăm thứ hai, hòa thượng Huệ Quả leo lên đài Quan Âm bắt đầu tụng kinh Phật và niệm chú. Qua một hồi lâu, khi này trời đã tối và trăng lên cao, hoàng đế Đại Tông cùng quan viên, tùy tùng đi cùng an tâm chờ đợi dưới đài. Lúc này, dưới vầng trăng tròn đột nhiên xuất hiện hình tượng thần thánh của Quan Âm Bồ Tát phóng ra Phật quang mạnh mẽ làm cho ánh trăng sáng như mặt trời. Trên bầu trời, “những đám mây cát tường sáng trong” thực sự là ánh sáng tốt lành, một cảnh tượng hiếm thấy. Gần một nghìn người đi cùng với hoàng đế Đại Tông, tất cả mọi người đều nhìn thấy thần tích hiển hiện, họ cùng hành lễ bái lạy Quan Âm Bồ Tát.

Hòa thượng Huệ Quả – quốc sư của Đại Đường luôn luôn ghi nhớ sư ân và thời thời khắc khắc kính trọng sư tôn của mình, điều này thực sự đáng để ngưỡng mộ. Ông hiển lộ thần tích dưới ánh trăng là điều hiếm có trong lịch sử. Đây không chỉ là minh chứng cho sự thành tựu trong tu luyện của ông, mà nó còn thể hiện tấm lòng chân thành từ vua quan đến lê dân bách tính của vương triều Đại Đường luôn tín phụng Thần Phật. Qua năm tháng đằng đẵng, tôn giáo đã đến thời mạt Pháp, mất đi khả năng độ nhân. Nhiều người xuất gia coi tôn giáo là công cụ kiếm tiền. Thế nhân hoặc là chấp mê vào thuyết vô thần mà không còn tin vào Thần, hoặc là trước tượng Phật cầu xin Thần Phật thỏa mãn các lợi ích của bản thân ở thế gian, chứ không phải là sự kính ngưỡng thuần khiết. Vào lúc này, ai có thể cứu độ tất cả chúng sinh? Các vị Thần Phật từ bi không hề quên con người thế gian. Pháp Luân Công còn được gọi là Pháp Luân Đại Pháp, được truyền bá vào năm 1992. Đây không phải là một môn khí công thông thường, mà là Phật Pháp vĩ đại dùng hình thức khí công để truyền bá đến con người thế gian.

Pháp Luân Công dùng ngôn ngữ hiện đại để trực tiếp giảng cho con người biết nhiều thiên cơ của giới tu luyện, khiến người tu luyện đạo đức thăng hoa, nhận được lợi ích về thể chất lẫn tinh thần, được đông đảo quần chúng đón nhận. Tuy nhiên, người đứng đầu ĐCSTQ lúc bấy giờ đã nổi lòng đố kị, cộng thêm bản chất tà ác vô thần của của ĐCSTQ, vào tháng 7 năm 1999, lãnh đạo ĐCSTQ đã phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Trong phút chốc, những lời dối trá vu khống Pháp Luân Công rợp trời dậy đất làm cho nhiều người tu luyện Pháp Luân Công kiên định phải chịu bức hại. Một học viên Pháp Luân Công đã kể cho tác giả một câu chuyện có thật, đó là có một học viên Pháp Luân Công bị tà đảng Trung Cộng bức hại chỉ vì kiên định vào đức tin của mình, anh ấy bị giam trong tù, quyết không khuất phục tà ác. Một đêm nọ qua song sắt cửa sổ, anh nhìn thấy ánh trăng trên bầu trời thực sự biến thành một đóa hoa sen, những người không tu luyện cùng phòng giam cũng nhìn thấy điều kỳ diệu này. Tác giả tra cứu trên Minh Huệ Net – một trang web do các học viên Pháp Luân Công sáng lập (https://www.minghui.org), đã tìm thấy rất nhiều những thần tích tương tự, ở đây tác giả chỉ trích ra vài câu chuyện.

Bài viết “Đóa hoa sen thánh khiết” được đăng trên Minh Huệ Net vào ngày 13 tháng 8 năm 2021 kể rằng: “Một buổi sáng sớm, khoảng hơn 2:00 giờ, tôi thức dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn thấy một vầng trăng vừa to vừa tròn treo trên bầu trời. Bên dưới ánh trăng nở ra những đóa hoa sen xinh đẹp và thánh khiết. Cảnh sắc tuyệt đẹp!”, “Cảm ơn Sư phụ đã cho con nhìn thấy cảnh tượng kỳ diệu thù thắng này! Chẳng phải mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều giống như những đóa hoa sen nở rộ sao? Đắm mình trong Phật ân hạo đãng từ bi vĩ đại của Sư phụ, thật là hạnh phúc vô tỉ!”

Minh Huệ Net đã đăng tải một bài viết vào ngày 17 tháng 2 năm 2020: “Phụ nữ ở độ tuổi 80: Tôi chỉ đọc sách Chuyển Pháp Luân trong 20 năm”. Sau khi học viên Pháp Luân Công này kiên định vào đức tin của mình, “Trên đường về nhà, tôi thấy trăng sáng và lớn hơn bình thường, trong ánh trăng lại có một đóa hoa sen trông rất đẹp. Tôi ngộ được là Sư phụ triển hiện cho tôi xem để khích lệ và ban thưởng cho tôi”.

Bài viết “Con đường tu luyện là con đường dẫn đến hạnh phúc” đăng trên Minh Huệ Net vào ngày 15 tháng 2 năm 2019: “Không lâu sau khi Đại Pháp bị ĐCSTQ bức hại, buổi tối khi tôi và mẹ Phương đi ra ngoài phát tài liệu chân tướng, phát xong chúng tôi đến một con rạch, nhìn thấy trong nước có một đóa hoa sen màu vàng kim, vô tình nhìn lên trời tôi lại thấy ánh trăng cũng hóa thành đóa hoa sen vàng, ở giữa có một người ngồi. Có một lần sau khi phát tài liệu về nhà, tôi thấy trong nhà đầy hoa cúc, sáng lấp lánh trong bóng tối, mỗi gian phòng đều như thế. Tôi biết đây là Sư phụ đang khích lệ tôi tranh thủ thời gian cứu người và tu luyện tốt”.

Bài viết “10 năm trên con đường tu luyện gian khổ” trên Minh Huệ Net ngày 14 tháng 10 năm 2010 kể rằng: “Khoảng 12:00 giờ, tôi rất ngạc nhiên khi thấy một Pháp Luân lớn đang quay trong vầng trăng vừa tròn vừa to. Tôi hào hứng nói với con và các đồng tu xung quanh: ‘Nhìn kìa, Sư phụ đang nhìn chúng ta!’ Trong nháy mắt sân vận động tràn ngập những tiếng reo hò. Sau đó, cảnh sát đã cưỡng chế các nhóm người lên xe và đưa đi. Lúc này, tôi nhìn thấy cả bầu trời giống như một chiếc ô quay lớn, vô số Pháp Luân nhỏ màu đỏ, cam, vàng, lục, lam và tím đang quay rất nhanh, tôi vô cùng phấn khích, Sư phụ và các Thần hộ Pháp đang trông nom chúng tôi!”

Bài viết đăng trên Minh Huệ Net ngày 1 tháng 12 năm 2008 có tựa đề “Pháp hội Đại Lục – Ma luyện thành thục trong gian khổ” kể rằng: “Khi tôi đang trên đường đến một khu dân cư để đưa thư cho đồng tu ở đó, vô tình nhìn lên bầu trời, tôi ngạc nhiên khi thấy vầng trăng vàng biến thành hình dạng hoa sen sáng chói lúc to lúc nhỏ trước mắt mình, tôi tưởng mình bị hoa mắt nên dụi mắt, nhưng vẫn nhìn thấy như vậy. Tôi biết là Sư phụ đang khích lệ tôi và bảo tôi đừng sợ, Sư phụ đang ở bên cạnh bảo vệ tôi”.

Trên thực tế, Pháp Luân Công đã triển hiện thần tích về mọi phương diện nhiều đến mức không đếm xuể. Tại đây, tác giả xin gửi đến các bạn một lời chân thành nhất: Pháp Luân Công là Phật Pháp chân chính. Hãy tin vào chân tướng do các học viên Pháp Luân Công truyền bá và ghi nhớ “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, các bạn sẽ được phúc báo trong tương lai.

Nguồn tư liệu: Vạn Tân soạn tục Tạng Kinh quyển số 88, số 1654 Huệ Quả hoà thượng hành trạng, Đại Đường Thanh Long tự tam triều cung phụng đại đức hành trạng.

Hán Việt:

Nguyên văn: ……Chí Đại Lịch thập nhất niên. Gia trì Đại Tông hoàng đế. Ưng thời tiện sai. Sắc tứ tử y nhất đối. Khẩu tấu bất cảm thâu. Ưng thì khước tiến, sắc vân: Trẫm dĩ tứ sư tử y, hà đắc bất thâu? Tấu vân: Nhất giới vy tăng, tứ tử bất thắng đỉnh hà, tức hợp tiện thâu, Phục Duyên hoà thượng tiên hoàng tứ tử, đệ tử bất hợp dữ sư tề. Đế vân: Sư đại hiếu, thị trẫm chi thác. Sắc vân: ……Tồn tuân phụng hiếu kính chi tâm. Vu thử dĩ hậu, kham vy quốc sư. Toại tứ hạt y nhất đối. Phụng sắc gia trì ……Sở hữu ân tứ tiền vật. Nhất thiên dư quán. Tận tu tháp hạ công đức. Đại Lịch thập tam niên. Tấu thỉnh tiền hậu lưỡng độ tuần Nam Đài. Y sư sở tấu, hoà thượng ư Quan Âm đài, trì niệm. Dạ cửu chi gian, đại thánh Quan Âm, vu đại nguyệt luân trung, hiện đại thân tương, quang minh do như bạch nhật, tường vân hiệu khiết, đồng thì sổ bách thiên nhân, dao cộng chiêm lễ.

Tạm dịch:

Nguyên văn: …… Đến năm Đại Lịch thứ 11, hoàng đế Đại Tông thừa dịp ban tặng một bộ quần áo màu tím. Hòa thượng nói không dám nhận. Đúng lúc đó, hoàng đế bước vào và nói: “Trẫm tặng sư bộ quần áo tím, tại sao lại không nhận?” Tấu rằng: “Bần tăng được ban tặng màu tím thật vô cùng cảm động, đáng lý nên nhận. Nhưng tiên sư Phù Duyên được tiên hoàng ban cho màu tím, đệ tử không thể ngang hàng với sư phụ”. Hoàng đế nói: “Sư đại hiếu, là lỗi của trẫm”. Vua ban chiếu chỉ: Cảm động tấm lòng hiếu kính sư tôn của hòa thượng Huệ Quả, do đó phong làm quốc sư. Ban tặng một bộ quần áo màu nâu, tặng thêm tài vật hơn một ngàn quan. Hòa thượng đem tất cả tài vật làm công đức xây chùa tháp. Năm Đại Lịch thứ 13, hai lần dâng tấu thỉnh mời hoàng đế ghé thăm Nam Đài. Theo lời tấu, hòa thượng đi lên đài Quan Âm trì tụng. Trong đêm, đại thánh Quan Âm xuất hiện dưới vầng trăng lớn tỏa ánh sáng rực rỡ như ban ngày, mây cát tường sáng rực, cùng lúc đó có vài trăm ngàn người từ xa đang chiêm ngưỡng lễ bái.

Ghi chú: Hành trạng: là một thể loại văn chương ghi lại sơ lược tất cả những việc làm, sinh hoạt, quê quán, ngày tháng năm sinh và năm mất của một người nào đó.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286087

The post Chuyện cổ Phật gia: Cao tăng Huệ Quả thời Đường tôn kính sư phụ mọi thời khắc, thần tích hiển dưới ánh trăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Bà La Môn chân chínhhttps://chanhkien.org/2024/02/chuyen-co-phat-gia-ba-la-mon-chan-chinh.htmlWed, 28 Feb 2024 02:33:54 +0000https://chanhkien.org/?p=32685Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Bà La Môn giáo là tôn giáo rất lâu đời ở Ấn Độ cổ, nó đã tồn tại từ niên đại rất xa xưa. Bà La Môn giáo trong suốt chiều dài lịch sử không ngừng bị biến dị, và dần dần xuất hiện những hành vi sát […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Bà La Môn chân chính first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Bà La Môn giáo là tôn giáo rất lâu đời ở Ấn Độ cổ, nó đã tồn tại từ niên đại rất xa xưa. Bà La Môn giáo trong suốt chiều dài lịch sử không ngừng bị biến dị, và dần dần xuất hiện những hành vi sát sinh v.v… Đương thời vào những năm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp, Bà La Môn giáo sau khi biến dị đã không ngừng khởi tác dụng can nhiễu phá hoại rất lớn, khi ấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng rất phản đối việc Bà La Môn giáo biến dị cản trở việc thuyết giảng Phật giáo của Ngài. Các đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn gọi các tín đồ Bà La Môn thời đó là “Bà La Môn trá hình”, vậy thế nào là Bà La Môn chân chính? Câu chuyện sau đây sẽ kể về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luận thuật như thế nào là Bà La Môn chân chính.

Vào thời đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thành phố Savatthi của Ấn Độ cổ, ông tạm trú trong vườn xoài của một tín đồ Bà La Môn tên là Devabita. Vào một buổi sáng, vị tín đồ Bà La Môn là ông Devabita này đến thăm viếng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Sau một hồi chào hỏi xã giao, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi Devabita: Hiện nay phương pháp các ngài thực hành tu luyện Bà La Môn như thế nào? Ví dụ như, hiện nay Bà La Môn giáo cho rằng bố thí người như thế nào để có thể đạt được đại phúc báo? Khi nào nên bố thí? Bố thí những thứ gì mới là gieo trồng phúc điền thù thắng nhất?

Devabita trả lời rằng: Hiện nay Bà La Môn giáo chúng tôi gọi những người có thành tựu nhất trong Bà La Môn giáo là “Tam Minh Bà La Môn”. Muốn trở thành Tam Minh Bà La Môn phải có ba điều kiện: Cần là một vị thầy có kiến thức uyên bác, có dòng máu Bà La Môn thuần khiết, và có dung mạo đoan chính. Những ai có thể bố thí cho Tam Minh Bà La Môn sẽ nhận được đại phúc báo, bố thí cơm ăn áo mặc bất cứ lúc nào chính là gieo trồng phước điền thù thắng nhất.

Sau đó, Devabita hỏi ngược lại Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rằng: Ngài cho rằng như thế nào mới là Bà La Môn chân chính? Như thế nào mới là thành tựu Tam Minh? Bố thí người như thế nào để có thể đạt được đại phúc báo? Thời cơ nào là thích hợp để bố thí? Bố thí như thế nào mới là gieo trồng phúc điền thù thắng nhất?

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời: Thiện tri giải thoát, giải thoát hết thảy người tham lam, mới là Bà La Môn chân chính. Tu luyện đạt được túc mệnh thông hiểu rõ quá khứ và tương lai, thiên nhãn thông có thể nhìn được chúng sinh ở các tầng thứ khác nhau, người có thể đoạn hết phiền não chấp trước, mới là thành tựu Tam Minh thánh giả. Có thể bố thí Thánh giả như vậy vào bất cứ lúc nào, thì mới có đại phúc báo, mới là gieo trồng phúc điền thù thắng nhất.

Trong câu chuyện trên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho rằng một Bà La Môn chân chính là người biết cách thiện tri đạt đến giải thoát, là người giải thoát hết thảy chấp trước tham lam dục vọng. Đương thời khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp, Ngài cũng nhằm mục đích giải thoát tất cả chúng sinh. Từ đó cũng có thể thấy rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không phản đối Bà La Môn chân chính, Ngài cho rằng những người Bà La Môn chân chính cũng là những người đạt được giải thoát, trong quá khứ pháp tu Bà La Môn chân chính cũng là Phật pháp có thể đạt được giải thoát và cứu độ chúng sinh!

Về điểm này, bậc Đại Giác Giả truyền bá Pháp Luân Đại Pháp ngày hôm nay đã sớm luận thuật rõ ràng:

“Kỳ thực, Bà La Môn giáo lúc bắt đầu tín phụng là Phật, là kế thừa từ Phật mà người thượng cổ Hy Lạp tín phụng, đương thời họ gọi Phật là Thần. Trải qua ước chừng một nghìn năm, Bà La Môn giáo bắt đầu cải tổ, tựa như cải tổ trong Đại Thừa Phật giáo của Phật giáo hiện đại, cải tổ trong Phật giáo Tây Tạng, cũng như cải tổ trong Phật giáo Nhật Bản, v.v. Trải qua hơn một nghìn năm cho đến cổ Ấn Độ, là thời Bà La Môn giáo tiến nhập sang thời kỳ mạt pháp, người ta bắt đầu là tín phụng tạp loạn những gì ngoài Phật, lúc đó Bà La Môn giáo không còn người tin Phật nữa, mà điều tin theo đều là ma rồi, xuất hiện tình huống sát sinh cúng tế. Đến thời mà Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế, thì Bà La Môn giáo đã hoàn toàn biến thành tà giáo. Không phải nói là Phật như thế nào, mà là tôn giáo biến thành tà rồi. Trong các văn vật lưu truyền ở Ấn Độ cổ đại, cũng có thể tìm thấy những bức tượng, v.v., trong sơn động mà Bà La Môn giáo thời đầu lưu lại, hình tượng Thần được điêu khắc ấy đều là hình tượng Phật. Những điều đó cũng có thể thấy ở trong những hình tượng Phật điêu khắc của Phật giáo vùng đất người Hán chúng ta, ví như hình tượng hai vị Phật ngồi đối diện nhau trong mấy chỗ khai quật hang động lớn, v.v. Phật vẫn là Phật, ấy là tôn giáo biến thành tà thôi. Tôn giáo không đại biểu cho Thần Phật, mà là nhân tâm bất hảo đã làm biến dị tôn giáo”. (Tinh tấn yếu chỉ – Phật pháp và Phật giáo)

Pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền chính là Phật pháp, Bà La Môn giáo cổ đại khi chưa cải tổ cũng là Phật pháp. Phật pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền không thể khái quát toàn bộ Phật pháp. Bản thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa bao giờ nói rằng Pháp Ngài đã truyền là toàn bộ Phật pháp. Ngoài Phật giáo còn tồn tại Phật pháp khác có thể độ nhân, ngay cả Thiền tông quá khứ cũng giảng về “ngoại giáo không truyền” và “không nhập nội giáo”.

Tuy nhiên, ngày nay nhiều tín đồ Phật giáo vì xuất phát từ cảm tình, chấp trước, mà cho rằng Pháp trong Phật giáo là toàn bộ Phật pháp, cho rằng chỉ có Phật giáo mới có thể độ nhân. Họ không phân biệt rõ đúng sai, hễ có ai đề cập đến việc độ nhân không thuộc về Phật giáo họ đều nhất mực phủ định, bài xích, thay vì dùng lý trí thực sự để đối đãi. Điển hình nhất hiện nay là, cùng với việc hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp, nhiều học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện đã nhận thức được rằng Pháp Luân Đại Pháp là Phật pháp thực sự có thể độ nhân. Tuy nhiên, một số tín đồ Phật giáo xuất phát từ cảm tình tôn giáo và những chấp trước về danh lợi, lý trí không thanh tỉnh mà phỉ báng Đại Pháp, thậm chí còn tham gia vào việc bức hại các đệ tử Đại Pháp, tạo ra tội nghiệp to lớn mà vẫn còn tưởng rằng họ đang duy hộ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thậm chí vì thế còn cảm thấy dương dương tự đắc. Kỳ thực, điều họ duy hộ là Phật giáo thời kỳ mạt pháp chứ không phải là duy hộ Phật.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53844

The post Chuyện cổ Phật gia: Bà La Môn chân chính first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Ẩn ý giữa lá vàng và vànghttps://chanhkien.org/2024/01/chuyen-co-phat-gia-an-y-giua-la-vang-va-vang.htmlSat, 06 Jan 2024 22:54:52 +0000https://chanhkien.org/?p=32292Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Một số người trong Phật giáo cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng ra hết tất cả Phật Pháp, kỳ thực không phải như vậy. Phật Thích Ca Mâu Ni không cho rằng Phật Pháp mình truyền ra là Phật Pháp tối cao, tối căn bản, và đã […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ẩn ý giữa lá vàng và vàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Một số người trong Phật giáo cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng ra hết tất cả Phật Pháp, kỳ thực không phải như vậy. Phật Thích Ca Mâu Ni không cho rằng Phật Pháp mình truyền ra là Phật Pháp tối cao, tối căn bản, và đã giải thích vấn đề này với đệ tử nhiều lần.

Ví như trong “Kinh Niết Bàn” có ghi chép mô tả tình huống nhập Niết Bàn của Phật Thích Ca Mâu Ni và những lời nói và việc làm của Ông trước khi nhập Niết Bàn. Trước khi nhập Niết Bàn Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói về ẩn ý của lá vàng và vàng: “Khi một đứa trẻ khóc, cha mẹ sẽ lấy lá vàng của cây dương để nói với nó: ‘Đừng khóc! Đừng khóc! Cha sẽ cho con vàng’. Đứa bé nhìn thấy, nghĩ là vàng thật, liền ngừng khóc. Tuy nhiên, những chiếc lá cây dương này thật sự không phải là vàng”, cũng chính là nói khi đứa trẻ khóc, để vỗ về đứa trẻ cha mẹ liền dùng những chiếc lá vàng trên cây dương làm vàng cho đứa bé chơi đùa, miệng nói rằng: “Đừng khóc, đừng khóc, cha sẽ cho con vàng để chơi”. Đứa trẻ chơi đùa coi lá vàng như vàng thật nên không khóc nữa. Tuy nhiên cuối cùng thì đây chỉ là lá vàng chứ không phải vàng thật.

Phật Thích Ca Mâu Ni đã ví Pháp mà Ông truyền ra như lá vàng chứ không phải vàng thật. Hãy thử nghĩ xem khi đứa trẻ lớn lên thành người lớn, tự nhiên nó sẽ không chơi lá vàng nữa, mà là muốn để có được của cải thực sự thì nó phải tìm được vàng thật. Tác giả tin rằng: Phật Thích Ca Mâu Ni muốn khích lệ con người trong tương lai đi tìm Phật Pháp cao hơn, chứ không được chấp mê vào tôn giáo. Đây tuyệt không phải là tác giả hiểu một cách lung tung mà là dựa vào kinh Phật. Trong “Kinh Kim Cương” có ghi rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ ràng với đệ tử Tu Bồ Đề: “Ngã ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (Ta đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng có lấy một phần nhỏ pháp có thể được, nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác). “A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” là từ phiên âm, có ý nghĩa là trí huệ của Phật Pháp cao nhất. Ý nghĩa của cả câu là: Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: Ta chưa chứng ngộ đến được trí huệ của Phật Pháp cao nhất, sợ rằng một chút trong đó cũng không có, chỉ là một số người coi Pháp của ta thành trí huệ của Phật Pháp cao nhất mà thôi.

Ngoài ra, Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng “chẳng thuyết một chữ nào”, ví như trong “Kinh Lăng Già” có câu: “Ta từ đêm kia đắc Tối Chánh Giác, cho đến đêm kia nhập Niết Bàn, ở nơi khoảng giữa chẳng thuyết một chữ”. Nghĩa là Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng: Từ lúc ta khai ngộ cho đến khi nhập Niết Bàn nhục thân chết đi, ta chưa có giảng một lời nào về Phật Pháp. Có người giải thích rằng vì Phật Pháp không thể diễn đạt được bằng ngôn ngữ con người. Tuy nhiên sau khi xem xét toàn bộ nội dung “Kinh Kim Cương” và “Kinh Niết Bàn”, rõ ràng Phật Thích Ca Mâu Ni là có ý nói rằng: Ông chưa từng giảng về “A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ đề”, hoàn toàn không giảng về trí huệ của Phật Pháp tối cao tối thượng này, thậm chí không nói một lời nào, bởi vì bản thân Ông cũng chưa chứng ngộ được trí huệ của Phật Pháp cao nhất, Ông chỉ là giảng về Pháp của “giới, định, huệ” mà Ông đã chứng ngộ được, nếu đem trí huệ của Phật Pháp tối cao ví như vàng, vậy thì Pháp mà bản thân Ông chứng ngộ được chỉ là chiếc lá vàng mà thôi.

Nếu tiến thêm một bước suy đoán trên cơ sở này chúng ta có thể thấy: Phật Thích Ca Mâu Ni nhấn mạnh nhiều lần rằng nhất định trong tương lai sẽ có Phật Pháp vĩ đại hơn, cao hơn được truyền ra, và Pháp này chính là trí huệ của Phật Pháp tối cao và tối căn bản. Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới nhắc nhở những người hữu duyên các thế hệ sau như vậy, khi Phật Pháp vĩ đại được truyền ra thì nhất thiết không được bỏ lỡ cơ duyên. Hiện nay theo lời Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, tôn giáo sớm đã đi đến thời mạt Pháp, không thể độ nhân được nữa, đừng chấp trước vào chính tôn giáo nữa. Có lẽ có Pháp chân chính đang truyền ở bên ngoài tôn giáo, tôn giáo tuyệt đối không phải là hình thức duy nhất để lưu truyền Phật Pháp.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/285175

The post Chuyện cổ Phật gia: Ẩn ý giữa lá vàng và vàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Người phàm trần có tiên duyên tình cờ gặp người tu Đạo hiển lộ thần thônghttps://chanhkien.org/2023/10/nguoi-pham-tran-co-tien-duyen-tinh-co-gap-nguoi-tu-dao-hien-lo-than-thong.htmlSat, 07 Oct 2023 03:34:48 +0000https://chanhkien.org/?p=31469Tác giả: Nhan Văn [ChanhKien.org] Tất cả chúng sinh bước đi trong cõi phàm trần, nhìn thì thấy bình thường, nhưng không ít người có duyên Phật, duyên Đạo. Trong luân hồi họ đã vô số lần chuyển sinh, làm sao biết được đang chờ đợi cơ duyên để gặp người truyền Pháp, truyền Đạo. […]

The post Người phàm trần có tiên duyên tình cờ gặp người tu Đạo hiển lộ thần thông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhan Văn

[ChanhKien.org]

Tất cả chúng sinh bước đi trong cõi phàm trần, nhìn thì thấy bình thường, nhưng không ít người có duyên Phật, duyên Đạo. Trong luân hồi họ đã vô số lần chuyển sinh, làm sao biết được đang chờ đợi cơ duyên để gặp người truyền Pháp, truyền Đạo.

Trong các triều đại của Trung Quốc đều xuất hiện không ít cao nhân đắc Đạo tu luyện ẩn cư trên núi, khi họ đi qua đường phố, ngõ hẻm, khu chợ, gặp nhân duyên an bài họ sẽ triển hiện thần thông, hoặc là để mọi người trực tiếp cảm thụ được tiên thuật tinh diệu, đạo pháp cao thâm, hoặc muốn giúp mọi người hiểu rằng con người vốn dĩ có thần tính, tu luyện thần thông thuật loại vốn dĩ là điều mà ai cũng làm được. Bài viết này giới thiệu những giai thoại dân gian trong cuốn hồi ký thời nhà Tống Di Kiên Chí.

Người tu Đạo tuỳ hứng kê đơn thuốc, bệnh nhân uống xong bay lên được

Những năm Thuần Hy triều đại Nam Tống, có một vị quan ở quận Bà Dương nói rằng ông thông gia với ông là Hạng Quốc Hoa, khi còn nhỏ đã có một cuộc phiêu lưu kỳ lạ. Lúc ông 8,9 tuổi, trên cánh tay xuất hiện một cái nhọt độc, đã tìm hơn chục thầy thuốc ngoại khoa giỏi cũng không chữa khỏi. Sau đó cha mẹ đưa ông đi du ngoạn, tình cờ gặp một người tu Đạo.

Đạo sĩ này cao 7 thước (hơn 2m), mặt to miệng rộng. Cha của Hạng Quốc Hoa là người hiểu biết, cho rằng người này tướng mạo phi phàm, quyết không phải là người ở thế gian, liền tiến về phía đạo sĩ cúi đầu hành lễ. Lúc này, đạo sĩ dừng bước, nhìn chằm chằm vào đứa trẻ bị bệnh trước mặt.

Đột nhiên, đạo sĩ dường như nhớ tới điều gì và hỏi: “Các vị sao không cho cậu bé uống tứ vật thang [1]?” rồi tới trước mặt cầm lấy tay Hạng Quốc Hoa, vừa nhè nhẹ thổi, vừa xoa nhẹ và ấn vào. Cha của Hạng Quốc Hoa muốn bày tỏ lòng biết ơn, chủ động mời đạo sĩ tới nhà uống rượu làm khách, nhưng ông thẳng thừng từ chối, rồi rất nhanh biến mất trong đám đông.

Về tới nhà, cha Hạng Quốc Hoa theo lời đạo sĩ, cho cậu uống tứ vật thang. Ba năm sau, cái nhọt độc đã lành, nhưng vẫn uống thuốc đó. Tới mùa xuân, những cây liễu bên ngoài nhà phát triển tươi tốt, thu hút một chú chim non bay tới đậu trên cành cây. Hạng Quốc Hoa còn nhỏ, thấy rất vui mừng bèn muốn đi bắt chim. Tiếc là cành cao quá không với tới được.

Cậu ta vừa động niệm đột nhiên cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, bay lên như một chiếc lông vũ, rồi hạ xuống cành cây. Từ đó về sau, cơ thể cậu bắt đầu trở nên nhẹ nhàng phiêu phiêu, chỉ cần nghĩ muốn đi tới đâu, lập tức có thể bay lên. Dù khoảng cách xa gần, chỉ nháy mắt là tới. Có lúc cậu còn bay lên không trung trên chín tầng mây, nhìn thấy hạc tiên bay bên dưới mình. Cậu sợ mình bay quá cao không quay về được, cũng lo lắng người khác biết rồi sẽ mách cha mẹ, gây phiền nhiễu, nên không dám tuỳ ý bay loạn nữa.

Cha mẹ cậu không biết về việc này, nhưng một người thân của cậu tình cờ nghe thấy. Vào một năm Tết Nguyên tiêu, người họ hàng không tin cậu có thể bay, cố ý đùa giỡn cậu và nói: “Nghe nói cậu có thể lên trời hành tẩu, muốn tới đâu liền tới đó, tối nay phủ Ninh Quốc hoa đăng rất đẹp, cậu không đi xem à?” Hạng Quốc Hoa nghe rồi, cười đáp lại: “Có gì khó đâu!” rồi lập tức đứng dậy, bay lên không trung. Cậu giống như mọc cánh, rất nhanh đã bay đi xa rồi.

Nửa đêm canh ba, cậu trở về nhà, kể cho cha mẹ và người họ hàng nghe những gì cậu thấy trên đường, sau đó người họ hàng phái người đi kiểm chứng, phát hiện những gì cậu nói không sai điểm nào. Vài năm sau, có người tới thăm Hạng Quốc Hoa, nhìn thấy tướng mạo cậu cao lớn bất phàm, đã có chút giống người tu Đạo rồi.

Liên Hoa Tử gặp tiểu đạo sĩ nhảy tường đi vào động tiên

Năm cuối thời Thiệu Hưng, ở huyện Ngân, Chiết Giang có một thanh niên họ Liên, suốt ngày sống cuộc sống phóng đãng không biết ước thúc. Anh ta ngày thường rất thích uống rượu, mỗi lần uống nhiều rượu rồi liền cài hoa lên đầu, sau đó điên điên rồ rồ đi trên đường vừa đi vừa hát. Người dân địa phương không thích anh, và họ đối xử với anh ta như kẻ ăn mày, còn đặt anh ta biệt danh “Liên Hoa Tử”.

Gần làng có một ngôi nhà cũ bỏ hoang, trông có vẻ đã dột nát, tương truyền bên trong có ma quỷ, vì vậy không ai đám vào. Một hôm, Liên Hoa Tử đi qua nơi đây. Anh ta đã uống nhiều rượu, nhờ men rượu tiến vào trong. Khi vào trong nhà, nhìn thấy một vị tiểu đạo sĩ đang ngồi xếp bằng đả toạ, trong tâm anh cảm thấy tôn kính, liền tiến tới trước mặt tiểu đạo sĩ hành lễ, còn bàn luận thuật phi thăng của Thần Tiên đạo sĩ.

Tiểu đạo sĩ nghe anh ta nói, cười không trả lời, sau đó chỉ tay vào tường, chỉ thấy tường mở ra giống như cánh cửa bằng đá. Liên Hoa Tử ngạc nhiên phát hiện bên trong không còn là ngôi nhà đơn giản nữa, mà là một đại điện hùng vĩ, tráng lệ, bên trong có tầng tầng lớp lớp nhà lầu sắp xếp hợp lý. Nhìn xung quanh, cảm giác thấy khí thế phi phàm, vượt xa thế giới trần tục.

Liên Hoa Tử được tiểu đạo sĩ đưa vào trong cung điện, cảm thấy trong đại điện trưng bày, trang trí tinh mỹ, cảnh đẹp như chốn Thần Tiên. Anh nhìn thấy chính giữa tường treo một biển hiệu chữ màu vàng viết “Động thiên chân nhân chi điện”, ở bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc là bài vị của “Đông Giới Thần Quân”, “Nam Động Thần Quân”, “Tây Thiên Chân Nhân”, “Bắc Cực Chân Nhân”. Một vị mặc trang phục nhà vua ngồi trên điện, những người bên cạnh đều mặc trang phục quan vàng tím. Ở giữa điện là một nhóm Tiên nữ mặc y vũ nghê thường nhảy múa theo khúc nhạc nhẹ nhàng, nhạc công diễn tấu những khúc nhạc thần tiên thanh thoát, uyển chuyển, mỹ diệu giống như thiên nhạc.

Liên Hoa Tử muốn vào trong điện bái kiến, nhưng bị tiểu đạo sĩ ngăn cản. Tiểu đạo sĩ nói: “Muốn bái kiến Chân Nhân thì phải báo trước, ngày mai anh hãy tới”. Họ cùng nhau đi ra ngoài điện, quay đầu nhìn lại, điện thần đã biến mất không thấy, chỉ thấy trước mắt vẫn là ngôi nhà cũ rách nát. Sau đó tiểu đạo sĩ quay lại ngôi nhà, nhảy vào tường và cũng biến mất.

Ngày hôm sau, hai người lại tới điện. Liên Hoa Tử vừa muốn tới bái kiến Chân Nhân trong điện, thì nhìn thấy một người phi ngựa nước đại từ xa tới, truyền tin cho Chân Nhân. Phía sau anh ta không xa, một Tiên nhân khí thái bất phàm ngồi trên kiệu hoa, xung quanh là những người hầu cờ quạt đứng thành hàng tiến về phía trước. Lúc này tiểu đạo sĩ nói: “Đây là Tử Phủ Chân Quan tới bái kiến Chân Nhân”.

Tiểu đạo sĩ đưa cho Liên Hoa Tử một quả dưa chuột, trông có vẻ đã thối rữa. Liên Hoa Tử ngại từ chối, bèn miễn cưỡng ăn. Không ngờ hương vị của quả dưa chuột thật đặc biệt, rất tươi ngon, ngọt ngào. Họ hẹn gặp lại nhau sau năm ngày nữa, từ đó thường xuyên gặp nhau. Nhiều năm về sau, khi Liên Hoa Tử 60 tuổi thì đã không dùng thức ăn chín của nhân gian nữa. Mọi người nhìn sắc mặt của anh hồng hào như một em bé sơ sinh. Anh xem cho mọi người hung cát phúc hoạ đều rất linh nghiệm.

Người bán thuốc gặp đạo sĩ được truyền thụ thuật tịch cốc

Vào thời Bắc Tống, ở thành Biện Kinh (Khai Phong ngày nay) có một thư sinh nghèo tên là Trương Công, tham gia thi cử nhưng không đậu. Vì nhà mẫu thân nhiều đời làm thầy thuốc, anh cũng biết phương thuật, nên ở lại kinh thành mở một cửa hàng thuốc. Một buổi sáng, anh ta vừa ngủ dậy mặc quần áo, chải đầu thì nhìn thấy một đạo sĩ hướng về phía mặt trời mọc đi qua.

Đôi mắt đạo sĩ sáng ngời, và nhìn mặt trời không chớp mắt. Ông đi thẳng vào hiệu thuốc nhìn thấy Trương Công nhưng không chào, cũng không thi lễ, chỉ chỉnh lại y phục rồi ngồi xuống như không có ai ở bên cạnh. Trương Công thấy đạo sĩ ngạo mạn vô lễ, giận dữ hỏi ông ta từ đâu đến. Đạo sĩ đáp: “Anh không cần hỏi nhiều, ta chính là tới tìm anh!”

Trương Công nghĩ thầm: “Kinh thành này bình thường kẻ cả gan làm loạn không ít, không lẽ ông ta là một trong số đó?”, nên không buồn cãi nhau với ông, anh ném ra một xu ý muốn đuổi ông ta đi. Nhưng đạo sĩ cười nói: “Ta trước nay không cầu gì của con người, vì thấy anh có Đạo duyên nên muốn tới dạy bảo. Anh hà cớ gì đuổi ta đi?” Nghe nói như vậy, Trương Công đột nhiên ngộ ra, lập tức chỉnh mũ áo hành lễ, bái đạo sĩ làm thầy.

Sau đó, đạo sĩ giảng cho anh rất nhiều điều về xuất gia tu hành, trong đó đều là những pháp lý thâm sâu vi diệu, từ trước giờ anh chưa từng được nghe. Anh ta áy náy nói: “Trương Công con người trần mắt thịt, suýt nữa bỏ qua kỳ duyên với Đạo tiên, hôm nay may mắn được gặp ngài, nguyện trong cuộc đời này luôn được nghe ngài dạy bảo”.

Đạo sĩ suy nghĩ rồi hỏi anh ta: “Con còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành không?” Anh ta đáp: “Nhà con nghèo quá, có khi không có cháo mà ăn. Nếu có thể không ăn cơm mà vẫn cảm thấy no, thì đời này không hối hận”.

Ngay khi nói tới đây, một người bán táo đi ngang qua cửa, đạo sĩ gọi người bán táo lại, dùng đồng xu mà lúc trước Trương Công đưa mua bảy quả táo, sau đó nói với anh ta: “Phàm là Thần Tiên đều biết, tịch cốc chỉ là pháp môn tu hành tầng thấp nhất, nếu không ăn cơm, cơ thể sẽ không tích tồn những thứ dơ bẩn, nhưng không sinh ra cặn bẩn, thì không cần bài tiết, có thể như vậy cũng tu đạo được”. Đạo sĩ còn dặn dò anh: “Con muốn tu Đạo, thì không thể gần nữ sắc nữa, con có thể làm được không? Không chỉ không được gần nữ sắc, còn cần đoạn trừ các chủng niệm thế tục, chỉ như vậy mới có thể đắc Đạo thành Tiên”.

Ông cầm bảy quả táo trong tay, nhìn kỹ lưỡng, rồi thổi vào một hơi, sau đó đưa cho Trương Công, nói với anh ta: “Con ăn những quả táo này đi, rồi con sẽ không cần ăn nữa. Nếu có người ép con ăn, con có thể ăn chút ít, không sao cả. Đợi tới khi con không muốn ăn nữa, sẽ tự nhiên giống như trước, lại không cần ăn nữa. Khi con ăn bảy quả táo này, bảy giấc mơ của con sẽ được ứng nghiệm, cũng là dùng phương pháp này điểm hoá cho con. Đợi tới khi con hoàn thành nhiệm vụ phụng dưỡng cha mẹ, duyên vợ chồng đã hết, hãy đi tới vách đá dựng đứng của một ngọn núi nổi tiếng tìm một hang động có thể nương náu, sau đó dùng đá bít cửa động lại. Từ đó về sau, con chỉ ở trong đó tu hành. Chỉ trong sáu năm, thân thể con sẽ như ve sầu thoát xác, tiêu diêu ngoài thiên địa. Tới khi đó sẽ như thế nào, ta hiện giờ chưa thể bảo cho con biết được”.

Nói xong, đạo sĩ đứng dậy đi ra ngoài cửa. Trương Công muốn giữ ông lại, nhưng ông ra khỏi cửa đã không thấy đâu rồi. Sau này, Trương Công ngửi thấy mùi thức ăn là buồn nôn, không muốn ăn. Qua hai năm, anh không hề bài tiết. Anh chỉ cảm thấy bước đi nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái, và sinh lực ngày càng tốt. Anh hàng ngày đi quanh tường ngoài thành năm vòng, từ sáng sớm tới tận tối muộn, dù đi cả trăm dặm cũng không thấy mệt.

Gia đình anh không quá tin việc này, ép anh phải ăn. Nhưng chỉ là anh bất đắc dĩ ăn, ăn cũng tương đương những người ăn tốt. Một người bạn của anh nghi ngờ có sự lừa lọc, nhốt anh trong một căn phòng trống, để anh mấy ngày không ăn không uống, anh cũng không cảm thấy mệt mỏi.

Có người tìm anh để chữa bệnh, anh liền vui vẻ mang thuốc đến đó. Anh ngồi canh giường bệnh nhân suốt 10 ngày rưỡi, không ăn uống mà vẫn bình thường. Khi anh 60 tuổi, thân thể vẫn như thanh niên khoẻ mạnh. Sau đó, mẹ anh mất, người ta không biết anh đã đi đâu nữa.

Nguồn tài liệu: Di Kiên Chí

Chú thích: [1] Tứ vật thang: Một loại thuốc đông y cổ truyền gồm bốn vị thuốc chính là đương quy, xuyên khung, bạch thược, thục địa đem sắc lên.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/280695

The post Người phàm trần có tiên duyên tình cờ gặp người tu Đạo hiển lộ thần thông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 3): Thân Công Báo – Tâm tật đố hại chết người tu luyệnhttps://chanhkien.org/2023/08/cach-ly-giai-khac-ve-phong-than-phan-3-than-cong-bao-tam-tat-do-hai-chet-nguoi-tu-luyen.htmlThu, 24 Aug 2023 02:33:48 +0000https://chanhkien.org/?p=31165Tác giả: Minh Mâu [ChanhKien.org] Tật đố là một chủng sinh mệnh tà ác phụ diện, là một trong những nguyên nhân của vạn điều ác. Nếu tâm tật đố không bỏ thì tu không thành chính quả. Nếu một người tu luyện có những thứ này thì giống như trong một khối vàng có […]

The post Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 3): Thân Công Báo – Tâm tật đố hại chết người tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Minh Mâu

[ChanhKien.org]

Tật đố là một chủng sinh mệnh tà ác phụ diện, là một trong những nguyên nhân của vạn điều ác. Nếu tâm tật đố không bỏ thì tu không thành chính quả. Nếu một người tu luyện có những thứ này thì giống như trong một khối vàng có lẫn cát, rất yếu nhược, hễ gặp va đập là có thể tan vỡ, giống như chỉ vì một sự việc nhỏ mà có thể liều mạng với người khác, nó trở thành gốc rễ của tai hoạ. Pháp Luân Đại Pháp cần độ nhân vào lúc mạt thế, sinh mệnh chính diện, sinh mệnh phụ diện đều mong muốn được cứu độ. Vào triều Thương có một sinh mệnh phụ diện muốn dùng phương thức “triển hiện nội hàm và sự nguy hại của tật đố” để cảnh tỉnh hậu nhân, cũng là để lại căn cơ được đắc cứu vào thời mạt thế cho bản thân thế, là chuyển sinh dưới tên Thân Công Báo để biểu hiện ra tư tưởng hành vi của người tật đố.

Thân Công Báo và Khương Tử Nha đều là đệ tử của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Thân Công Báo là sư đệ của Khương Tử Nha. Khương Tử Nha tới Ngọc Hư Cung trên núi Côn Luân xin thỉnh giáo sư phụ chỉ điểm về chiến sự, lại được nhận bảng Phong Thần. Phụng mệnh sư phụ giao phó, lúc rời đi Nguyên Thuỷ Thiên Tôn nói: “Con về lần này, hễ có người gọi, không được trả lời, nếu con trả lời, sau này sẽ có 36 lộ binh mã chinh phạt, con hãy đi đi!”

Khi Tử Nha ra khỏi cung có Nam Cực Tiên Ông đưa tiễn Tử Nha, Tử Nha nói: “Sư huynh, đệ lên núi yết kiến lão sư, khẩn cầu chỉ bảo cho cách để đẩy lùi Trương Quế Phương nhưng lão sư không chịu mở lòng từ bi chiếu cố, làm sao đây, làm sao đây?” Nam Cực Tiên Ông nói: “Số trời đã định, không thể thay đổi, chỉ có điều sư đệ phải nhớ kỹ, hễ có người gọi thì quyết không được trả lời, điều này vô cùng quan trọng. Thôi, ta không thể tiễn đệ đi xa thêm được nữa rồi”.

Tử Nha ôm bảng Phong Thần đi về phía vách núi Kỳ Lân, vừa định độn thổ mà đi, thì bỗng nghe phía sau có người gọi. Tử Nha nghĩ rằng: “Quả thật có người gọi ta, ta không thể trả lời”. Phía sau lại có tiếng gọi “Tử Nha công!” Khương Tử Nha cũng không trả lời. Người đó gọi tiếp: “Khương Thừa tướng!” Tử Nha cũng vẫn không trả lời. Người ấy lại gọi liên tiếp năm lần bảy lượt, thấy Tử Nha vẫn không trả lời, liền lớn tiếng trách móc: “Khương Thượng! Huynh quá bạc tình bạc nghĩa đến cả người xưa cũng quên rồi, bây giờ huynh là Thừa tướng, ở ngôi cực phẩm nhân thần, huynh không còn nhớ đến người huynh đệ từng học đạo chung với nhau ở Ngọc Hư Cung suốt 40 năm sao? Hôm nay ta gọi huynh liên tục nhiều lần huynh cũng không trả lời!” Tử Nha nghe được những lời trách móc như vậy, đành phải quay đầu nhìn lại, thì ra là sư đệ Thân Công Báo. Khương Tử Nha nói: “Huynh đệ, ta không biết là đệ gọi ta, chỉ vì sư tôn dặn bảo, nếu trên đường về hễ có người gọi, nhất định không được trả lời, chính vì như thế ta mới làm thinh, đắc tội với đệ rồi”.

Đáng thương cho Tử Nha, nghe những lời lẽ tốt đẹp thì không thấy áp lực, vậy nên vượt qua được nhất quyết không trả lời, chỉ vì Thân Công Báo phát ra những lời mạnh mẽ phẫn nộ, đã liền trả lời, vì danh phận của một sư đệ đã làm cho ông không tuân theo lời dặn dò của sư phụ nữa. Rất nhiều người đều như vậy, không sợ người tốt mà sợ người xấu. Bảng Phong Thần là một thứ có tác dụng xung kích rất lớn. Thân Công Báo là một người vì đố kị mà chuyển sinh có thể nào không có phản ứng đây? Ông ta cho rằng mình mới xứng đáng có được điều đó, phải để ông ta đại diện cho Nguyên Thuỷ Thiên Tôn đi làm sứ mệnh Phong Thần mới đúng. Nhưng không đạt được điều đó thì làm sao đây? Ông ta liền ngăn cản và tìm cách lừa dối Tử Nha để cho ông ta đốt bảng Phong Thần đi rồi theo ông ta đi phò tá Trụ Vương. Tử Nha không chịu, thế là Thân Công Báo tự khoác lác: “Ta chặt thủ cấp liệng lên trời, cho đi du ngoạn ngàn vạn dặm, sau đó trở về vẫn có thể đặt lên cổ như cũ, thế mới đáng nói, thần thông của ta lớn như vậy còn không bằng huynh sao?”

Tử Nha bèn nói: “Huynh đệ, nếu quả làm được như vậy ta sẽ lập tức đem đốt bảng Phong Thần đi, và cùng đệ đi tới Triều Ca”. Thân Công Báo nói: “Huynh không được thất tín!” Tử Nha đáp lại: “Đại trượng phu một lời đã nói ra, nặng tựa núi Thái Sơn, há có lý gì để thất tín?”

Hãy xem, biểu hiện của Tử Nha chẳng phải đã coi là sư phụ không lớn bằng ông ta? “Phong Thần Bảng” – sứ mệnh sư phụ giao cho ông lớn như vậy mà bị ông ta dùng làm con bài thương lượng, nhưng ông đã không ý thức được vấn đề này. Chỉ một màn biểu diễn của Thân Công Báo đã làm cho ông quay lưng làm trái với sứ mệnh sư phụ giao. Không lấy làm lạ khi Nguyên Thủy Thiên Tôn nói về ông rằng “Căn cơ nông cạn, tiên đạo khó thành”. Chút ít căn cơ này tựa như cái rễ nông bám trên bề mặt đất, chỉ cần một lực nhỏ là có thể nhổ bật rễ, nhưng nếu là một cây đại thụ cao chọc trời vốn được cắm rễ dưới hốc sâu thì muốn nhổ cũng chẳng nhổ được. Do vậy ông chỉ có thể làm người.

Nam Cực Tiên Ông thấy Tử Nha bị mê hoặc, liền lệnh cho Bạch Hạc đồng tử ngậm đầu của Thân Công Báo tha đi, nhưng Tử Nha đã cầu xin Nam Cực Tiên Ông thương tình tha mạng sống cho Thân Công Báo, còn bản thân tình nguyện chịu 36 đạo binh chinh phạt, ông đã bị sự biến dị của cái tình ngăn trở nên đã không phân biệt được rõ thiện và ác.

Thân Công Báo được tha tội, cưỡi lên con cọp mặt trắng chỉ vào Tử Nha mà nói: “Huynh hãy đi! Ta nói cho huynh biết vùng đất Tây Kỳ sẽ lập tức biến thành biển máu, xương trắng chất thành núi” nói rồi hậm hực bỏ đi.

Tử Nha đi về phía trước gặp con quái vật một chân, con quái vật hét lớn một tiếng rằng: “Ăn một miếng thịt Khương Thượng kéo dài thọ mệnh 1000 năm”. Tử Nha nghe xong nghĩ: “Hóa ra là muốn ăn thịt ta đây”. Con quái vật lại nhảy tới hét lên: “Khương Thượng, ta phải ăn thịt ngươi!” Tử Nha nói: “Ta với ngươi không thù không oán, cớ gì muốn ăn thịt ta?” Quái vật nói: “Là Thân Công Báo nói vậy!”

Con quái vật này tên là Long Tu Hổ, khi Thân Công Báo lừa dối Khương Tử Nha còn cần phải dùng đến tình cảm huynh đệ, biểu diễn tà đạo để mê hoặc, nhưng đối với con quái vật này chỉ một câu nói là đã làm cho nó tin ngay rồi.

Điều này có lẽ được gọi là “đơn thuần”? Trẻ con đơn thuần ngây thơ, chỉ cần một viên kẹo có thể dỗ dành chúng, chúng không có khái niệm thiện ác, sống dựa vào bản tính tiên thiên. Nhân gian chính là một đống rác, chứa đủ mọi thứ xấu xa, do vậy cần có tâm tính hoàn chỉnh tốt đẹp mới không bị lừa dối mê hoặc.

Văn Thái sư vì chinh phạt Tây Kỳ đã cầu cứu khắp nơi, một ngày nọ cưỡi Hắc Kỳ Lân đến đảo Kim Biệt, thấy trên đảo không có người bèn lên Hắc Kỳ Lân bỏ đi, vừa định rời đi thì phía sau có người nói: “Văn đạo huynh, định đi đâu vậy?” Văn Thái sư ngoảnh lại nhìn thấy hóa ra là Hạm Chi Tiên liền vội vàng chạy lên phía trước cúi đầu làm lễ chào hỏi: “Các đạo hữu đi đâu hết cả?” Hạm Chi Tiên đáp lời: “Ta tới để gặp huynh đây. Chính vì huynh mà các đạo hữu ở đảo Kim Ngao kéo tới đảo Bạch Lộc đi luyện tập trận đồ, hôm trước Thân Công Báo đến mời bọn ta tới Tây Kỳ để giúp huynh”.

Những đạo nhân này vốn là người minh bạch đạo lý, vậy vì sao vẫn còn tin lời Thân Công Báo? Dưới con mắt của Trụ Vương, Khương Tử Nha là người nghịch thiên phản đạo. Tại không gian cao tầng mà nhìn, phản nghịch ở bất kể cảnh giới nào cũng đều là xúc phạm Thiên lý. Nhưng nhân gian là một cảnh giới đặc thù được tạo ra cho Chính Pháp trong thời kỳ mạt pháp của vũ trụ, thiên mệnh vô thường, duy chỉ người có đức mới vĩnh viễn hưởng phúc của Thiên thượng, nhưng những người tu đạo này lại không nhận ra điều đó.

Triệu Công Minh trong động La Phù ở núi Nga Mi trợ giúp Văn thái sư chinh phạt Tây Kỳ bị Đinh Đầu Thất Tiễn Thư (mũi tên vô hình) của Lục Áp đạo nhân bắn chết, Thân Công Báo cưỡi cọp tới đảo Tam Tiên thông báo với ba chị em Vân Tiêu, Bích Tiêu, Quỳnh Tiêu nương nương. Thân Công Báo đi vào trong động cất tiếng hỏi: “Có ai trong đó không?”, không bao lâu một nữ đạo đồng bước ra, nhận ra Thân Công Báo bèn hỏi: “Lão sư từ nơi nào đến đây?” Thân Công Báo trả lời: “Báo với sư phụ ngươi, có ta tới thăm”. Nữ đạo đồng quay vào trong động bẩm báo: “Khởi bẩm nương nương, có Thân lão gia tới thăm”, nương nương nói: “Hãy mời vào”. Thân Công Báo vào trong động và kể về cái chết của Triệu Công Minh, lại nói rằng: “Thương thay Triệu huynh ngàn năm một phen khổ công tu luyện, ngờ đâu lại chết dưới tay của một kẻ vô lại! Quả là mối thù oán hận thấu xương!”

Cái chết của huynh trưởng làm Bích Tiêu, Quỳnh Tiêu nương nương nổi giận đùng đùng bay về phía Tây Kỳ tìm Lục Áp cùng Khương Tử Nha để báo thù, liên lụy cả Vân Tiêu nương nương cũng bị động xuống núi bày binh bố trận “Cửu Khúc Hoàng Hà Trận”, hủy hoại thành quả ngàn năm tu luyện của 12 đại môn đồ của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, ba chị em Vân Tiêu cũng vì ác quả ấy mà cùng nhau chết ở đây. Chỉ một tin báo của Thân Công Báo đã tước đoạt mất ngàn năm tu luyện của môn đồ hiển hách bậc nhất của Nguyên Thuỷ, cũng hại chết ba vị tiên tử tu luyện đứng đầu tam giới, người tật đố thuộc về ngụy thiện, thuộc về ác khiến cho người ta nghiến răng thống hận, có ai không muốn giết hắn? Nhưng người tật đố luôn luôn cảm giác thấy bản thân rất tốt, không biết rằng người khác đều hận và muốn đem hắn nghiền xương thành tro bụi.

Thân Công Báo đi khắp nơi tìm kiếm Tiên khách để chinh phạt Tây Kỳ, có một hôm đi tới động Phi Long Giáp Long, nhìn thấy người lùn Thổ Hành Tôn bèn hỏi: “Ta nhìn ngươi không thể theo đạo thành Tiên, chỉ có thể tu thành người phú quý ở nhân gian, đeo đai ngọc, thụ hưởng giàu sang của quân vương ban cho”. Thổ Hành Tôn hỏi lại: “Làm thế nào để được như vậy?” Thân Công Báo đáp: “Ta viết thư tiến cử ngươi tới chỗ Đặng Cửu Công ở ải Tam Sơn Quan, đại sự ắt thành”, và như vậy ông ta đã xúi giục thành công Thổ Hành Tôn.

Lại nói, Xích Tinh Tử ở Vân Tiêu động trên Thái Hoa Sơn nhìn thấy Bạch Hạc đồng nhi của Ngọc Hư Cung cầm trát tới, Xích Tinh Tử tiếp kiến, Bạch Hạc đồng nhi mở ngự trát ra đọc, tạ ơn xong, biết được Khương Tử Nha lên Kim Đài làm lễ bái tướng. Xích Tinh Tử tiễn Bạch Hạc đồng nhi trở về cung, đột nhiên nhìn thấy trước cửa Ân Hồng đang đứng cạnh đó, đạo nhân hỏi: “Đồ đệ, hiện tại con ở đây, nhưng không phải là người có số theo đạo thành Tiên, nay Vũ Vương là vị quân vương thánh hiền nhân đức, sẽ đứng ra cứu dân, trừ kẻ bạo ngược, Khương sư thúc của con cũng sẽ được phong tướng, tiến về phía Đông, vượt qua năm ải, hội họp chư hầu ở Mạnh Tân, tiêu diệt bạo chúa ở Mục Dã. Vậy con hãy xuống núi, trợ lực giúp Tử Nha một tay. Nhưng ta chỉ ngại con sẽ gặp việc cản trở”. Ân Hồng hỏi: “Lão sư, chẳng hay đệ tử có việc gì cản trở vậy?” Xích Tinh Tử nói: “Con là con trai của Trụ Vương, chắc con sẽ không chịu phò tá nhà Chu đâu”. Ân Hồng nghe lời ấy thì nghiến răng, trợn tròn đôi mắt: “Lão sư ở trên chứng cho, đệ tử tuy là con trai Trụ Vương, nhưng với Ðát Kỷ có mối thù muôn kiếp không đội trời chung, cha bất từ, thì con bất hiếu. Ông ta nghe lời Đát Kỷ hành hạ mẫu thân con, khoét một bên mắt, đốt hai bàn tay, khiến bà bỏ mạng chết thảm ở Tây Cung. Đệ tử thống khổ nuốt hận trong lòng đã lâu, quyết nhân cơ hội này bắt giữ Đát Kỷ, trả thù cho mẫu thân, đệ tử dù chết cũng không hối hận!” Xích Tinh Tử sau khi nghe xong vui mừng khôn xiết: “Con tuy đã có ý này, nhưng chớ có thay đổi đấy!” Ân Hồng đáp: “Đệ tử sao dám cãi lời sư phụ?” Đạo nhân vội lấy ra chiếc áo Tử Thọ tiên y, kính Âm Dương, dùi Thuỷ Hoả đưa cho Ân Hồng và ra lệnh cho Ân Hồng xuống núi trợ giúp Tử Nha. Nhưng lòng vẫn chưa yên tâm, lại dặn dò thêm: “Con nhất định không được quên lời dặn của sư phụ”, Ân Hồng đáp: “Đệ tử nếu không được lão sư cứu lên núi thì đã chết lâu rồi, làm sao có được ngày hôm nay? Đệ tử làm sao dám quên lời dạy, phản lại sư phụ?” Xích Tinh Tử nói: “Con người xưa nay vốn luôn hai lòng, cũng khó mà tin, trước mặt ta, con phải thề chắc một lời”. Ân Hồng liền thề ngay, không chút đắn đo: “Nếu đệ tử có ý đồ khác, thì toàn thân tứ chi sẽ nát thành tro bụi!” Xích Tinh Tử nói: “Thề sao, ứng vậy, con hãy đi đi”.

Ân Hồng đang đi thì gặp một người tu đạo trên không trung bay tới, người này mặt trắng râu dài, nhìn thấy Ân Hồng liền cúi đầu thi lễ, Ân Hồng vội hỏi: “Xin hỏi đạo trưởng cao danh quý tính là gì? Hôm nay tới đây có điều gì chỉ bảo?” Đạo nhân trả lời: “Ta chính là Thân Công Báo, muốn hỏi ngươi hiện giờ tính đi đâu vậy?” Ân Hồng đáp: “Đệ tử phụng mệnh sư phụ tới Tây Kỳ trợ giúp Vũ Vương chinh phạt Trụ”. Đạo nhân nghiêm mặt nói: “Lẽ nào lại như vậy! Trụ Vương là người thế nào của ngươi?” Ân Hồng trả lời: “Là cha của đệ tử”. Đạo nhân quát lớn một tiếng hỏi rằng: “Trên thế gian có lý nào con trai giúp đỡ người khác chống lại cha mình sao?!” Ân Hồng trả lời: “Trụ Vương vô đạo, thiên hạ vì thế mà rối loạn, khiến dân làm phản, hôm nay trừng phạt là thuận theo ý trời mà làm, trời tất nhiên sẽ ưng thuận, dẫu có con hiếu cháu hiền cũng không chuộc lại được tội lỗi ấy”. Thân Công Báo cười mà nói: “Ngươi là kẻ ngu muội, cố chấp, không biết đại nghĩa là gì, ngươi là hậu duệ dòng dõi Thành Thang, tuy Trụ Vương vô đạo đi chăng nữa cũng không thể có lý nào con lại đi chống lại cha. Huống hồ một mai Trụ Vương trăm tuổi ai là người kế nghiệp? Ngươi lại không coi xã tắc làm trọng, nghe lời người khác xúi bẩy, làm chuyện ngỗ nghịch mất hết cả luân thường đạo lý, sẽ bị người đời đàm tiếu chê ngươi là một vị điện hạ bất hiếu xưa nay chưa từng có! Nay ngươi giúp Vũ Vương phạt Trụ, nếu như lỡ có bất trắc, có phải là tông miếu bị người khác phá hủy, xã tắc sẽ bị người khác chiếm lấy đúng không nào, mai sau ngươi xuống suối vàng, còn mặt mũi nào gặp tổ tiên đây?” Ân Hồng bị Thân Công Báo dùng một tràng lời lẽ thuyết phục động đúng tâm can thì cúi đầu im lặng không nói lời nào. Một lát sau mới lên tiếng: “Lời lão sư tuy có lý, nhưng tôi đã thề với sư phụ, quyết ý trợ giúp Vũ Vương”. Thân Công Báo nói: “Ngươi đã phát lời thề thế nào?” Ân Hồng đáp: “Tôi đã phát lời thề, nếu như không giúp Vũ Vương phạt Trụ thì toàn thây tứ chi đều biến thành tro bụi”. Thân Công Báo cười mà nói rằng: “Đây chỉ là lời thề mu muội không bao giờ ứng nghiệm, thế gian không có lý do gì xương thịt biến thành tro bụi, ngươi hãy nghe theo lời ta, thay đổi suy nghĩ mà đi chinh phạt nhà Chu, sau này tất thành đại sự, không phụ với anh linh của tổ tiên xã tắc, mà cũng mát lòng ta thật lòng khuyên bảo”. Ân Hồng khi ấy nghe lời Thân Công Báo, trong đầu không còn nhớ tới lời đã hứa với Xích Tinh Tử, lời thề trước đây đã sớm thành những lời ngụy ngôn lừa dối sư phụ. Chính là: Hận thay miệng lưỡi hoạt ngôn của Thân Công Báo, Ân Hồng khó mà thoát khỏi nạn này.

Quan sát điều này thấy rằng: Từ đầu tới cuối Thân Công Báo đều dùng cái tình sai lầm của con người mà Ân Hồng lại không nhận ra được. Ngay cả cái tình chân chính ở nhân gian cũng không như vậy, làm người phải dựa vào đạo đức, tam cương ngũ thường (thời đó còn chưa có cách gọi này) trong Nho gia là nguồn gốc sinh ra đạo đức, là xuyên suốt từ trên xuống dưới, một thứ ở tầng thấp, một thứ ở tầng cao không hề có mâu thuẫn. Khi con người tự cho mình là to (tầng thấp là lớn) thì họ sẽ dùng nhận thức sai lầm ấy của bản thân con người để đo lường Thiên lý, mà ở tầng thứ hơi cao hơn một chút thì, cha, con, người thân đều cuốn trong nghiệp lực luân báo, báo ân, báo oán mà thành, cái tình trong vòng mê hoan hư ảo chỉ là để duy trì quan hệ gia đình, ở trong đó mà xoa dịu giảm nhược đi nỗi thống khổ cho nhau, khi nhắm mắt xuôi tay ai còn nhận ra ai nữa? Nghiệp lực do bản thân tạo thành chỉ có thể tự mình hoàn trả. Chỉ khi sinh mệnh đề cao thiện niệm mới có được quan hệ gia đình và xã hội tốt đẹp nhất.

Con người chấp theo lý của con người, nhưng người bình thường là tôn kính trời do vậy không làm điều gì trái với Thiên lý; Thần chấp vào cái lý của Thần, bởi vậy Xích Tinh Tử tuân theo Thiên đạo; chỉ có người biến dị do tư tưởng sai lệch khỏi chính đạo mới có thể làm trái ý trời.

Cơ điểm của tật đố là sự biến dị mạnh mẽ của “tư” – hết thảy đều coi bản thân mình là trung tâm, thế giới này chỉ có bản thân họ là lớn nhất, tất cả mọi người đều phải phù hợp với tư tưởng của họ mới được. Lý luận dẫn dắt đều là sự biến dị của danh, lợi, tình, nếu như đối chiếu với Thiên đạo thì không cách nào tự biện hộ cho mình được. Người tật đố đều đang ở chốn con người, không nhận thức được mình chẳng qua chỉ là một hạt bụi nhỏ bé chẳng là gì trong vũ trụ mênh mang này, tất cả những ngu xuẩn, tự đại, không biết trời cao đất dày, chỉ muốn tự mình sống theo cách của mình, coi sự sống còn của vô số người khác chẳng là gì, cũng chính là không có một chút thiện tâm nào.

Binh lính của Tử Nha đến Giai Mộng Quan lại gặp Thân Công Báo, Tử Nha bái chào nói: “Hiền đệ từ đâu tới vậy?” Thân Công Báo cười mà nói rằng: “Tôi tới là để gặp huynh, Khương Tử Nha, huynh giờ vẫn cùng một chỗ với Nam Cực Tiên Ông thì không hay đâu, nay cuối cùng cũng có cơ hội chỉ gặp có một mình huynh, liệu xem hôm nay huynh có thoát khỏi tay tôi không?” Khương Tử Nha trả lời: “Huynh đệ, ta với ngươi không thù không oán, hà cớ gì phải ở đây chọc giận ta?” Thân Công Báo đáp: “Huynh không nhớ chuyện trên núi Côn Luân, huynh ỷ vào thế lực của Nam Cực Tiên Ông, không coi ta ra gì, đầu tiên gọi huynh, huynh không thèm trả lời, sau lại cùng Nam Cực Tiên Ông làm nhục ta, lại còn gọi Bạch Hạc đồng nhi ngậm đầu của ta đi, chỉ mong làm hại ta, đây là mối oán thù sát nhân, huynh còn nói được gì đây! Huynh hôm nay lên Kim đài nhận lễ bái tướng, muốn phạt Trụ cứu dân, chỉ sợ rằng huynh không thể đem quân binh tiến vào năm ải mà đã chết ở đây trước rồi”. Nói rồi rút bảo kiếm nhằm vào Tử Nha mà chém tới.

Tử Nha tại vách núi Kỳ Lân cố gắng hết sức cầu xin Nam Cực Tiên Ông mà tha cho Thân Công Báo, trong mắt Thân Công Báo đó là một sự sỉ nhục, lấy việc giết người để báo thù, lợi dụng lúc không có người liền tự mình ra tay giết Tử Nha. Hầu hết những người tật đố đều ở cảnh giới như vậy, không tính đến hành vi của mình, lấy oán báo ân, lòng dạ hẹp hòi, ăn miếng trả miếng. Hết thảy đều là lấy tư tưởng trạng thái của bản thân mình làm tiêu chuẩn, coi người khác, Thiên lý, đạo đức, đều đặt ở bên dưới.

Cụ Lưu Tôn cứu Khương Tử Nha. Phụng chỉ lệnh của Nguyên Thủy Thiên Tôn đem Thân Công Báo đến sườn núi Kỳ Lân, Nguyên Thủy nói: “Nghiệp chướng! Khương Thượng với ngươi có thù oán gì mà ngươi mời người ở Tam Sơn Ngũ Nhạc đi chinh phạt Tây Kỳ? Hôm nay số trời đã hết, ngươi vẫn còn giữa đường mà hại nó, nếu không phải là ta đã có chuẩn bị trước thì có lẽ nó đã bị ngươi hại chết rồi”. Thân Công Báo mở miệng nói: “Oan uổng quá!” Nguyên Thủy hỏi: “Ngươi rõ ràng muốn hại Khương Thượng, còn kêu oan uổng nỗi gì? Nhưng thôi, hôm nay nếu ta cầm giữ ngươi tại núi Kỳ Lân, ngươi ắt nói ta thiên vị Khương Thượng, nếu như lại dám cản trở Khương Thượng thì đừng trách, ngươi hãy thề đi”. Thân Công Báo liền thề, ông ta chỉ coi là lời nói đầu lưỡi, không biết rằng lời thề nói ra là có Thần chứng giám. Thân Công Báo thề rằng: “Nếu đệ tử lại xúi giục Tiên gia tới cản trở Khương Thượng, đệ tử xin chịu tội đem thân thể lấp biển Bắc Hải”. Nguyên Thủy nói: “Được rồi, hãy thả cho nó đi”. Thế là Thân Công Báo thoát nạn, đi liền.

Thân Công Báo tại trận Vạn Tiên tiếp tục cản trở Khương Tử Nha, sau khi trận Vạn Tiên bị phá vỡ, ông ta hòng tìm đường trốn về núi khác mà không biết rằng tội ác chồng chất, đang toan cưỡi cọp chạy trốn thì bị Bạch Hạc đồng nhi nhìn thấy. Bạch Hạc đồng nhi vội vàng bẩm báo với Nguyên Thủy Thiên Tôn, Nguyên Thủy ra lệnh cho Hoàng Cân lực sĩ đem ông ta giữ tại sườn núi Kỳ Lân. Lực sĩ bắt Thân Công Báo mang tới trước mặt Nguyên Thuỷ Thiên Tôn. Nguyên Thuỷ nói: “Ngươi từng phát lời thề, lấy thân mình lấp biển Bắc Hải, do vậy hôm nay ngươi cũng đừng oán trách”. Thân Công Báo cúi đầu không nói, Nguyên Thủy ra lệnh cho Hoàng Cân lực sĩ: “Lấy tấm bồ đoàn (đệm hương bồ) của ta quấn nó lại, rồi đem dìm xuống đáy biển Bắc Hải”. Lực sĩ vâng lệnh mang Thân Công Báo dìm xuống biển Bắc Hải.

Một đời của Thân Công Báo đã kết thúc. Ông ta trước mặt không phản lại sư phụ, nhưng sau lưng lại làm những việc phản lại sư phụ. Hiện nay cựu thế lực vũ trụ đang bức hại Đại Pháp, biểu hiện bề mặt đối với Sư phụ là đồng thuận cung kính, nhưng những gì chúng đang làm là phá hoại Đại Pháp.

Hành vi của Thân Công Báo là do sinh mệnh phụ diện ở bên trong dẫn tới tâm tật đố hại người hại mình mang đến hậu quả thảm khốc. Người tu luyện không bỏ được tâm tật đố, những gì đạt được cũng chỉ có bản sự như Thân Công Báo mà thôi, chỉ là chút công năng nhỏ bé mang theo thân thể mà thôi, đồng thời sẽ phải gánh chịu kết cục như Thân Công Báo, bất kể tu luyện bao nhiêu năm đều là tai hoạ cho chốn nhân gian, sẽ không thoát khỏi số phận bị người và chư Thần tiêu diệt, trở thành một nhân vật bi kịch đáng thương vậy. Mà người không tu luyện chỉ có thể tồn tại ở tầng nhân loại, hoặc là từ tầng nhân loại trở xuống, là người xấu điển hình, phải chịu ác báo mà người xấu tất sẽ phải gặp.

Ác quỷ ĐCSTQ Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Đại Pháp, tật đố của nó là xưa nay chưa từng có, đem ra so sánh thì còn vượt xa so với Thân Công báo, nó không có biên giới, không có giới hạn, đã được định sẵn là hình thần toàn diệt, không còn cơ hội tái sinh.

(Trong sự việc đầu độc, mê hoặc hại người của Thân Công Báo trong “Phong Thần Diễn Nghĩa” chỉ có Ân Giao là không được ghi chép lại trong bài viết này bởi vì người này cũng tựa như Ân Hồng, nhưng có một điểm khác biệt là ông ta bị mê hoặc bởi tình huynh đệ, vì để cho Ân Hồng báo thù mà trợ Trụ vi ngược. Thái Vân Tiên Tử, Mã Nguyên, La Tuyên đều là Thân Công Báo trực tiếp thỉnh mời, không được tính là có âm mưu mê hoặc trong đó).

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/271111

The post Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 3): Thân Công Báo – Tâm tật đố hại chết người tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 2): Na Tra – người phóng hoảhttps://chanhkien.org/2023/08/cach-ly-giai-khac-ve-phong-than-phan-2-na-tra-nguoi-phong-hoa.htmlMon, 21 Aug 2023 02:38:06 +0000https://chanhkien.org/?p=31147Tác giả: Minh Mâu [ChanhKien.org] Na Tra, tên này có hàm nghĩa là: “A! Phún giả (phún có nghĩa là phun ra ), Sất nộ giả (có nghĩa là người nóng giận)”, là một vị Cổ Chính Thần (vị Thần chính nghĩa ở Trung Quốc cổ đại), ông từ chữ「狠」“Ngận” (có nghĩa là hung dữ) […]

The post Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 2): Na Tra – người phóng hoả first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Minh Mâu

[ChanhKien.org]

Na Tra, tên này có hàm nghĩa là: “A! Phún giả (phún có nghĩa là phun ra ), Sất nộ giả (có nghĩa là người nóng giận)”, là một vị Cổ Chính Thần (vị Thần chính nghĩa ở Trung Quốc cổ đại), ông từ chữ「狠」“Ngận” (có nghĩa là hung dữ) trong Đạo gia hạ giới để trợ giúp Khương Tử Nha phạt Trụ. Trong Chính Pháp, có hình tượng của người nóng giận, do vậy Na Tra tới chính là để diễn dịch ra vai diễn này. Trên Thượng giới một [字] “tự (chữ)” viết thành chữ「狠」(Ngận), lại cũng là có vô số vai diễn ở trong cảnh giới đó, một trong số đó là Linh Châu Tử hạ giới chuyển sinh thành Na Tra vì những chúng sinh cần bị đào thải trong kiếp nạn.

「狠」(Ngận – hung dữ) không thuộc về 「惡」( ác), người ác cũng sẽ phát ra “Ngận – hung dữ”, nhưng đối tượng và cơ điểm tâm tính của hai loại người này là khác nhau. Vậy “Ngận – hung dữ” và “Thiện” có gì khác biệt? Kỳ thực nó cũng tương tự như “uy nghiêm” trong Phật giáo. “Phún giả” không mang ý nghĩa châm biếm do người hiện đại thêm vào, mà hàm nghĩa của nó là nói về mãnh sĩ uy vũ hùng tráng và dũng mãnh.

Chân của Na Tra đạp lên bánh xe Phong hoả, tay cầm Hỏa Tiêm Thương, ngọn lửa cháy hừng hực từ dưới chân dâng lên bay lượn khắp toàn thân thể, lại thêm ngọn lửa mãnh liệt ở trong tim (tâm hoả) – trở thành ngọn lửa cực lớn, vì vậy cần phải chiến đấu. Na Tra đã diễn ra một màn, từ “Ngận – hung dữ” không đủ “chính” cho đến nguyên hình “Ngận – hung dữ” của “chính”. Những người sử dụng vũ lực sẽ đối chiếu vào đó để tu “chính” lại sự “hung dữ” sai lệch của bản thân và từ đó điều chỉnh ngay chính lại tâm tính của mình.

Cha của Na Tra là Lý Tịnh, mẫu thân là Ân phu nhân. Ân phu nhân mang thai ba năm sáu tháng mà vẫn chưa sinh. Lý Tịnh trong lòng thường nghi ngờ lấy làm lạ, một hôm chỉ vào bụng vợ và nói: “Mang thai cả ba năm có thừa mà vẫn còn không sinh, không phải là yêu thì cũng là quái”.

Lý Tịnh là đồ đệ của “Độ Ách Chân nhân” ở Tây Côn Luân, nhận thức được tự nhiên có sự khác biệt với thông thường, biết được thai kỳ lần này không phải là thời không của phàm nhân, nhưng cũng không biết là Thần hay là quái ở động nào? Ba năm sáu tháng của gia đình Lý Tịnh ở chốn trần gian, so với thời gian ở động phủ của sư phụ Na Tra là “Thái Ất Chân nhân” có sự khác biệt lớn, ở động phủ bấy giờ mới chỉ trôi qua có 10 tháng. Những sự việc như vậy thì từ thượng cổ xa xưa cũng thường thấy, mẫu thân của Lão Tử cũng mang thai ông tới 72 năm mới sinh, khi sinh ra râu tóc đều bạc trắng, do vậy ông mới có tên gọi là Lão Tử. Tại Đâu Suất Thiên Cung của ông thì 10 tháng thực ra là 72 năm ở nhân gian.

Một đêm vào lúc canh ba, Ân phu nhân đang say giấc nồng, trong mộng thấy một đạo nhân đầu búi tóc đôi, thân mặc đạo phục tiến vào phòng, phu nhân quát hỏi: “Đạo nhân này không hiểu đạo lý, đây là nội thất sao ngươi lại dám vào đây, thật là xấu xa!” Đạo nhân nói: “Phu nhân hãy mau tiếp Lân nhi!”, nói rồi đem một vật đưa vào bụng phu nhân, phu nhân thất kinh giật mình bừng tỉnh, sợ hãi đến mức toàn thân lạnh toát mồ hôi. Sau đó liền thấy đau bụng và hạ sinh Na Tra.

Đến năm bảy tuổi, Na Tra muốn đến Cửu Loan Hà để tắm rửa. Mọi thứ trên thế gian trong mắt người thường hết thảy đều là ngẫu nhiên, tuy nhiên chân tướng đều là số kiếp đã định sẵn như vậy. Na Tra dùng dải Hỗn Thiên Lăng dài bảy thước nhúng xuống nước sông để tắm rửa làm chấn động đến Thủy Tinh Cung của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng, Ngao Quảng phái tuần hải Dạ Xoa Lý Cấn tuần sát điều tra, thì nhìn thấy một đứa trẻ đang nhúng dải khăn lụa đỏ vào nước để tắm rửa, Lý Cấn rẽ nước trồi lên và quát lớn: “Đứa trẻ kia làm điều quái lạ gì khiến cả dòng sông chuyển sang ánh đỏ, còn làm dao động tới cả cung điện vậy?”

Đây chỉ là một câu hỏi thông thường, người bình thường sẽ không thấy cảm giác gì, có thể trả lời hoặc bỏ đi là xong. Tuy nhiên Na Tra bản tính là “hung dữ”, trong lúc bị uy hiếp liền muốn giết chúng sinh. Nghĩ xem, gia đình Lý Tịnh là hộ hào môn giàu có, thi thư lễ nghi gia giáo tất nhiên là không kém, vì sao Na Tra không học được những điều này? Cậu ta mở miệng liền mắng chửi: “Ngươi là đồ súc sinh, ngươi là cái thứ gì mà cũng dám lên tiếng?” Điều này khiến người ta nghẹn lời, trước mặt Long Vương đều là lính tôm, tướng cua và quan rùa, theo lý mà nói thì đều không mang hình dáng con người nhưng lại nói tiếng người, như vậy sẽ khiến con người sợ hãi, nếu như tâm tính tốt thì sẽ thản nhiên bất động, nhưng chúng đều là mang thú tính, vì vậy câu nói này đã chọc giận khiến cho Dạ Xoa dùng một búa nhằm đỉnh đầu Na Tra mà đánh xuống, Na Tra phản kích, Dạ Xoa bị Na Tra dùng một Càn Khôn Quyển đánh chết.

Long binh báo cáo với Ngao Quảng về cái chết của Dạ Xoa, Ngao Quảng kinh hãi: “Lý Cấn là sai dịch làm ngự bút điểm của điện Linh Tiêu, ai dám đánh chết?” Ngao Quảng muốn tự mình thân chinh kiểm tra sự việc, nhưng bị Tam Thái tử Ngao Bính ngăn lại, nói rằng: “Phụ vương xin hãy yên tâm, để hài nhi đi bắt nó mang về là được”, Ngao Bính tới nơi ai ngờ lại bị Na Tra xem thường, Na Tra cười và nói rằng: “Ngươi nguyên là con trai của Ngao Quảng, ngươi tự cao tự đại, nếu như làm ta bực mình thì ngay cả con chạch bùn già ngươi, ta cũng sẽ lấy và mang đi lột da”. Tam Thái tử quát lớn một tiếng rằng: “Ngươi muốn giết người cho hả giận, ngang ngược côn đồ! Thật là vô lễ!”

Những lời của Na Tra thực sự vừa ngang ngược lại vừa vô lễ, Tam Thái tử nói rất đúng. Nhưng định số của Tam Thái tử là phải bị Na Tra diệt trừ, Na Tra giết chết Tam Thái tử, lại còn rút cả gân rồng, sự hung dữ xác thực là hết sức ghê sợ, nhưng cậu ta vẫn còn không biết như vậy là phạm tội, như vậy sau này làm thế nào để phò Võ Vương đây? Loại hành động tàn khốc như thế này, nơi tương ứng chỉ có ở địa ngục. Người ta nói rằng người xấu tại địa ngục bị rút gân lột da và ném vào vạc dầu, thật đáng thương phải không? Nhưng trên thế gian họ cũng lột da những người vô tội, tội ác chồng chất đến mức không có thuốc chữa mới bị rơi vào địa ngục và bị lột da. Long Vương thề rằng phải báo thù. Sự việc ấy vẫn còn chưa kết thúc, khi Na Tra chơi bắn tên, chỉ một mũi tên đã bắn xuống phía dưới vách đá của Động Bạch Cốt trên Núi Sọ, tình cờ bắn chết Bích Vân đồng tử – đệ tử của Thạch Cơ Nương Nương, đúng lúc tiểu đồng này mang theo lẵng hoa hái thuốc, xem ra thật là vô tội.

Chính là: “Duyên giang sái hạ câu hòa tuyến, tòng thử điếu xuất thị phi lai” (diễn nghĩa: ven sông rải dây và lưỡi câu, từ đó dẫn đến điều thị phi). Câu tục ngữ này có nghĩa là sự việc xảy ra không có gì là ngẫu nhiên, đều do có bày xếp sắp đặt sẵn, mọi điều thị phi đều bắt nguồn từ những nguyên nhân trước đó. Khi khắp nơi đều là dây và lưỡi câu, các loại cá làm sao có thể trốn thoát, bất luận là hành động hay không hành động, vô luận làm gì cũng đều sẽ đụng vào lưỡi câu, hoặc là lưỡi câu thiện, hoặc là lưỡi câu ác, mà chức năng hành xử của ác câu là Thiên diệt. Độc long Trung Cộng hiện nay chính là như vậy, vô luận bạn có làm gì đi chăng nữa, bạn sẽ luôn mắc phải móc câu, vô luận ý thức của bản thân có cao minh đến đâu đều cũng sẽ mắc phải lưỡi câu.

Thạch Cơ Nương Nương vì để bảo vệ công lý cho đệ tử của mình nên đã bắt Lý Tịnh đến để thẩm vấn, Lý Tịnh giải thích với Nương nương rằng: “Người bắn chính là nghịch tử Na Tra do Lý Tịnh sinh ra, đệ tử không dám làm trái, đã cầm giữ nó tại trước động phủ và chờ sắc lệnh”. Thạch Cơ Nương Nương ra lệnh cho Thái Vân Đồng nhi: “Đem hắn tới đây!” Ai ngờ Đồng nhi vừa ra khỏi động, liền bị Na Tra dùng một Càn Khôn Quyển đánh chết, Thạch Cơ Nương Nương nghe thấy động tĩnh bên ngoài, vội vàng chạy ra ngoài sơn động, Na Tra càng không thèm đáp lời, dùng Càn Khôn Quyển đánh tới, nhưng đánh không lại, đành phải xoay người bỏ chạy. Nương Nương gọi: “Lý Tịnh, sự việc không liên quan đến ngươi, ngươi hãy trở về đi”.

Thạch Cơ Nương Nương xử trí xem ra là thỏa đáng. Ai phạm tội tìm người đó, Lý Tịnh vô tội, do vậy liền để cho ông ta trở về. Việc Na Tra giết người mà không nói một lời đó là điều vô lý, do vậy mà dẫn đến cái chết thương tâm bi thảm.

Tứ Hải Long Vương vì để báo thù cho Tam Thái tử Ngao Bính, tâu lên Ngọc Đế cho phép bắt cha mẹ Na Tra, Na Tra vì cứu cha mẹ, đã nói với Ngao Quảng: “Ai làm người ấy chịu trách nhiệm, ta đánh chết Lý Cấn, Ngao Bính, ta chịu trách nhiệm đền mạng, hôm nay ta sẽ mổ bụng, moi ruột, róc xương thịt, hoàn trả lại cha mẹ ta, không liên luỵ gì tới song thân, ý các ngài ra sao? Nếu như không chấp nhận, ta cùng ngài tới điện Lăng Tiêu gặp Thiên Vương, tự ta sẽ nói”. Ngao Quảng nghe thấy vậy liền nói: “Cũng được thôi, ngươi đã muốn như vậy, cứu cha mẹ ngươi xem ra cũng là có hiếu”. Thế là vợ chồng Lý Tịnh liền được thả ra, Na Tra tay phải rút kiếm, đầu tiên chặt đứt một cánh tay, sau đó tự mổ bụng, moi ruột róc xương, ba hồn bảy phách tiêu tán rồi vong mạng.

Đền mạng bi thảm nên phải có nhiều đau đớn phải không? Nỗi thống khổ của việc róc xương trả cha, cắt thịt trả mẹ, nó khiến cậu ta hiểu rằng không nên làm hại những người vô tội, hết thảy đều phải tuân theo Thiên lý mà hành xử, hành vi trái ngược với Thiên lý chính là làm điều ác, chỉ có những hành vi thuận theo Thiên lý mới được công nhận.

Nhục thân đã tiêu tan mất, cũng là an bài của Sư phụ cậu ta là Thái Ất Chân Nhân, vì muốn dùng hoa sen, lá sen tái tạo thân thể cho cậu ta, lấy tâm thanh tịnh của sen, sinh ra từ bùn nhơ mà bản tính không bị ô nhiễm, để làm chủ ngọn lửa mạnh mẽ đốt cháy từ dưới bàn chân. Sau khi hóa thân thành hoa sen, cậu ta đã hành sự tuân theo Pháp lý, nhưng do ở tầng thứ thấp nên dẫn đến bản tính giết người của cậu ta vẫn còn rất lệch lạc. Vì lúc trước Lý Tịnh đã quất vào tượng Kim Thân đất sét của cậu ta, khiến cho hồn phách cậu ta không nơi nương tựa, do vậy mà muốn giết Lý Tịnh. Thái Ất Chân nhân, Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn, Nhiên Đăng Đạo nhân đã tốn rất nhiều công phu mới dạy được cho cậu ta “Nhẫn” và “Thiện”, mài mòn đi tâm sát nhân không phù hợp với Pháp lý ấy của cậu ta, do vậy sau này mới có được vị trí là vị Quan tiên phong (người dẫn đầu) trợ giúp Khương Tử Nha chiếu theo Thiên lý thi hành binh sự.

Thế giới này là gì? Các loại sự vật rực rỡ muôn màu ấy, con người là ai ở trong đó? Họ đều là một chủng Pháp lý, tuân theo Pháp lý của bản thân mà sinh tồn. Đây đều là những nhân tố trong Đại Pháp của vũ trụ. Có lẽ việc Na Tra chuyển thế sát phạt như vậy là vì con đường tu luyện của cậu ta là dùng võ công để Chính Pháp mà thành tựu một vị Thần vĩ đại.

Quá khứ đã bị xóa tan như mây khói, trải qua hàng nghìn năm thành trụ hoại diệt, các tôn giáo lớn trên thế giới đã bước vào thời kỳ mạt Pháp, không còn cứu người được nữa, thời kỳ họ có thể cứu người ấy chỉ là cứu độ các phó nguyên thần chứ không phải là bản thân mình thực sự. Chỉ có hôm nay Pháp Luân Đại Pháp mới độ nhân một cách chân chính, do vậy chúng ta phải trân quý cơ duyên này.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/270959

The post Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 2): Na Tra – người phóng hoả first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Thần Tiên: Thi nhân triều Tống Tô Tường uống tiên đan giải độc, thành Tiên rời đihttps://chanhkien.org/2023/08/chuyen-co-than-tienthi-nhan-trieu-tong-to-tuong-uong-tien-dan-giai-doc-thanh-tien-roi-di.htmlFri, 18 Aug 2023 04:06:20 +0000https://chanhkien.org/?p=31128Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Đời Tống có một nhà thơ tên là Tô Tường, tự “Dưỡng Trực”, khá nổi tiếng trong văn đàn lúc đương thời. Ông từng vì một căn bệnh ở mắt mà còn có tự hiệu là “Sảnh ông” (ông lão có bệnh ở mắt). Ông sinh ra tại Tuyền Châu, […]

The post Chuyện cổ Thần Tiên: Thi nhân triều Tống Tô Tường uống tiên đan giải độc, thành Tiên rời đi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Đời Tống có một nhà thơ tên là Tô Tường, tự “Dưỡng Trực”, khá nổi tiếng trong văn đàn lúc đương thời. Ông từng vì một căn bệnh ở mắt mà còn có tự hiệu là “Sảnh ông” (ông lão có bệnh ở mắt). Ông sinh ra tại Tuyền Châu, sau chuyển đến quận Đan Dương, Giang Tô, cũng vì bệnh tình mãi không khỏi, nên có tự hiệu là “Hậu Hồ Bệnh Dân”. Sau khi nhà Bắc Tống diệt vong, ông cự tuyệt không làm quan, sống ẩn dật đến cuối đời. Nơi đến cuối cùng của ông rất đặc biệt, theo ghi chép của Tăng Tháo, một học giả đầu thời Nam Tống, thì ông đã thành Tiên mà rời đi. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện này.

Chuyện kể rằng có một ngày Tô Tường khi đang hóng gió tránh nắng ở phía sau hồ và cùng đánh cờ với một vị khách. Lúc này đột nhiên có một vị đạo nhân tự xưng từ núi La Phù đến bái kiến ông, tự giới thiệu mình là “La Phù Sơn đạo nhân Giang Quán Triều”. Nói xong, ông ta đi thẳng lên phía trước rồi ngồi xuống. Tuy cổ nhân phần nhiều là tín ngưỡng vào Phật, Đạo, Thần, cũng rất tôn trọng những người xuất gia, nhưng hành vi tự ngồi vào chỗ khi chưa được chủ nhân mời của vị đạo nhân đã khiến Tô Tường cảm thấy sửng sốt, ông liền hỏi đạo nhân đến đây có việc gì.

Đạo nhân nói: “Ta phụng mệnh của Hoàng Chân Nhân ở núi La Phù đến đây. Hoàng Chân Nhân cho rằng ông không ham mê quan vị, danh lợi, thứ mà thế nhân ai ai cũng đều ham thích, đã có được những nền tảng để nhập đạo, cho nên sai ta đem đan dược đến tặng để hóa độ ông. Bây giờ mời ông dùng viên đan này! Nói đoạn đạo nhân lấy từ trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ giao cho Tô Tường. Tô Tường mở chiếc hộp nhỏ thấy viên đan dược hiện lên màu vàng kim, xung quanh tựa hồ như tẩm cao mỡ để bảo quản. Tô Tường nhìn ngắm viên đan dược vừa đột nhiên xuất hiện, có chút do dự ngờ vực, đạo nhân thấy vậy thở dài một tiếng, nói với ông: “Viên đan dược này ‘phi kim phi thạch (chẳng phải vàng cũng chẳng phải đá), vốn do chân khí luyện thành’, đáng tiếc ông lại sinh ra nghi tâm không đáng có, chính vì cái tâm này của ông, nên ông hiện giờ lại không còn xứng để được dùng viên đan này nữa, không được nữa rồi. May thay, duyên phận của ông vẫn còn, nhưng cũng chỉ có thể chờ đến tương lai khi có sự việc cấp bách phát sinh, mới có thể lại được dùng”. Nói xong đạo nhân liền đi thẳng và biến mất trong chớp mắt. Tô Tường biết rằng mình đã gặp được tiên nhân, vì vậy ông liền đem chiếc hộp đan dược ấy đặt trong Phật đường ở nhà mình để cúng dường và bảo quản, phòng khi cấp bách cần dùng đến.

Sau này vào một năm nọ, Tô Tường cùng uống rượu với khách rất thỏa thích, uống rất say, sau khi say ông dùng món “Mật tuyết” (từ tên gọi cho thấy rằng đây có lẽ là đồ ngọt rất lạnh dùng để giải rượu), vì để điều hòa gia vị ông đã cho thêm vào một hương liệu quý là “long não”, không ngờ thêm vào quá nhiều khiến ông bị trúng độc. “Long não” mà Tô Tường cho thêm vào, có tên khác là “Thụy Long Não”, “Long não hương”, “não tử”, “băng não”, “băng phiến”, được lấy từ nhựa khô của cây long não hương sinh trưởng ở Sumatra (một hòn đảo ở Indonesia), là một loại hương liệu quý nổi tiếng, cũng là một vị thuốc quý trong Trung y. Trung y cho rằng loại hương liệu này có các tác dụng như thanh nhiệt, sáng mắt, giảm đau, nhưng nếu dùng quá liều có thể dẫn đến trúng độc, “uống từ một đến hai phân, liều lượng quá nhiều sẽ gây ra tê liệt”. Ngoài ra, theo ghi chép trong một số sách cổ, uống “long não” và rượu nóng cùng một lúc có thể dẫn đến tử vong. Lý Thời Trân cho rằng “cái này không làm não nhiễm độc, mà do rượu nóng gây ra mùi thơm cay, phát tán đến kinh lạc, khí huyết tự nhiên rối loạn”. Các nghiên cứu về tính an toàn của thuốc hiện đại cũng tiết lộ rằng hương long não khi sử dụng quá liều cũng có độc tính cấp tính, và còn có tính kích thích đối với niêm mạc ở dạ dày và mũi, có thể dẫn đến các phản ứng dị ứng.

Sau khi Tô Tường trúng độc, bị tiêu chảy liên tục cả đêm, cuối cùng ông chìm vào hôn mê, hơi thở thoi thóp cận kề cái chết. Người thân của ông đột nhiên nhớ đến đan dược mà đạo nhân đã để lại, mở hộp thì nhìn thấy viên đan dược cứng như đá, liền vội vàng lấy ra nghiền thành bột, cho vào miệng để Tô Tường nuốt. Tô Tường sau khi nuốt lập tức tỉnh lại, từ đó bệnh tình hoàn toàn biến mất, thân thể khỏe mạnh cường tráng hơn những người cùng tuổi, những chiếc răng đã rụng lại mọc trở lại, tóc trắng cũng biến thành đen, đến cả căn bệnh ở mắt đã từng chữa trị lâu không khỏi thì cũng đã lành hẳn, ánh mắt sáng tỏ, thị lực cũng được hồi phục trở lại. Vào ngày mồng một tháng giêng năm Thiệu Hưng Cao Tông nhà Nam Tống thứ 17 (năm 1147 Công Nguyên), sau khi cùng người nhà ăn xong bữa cơm đón năm mới, ông đã nói lời cáo biệt rằng mình sắp rời khỏi nhân gian, đồng thời cũng nói lời cáo biệt với hàng xóm láng giềng. Vào một ngày không lâu sau đó, khi trời còn chưa sáng, ông đột nhiên khoác y phục và chống gậy ra khỏi nhà, bước đi như bay, thê tử và những người trong gia đình biết rằng ông thật sự ra đi bèn chạy đuổi theo sau, hy vọng có thể giữ ông lại, vào lúc sắp chạm được y phục của ông thì đột nhiên ông biến mất trước mắt mọi người.

Trong câu chuyện này, Tô Tường không màng danh lợi, không tham cầu quan vị ở nhân gian nên được Hoàng Chân Nhân ở núi La Phù để mắt tới, phái đồ đệ đến tặng đan dược, chuẩn bị hóa độ ông, không ngờ ông lại khởi lên tâm lý phụ diện hoài nghi, khiến cho phải đến tận lúc nguy cấp mới có thể dùng. Điều này cho ta thấy người tu luyện nhất định phải có tín tâm tuyệt đối vào Thần Phật; đan dược không phải nhân tố quyết định, chỉ là tác dụng phụ trợ bề ngoài, còn điều khởi tác dụng quyết định lại chính là sự cao thấp của tâm tính.

Nguồn tư liệu: Tăng Tháo “Bách gia Thi tuyển”

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/284540

The post Chuyện cổ Thần Tiên: Thi nhân triều Tống Tô Tường uống tiên đan giải độc, thành Tiên rời đi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện Phật gia: Xá lợi tử ở chùa A Dục Vương Ninh Ba nhiều lần hiển thần tích trong lịch sửhttps://chanhkien.org/2023/08/cau-chuyen-phat-gia-xa-loi-tu-o-chua-a-duc-vuong-ninh-ba-nhieu-lan-hien-than-tich-trong-lich-su.htmlTue, 15 Aug 2023 02:40:00 +0000https://chanhkien.org/?p=31093Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Truyền thuyết trong Phật giáo kể rằng: Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn đã lưu lại 84.000 hạt xá lợi tử, về sau tại Ấn Độ cổ vua A Dục (Ashoka) người đã từng dốc sức truyền bá Phật Pháp, đã “sai khiến quỷ thần, nghiền […]

The post Câu chuyện Phật gia: Xá lợi tử ở chùa A Dục Vương Ninh Ba nhiều lần hiển thần tích trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Truyền thuyết trong Phật giáo kể rằng: Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn đã lưu lại 84.000 hạt xá lợi tử, về sau tại Ấn Độ cổ vua A Dục (Ashoka) người đã từng dốc sức truyền bá Phật Pháp, đã “sai khiến quỷ thần, nghiền nát thất bảo chúng hương thành bùn”, xây dựng 84.000 tháp xá lợi để thờ phụng những xá lợi tử này; tôn giả Gia Xá (Yasa) một cao tăng đắc đạo, đã sử dụng thần thông, giữa các ngón tay “phát ra tám vạn bốn nghìn đạo ánh sáng”, đem những tháp xá lợi này gửi đến các nơi ở Nam Thiệm Bộ Châu. “Nam Thiệm Bộ Châu” là một phạm vi không gian rất rộng lớn trong Phật giáo. Vì Phật duyên ở Trung Quốc rất lớn, nên đã có được 19 tòa tháp, xá lợi tháp chùa A Dục Vương ở Ninh Ba là một trong số đó. Tòa tháp xá lợi này cũng có lai lịch vô cùng thần kỳ.

Theo ghi chép của “Pháp Uyển Châu Lâm”, vào thời nhà Tấn có một người thợ săn sau khi xuất gia lấy Pháp danh là “Huệ Đạt”, ông nhận được sự chỉ bảo của Thần, quyết tâm tìm kiếm tháp xá lợi của A Dục Vương nơi đang thờ cúng xá lợi tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Huệ Đạt trải qua những gian khổ nguy hiểm đi khắp các núi sông, đến được một nơi thuộc huyện Bắc Luân Ninh Ba ngày nay, đột nhiên ông nghe thấy thanh âm tiếng chuông vang vọng từ dưới đất truyền lên, sau ba ngày ba đêm thành kính cầu khẩn, một tòa xá lợi tháp từ dưới đất nhô lên, quang diệu chói sáng, hình dáng màu xanh lam, tháp cao khoảng một thước bốn tấc, rộng bảy tấc, bên trong có treo bảo khánh, xá lợi được kết ở giữa. Sau khi Huệ Đạt tìm thấy tháp xá lợi, liền kết cỏ tranh tại nơi đó để cúng dường, nơi thờ cúng được ông thiết lập chính là hình dạng ban sơ của chùa A Dục Vương Ninh Ba.

Tòa tháp xá lợi này hoặc nói chuẩn xác hơn thì chính là xá lợi tử được thờ cúng trong đó, đã nhiều lần hiển hiện thần tích trong lịch sử. Ví như vào thời nhà Tống, tăng nhân Nhật Bản Trọng Nguyên đã từng chiêm ngưỡng tháp xá lợi tử này.

Sau khi về nước ông đã kể lại những gì mắt thấy tai nghe ở triều Tống cho vị hữu đại thần Cửu Điều Kiêm Thực (Kujo Kanemi 1149-1207). Theo nhật ký “Ngọc Diệp” của Cửu Điều Kiêm Thực, Trọng Nguyên nói rằng trong chùa A Dục Vương có tòa tháp A Dục Vương, đó là một trong tám vạn bốn nghìn tòa tháp cổ A Dục Vương nơi Thiên Trúc cổ xưa. Tòa tháp này cao một thước bốn tấc (34cm), bốn mặt được chạm khắc tinh xảo sáng long lanh. Không chỉ như vậy, bên ngoài tòa tháp lại còn có tháp vàng, tháp bạc, tháp đồng từng tầng từng tầng lồng vào nhau. Ngoài ra ông cũng nói xá lợi bên trong tháp, có thể sinh ra đủ loại biến hóa thần kỳ: hoặc là xuất hiện Phật tượng cao sáu trượng, hoặc là xuất hiện một tiểu Phật tượng, hoặc phát phóng ra ánh sáng rực rỡ, mức độ biến hóa thần kỳ, được quyết định bởi “tội nặng hay nhẹ” của người đến lễ bái. Bản thân Trọng Nguyên cũng từng đến lễ bái tháp A Dục Vương hai lần, một lần được thấy tiểu Phật tượng, lần còn lại thì thấy phóng ra những tia sáng lấp lánh. Trọng Nguyên còn miêu tả hết sức chi tiết cảnh tượng người Tống lễ bái tháp A Dục Vương: người Tống cứ 500 hoặc 1000 người hợp thành một đoàn tham gia bái lễ, mọi người cứ ba bước thì bái lạy một bái, người tham gia lễ bái trải qua ba tháng hoặc nửa năm kiên trì và nỗ lực không ngừng nghỉ, rất thành kính thì mới đến được dưới tháp.

Thư tịch cổ thời Nam Tống “Khuê Xa Chí” cũng có ghi chép: Thừa tướng nhà Nam Tống Ngụy Kỳ (tự “Nam Phu”), dẫn theo người nhà đến chiêm bái xá lợi tử ở chùa A Dục Vương một cách thành kính, thái độ họ cực kỳ cung kính, thành kính, xá lợi tử liền hiển hiện ra thần tích, hiển xuất quang ảnh hình tượng Phật, không chỉ một người nhìn thấy, mà là tất cả mọi người tại nơi đó đều nhìn thấy, “Mọi người đều háo hức nhìn, tất cả mọi người đều thấy được Phật tượng, nhưng mỗi người lại thấy không giống nhau, hoặc là thấy hình tượng Phật bằng vàng, bằng thiếc hoặc thấy màu như màu của nhục thân, hoặc chỉ thấy được bán thân, hoặc chỉ thấy phần búi tóc trên đỉnh đầu, hoặc chỉ thấy phần mặt, khiến người xem kinh ngạc. Thừa tướng liền hỏi về bức tượng mà nhiều người cùng nhìn thấy, rồi lệnh cho họa công vẽ lại bức tượng đó”.

Trương Đại một công tử nhà giàu triều Minh, trong tập hồi ký “Đào Am Mộng Ức” của ông ta có ghi chép lại quá trình chiêm bái tháp xá lợi của mình. Ông miêu tả rằng “Xá lợi tử thường phát sáng, nhiều màu sắc, hàng trăm tia sáng, phát ra qua những khe hở trên tháp, mỗi năm có thể thấy ba bốn lần. Phàm là người đến chiêm ngưỡng bái lễ xá lợi một cách cung kính, tùy vào nhân duyên mỗi người mà xuất hiện các cảnh tượng khác nhau”. “Khi mở tháp đồng, bên trong có một bàn thờ Phật bằng gỗ tử đàn thờ một bảo tháp nhỏ, giống như ống đựng bút, hình lục giác, không phải làm bằng gỗ cũng không phải bằng giấy, không phải làm bằng da cũng không phủ sơn, trên dưới được bao bọc thống nhất, xung quanh bốn góc có chạm khắc hoa văn chữ Phạn. Xá lợi tử treo trên đỉnh tháp, rủ xuống đung đưa bất định, ánh mắt của mọi người có thể nhìn thấu vào trong các chữ Phạn có viền hoa, quan sát xá lợi từ trên xuống dưới và phân biệt hình dạng của nó. Lúc đầu tôi nhìn thấy ba hạt liên kết với nhau giống như chuỗi tràng hạt, phát sáng lấp lánh. Tôi lại cúi xuống hành lễ, cầu được thấy hình dạng của xá lợi, thì khi nhìn lại, thấy một bức tượng nhỏ Quan Âm mặc áo trắng, với đôi mày thanh tú và đôi mắt trong veo, ngay cả làn tóc mai cũng nhìn thấy”.

Phần xá lợi này đã được bảo tồn hoàn hảo từ thời Tây Tấn cho đến tận ngày nay, ngay cả lúc Trung Cộng phát động Cách mạng Văn hóa, cũng vì nó đã được cất giữ và bảo quản ở Ủy ban Bảo quản văn vật, thế nên nó được bảo tồn hoàn hảo. Đương nhiên trong lịch sử tháp xá lợi bên ngoài đã được thay đổi nhiều lần, tháp xá lợi bằng đồng mà hiện nay chúng ta thấy, nghe nói là do Thái hậu triều Minh cung kính cúng dường. Nhưng đến thời hiện đại, phần xá lợi tử này hoàn toàn không còn triển hiện bất cứ thần tích nào nữa. Theo miêu tả của những tín đồ Phật giáo đương đại đã từng kính bái, thì đó là một tiểu Phật tháp bằng đồng rỗng được thờ phụng trước Phật tượng trong Phật điện, đặt trên đế thủy tinh được chế tạo đặc biệt. Các tín đồ sau khi niệm kinh của Phật giáo và kính bái theo sự chỉ dẫn của các nhà sư, ngẩng đầu nhìn xuyên qua những khe hở chạm khắc trên tháp đồng và nhìn vào bên trong, phần lớn mọi người có thể thấy một hạt xá lợi tử hình tròn được treo ngược trong tháp. Có một vài người nhìn cách nào cũng không thể thấy được, phần lớn người ta nhìn thấy xá lợi tử có màu đen, chỉ một số ít người thì lại thấy là màu vàng, màu lục hoặc màu trắng. Vì sao mọi người lại nhìn thấy những điều không giống nhau, những người theo thuyết vô thần cho rằng đó là do ánh sáng bên trong Phật điện hoặc góc độ nhìn của những người quan sát không giống nhau mà tạo thành sự sai biệt đó; các tín đồ Phật giáo thì cho rằng đây là do các phương diện như duyên phận, tín tâm khác nhau mà tạo thành sự sai biệt đó. Tuy nhiên cho dù những tín đồ Phật giáo vô cùng thành kính đến chiêm bái, phần xá lợi tử này cũng không hiển hiện thần tích như phát sáng hay hiển xuất quang ảnh tượng Phật.

Xá lợi tử hiển xuất thần tích, đã chứng minh sự thần kỳ của tu luyện. Trong quá khứ xá lợi tử chùa A Dục Vương Ninh Ba đã từng triển hiện nhiều thần tích, nhưng hiện tại không còn hiển linh nữa, kỳ thực chính là đã nói rõ một vấn đề rất lớn: Phật giáo ngày nay đã hoàn toàn bước vào thời kỳ mạt Pháp và mạt kiếp mà Thích Ca Mâu Ni từng nói đến, đã không còn có thể độ nhân được nữa. Vậy thì chẳng phải là con người ngày nay đã không còn cách nào để tu luyện nữa hay sao? Không phải vậy! Pháp Luân Công ngày nay đang được truyền rộng khắp thế giới chính là công pháp tu luyện cao tầng của Phật gia được truyền xuất bằng hình thức khí công, là Phật Pháp chân chính, chỉ bất quá là không đi theo hình thức xuất gia tu hành như tôn giáo trong quá khứ mà thôi. Mong rằng những nhân sĩ có tâm muốn tu luyện, xin hãy buông bỏ quan niệm tôn giáo trong quá khứ, nghiêm túc mà tìm hiểu chân tướng Pháp Luân Công, hãy đọc các sách của Pháp Luân Công, các vị sẽ phát hiện Pháp Luân Công là Chính Pháp tu luyện chân chính và độ nhân chân chính.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/269801

The post Câu chuyện Phật gia: Xá lợi tử ở chùa A Dục Vương Ninh Ba nhiều lần hiển thần tích trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 1): “Chính niệm không kiên định, một chút tình kéo Vân Tiêu nương nương vào chỗ chết”https://chanhkien.org/2023/08/cach-ly-giai-khac-ve-phong-than-phan-1-chinh-niem-khong-kien-dinh-mot-chut-tinh-keo-van-tieu-nuong-nuong-vao-cho-chet.htmlMon, 14 Aug 2023 02:12:00 +0000https://chanhkien.org/?p=31079Tác giả: Minh Mâu [ChanhKien.org] Ở Tam Tiên đảo có Vân Tiêu nương nương, Quỳnh Tiêu nương nương, Bích Tiêu nương nương dung mạo xinh đẹp và có pháp lực cao thâm, họ là chưởng quản đứng đầu trong chốn phàm nhân nơi tam giới, Vân Tiêu nương nương ngộ tính cao, pháp khí mạnh, […]

The post Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 1): “Chính niệm không kiên định, một chút tình kéo Vân Tiêu nương nương vào chỗ chết” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Minh Mâu

[ChanhKien.org]

Ở Tam Tiên đảo có Vân Tiêu nương nương, Quỳnh Tiêu nương nương, Bích Tiêu nương nương dung mạo xinh đẹp và có pháp lực cao thâm, họ là chưởng quản đứng đầu trong chốn phàm nhân nơi tam giới, Vân Tiêu nương nương ngộ tính cao, pháp khí mạnh, tính tình thận trọng và thanh nhã. 12 đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn muốn xuất khỏi tam giới, thì đều phải vượt qua quan này, nhưng họ đều không thể vượt qua được “Cửu khúc hoàng hà trận” của ba vị nương nương dung mạo tuyệt sắc này, tất cả họ đều bị ba vị nương nương mê hoặc và đánh hạ xuống nhân gian trở thành người thường.

Triệu Công Minh ở động La Phù của núi Nga Mi, người đã đắc đạo từ thời Thiên Hoàng, tu thành ngọc cơ Tiên thể, Văn Thái Sư mời hắn ta xuống núi để trợ giúp thảo phạt Tây Kỳ, hắn ta là một người nông nổi, không muốn chờ đợi, còn bất mãn sao Thái sư không tới sớm hơn.

“Định hải châu” của Triệu Công Minh đã đánh Nhiên Đăng đạo nhân, một người có công lực vượt khỏi tam giới đến mức quay đầu bỏ trốn. Sau khi “Định hải châu” bị Tiêu Thăng đạo nhân dùng “Lạc bửu kim tiền” lấy đi, Triệu Công Minh đi tìm Vân Tiêu, Quỳnh Tiêu, và Bích Tiêu nương nương để mượn pháp khí “Kim giao tiễn”.

Hắn ta leo lên lưng cọp cưỡi mây đến trước động phủ Tam Tiên đảo, hắng giọng lên một tiếng, một lúc sau, một đồng nhi bay ra, nhìn thấy Triệu Công Minh thì thốt lên: “Hóa ra là đại lão gia đã đến”, rồi vội vàng vào báo với ba vị nương nương, ba vị nương nương liền ra nghênh đón Triệu Công Minh vào động phủ, sau khi hành lễ xong, ba vị nương nương mời Triệu Công Minh ngồi xuống, Vân Tiêu nương nương hỏi: “Đại huynh, đi đâu ghé qua đây vậy?”

Triệu Công Minh nói: “Ta muốn mượn ‘Kim giao tiễn’, hoặc ‘Hỗn nguyên kim đấu’ để lấy lại ‘Định hải châu’ và các bảo vật khác rơi vào tay Nhiên Đăng đạo nhân”.

Vân Tiêu nương nương nghe xong, chỉ lắc đầu và nói: “Đại huynh, việc này không được, năm xưa ba giáo phái cùng nhau thỏa thuận, ký tên đánh dấu trên bảng Phong Thần, chúng ta đều có mặt ở cung Bích Du, sư phụ của chúng ta có nói: ‘Những người đáng ghi tên trên bảng Phong Thần phải cẩn thận’. Cửa cung lại có dán thêm hai câu đối ở bên ngoài:

Khép chặt cửa động, ngày tụng ‘Kinh thư’ hai ba cuốn. Đặt mình nơi Tây thổ, trên bảng ‘Phong Thần’ ắt có tên.

Nay môn đồ của Nguyên Thủy Thiên Tôn đã phạm sát giới, mà môn giáo của chúng ta thực là tiêu diêu tự tại, ngày xưa phượng hoàng xuất hiện, gáy trên núi Kỳ Sơn, nay Thánh nhân ra đời, hà tất chúng ta phải tranh giành với bọn họ làm gì? Đại huynh, huynh không nên xuống núi nữa, chúng ta chỉ cần đợi Khương Tử Nha Phong Thần, lúc đó sẽ rõ người nào là Thần, người nào là Tiên, ai là ngọc, ai là đá. Đại huynh xin hãy trở về núi Nga Mi, đợi ngày định xong việc Phong Thần, muội sẽ đích thân tìm Nhiên Đăng đòi lại Định hải châu cho huynh, nhược bằng lúc này huynh muốn mượn Kim giao tiễn, và Hỗn nguyên kim đấu, thì muội không dám nghe theo”.

Công Minh nói: “Lẽ nào ta đến mượn, mà muội cũng không chịu sao?” Vân Tiêu nương nương nói: “Nếu không từ chối, chỉ sợ nhất thời hồ đồ để lỡ cơ hội, lúc đó hối tiếc cũng không kịp! Dù sao thì cũng mời huynh trở về núi, việc Phong Thần đã gần kề, huynh đừng nên nóng nảy”. Công Minh thở dài: “Người một nhà còn như vậy, huống chi người ngoài!” nói rồi đứng dậy cáo từ, ra khỏi cửa động, mặt vẫn hầm hầm. Trong ba vị nương nương có Bích Tiêu nương nương động lòng muốn cho mượn, nhưng ngại Vân Tiêu là chị, không thể không theo.

Độc giả thân mến, ngộ tính của Vân Tiêu nương nương cao bao nhiêu? Nàng hiểu Thiên lý, biết Võ Vương và Khương Tử Nha thuận thiên thừa vận, làm theo ý trời, nên không những tự biết không nên gây cản trở, còn khuyên người khác không nên nghịch thiên, chống lại ý trời; vả lại giữa sư mệnh và tình huynh muội với Triệu Công Minh, nàng chọn tuân theo sư mệnh, mà không phải là theo tình cảm. Nhưng trong sự “ma sát và giằng xé kéo dài của tình”, liệu nàng có còn tuân theo mệnh lệnh của sư phụ đến cùng hay không?

Hãy cùng xem Vân Tiêu nương nương bị ma biến như thế nào!

Triệu Công Minh rời Tam Tiên đảo, tình cờ gặp Hạm Chi Tiên, Hạm Chi Tiên là ai? Cô ấy vốn là một tiên thảo lung linh thuần khiết tu thành Tiên nữ, cô ấy mời Triệu Công Minh quay trở lại động gặp Vân Tiêu, lấy tình thân ra mà thuyết phục rằng: “Huống hồ các vị là người một nhà, không phải người dưng, nay em ruột còn không cho mượn, nói chi người ngoài? Ngay cả pháp bảo ta luyện cũng lấy ra giúp sư huynh của cô, sao cô lại từ chối vậy!”, lúc này Bích Tiêu nương nương đang ở bên cạnh, cũng nhất mực tán thành và ủng hộ: “Tỉ tỉ, ta cũng không nên cứng nhắc, chúng ta cho huynh trưởng mượn Kim giao tiễn đi”.

Như vậy, khi Triệu Công Minh vào trong động lần thứ hai, cùng với sự công kích từ ba phía, một là từ người ngoài – Hạm Chi Tiên, một là người nhà – em gái Bích Tiêu, cuối cùng Vân Tiêu nương nương cũng đã mềm lòng thỏa hiệp, đem Kim giao tiễn cho Triệu Công Minh mượn, và dặn dò: “Đại huynh, huynh mang Kim giao tiễn đi, tìm Nhiên Đăng đòi lại Định hải châu, huynh phải hết sức thận trọng, tuyệt đối không được làm càn, muội thật lòng khuyên huynh như vậy!” nhưng đây chỉ là nàng tự an ủi bản thân mà thôi, Nhiên Đăng là tuân theo Thiên ý, liệu sẽ nghe lời của nàng chăng? Triệu Công Minh là người hơn thua, anh ta sẽ nghe nàng sao?

Độc giả thân mến, chính niệm của Vân Tiêu không kiên định, giống như nhiều người tu luyện chúng ta, khi không có can nhiễu của ma thì rất kiên định, nhưng khi bị tà niệm hoặc nhiều người bủa vây công kích thì họ sẽ từng bước tiến đến thỏa hiệp, thậm chí có rất nhiều người không nghĩ rằng họ đang bị bủa vây tấn công mà đang tự bủa vây chính mình, còn nghĩ rằng như thế là vì tốt cho bản thân.

Triệu Công Minh trước khi đến chiến trường Tây Kỳ tìm gặp Nhiên Đăng để đòi lại Định hải châu, tuyên bố rằng chỉ cần trả lại nó, thì mọi thứ sẽ kết thúc. Nếu Nhiên Đăng trả lại, Triệu Công Minh cũng có thể sẽ nghe theo lời khuyên của muội muội Vân Tiêu mà quay trở về núi, như vậy còn có thể giữ được Tiên thể, song Nhiên Đăng quả nhiên không trả lại, vì vậy Triệu Công Minh đã nổi giận lôi đình, dùng Kim giao tiễn tấn công Nhiên Đăng, Nhiên Đăng chống cự không nổi nên đã dùng thuật độn thổ mà chạy, con hươu sao mà ông ta cưỡi đã trở thành vật thế thân, liền bị cắt làm đôi.

Không một ai ở Tây Kỳ có thể chống cự lại được uy lực của Kim giao tiễn, cho nên Lục Yểm một vị khách đến từ núi Côn Luân đã đến tương trợ, dùng “Đinh đầu thất kiếm thư” bắn chết Triệu Công Minh. Theo lý mà nói việc này lẽ ra đã kết thúc. Nhưng lúc này Thân Công Báo lại xuất hiện, lợi dụng mối quan hệ huynh muội giữa Triệu Công Minh và Vân Tiêu nương nương để làm ma biến Vân Tiêu nương nương. Thân Công Báo đóng giả làm người ngoài cuộc để đưa tin về cái chết của Triệu Công Minh đến cho ba vị nương nương, Quỳnh Tiêu và Bích Tiêu nương nương đã bật khóc rất to khi nghe tin huynh trưởng chết trong tay của Lục Yểm và Khương Thượng. Thân Công Báo đưa ra đủ loại lời nói bóng gió, ông ta nói rằng: “Nghìn năm cực khổ tu luyện, đáng tiếc lại chết dưới tay của kẻ vô lại,v.v…” lại còn miêu tả những lời ăn năn, hối hận của Triệu Công Minh nói với Văn Thái Sư trước khi chết: “Sau khi tôi chết, nhất định các muội muội của tôi sẽ tới lấy lại Kim giao tiễn, phiền anh nhắn lại các muội ấy, rằng ta rất hối hận vì đã không nghe lời của Vân Tiêu nên rơi vào cạm bẫy. Ta để lại đạo phục và dây lưng lụa của ta, sau này các muội ấy nhìn thấy đạo phục và dây lưng lụa này, thì cũng như là đang nhìn thấy huynh trưởng của mình vậy”. Triệu Công Minh chết rồi mà vẫn kéo theo Vân Tiêu nương nương bị ma biến, hắn thực sự là một người sinh ra để làm hại Vân Tiêu.

Độc giả thân mến, đến đây, mọi người đều có thể nhìn ra, có một loại lực lượng vô hình đang nhắm đến Vân Tiêu nương nương, luôn muốn kéo nàng xuống nước, và kéo đến chết mới thôi.

Vì Vân Tiêu có ngộ tính và tầng thứ cao, nên đã nói rằng: “Sư phụ của chúng tôi đã dặn, tất cả những người trong bổn môn không được phép xuống núi, nếu như có người xuống núi, thì phải là người có tên trong bảng Phong Thần. Xem ra số trời đã định, huynh trưởng của tôi không nghe lời sư phụ, do đó khó thoát khỏi kiếp nạn này”.

Nhưng muội muội Quỳnh Tiêu lại bắt đầu dùng ma tình để kích động nàng: “Tỉ tỉ, tỉ thật là vô tình! Không ra tay vì huynh trưởng, mà còn nói những lời này, dù ba tỉ muội chúng ta có tên trong bảng Phong Thần cũng vậy, muội nhất định phải đến nhìn hài cốt của huynh trưởng, cho trọn vẹn tình cốt nhục”.

Độc giả thân mến, tình quan trọng? Hay là pháp lệnh của sư phụ quan trọng? Vân Tiêu vô tình không phải là một điều tốt sao? Không có tình thì sẽ có từ bi, đối xử tốt với tất cả mọi người thì chính là vượt xa tình. Triệu Công Minh không tuân theo pháp lệnh của sư phụ, thì không phải là người tu luyện, hắn giết người ở Tây Kỳ, thì chẳng phải người ta nên tự vệ sao? Lúc này, cái tình của Quỳnh Tiêu đã lớn hơn Pháp rồi, thà chết cũng nguyện bám lấy tình không bỏ, hơn nữa cái tình này lại là không chính đáng, Triệu Công Minh trái lại ý trời mà hành ác ở Tây Kỳ, cho dù là người thường cũng đều đã biết ai đúng ai sai.

Quỳnh Tiêu và Bích Tiêu nổi giận đùng đùng, không nói thêm lời nào, Quỳnh Tiêu cưỡi hồng cốt, còn Bích Tiêu cưỡi hoa linh điểu cùng bay tới Tây Kỳ báo thù cho Triệu Công Minh. Thú cưỡi của họ thật là đáng kinh ngạc, nhưng người thì đã bị thù hận khống chế rồi, đâu còn phải là người tu luyện nữa.

Lúc này Vân Tiêu đối với mọi việc vẫn còn minh bạch, thầm nghĩ: “Tỉ muội mình đi lần này, nhất định sẽ dùng Hỗn nguyên kim đấu để gây rối với các đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn, như vậy không tốt, sẽ sinh ra phiền phức! Ta phải đích thân đi chuyến này để ngăn cản bớt, may ra có thể vãn hồi được”. Nàng dặn dò các nữ đồng: “Hãy trông coi động phủ cẩn thận, ta đi rồi sẽ về ngay”.

Ôi chao! Độc giả thân mến! Vân Tiêu đã không tuân lệnh sư phụ “không được phép xuống núi!” để được có tên trong bảng Phong Thần! Nhưng nàng vẫn cho rằng mình đang làm đúng “Ta phải đích thân đi chuyến này để ngăn cản bớt, may ra có thể vãn hồi được”. Nàng vẫn cho rằng “ta đi rồi sẽ về ngay”, nhưng một khi đã đi thì không còn đường quay đầu lại nữa rồi!

Vân Tiêu đáng thương, cuối cùng đã bị ma biến. Ở Tây Kỳ nàng bị Khương Tử Nha dùng roi thần đánh trúng, lăn khỏi thanh loan (thú cưỡi của Vân Tiêu), nàng bị đánh đến thảm hại, bị đánh nặng đến nỗi phát hoả mà không hay, ma tính đã khống chế nàng, nàng không còn quan tâm đến bất cứ điều gì, cuối cùng đã bày ra “Cửu khúc hoàng hà trận” khiến cho hàng ngàn năm tu luyện của 12 đại đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn hóa thành hư không, hãy xem xem 12 đại đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn là những ai: Văn Thù quảng pháp thiên tôn, Từ Hàng đạo nhân, Phổ Hiền chân nhân, Đạo Đức chân quân, Linh Bảo đại pháp sư, Thái Ất chân nhân, Hoàng Long chân nhân, Cụ Lưu Tôn, Quảng Thành Tử, Xích Tinh Tử… họ đều là những người tu luyện hiển hách bậc nhất trong lịch sử, có thể thấy ma tính của Vân Tiêu lợi hại đến mức nào.

Tuy thắng được 12 đại đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn nhưng Vân Tiêu lại hối hận, ngồi trầm ngâm suy nghĩ: “Việc đã xong, sao lại có thể khiến cho nhiều đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn bị vây hãm trong trận đến như vậy được, rốt cuộc, việc này chẳng tốt đẹp gì, nó sẽ khiến cho ta rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan”. Điều này cho thấy Vân Tiêu vốn dĩ không muốn hành ác, mà do hình thế ép buộc, tự mình không thể kiên trì kháng cự lại được những cám dỗ nên đành thỏa hiệp, rồi từng bước đi vào vực sâu. Lúc này, nếu nàng có thể quay đầu gỡ bỏ “Cửu khúc hoàng hà trận”, đến nhận tội với Nguyên Thủy Thiên Tôn, có lẽ còn có thể giữ được tính mạng, và nếu lúc đầu nàng kiên cường hơn một chút, thì nàng đã có thể không xuống núi mà hành ác.

“Cửu khúc hoàng hà trận” giống như lá cờ vàng do Vân Tiêu nương nương xinh đẹp nhất trong tam giới cầm trong tay, tung bay trong gió. Vân Tiêu có cốt cách của một người đẹp từ trong ra ngoài, bởi vì vẻ đẹp của nàng không chỉ biểu hiện ở hình dáng của con người, mà còn ở hình thái vật chất – nó tựa như những ráng mây sắc màu rực rỡ, bồng bềnh như một khu vườn tiên cảnh hoa lệ và lộng lẫy trên đỉnh của tam giới. Nó tựa như một thế giới mỹ lệ đẹp đẽ, say đắm mê hồn được nắm giữ trong tay của Vân Tiêu, tùy theo tâm ý của nàng mà phất phơ xoay chuyển, hương thơm của lá cờ ấy phảng phất khiến nàng giống như những gợn sóng đang chầm chậm thấm nhập vào thân tâm của những ai đang trong cảnh giới đó. Hầu hết những người tu luyện trong quá khứ đều không thể tu xuất khỏi tam giới, bởi vì pháp họ tu là nhỏ, sự mỹ lệ trên đỉnh của tam giới có thể dễ dàng mê hoặc họ, nếu tâm của họ đặt ở đây, thì chính là không thể xuất khỏi tam giới. “Cửu khúc hoàng hà trận” nhằm vào những người tu luyện có thành quả trong môn phái của Nguyên Thủy Thiên Tôn, nhưng không ai trong số họ vượt qua được quan này, mà bị hủy trong đó. Và ba vị nương nương cũng vì thế mà tội nghiệp tày trời, nên bị Lão Tử và Nguyên Thủy Thiên Tôn tiêu diệt.

“Hỗn nguyên kim đấu” dùng để bắt đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn là cái gì? Nó là quả của một cây cổ thụ Tiên Đằng, có hình dạng như một cái gáo, được luyện thành bởi sức hấp dẫn và gia trì của ba vị nương nương, trở thành ma khí Thần mê, mà “hỗn nguyên” lại là ma đạo, chính là đem hết thảy mọi thứ trộn lại với nhau, làm cho bất cứ thứ gì cũng đều không có biên giới, có thể dung hợp lẫn nhau, ta là ngươi, ngươi là ta, vì vậy ma cũng là đạo, đạo cũng là ma, cho nên có một số người tu luyện mới trộn lẫn hết thảy các môn trên thế gian lại với nhau – Nho gia, Đạo gia, Phật gia, Pháp gia, tất cả các môn không cùng thể hệ đều trộn lẫn với nhau, gọi là vạn pháp quy tông, lấy được sở trường của tất cả các môn phái, trở thành cái gì cũng không phải, trở thành người hồ đồ mắc đủ thứ bệnh. Vân Tiêu nương nương mỹ lệ nhất tam giới đã lấy Quỳnh Tương ngọc dịch (một loại rượu quý) rót đầy kim đấu để mời mọi người uống nhằm mê hoặc họ, mọi người sẽ uống nó chứ? Nàng có thể ngăn cản họ tiến về phía trước không?

Thông Thiên Giáo Chủ là ma vương, mặc dù cảnh giới vượt xa phàm nhân, nhưng vì bản tính của ông ta là tà ác, dưới ảnh hưởng của tâm tật đố, tranh đấu v.v…nên ông ta cũng đứng ra đối lập với chính giáo, cuối cùng gây họa hại cho vạn Tiên.

Mỹ sắc có ba loại: một là sắc đẹp của con người, một là vẻ đẹp của cảnh vật, một nữa là vẻ đẹp của không gian thời gian. Đặt tâm tình vào cái nào thì cũng là sắc.

“Cửu khúc hoàng hà trận” là sắc trận, những người bị bắt đều là những “nam nhân” tu luyện, không có một nữ nhân nào, chẳng có lẽ ở Tây Kỳ không có người tu luyện nào là nữ nhân? Trận này, bên ngoài thì nhu – Vân Tiêu nương nương tiếp kiến mọi người và mời mọi người vào trận; trong lại cương – tất cả trận này đều là do những nam tử hán oai phong như hùm tổ thành, nhưng những người này đã quen với việc nhìn vào bề mặt, vì vậy chỉ thấy sắc đẹp của Vân Tiêu. Điều nó muốn là người tu luyện phải vứt bỏ hết thảy những lưu luyến (chấp trước) vào tam giới, khi người ta nghĩ rằng bản thân không có chấp trước vào “sắc” với nữ sắc, với nam nhân anh tuấn và trẻ con, thì họ sẽ coi nhẹ ái (tình) của cảnh giới tầng thấp hơn? Còn bất cứ loại tâm nào ở trong tam giới, thì đều sẽ như xiềng xích buộc chặt người ta lại.

12 đại đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn phải đương đầu với cảnh vật tuyệt đẹp trên đỉnh của tam giới, và vẻ đẹp tuyệt sắc của nữ nhân, đó là hóa thân của Vân Tiêu nương nương. Vì điều này, họ đã bị Vân Tiêu nương nương đánh bại, sau đó họ mới biết được chướng ngại của tầng này, chỉ cần cố gắng tu luyện lại một lần nữa thì có thể vượt qua.

(Lưu ý: Một số nội dung trong bài viết này không có trong sách gốc “Phong Thần diễn nghĩa”. “Cửu khúc hoàng hà trận” là một sắc trận, cùng với nguyên thân giống như cái gáo của Hỗn nguyên kim đấu, đều không có trong sách gốc).

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/270817

The post Cách lý giải khác về “Phong Thần” (Phần 1): “Chính niệm không kiên định, một chút tình kéo Vân Tiêu nương nương vào chỗ chết” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện Phật gia: Hoà thượng Chí Siêuhttps://chanhkien.org/2023/08/cau-chuyen-phat-gia-hoa-thuong-chi-sieu.htmlSat, 05 Aug 2023 02:58:49 +0000https://chanhkien.org/?p=31014Tác giả: Học viên Đại Lục [ChanhKien.org] Hòa thượng Chí Siêu sinh ra trong một gia tộc họ Điền ở quận Phùng Dực tỉnh Thiểm Tây vào thời Nam Bắc triều, tên thường gọi là Điền Thiện Hữu. Từ lúc rất nhỏ ông đã một lòng hướng Phật, lại một mực bày tỏ với người […]

The post Câu chuyện Phật gia: Hoà thượng Chí Siêu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Học viên Đại Lục

[ChanhKien.org]

Hòa thượng Chí Siêu sinh ra trong một gia tộc họ Điền ở quận Phùng Dực tỉnh Thiểm Tây vào thời Nam Bắc triều, tên thường gọi là Điền Thiện Hữu. Từ lúc rất nhỏ ông đã một lòng hướng Phật, lại một mực bày tỏ với người nhà mong muốn gửi thân nơi cửa Phật của mình nhưng không được đồng ý. Họ lén sắp xếp một cuộc hôn nhân cho ông. Chí Siêu nghe vậy đã trốn vào vùng sơn dã. Người của cả gia tộc cùng nhau đi tìm ông, ông không trốn được, bị cưỡng chế đưa về nhà và phải cử hành hôn lễ.

Đêm tân hôn, tại chốn hoa phòng, Chí Siêu đã trịnh trọng tuyên giảng Phật Pháp cho tân nương. Vị tân nương cảm động đến rơi nước mắt trước tấm lòng thành kính của chồng mình đối với Phật Pháp và nàng đồng ý rằng sau này sẽ chung sống mà không gần gũi với Chí Siêu, họ chỉ là đôi phu thê trên danh nghĩa chứ không phải vợ chồng thực sự. Mỗi đêm Chí Siêu đều ngồi thiền hết cả năm canh.

Cuối cùng đến năm 27 tuổi Chí Siêu cũng có thể xuất gia, trở thành học trò của Tuệ Toản Thiền Sư ở chùa Khai Hoá thuộc Tịnh Châu (tức thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây ngày nay).

Lúc ban đầu Tuệ Toản không thu nhận Chí Siêu làm đồ đệ của mình mà chỉ để ông làm các việc lặt vặt trong chùa để khảo nghiệm ông. Nhưng Chí Siêu không vì điều này mà cảm thấy chán nản, mỗi ngày ông đều dậy sớm làm việc đến tận khuya mới đi ngủ. Trong chùa số tăng nhân lên đến hàng trăm người. Mỗi khi có công việc vất vả nhất thì Chí Siêu đều tranh lấy để làm. Qua đoạn thời gian thử thách này Tuệ Toản nhận thấy Chí Siêu là người có kỷ luật nghiêm khắc với bản thân, là người đầy trí huệ lại có thể chịu khổ nên đã thu nhận Chí Siêu làm đệ tử.

Sau khi thọ giới, Chí Siêu học tập các kinh Phật rất giỏi, sau đó ông quay về quê cũ tìm một ngọn núi và tiếp tục tu luyện ở đấy. Chí Siêu dựng lên một thiền viện trong núi, sớm tối khổ tu. Những người tài giỏi từ khắp bốn phương nghe tiếng về Chí Siêu đã theo nhau kéo đến, người chốn xa gần đều biết tiếng ông.

Năm Tùy Đại Nghiệp thứ nhất, Tùy Dạng Đế hạ lệnh đóng cửa các chùa, không cho tăng nhân gặp gỡ, giao du. Chí Siêu sau khi nghe tin này đã hết sức lo lắng, ông kiên quyết dâng thư lên hoàng đế để biện hộ cho Phật giáo. Chí Siêu mặc áo cà sa đi đến các quận, thành thăm hỏi, hy vọng gặp được quan viên chấp pháp để trình bày ý kiến của mình (dùng cách nói thông dụng ở Trung Quốc đại lục ngày nay thì hoà thượng Chí Siêu đã liên tục thỉnh nguyện để duy hộ Phật giáo). Nhưng những viên quan kia đã phớt lờ ông. Trên con đường duy hộ Phật Pháp tuy gặp phải chướng ngại khắp nơi nhưng ông không chút nản lòng, lại chạy một mạch đến Giang Đô để bày tỏ ý kiến của mình với quan nội sử của Tùy Dạng Đế, hy vọng quan nội sử sẽ tấu trình ý kiến của ông lên hoàng đế.

Cuối triều Tùy chiến tranh nổ ra, lại thêm nạn đạo tặc hoành hành khiến người dân vô cùng khổ sở. Xác của người dân nằm ngổn ngang khắp nơi. Lúc này, Chí Siêu đang tập hợp các đệ tử lại cùng học tập Phật Pháp. Mọi người vẫn còn một ít lương thực bên mình. Họ đều sợ đạo tặc đến cướp lương nên ai cũng muốn lấy một chút lương thực rồi chia ra mỗi người một ngả. Chí Siêu khuyên mọi người chớ nên làm loạn, hơn nữa việc tu luyện không thể bỏ cuộc giữa chừng. Mọi người đều thấy vô cùng cảm động và cùng tĩnh tâm xuống tiếp tục tu Phật.

Một đêm nọ, khi Chí Siêu và mọi người đang đả toạ thì đột nhiên thấy ngọn lửa bốc lên ngút trời, bọn đạo tặc phá cửa xông vào, tên nào cũng cầm ngọn đao thép sáng loáng trong tay. Chí Siêu và những người khác đều ngồi nghiêm trang bất động, không có ai động niệm về sự việc đang xảy ra. Bọn đạo tặc bị sự trấn tĩnh của mọi người làm cho cảm động, chúng quỳ xuống lễ bái tạ tội và đều nguyện quy y theo Chí Siêu. Ông nhân cơ hội này đã dẫn dắt họ, dựa theo tư chất của từng người mà chọn cách giáo hoá họ. Nhóm đạo tặc từ trong thâm tâm đều bội phục Chí Siêu, họ một lòng hướng Phật, chuyên cần tu luyện Phật Pháp để được tiêu bỏ tội nghiệp đã gây ra trong quá khứ.

Khi Đường Cao Tổ Lý Uyên dấy binh ở Thái Nguyên, cả nước trên dưới đồng loạt hưởng ứng. Xuất phát từ góc độ muốn cứu giúp bách tính, hoà thượng Chí Siêu đã hết lòng ủng hộ cuộc khởi nghĩa. Ông dẫn theo các tăng lữ đến Tấn Dương hoằng truyền Phật Pháp, từ trước đến nay số đệ tử đi theo Chí Siêu học tập Phật Pháp lên đến hàng trăm người. Mọi người đều giữ nghiêm giới luật, tuân thủ trật tự nề nếp khiến thế nhân tán thán mãi không thôi, đồng thời các tăng nhân cũng đã có những cống hiến cho sự ổn định của xã hội lúc bấy giờ.

Sau này đại binh của triều Đường đã xuống phía nam bình định các cuộc nổi loạn trong nước, đất nước nhờ đó mà được yên bình. Chí Siêu đã dẫn theo hơn 20 đệ tử đến kinh thành để chúc mừng hoàng đế. Đường Cao Tổ Lý Uyên kính trọng Chí Siêu, đối đãi với ông như Thần Tiên, mời ông đến Thái Cực điện và hành đại lễ với ông.

Chí Siêu không tham cảnh phú quý an nhàn nên đã từ biệt hoàng đế và các đại thần rồi đi đến vùng Tấn Xuyên (thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay), muốn chọn ở vùng ấy một chỗ tốt để tu luyện.

Năm Đường Vũ Đức thứ năm (Vũ Đức là niên hiệu của Đường Cao Tổ), Chí Siêu chuyển đến vùng Miên Sơn cách huyện Giới Hưu khoảng 20km về phía tây nam. Trên dãy Miên Sơn có một ngọn núi tên là Bão Phúc, vốn rất nổi tiếng. Trên đỉnh ngọn núi có một vách núi với thung lũng sâu đến hàng trăm trượng nằm sát một đỉnh núi khác cao ngàn thước phía trên. Nơi đây có suối trong đá đẹp, cây cối rậm rạp, mưa thuận gió hoà, quang cảnh hệt như nơi tiên giới. Sống ở đây có thể khiến người ta ở trong cảnh mà quên hết ưu phiền.

Năm Vũ Đức thứ bảy, Chí Siêu dẫn mọi người lên đỉnh núi Bão Phúc tu luyện. Đương thời có đến gần một trăm tăng nhân. Nhưng tất cả lương thực của họ gộp lại chỉ bất quá là sáu thạch lúa mì. Lúc đầu mỗi ngày họ xay năm đấu lúa mì để ăn. Từ mùa xuân đến mùa hè lượng lúa mì đã vơi đi rất nhiều. Về sau mỗi ngày họ chỉ xay hai đấu. Nhưng lượng lúa mì dự trữ còn lại dùng mãi vẫn không hết. Mọi người đều cảm thấy vô cùng kỳ diệu. Nhưng chỉ cần những đệ tử của Chí Siêu có ai sinh tâm lười biếng hoặc cầu an dật thì lập tức sẽ nhận được sự cảnh báo thần kỳ. Khi Chí Siêu tập hợp các tăng nhân thì chiếc chuông cũng theo đó mà reo lên. Nước suối trên núi cũng theo số người đông hay thưa mà chảy ra nhiều hay ít….

Trong cuộc đời mình Chí Siêu đã để lại rất nhiều câu chuyện thần kỳ, và đây là câu chuyện nổi tiếng nhất: Năm Trinh Quán thứ 14 (thời Đường Thái Tông, tức năm 640) vùng Thiểm Tây xảy ra đợt hạn hán lớn, duy chỉ huyện Giới Hưu là vẫn mưa thuận gió hoà, người ta đều nói rằng nhờ có [đại đức của] hòa thượng Chí Siêu mà vùng Giới Hưu mới tránh được tai hoạ. Vì vậy Đường Thái Tông Lý Thế Dân đã hướng đến Miên Sơn cầu mưa, Chí Siêu lệnh cho Mạc Tư, một đệ tử đang nấu cơm, vẩy nước vo gạo về hướng tây nam, một lúc sau khắp kinh thành Trường An mưa giăng giăng đầy trời, tai nạn hạn hán lớn đã được giải trừ, dân chúng vui mừng cảm tạ công ơn giúp người dân vượt qua cơn khốn khó của hoà thượng Chí Siêu. Người ta cũng xưng tụng ông là “Phật sống của đất Miên Sơn”.

Không lâu sau khi hạn hán lớn được giải trừ, hoà thượng Chí Siêu ở trong chùa nhận ra bệnh tình của mình rất trầm trọng, ông đoán trước rằng thọ mệnh sắp hết nên càng chăm chỉ tu luyện hơn. Ngày 11 tháng 3 năm Trinh Quán thứ 15 (tức năm 641) hoà thượng Chí Siêu viên tịch, hưởng thọ 71 tuổi.

Hoà thượng Chí Siêu viên tịch chưa bao lâu thì Đường Thái Tông Lý Thế Dân dẫn theo quần thần đến Miên Sơn bái kiến ông. Đệ tử của Chí Siêu là Ngân Không ở núi Bão Phúc tiếp giá, nói rằng sư phụ của mình đã viên tịch, về tây rồi. Thái Tông vẫn chưa được thỏa nguyện nên trong lòng thấy buồn bã, ông ngẩng mặt lên trời than rằng: “Chuyến đi này không được thấy Phật rồi”, đúng lúc ấy đột nhiên trên không trung xuất hiện hình ảnh hòa thượng Chí Siêu và bốn chữ lớn “Không Vương Cổ Phật” [1], do đó Đường Thái Tông đã sắc phong cho hòa thượng Chí Siêu làm “Không Vương Phật”, lại còn hạ lệnh xây dựng chùa Phong vân. Đoàn xa giá của vua Thái Tông quay về đến chùa Linh Khê ở núi Không Sơn, khi thấy quang cảnh tuyệt đẹp của ngôi chùa thu vào trong tầm mắt, vua Đường liền làm một bài thơ:

Hồi loan du phúc địa, cực mục ngoạn phương thần.

Bảo sát dao thừa lộ, thiên hoa cận túc xuân.

Phạn chung giao nhị hưởng, pháp nhật chuyển song luân.

Tịch nhĩ chân tiên cảnh, siêu nhiên ly tục trần.

Diễn nghĩa:

Xe loan du lãm nơi phúc địa,

Phóng mắt lãm thưởng cảnh xuân tươi.

Chùa tháp khẽ lay sương mai đón,

Thiên hoa vướng vít khắp trời xuân.

Chuông chùa văng vẳng hai hồi gióng,

Mặt trời nhẹ chuyển hai Pháp Luân.

U nhã tĩnh mịch nơi Tiên cảnh,

Siêu nhiên thoát khỏi cõi tục trần.

Vì Đường Thái Tông từng hồi loan đến chùa Linh Khê núi Không Sơn, còn ở lại đây sáu ngày. Vì thế chùa này được đổi tên thành chùa Hồi Loan, đồng thời hoàng đế còn cho dựng thêm ngôi miếu Long Thiên bên cạnh chùa để kỷ niệm.

Hoà thượng Chí Siêu đã viên tịch từ hơn 1300 năm trước nhưng câu chuyện về ông đến ngày nay vẫn còn khiến người ta cảm thán mãi. Từ hoà thượng Chí Siêu chúng ta không chỉ thấy sự thành kính của ông đối với Phật Pháp mà còn thấy rằng khi Phật Pháp gặp nạn ông đã không quản ngại gian nan bước ra duy hộ Phật Pháp, cho đến khi đối diện với việc sinh mệnh gặp nguy hiểm thì có thể buông bỏ sinh tử, một lòng tu luyện Phật Pháp. Sự kính trọng đối với Phật Pháp và người tu luyện của Đường Cao Tổ Lý Uyên và Đường Thái Tông Lý Thế Dân cũng khiến mọi người bội phục, thật xứng danh là vị vua khai quốc và là minh chủ của một triều đại.

Qua câu chuyện này chúng ta hãy cùng nhìn lại ngày hôm nay, nhìn về cuộc đàn áp Pháp Luân Công của tà đảng cộng sản ở Trung Quốc Đại lục và hành động vĩ đại bước ra duy hộ Đại Pháp của các học viên Pháp Luân Công. Hành động ấy khiến mọi người cảm nhận được sự thiện lương của các học viên Pháp Luân Công, ngược lại từ mức độ tà ác của cuộc bức hại mà xét, thì tà đảng cộng sản so với Tuỳ Dạng Đế năm xưa thì còn tà ác hơn vô số lần.

Tùy Dạng Đế về sau thân bại nước vong, còn kết cục sau cùng của tà đảng Trung Cộng sẽ đáng sợ hơn rất nhiều so với Tùy Dạng Đế. Nếu bạn muốn thoát khỏi tai hoạ do tà đảng cộng sản làm liên lụy thì chỉ có một con đường là hãy mau chóng thoái xuất khỏi tà đảng Trung Cộng cùng các tổ chức liên đới của nó.

Ghi chú [1]: Không Vương Phật: từ dùng trong Phật giáo, là một trong 1000 vị Phật trong quá khứ. Trong Pháp Hoa Kinh, phẩm thứ 9 Thọ học vô học nhân phẩm ký có viết rằng: “Các Thiện nam tử! Ta cùng các A Nan ở chỗ Đức Phật Không Vương đồng thời phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Nguồn tư liệu: Lịch đại cao tăng truyện

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49876

The post Câu chuyện Phật gia: Hoà thượng Chí Siêu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tiền vàng tán hết còn trở lại không?https://chanhkien.org/2023/08/tien-vang-tan-het-con-tro-lai-khong.htmlWed, 02 Aug 2023 03:23:56 +0000https://chanhkien.org/?p=30974Nguyên Hinh – sưu tầm [ChanhKien.org] Trên mạng internet có một câu chuyện như thế này. Chùa Thiện Quốc trên núi Long Sơn có hai hòa thượng là Ngộ Không và Ngộ Liễu. Lúc mới đầu bọn họ đều cùng nhau đi khất thực, sau này chỉ thấy Ngộ Không sáng đi tối về. Vốn […]

The post Tiền vàng tán hết còn trở lại không? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguyên Hinh – sưu tầm

[ChanhKien.org]

Trên mạng internet có một câu chuyện như thế này. Chùa Thiện Quốc trên núi Long Sơn có hai hòa thượng là Ngộ Không và Ngộ Liễu. Lúc mới đầu bọn họ đều cùng nhau đi khất thực, sau này chỉ thấy Ngộ Không sáng đi tối về.

Vốn là Ngộ Liễu phát hiện rằng, chỉ cần xuống núi sẽ hóa được rất nhiều tài vật, rồi đổi tiền lấy lương thực và những nhu yếu phẩm để dành, thời gian còn lại chỉ ở trong chùa, nhưng vì thế mà bất giác sinh ra ngủ và lười biếng. Ngộ Không thấy thế, bảo Ngộ Liễu không nên lãng phí thời gian, nên đi ra ngoài khất thực.

Ngộ Liễu nói: “Chẳng phải người xuất gia không nên quá tham lam? Có ăn là được rồi. Huynh xem tôi có nhiều thực phẩm như này, có thể đủ cho cả nửa tháng, đi ra ngoài làm gì?”

Ngộ Không nói: “Sư đệ, đệ đi hóa duyên nhiều năm như vậy, vẫn chưa hiểu được điều kỳ diệu và chân lý của hóa duyên sao?”

Ngộ Liễu tức giận nói: “Huynh thì lúc mặt trời mọc đi, mặt trời lặn thì quay về, đi tay không, về cũng tay không, khất thực ở đâu?”

Ngộ Không nói: “Ta hóa duyên ở tại tâm. Duyên tự tâm đến, duyên cũng do tâm mà đi.”

Ngộ Liễu rất tức giận, nhưng lòng không hiểu, liền tức khí phừng phừng bỏ đi.

Sau đó, Ngộ Liễu thấy rằng tiền vật hóa được càng ngày càng ít đi. Làm cho anh ta rất khổ não, vốn lúc đầu một lần khất thực có thể đủ dùng nửa tháng, bây giờ chỉ đủ dùng cho mấy ngày.

Anh ta nhìn thấy Ngộ Không ngày ngày đi, đều tay không về, không nhịn được nữa nói mỉa mai: “Sư huynh, hôm nay thu hoạch như thế nào?”

Ngộ Không nói: “Được rất nhiều.”

Ngộ Liễu hỏi: “Sao đệ không thấy huynh thu hoạch được gì?”

Ngộ Không mỉm cười nói: “Thu hoạch ở thế gian, ở nhân tâm.”

Ngộ Liễu muốn tìm hiểu kỹ hơn, bèn quyết định ngày mai cùng sư huynh đi khất thực, Ngộ Không gật đầu đồng ý.

Trời vừa sáng, Ngộ Liễu mang túi đựng đồ khất thực đi tìm sư huynh. Ngộ Không nhìn thấy liền nói: “Sư đệ, bỏ túi lại đi.”

Ngộ Liễu hỏi: “Vì sao lại thế ạ?”

Ngộ Không nói: “Mang đi sẽ không hóa được thứ tốt nhất.”

Ngộ Liễu bất đắc dĩ để túi lại, cùng sư huynh xuống núi.

Trên đường đi, đến đâu cũng có nhiều người nhận ra và đều vui vẻ lấy đồ cho Ngộ Không. Ngộ Liễu trong tâm nghĩ: “Không cho đem túi, lát nữa xem huynh để ở đâu.”

Họ vẫn tiếp tục đi về phía trước, đồ khất thực được càng ngày càng nhiều. Ngộ Liễu nhìn thấy hôm nay thu hoạch được rất nhiều, trong lòng cảm thấy vui mừng. Đúng lúc này, có một nông phu từ đằng xa đi tới, tay ôm một đứa bé bệnh nặng không có tiền chữa trị. Ngộ Không biết được thì đem hết đồ xin được đưa cho người nông phu, rồi tiếp tục lên đường như chưa từng có chuyện gì xảy ra, Ngộ Liễu không vui bèn hỏi: “Sư huynh, chúng ta ngoài ăn no ra, không được giữ một chút sao? Vất vả như vậy thì hóa được gì đây?”

Ngộ Không mỉm cười nói: “Đệ xem thế gian, tự nhiên sao lại đẹp đến như vậy? Đó là do mặt trăng, gió và nước, bốn mùa đều đang tuần hoàn. Đệ chỉ thấy được phúc do duyên mang tới, thực ra đó chỉ là vui mừng nhất thời, thời gian lâu rồi, thì chính là một đầm nước chết. Sự khác biệt giữa chúng ta là, đệ đem những vật hóa được bỏ vào túi chứa đầy tư dục tham sân, còn ta đem hết đồ xin được tuần hoàn trong tâm mọi người, đó mới là cái phúc vô cùng mỹ diệu của duyên cho đi!”

Ngộ Liễu nghe đến đây, cúi gằm mặt xuống trầm tư không hiểu.

Nếu như mục đích của cuộc sống đơn giản chỉ là tích lũy tiền tài phú quý, thì chẳng khác nào chỉ biết hưởng phúc do duyên mang đến? Tuy nhiên không gian sinh sống của chúng ta đây, những vật hữu hình đó thực sự có hạn và không bền lâu. Nghĩ đến việc tích đức hành thiện mà người lớn tuổi hay nói đến, đức này ở trong tiểu vũ trụ cơ thể con người có thể đem theo luân hồi chuyển sinh, tuy rằng mắt thịt nhìn không thấy, nhưng nó tuần hoàn lặp lại trong các không gian rộng lớn thâm sâu, đây nào khác gì việc Ngộ Không buông bỏ chấp trước tu trì thiện tâm? Bởi vậy nói trân quý phúc của duyên cho đi cũng tương ứng với thiện trong nội tâm, chứ không phải hướng ngoại mà tìm được đâu!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/283616

The post Tiền vàng tán hết còn trở lại không? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyện cổ Phật gia: Mễ Phất “từ Chúng Hương Quốc đến, lại trở về Chúng Hương Quốc”https://chanhkien.org/2023/07/truyen-co-phat-gia-me-phat-tu-chung-huong-quoc-den-lai-tro-ve-chung-huong-quoc.htmlTue, 25 Jul 2023 02:35:17 +0000https://chanhkien.org/?p=30906Tác giả: Đức Huệ ChanhKien.org Mễ Phất (米芾, sinh năm 1051 mất năm 1107), một văn nhân nổi tiếng thời Bắc Tống, ban đầu tên là 黻, sau đổi thành 芾 (cả hai chữ đều có âm Hán Việt là Phất), tự “Nguyên Chương”, phong cách thư họa của ông trở thành một trường phái […]

The post Truyện cổ Phật gia: Mễ Phất “từ Chúng Hương Quốc đến, lại trở về Chúng Hương Quốc” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

ChanhKien.org

Mễ Phất (米芾, sinh năm 1051 mất năm 1107), một văn nhân nổi tiếng thời Bắc Tống, ban đầu tên là 黻, sau đổi thành 芾 (cả hai chữ đều có âm Hán Việt là Phất), tự “Nguyên Chương”, phong cách thư họa của ông trở thành một trường phái riêng, từng đảm nhận chức như Hiệu thư lang, tiến sĩ thư pháp và hội họa, lễ bộ viên ngoại, là một thư pháp gia, họa gia nổi danh trong lịch sử, ông cùng với Thái Tương, Tô Thức, Hoàng Đình Kiên được mệnh danh là “Tống Tứ Gia” (bốn nhà thư pháp thời Tống).

Mễ Phất cả một đời ngoài những cống hiến này, còn là một người tu Phật tại gia có thành tựu. Thuở thiếu thời Mễ Phất tín ngưỡng Phật giáo, trên vách đá ở Đại Phật Tự, một ngôi chùa cổ thời Đông Tấn tại huyện Tân Xương tỉnh Chiết Giang, có hai chữ “Diện Bích” (quay mặt vào vách) do ông viết, có thể thấy ông không chỉ tin tưởng mà còn có trải nghiệm thực tế về đả tọa tu hành. Trong tác phẩm “Tư Cư Thiếp” ông viết: “Tư cư đỗ môn, dĩ thiền duyệt vi lạc: Huyễn pháp hữu như thị, bất dĩ thiền duyệt, hà dĩ vi khiển?” (Diễn nghĩa: Ta đóng cửa ở một mình, lấy tọa thiền làm vui: Pháp huyền ảo như thế, nếu không lấy thiền làm vui thì vì lẽ gì mà bỏ?) Có thể thấy rằng ông ấy còn đang trong trạng thái nhập định, đã thể hội được niềm hạnh phúc của tu hành.

Những năm cuối đời khi làm quan tại Hoài Dương (nay là huyện Hoài Dương, thành phố Chu Khẩu, tỉnh Hà Nam), ông thậm chí đã biết trước thời gian tạ thế, xuất hiện những trạng thái siêu thường. Trong “Phật Tổ Cương Mục” do Chu Thời Ân đời nhà Minh biên soạn và “Tứ Khố Toàn Thư” thời nhà Thanh đều có ghi chép rằng: “Mễ Phất cuối đời có lĩnh hội về thiền, qua đời ở quân doanh Hoài Dương, một tháng trước đó ông giải quyết hết thảy việc nhà, viết thư cáo biệt người thân bạn bè, sau đó tự tay đốt hết tất cả thư họa mà bình sinh bản thân yêu thích, lại bố trí một cỗ quan tài, ngồi nằm và ăn uống đều ở trong cỗ quan tài đó. Trước khi mất bảy ngày, ông không ăn mặn, tắm rửa thay quần áo, thắp hương tĩnh tọa, đến thời hạn, ông mời tất cả quan viên trong huyện, cầm phất trần thị chúng (nói với mọi người): Ta từ Chúng Hương Quốc đến, nay lại trở về Chúng Hương Quốc. Nói rồi vứt bỏ phất trần hai tay hợp thập mà ra đi”. Ngoài ra trong rất nhiều sách cổ như “Phũ Thủy Tập”, “Di Kiên Chí” đều có ghi chép chuyện này. Có thể thấy tính chân thực của nó khá cao.

“Chúng Hương Quốc” mà ông nói vào thời khắc lâm chung là gì? Theo kinh điển Phật giáo trong “Duy Ma Cật Kinh” có ghi chép: “Thượng phương giới phân qua tứ thập nhị hằng hà sa Phật thổ, hữu quốc danh Chúng Hương, Phật hiệu Hương Tích” (Diễn nghĩa: Trên thượng giới được chia thành bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có nước tên Chúng Hương, Phật hiệu là Hương Tích), trong Phật quốc đó “chỉ có chúng Đại bồ tát thanh tịnh”. Vốn dĩ nơi Phật quốc thật sự có một nước tên là “Chúng Hương Quốc”, có thể thấy Mễ Phất xác thực là đã tu hành có thành tựu, đã đến thế giới của Phật quốc.

Mễ Phất không phải là người xuất gia, mà chỉ là một người tu tại gia, điều đó cho ta thấy tu luyện không nhất định phải xuất gia. Thật ra các pháp môn tu luyện thậm chí không nhất định đều phải xuất hiện dưới hình thức tôn giáo. Hiện nay Pháp Luân Công hồng truyền toàn thế giới chính là lấy hình thức khí công mà truyền xuất ra Tu Luyện Đại Pháp Phật Gia Thượng Thừa, còn có tên gọi khác là Pháp Luân Đại Pháp, là Phật Pháp chân chính. Những học viên Pháp Luân Công, đều giống như Mễ Phất không cần xuất gia, mà tu hành trong giai tầng và hoàn cảnh xã hội của mình, trên tất cả phương diện đều làm một người tốt, một người cực kỳ cực kỳ tốt, đương nhiên cũng có những người đã xuất gia trong tôn giáo đến tu luyện Pháp Luân Công, họ cũng là người tốt chân chính trong hoàn cảnh của mình.

Vào năm 1999, Trung Cộng và kẻ đứng đầu, do tính chất tà ác của vô thần luận và sự đố kỵ cá nhân, đã phát động cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công. Thật ra cứ nhìn vào lịch sử thì thấy rõ, trong lịch sử Phật giáo, Đạo giáo cũng từng gặp phải pháp nạn, đều bị bức hại rất nghiêm trọng, nhưng những kẻ bức hại cuối cùng đều chịu hình thức kết thúc của ác báo. Lần này cũng tuyệt đối không phải ngoại lệ, cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công đồng nghĩa với việc Trung Cộng đã phạm tội ác tày trời bức hại Phật Pháp, bức hại người tu luyện, hơn nữa cuộc bức hại vẫn còn kéo dài đến tận ngày nay; Trung Cộng tất sẽ phải chịu đại ác báo, cuối cùng nhất định sẽ bị Trời lên án, bị Trời trừng phạt, và kết cục bị Trời diệt. Chính sách ngăn chặn, chiến tranh thương mại, phong tỏa công nghệ v.v. của thế giới ngày nay đối với Trung Cộng đều là biểu hiện của việc “Trời diệt Trung Cộng”, tương lai sẽ có những tai nạn lớn hơn nữa giáng xuống đầu Trung Cộng và các thành viên đảng đoàn của nó.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/283701

The post Truyện cổ Phật gia: Mễ Phất “từ Chúng Hương Quốc đến, lại trở về Chúng Hương Quốc” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tăng nhân Ngưu Vân triều Đường gặp Văn Thù Bồ Tát tại Ngũ Đài Sơn được khai mở trí huệhttps://chanhkien.org/2023/07/tang-nhan-nguu-van-trieu-duong-gap-van-thu-bo-tat-tai-ngu-dai-son-duoc-khai-mo-tri-hue.htmlSat, 22 Jul 2023 05:01:49 +0000https://chanhkien.org/?p=30877Tác giả: Lưu Hiểu [ChanhKien.org] Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói với Kim Cương Mật Tích: “Sau khi ta niết bàn, ở vùng Đông Bắc của Nam Thiệm Bộ Châu có một quốc gia tên là Đại Chấn Na, trong quốc gia này có ngôi chùa tên Ngũ Đỉnh, đồng tử Văn Thù […]

The post Tăng nhân Ngưu Vân triều Đường gặp Văn Thù Bồ Tát tại Ngũ Đài Sơn được khai mở trí huệ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Hiểu

[ChanhKien.org]

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói với Kim Cương Mật Tích: “Sau khi ta niết bàn, ở vùng Đông Bắc của Nam Thiệm Bộ Châu có một quốc gia tên là Đại Chấn Na, trong quốc gia này có ngôi chùa tên Ngũ Đỉnh, đồng tử Văn Thù Sư Lợi hay cư trú qua lại nơi này, người này sẽ vì chư chúng sinh ở đây mà thuyết Pháp”. Đại Chấn Na được nhắc đến chính là Trung Quốc, ngọn núi được nhắc trong đất nước ấy cũng chính là Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây, còn vị Văn Thù Sư Lợi chính là Văn Thù Bồ Tát. Trong kinh Phật cũng nói rõ rằng: Văn Thù Bồ Tát ngồi trên đài hoa sen, cưỡi sư tử, đạo tràng tại Ngũ Đài Sơn.

Vào thời nhà Đường, Ngũ Đài Sơn chính thức được xác nhận là đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát. Trong “Sơn Tây Thông Chí Quyển” có ghi chép lời của Đường Thái Tông, “Ngọn núi Ngũ Đài Sơn, là mật thất của Văn Thù, nơi ẩn cư của vạn Thánh, là nơi khởi nguồn lớn nhất, thực là nơi tổ tông ta gieo trồng Đức, thích hợp để cúng tế, cung kính”. Vào thời nhà Đường thịnh thế, cả ngọn núi có hơn ba trăm ngôi chùa, tăng lữ hơn ba nghìn người. Sau khi Đường Vũ Tông diệt Phật, hoàn cảnh tu luyện của Ngũ Đài Sơn bị phá hoại, tăng nhân giảm nhiều. Đến thời Tống – Nguyên mới bắt đầu phát triển trở lại, một lượng lớn đền chùa đã được khởi công xây dựng. Vào thời Minh – Thanh, Phật giáo ở khu vực Ngũ Đài Sơn phát triển đến đỉnh cao hưng thịnh, Lạt ma giáo cũng bắt đầu thịnh vượng, hơn nữa các vị hoàng đế của hai triều Minh, Thanh thường đến Ngũ Đài Sơn cúng lễ, việc này giúp vị thế nơi đây càng được đề cao hơn.

Không còn nghi ngờ gì nữa, Ngũ Đài Sơn là một nơi tốt để tu hành, tự nhiên sẽ có rất nhiều Thần tích xuất hiện. Theo ghi chép trong “Hoa Nghiêm kinh”, vào lúc mặt trời mọc, Văn Thù Bồ Tát dẫn hơn vạn vị Bồ Tát, ở trên Ngũ Đài Sơn độ hóa người hữu duyên. Như vào thời Cách mạng văn hóa, Lâm Bưu vì muốn xây dựng dinh thự riêng, ra lệnh cho đánh bom hủy hai ngôi chùa trên Ngũ Đài Sơn, kết quả khi bom nổ trong khói bụi xuất hiện hình tượng của Văn Thù Bồ Tát.

Bài viết này kể về câu chuyện thần kỳ của một vị tăng nhân nhà Đường tên gọi Ngưu Vân, vì có tấm lòng thành kính hướng Phật, đã được Văn Thù Bồ Tát khai mở trí huệ.

Thích Ngưu Vân, tên tục họ Triệu, là người Nhạn Môn tỉnh Sơn Tây. Thuở nhỏ ông như là thiểu năng trí não, khi vào trường tư thục, cả ngày cứ ngây ngô đần độn, không biết được học những gì. Chỉ khi nhìn thấy các vị tăng ni, ông mới dường như có chút phản ứng, biết cách chắp tay và tỏ vẻ kính sợ. Có lẽ vì lý do đó mà cha mẹ đã gửi ông đến chùa Hoa Nghiêm ở Ngũ Đài Sơn xuất gia vào năm mười hai tuổi, bái pháp sư Tịnh Giác làm thầy.

Trong chùa, Ngưu Vân mỗi ngày phải chẻ củi, gánh nước, vì đầu não ông vẫn rất chậm chạp, nên ngay cả bài sáng tối cơ bản cũng không học nổi, vì điều này mà những tăng nhân khác thường hay chế giễu ông.

Ngày lại ngày cứ vậy mà trôi qua, chớp mắt đã qua hơn hai mươi năm. Năm đó Ngưu Vân ba mươi sáu tuổi, đột nhiên ông nói rằng: “Nghe nói trên Ngũ Đài Sơn thường hay có Văn Thù Bồ Tát hiển linh, con bây giờ muốn đi chân trần đến bái kiến Bồ Tát, thỉnh cầu Bồ Tát cho con trở nên thông minh hơn một chút, có thể học thông kinh văn.”

Khi đó trời đất lạnh giá, lại còn có tuyết rơi, nhưng Ngưu Vân không những không lùi bước, mà còn hướng thẳng đỉnh núi mà leo lên. Đến đỉnh Đông Đài, ông nhìn thấy một cụ già ngồi bên đống lửa sưởi ấm. Ngưu Vân hỏi ông lão từ đâu đến, ông lão nói, “Từ thung lũng đến.” Ngưu Vân lại hỏi vì sao không thấy có dấu chân in trên tuyết. Ông lão đáp rằng ông đã đến đây từ trước khi có tuyết rơi.

Không đợi Ngưu Vân nói tiếp, ông lão hỏi: “Rốt cuộc con có tâm nguyện gì? Vì cớ gì dưới trời tuyết lại đi chân trần đến?” Ngưu Vân đáp lời: “Con tuy là một tăng nhân, nhưng luôn tự thấy chán ghét bản thân đần độn, không thể niệm thông kinh Pháp, vì vậy con muốn đến tìm Văn Thù Bồ Tát, thỉnh cầu khai trí cho con”.

Ông lão rất ngạc nhiên, lại hỏi: “Nếu ở đây con không tìm thấy Bồ Tát, thì con còn định đến đâu tìm?”, “Đến Bắc Đài Sơn”. Ông lão nói lát nữa ta cũng cần đến Bắc Đài Sơn. Ngưu Vân đi trước một vòng xung quanh đỉnh Đông Đài, nhưng không phát hiện tung tích của Văn Thù Bồ Tát, vậy nên ông cáo biệt ông lão để đến Bắc Đài.

Gần đến lúc mặt trời lặn, Ngưu Vân mới đến được Bắc Đài, thế mà lại gặp lại ông lão ngồi bên đống lửa nọ, vô cùng ngạc nhiên, liền hỏi ông vì sao có thể đến trước mình. Ông lão đáp là vì Ngưu Vân không biết đường tắt, vậy nên mới đến trễ. Trong lòng Ngưu Vân nghĩ thầm, chẳng lẽ ông lão chính là Văn Thù Bồ Tát? Vì vậy, ông liền quỳ xuống hành lễ. Ông lão ban đầu không thừa nhận, nhưng Ngưu Vân vẫn kiên trì quỳ giữ lễ.

Hồi lâu, ông lão nói: “Thôi được rồi, đợi ta nhập định xem kiếp trước ngươi đã tạo nghiệp gì, mà dẫn đến kiếp này đần độn”. Ông lão nhắm mắt nhập định, qua một lúc, ông mở mắt nói: “Kiếp trước con là một con trâu, vì đã từng vận chuyển kinh Phật, nên kiếp này được chuyển sinh làm tăng, nhưng đầu não vẫn không linh hoạt. Con hãy đi tìm một cái cuốc đến đây, để ta móc bỏ phần thịt bị ứ tắc trong tâm, đầu não của con sẽ trở nên sáng suốt hơn”.

Rất nhanh, Ngưu Vân liền mang đến một cái cuốc. Ông lão bảo ông nhắm chặt mắt lại, đợi khi nào bảo mở mắt thì mới được mở. Ngưu Vân nhắm chặt mắt, dường như cảm thấy trong lồng ngực có động tĩnh, nhưng lại không hề cảm thấy đau đớn. Một lát sau, ông cảm thấy trong tim đột nhiên nhẹ nhàng thoải mái, đầu óc cũng trở nên minh mẫn. Có thể nhận thấy, việc Văn Thù Bồ Tát vận dụng thần thông để giúp Ngưu Vân, là vì thấy được cái tâm một lòng hướng Phật của ông.

Khi Ngưu Vân mở to hai mắt, thì thấy ông lão đã hiện thành hình tượng Văn Thù Bồ Tát, nói với ông, từ nay về sau việc đọc niệm kinh Pháp chỉ cần xem qua liền nhớ, hơn nữa ông và Hoa Nghiêm tự có mối nhân duyên lớn, không nên rời đi. Ngưu Vân mừng rỡ rơi lệ, quỳ phục xuống cúi đầu bái tạ, lúc ngẩng đầu lên đã không còn thấy tung tích của Bồ Tát đâu nữa.

Quả nhiên, từ đó về sau Ngưu Vân dường như trở thành một con người khác, trí huệ siêu phàm, tất cả kinh văn chỉ cần xem qua liền có thể thuộc làu. Vào tháng 5 năm thứ hai, khi đang đi quanh tháp Dục Vương đọc kinh, đang niệm đang niệm, ông đột nhiên thấy một luồng ánh sáng vàng từ phía bắc Ngũ Đài Sơn chiếu thẳng đến chân tháp, rất lâu mà không tản mất, trong ánh kim quang xuất hiện một tòa bảo tháp, trong mây có đề mấy chữ, Ngưu Vân cư trú nơi đây. Sau khi luồng ánh sáng vàng tản mất, Ngưu Vân chiểu theo những gì đã thấy trong luồng sáng ấy, xây dựng một tòa bảo tháp, tại nơi đây truyền thụ Phật Pháp, cuối cùng trở thành một vị cao tăng, tọa hóa vào năm Khai Nguyên thứ hai mươi ba.

Tài liệu tham khảo: “Tống Cao Tăng Truyện”

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/268411

The post Tăng nhân Ngưu Vân triều Đường gặp Văn Thù Bồ Tát tại Ngũ Đài Sơn được khai mở trí huệ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Đinh Thiện Uyên bạch nhật phi thănghttps://chanhkien.org/2023/07/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-dinh-thien-uyen-bach-nhat-phi-thang.htmlMon, 17 Jul 2023 23:45:03 +0000https://chanhkien.org/?p=30850Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Đinh Thiện Uyên, tự “Trạm Nhiên”, là người Viên Khúc (nay thuộc huyện Viên Khúc, thành phố Vận Thành, tỉnh Sơn Tây). Ông từ thời thơ ấu đã rất thông minh, thông hiểu học vấn kinh điển Nho gia, rất được người dân trong làng khen ngợi. Năm 16 tuổi, […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Đinh Thiện Uyên bạch nhật phi thăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Đinh Thiện Uyên, tự “Trạm Nhiên”, là người Viên Khúc (nay thuộc huyện Viên Khúc, thành phố Vận Thành, tỉnh Sơn Tây). Ông từ thời thơ ấu đã rất thông minh, thông hiểu học vấn kinh điển Nho gia, rất được người dân trong làng khen ngợi. Năm 16 tuổi, Đinh Thiện Uyên tuân lệnh cha xuất gia làm đạo sĩ, tu hành tại đạo quán Hồng Khánh. Thuận theo việc tu hành khắc khổ trong Đạo giáo, tiếp nhận sự truyền thụ các thuật pháp, càng ngày ông càng có nhiều năng lực siêu thường, cứu tế dân sinh, siêu độ người mất, trừng trị quỷ quái hại dân, sự linh nghiệm khá cao, uy vọng ngày càng cao, được triều đình ban thưởng danh hiệu tôn kính “Tử Y Thông Nguyên”.

Thời điểm đó sự thống trị của triều đại nhà Kim đã đến thời kỳ cuối, đế quốc Mông Cổ phía Bắc ngày càng lớn mạnh, triều Kim buộc phải dời đô đến Biện Lương (Khai Phong), triều chính hỗn loạn, dân chúng khởi nghĩa không ngừng. Ngoại trừ khu vực trung tâm do nhà Kim thống trị, các nơi đều xảy ra chiến tranh loạn lạc. Vào thời Kim Tuyên Tông cuối năm Trinh Hữu (năm 1217), lúc đó Kỷ Bang Thụy trấn thủ thành Cát Bá (tên một thành cổ, cách 20 dặm về phía Đông Bắc của huyện Lâm Dĩnh, tỉnh Hà Nam ngày nay), Kỷ Bang Thụy là người cực kỳ tàn nhẫn, thích giết người rồi phanh thây. Đối diện với loạn thế như vậy, Đinh Thiện Uyên không những không tránh trong đạo quán, mà còn bước ra cứu dân, dùng các loại biện pháp mà khuyến thiện Kỷ Bang Thụy và những người cầm quyền, khiến bọn họ không được giết hại dân chúng. Thông qua sự khuyến thiện của ông, rất nhiều dân chúng đã được cứu sống.

Một ngày nọ năm ấy Đinh Thiện Uyên 58 tuổi, ông cho gọi tất cả đồ đệ đến, hát cho họ nghe:

“Năm mươi tám năm ở chốn nhân gian

Lập giáo thành công không dễ dàng

Quay về nơi cũ nhẹ nhàng con đường lên Tiên

Bên ngoài chín tầng mây yết kiến thiên nhan”

Hát xong, trước ánh mắt chăm chú của chúng đệ tử ông cất người bay lên không trung, biến mất vào chân trời.

Trong các ghi chép, Đinh Thiện Uyên đối diện với loạn thế không hề trốn tránh, mà còn tích cực khuyến thiện cứu người, lưu lại bằng chứng cứu người của người tu luyện. Hiện nay cũng là đang trong loạn thế như vậy, mà loạn thế hiện nay lại càng đáng sợ hơn. Tội ác nhiều năm bức hại dân chúng của Trung Cộng đang bị Thần thanh lý, chính là dùng phương thức ôn dịch cùng các loại thiên tai nhân họa để tiêu diệt Trung Cộng, cũng chính là “Trời muốn diệt Trung Cộng”. Tất cả thành viên đảng, đoàn, đội của Trung Cộng nếu không tỏ rõ thái độ thoái đảng, thoái đoàn, thoái đội, thì tương lai sẽ trở thành vật tuẫn táng của Trung Cộng, cùng Trung Cộng bị trời cao thanh trừ.

Trong tình huống thế này, rất nhiều người tu luyện đã bước ra khuyên quảng đại dân chúng thoái xuất khỏi tất cả tổ chức của Trung Cộng, từ đó vào lúc Trung Cộng bị tiêu diệt triệt để trong tương lai có thể bảo bình an, không đến mức bị những tội nghiệp này liên lụy. Những người tu luyện này và vị Đinh Thiện Uyên trong lịch sử đều giống nhau, cùng đang làm việc cứu người, hơn nữa lại đang làm sự việc lớn hơn. Đinh Thiện Uyên chỉ đối diện với một số ít kẻ đương quyền mà khuyến thiện, từ đó bảo hộ bách tính; người tu luyện ngày nay lại chấp nhận mạo hiểm có thể bị Trung Cộng bức hại, hướng đến toàn thể dân chúng mà khuyến thiện, khuyên mọi người thoái xuất khỏi các tổ chức của Trung Cộng để bảo bình an, độ khó so với những gì Đinh Thiện Uyên năm đó phải đối diện có thể nói là lớn hơn rất nhiều, quả vị đạt được trong tương lai cũng sẽ cao hơn.

Nguồn tư liệu: “Sơn Tây thông chí”

Nguyên văn:

Đinh Thiện Uyên tự Trạm Nhiên, Viên Khúc nhân. Ấu thông mẫn, thông kinh thuật, vi hương lư sở xưng. Niên thập lục, phụ mệnh vi đạo sĩ, cư Hồng Khánh quán. Đức vọng long trọng, triều đình tứ dĩ Tử Y Thông Nguyên chi hiệu. Tầm thụ pháp lục, tế sinh độ tử, a cấm lệ quỷ hữu hiển ứng. Trinh Hựu mạt, Hà đông binh loạn, Tuyên Tông thời Kỷ Bang Thụy trấn Cát Bá thành tàn nhẫn hiếu sát. Thiên Uyên phúng dụ, toàn hoạt giả thậm chúng. Niên ngũ thập bát nhất nhật thăng khởi nhi tọa, chiêu kì đồ ca dĩ quyết viết:

“Ngũ thập bát tải ứng nhân gian,

Lập giáo thành công bất đẳng nhàn

Quy khứ lai hề tiên lộ tiện

Cửu tiêu vân ngoại yết thiên nhan”

Ca cánh toại lãng lãng phi thăng.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/281900

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Đinh Thiện Uyên bạch nhật phi thăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Những giấc mơ và cuộc gặp kỳ lạ của Hầu Nghi Thủyhttps://chanhkien.org/2023/07/nhung-giac-mo-va-cuoc-gap-ky-la-cua-hau-nghi-thuy.htmlWed, 12 Jul 2023 02:35:17 +0000https://chanhkien.org/?p=30804Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Thời cận đại, ở Vô Tích, tỉnh Giang Tô, có vị văn nhân là tiên sinh Hầu Nghi Thủy, vốn tên là Hầu Nghị, tự “Tuyết Nông”, hiệu “Nghi Thủy”. Người đời sau thường gọi ông bằng tên hiệu, vậy nên tên gốc của ông ít được người ta nhắc […]

The post Những giấc mơ và cuộc gặp kỳ lạ của Hầu Nghi Thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Thời cận đại, ở Vô Tích, tỉnh Giang Tô, có vị văn nhân là tiên sinh Hầu Nghi Thủy, vốn tên là Hầu Nghị, tự “Tuyết Nông”, hiệu “Nghi Thủy”. Người đời sau thường gọi ông bằng tên hiệu, vậy nên tên gốc của ông ít được người ta nhắc đến. Ông là bạn tốt của tiên sinh Quách Trạch Vân trong văn đàn. Quách Trạch Vân kết giao rất nhiều bạn bè thuộc giới chính trị, văn hóa, hơn nữa ông cũng hữu ý thu thập các câu chuyện kỳ lạ đó đây. Do đó trong xã hội thượng lưu có rất nhiều người đã kể cho Quách Trạch Vân các sự kiện thần kỳ mà bản thân trải qua hoặc biết đến. Hầu Nghi Thủy cũng không ngoại lệ, ông cũng đã kể cho Quách Trạch Vân về giấc mộng và cuộc gặp gỡ kỳ lạ của chính mình.

Giấc mộng kỳ lạ

Hầu Nghi Thủy từng nói với Quách Trạch Vân: “Tôi ở tiền kiếp chính là tăng nhân”. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì ông nhiều lần thấy rõ ràng trong mộng rằng tại một ngôi chùa nọ ông là phương trượng dẫn dắt chúng tăng tại đó tu hành. Từ đó ông ngộ ra rằng những gì thấy trong mộng cũng chính là kiếp trước của mình. Có lần ông gặp một giấc mộng lạ cực kỳ đặc biệt. Vào một tối nọ, trong mộng ông thấy có người phát truyền đơn, nội dung viết có một vị Thánh tăng đã tu đắc quả vị La Hán giảng kinh tại địa ngục, lại có kèm theo một tấm vé đến nghe. Ông nhận lấy xem, trên tấm vé này có vẽ dáng vẻ của Thánh tăng, Thánh tăng là một vị hòa thượng râu dài.

Ông ở trong mộng mang theo vé đi cùng mọi người, đến trước một cánh cổng, cổng rất hẹp. Cũng giống như trong hội trường, ở bên ngoài cửa cũng có sổ ký tên, những người đến đều phải ký tên, có hai loại bút đỏ và đen. Người đến phần lớn hình dạng kỳ quái bất nhất, có thể không phải sinh mệnh trên nhân gian. Ông thấy người khác đều dùng bút đen ký tên, nhưng bản thân thì lại muốn dùng bút đỏ ký, có người nói: “Dùng bút đen như mọi người là được rồi, hà tất phải làm việc khác người chứ”. Một người khác nói: “Vị Thánh tăng giảng kinh lần này trước đây từng là Sư phụ của ông ấy, nên ông ta có thể dùng bút màu đỏ”. Thế là ông liền dùng bút màu đỏ để ký tên.

Ký tên xong ông bước vào bên trong, bên trong là một con đường giống như một cái giếng thông đi xuống, “tà lưu nhi hạ” theo dốc nghiêng trượt xuống, trên vách tường của thông đạo có chạm khắc kinh Phật do Vương Hy Chi sao chép. Đi hết đường thông, đến một nơi, vị Thánh tăng đang ngồi trên một đài cao thần kỳ giảng kinh, đài này thật sự rất cao, vượt khỏi sự tưởng tượng của con người, người nghe bên dưới dù có cố gắng hết sức ngước nhìn lên vẫn không nhìn thấy được đỉnh của đài, chỉ có thể nghe được tiếng giảng kinh hùng hồn từ trên cao truyền xuống. Hai bên đài có rất nhiều giá trụ cao, có các vị tăng nhân áo tím đứng trên những giá trụ cao này.

Hầu Nghi Thủy quỵ tọa bên dưới một giá trụ cao nghe Thánh tăng giảng, đột nhiên bên tai có người nói với ông rằng: “Đến giờ vẫn chưa ngộ chăng?” Lúc này lại có một vị tăng nhân áo tím thay Thánh tăng truyền lời với ông: “Mệnh của con nhiều đời tu hành không dễ, hãy mau tỉnh ngộ, chớ quên mình vốn từ đâu đến”. Hầu Nghi Thủy thầm đáp trong tâm: “Sớm đã tỉnh ngộ, tiêu hết nợ trần, phát thề quy y”. Sau khi hồi đáp, liền có người nói ông nhanh chóng quay lại, đi theo đường cũ trở về, vừa đi qua khỏi cánh cửa hẹp ban đầu, liền tỉnh giấc. Giấc mộng này cực kỳ rõ ràng, rất lâu sau đó, hồi tưởng lại những cảnh tượng trong mộng vậy mà vẫn như rõ mồn một trước mắt.

Giấc mơ kỳ lạ của Hầu Nghi Thủy thật ra chính là trải nghiệm chân thực của việc nguyên thần ly thể đến không gian khác, từ trải nghiệm này cho thấy Hầu Nghi Thủy không chỉ là người tu hành qua nhiều đời, hơn nữa còn chứng thực nhục thể chỉ là cái thân xác bên ngoài mà thôi, bản chất của sinh mệnh con người là nguyên thần, nguyên thần sẽ chuyển thế luân hồi. Những không gian khác được nhắc đến trong truyền thuyết như địa ngục đều có tồn tại. Nếu muốn thoát khỏi luân hồi, chỉ có nỗ lực tu trì thành Thần đắc chính quả. Thuyết vô thần là tà thuyết hoàn toàn sai lầm khiến người ta lạc lối.

Cuộc hội ngộ kỳ lạ

Mùa xuân năm 1917 (năm Đinh Tị), Hầu Nghi Thủy trú tạm ở Thượng Hải, ở nhờ nhà Lữ Mỗ trên đường Dân Hậu Lý. Dân Hậu Lý là tên một địa khu cũ ở Thượng Hải, hiện tại là khu vực trung tâm của Tĩnh An Gia Lý. Ngày nọ có vị tăng nhân vân du đến nói rằng năm nay, cũng chính là năm 1917, Thiên Tân sẽ có đại tai nạn, kiếp nạn rất lớn, ông ta sẽ ở Phổ Đà Sơn lập đàn tế, cũng chính là làm Pháp sự tận lực tiêu giảm tai kiếp. Hiện giờ đến đây hóa duyên để kết thiện duyên, bất luận là giàu hay nghèo cũng không lấy tiền, chỉ cần bố thí một chén cơm trắng là được.

Vị tăng nhân này chỉ cần nhìn thấy người ta liền có thể nói chuẩn xác tuổi của đối phương, khiến mọi người khá kinh ngạc. Em dâu của Lữ Mỗ mắc một chứng bệnh, thường cảm thấy toàn thân âm lạnh, bệnh này chưa từng nói cho người ngoài, vậy mà vị tăng nhân này có thể nói ra một cách chuẩn xác. Lữ Mỗ nghe xong thì biết rằng đây là một vị cao tăng, liền xin ông trị bệnh cho em dâu. Tăng nhân nói: “Loại bệnh do ác nghiệt tiền kiếp này, không có thuốc nào trị được, phải niệm kinh Phật đạt đủ số lần nhất định mới có thể trị hết”, rồi ông nói yêu cầu khi niệm kinh. Lúc đó em dâu của Lữ Mỗ cũng ở đó, nghe xong rất cảm kích, biểu lộ ý muốn được quyên tiền góp của. Cô có tiền riêng mười đồng Đại dương, muốn đem quyên góp hết cả, tăng nhân nói chỉ cần sáu đồng là đủ rồi. Lúc đi lấy tiền, cô em dâu phát hiện tiền riêng của mình đã bị chồng lấy mất bốn đồng, chỉ còn lại vừa đúng sáu đồng, càng thêm bội phục vị tăng nhân này. Cô lấy tiền vừa định đưa cho vị tăng nhân, bất ngờ tăng nhân nói: “Bần tăng trước giờ chưa thu tiền, chỉ cần nữ thí chủ dùng sáu đồng bạc này mua nhang đèn, thắp hương kính Phật là được rồi”.

Tăng nhân còn nói cho em dâu của Lữ Mỗ một dự ngôn: “Cô lúc này đã mang thai, tương lai sẽ sinh hạ một bé gái, nhưng đáng tiếc thay đứa bé vừa đầy tháng thì sẽ chết yểu, hai năm sau sẽ lại mang thai một bé trai”. Hầu Nghi Thủy thường đi Thượng Hải, sau này ông mới hiểu rằng: Em dâu người họ Lữ vì thành kính niệm kinh, sau khi niệm đủ số lần thì bệnh liền khỏi, còn những dự ngôn của tăng nhân về người con gái của cô ta đều trở thành sự thật.

Hầu Nghi Thủy lúc ấy cũng hỏi vị tăng nhân về tín ngưỡng Phật giáo của mình, tăng nhân nói Hầu Nghi Thủy kiếp trước cũng là một tăng nhân, điều này tương đồng với những cảnh tượng tiền kiếp ông thường thấy trong giấc mộng, cũng dự ngôn thêm rằng năm nay ông sẽ có thêm đứa con trai, sau này điều này cũng đã ứng nghiệm. Hầu Nghi Thủy hỏi ông ấy: “Ông có phải đã tu đắc quả vị La Hán?” Tăng nhân chỉ đáp rằng: “Chỉ là biết một chút thuật xem tướng đơn giản mà thôi”. Hầu Nghi Thủy lại hỏi: “Tôi chuẩn bị sau khi 50 tuổi sẽ xuất gia có được hay không?” Tăng nhân hồi đáp: “Hà tất xuất gia?” (Tăng nhân tu tại gia cũng có thể chứng đắc quả vị), sau đó liền rời đi.

Tăng nhân vừa rời đi, một cô gái vốn là họ hàng bà con của Lữ Mỗ đến thăm hỏi, mọi người đem câu chuyện kỳ lạ này kể cho cô. Cô gái này nhà ở Hồng Khẩu, cách đó vài dặm, đi đi về về cũng mất một đoạn thời gian. Cô gái sau khi trở về nhà, gia đình cô này nói với Lữ Mỗ rằng: Ngày hôm ấy khi cô gái vừa ra khỏi nhà để đến Dân Hậu Lý thăm người thân, có một vị tăng nhân đi vân du từ xa ghé đến, cũng nói về việc muốn làm pháp sự, và cũng chỉ xin một chén cơm, tướng mạo cũng tương đồng, tính toán lại thời gian, thì thấy vị tăng nhân này đã đồng thời xuất hiện tại nhà Lữ Mỗ và nhà họ hàng của ông.

Vài ngày sau, một người bạn của Lữ Mỗ từ Trấn Giang đến thăm có kể rằng mấy ngày trước đã gặp qua một sự việc kỳ lạ, cũng chính là gặp vị tăng nhân vân du từ xa đến nói muốn làm pháp sự, không cần tiền chỉ cần một chén cơm. Lúc đó có vị bác sĩ tại đó cho rằng tăng nhân nói thuyết xằng bậy, nào ngờ tăng nhân này đã nói ra một số chuyện không ai biết của vị bác sĩ, vị bác sĩ sau đó cũng không dám ngăn trở nữa. Tính toán lại ngày tháng và thời gian, mới thấy vị tăng nhân đã cùng một ngày đã đồng thời xuất hiện tại ít nhất là ba nơi: Dân Hậu Lý, Hồng Khẩu, Trấn Giang. Đến lúc này mọi người mới ngộ ra rằng: Vị tăng này nhất định là một vị có thần thông, thấu tỏ quá khứ tương lai, lại còn là vị cao nhân thần tăng có thuật phân thân.

Ghi chép của tiên sinh Quách Trạch Vân đến đây là hết, vậy vào năm 1917 Thiên Tân rốt cuộc có xảy ra trận nạn lụt lớn không? Kiểm tra lại các tài liệu, năm đó đúng là đã xảy ra một trận lũ lớn. Vào đầu năm 1917, vùng Hoa Bắc đầu tiên xuất hiện tình trạng hạn hán cực lớn. Nhưng đến tiết tháng 7, do hai trận bão lớn ở vùng duyên hải Đông Nam di chuyển lên phía Bắc, khiến lượng nước giáng xuống khu vực Hoa Bắc tăng nhanh. Vào trung tuần tháng 7, sau trận mưa như trút nước lại xuất hiện trận lũ quét bất ngờ trên quy mô lớn, các con sông Triều Bạch, sông Vĩnh Định, sông Bắc Vận liên tục bị vỡ đê. Nước lũ từ sông Vĩnh Định hợp chung với sông Hải Hà, lũ lớn đã tập trung ở các nơi của Thiên Tân, trong thời gian dài nước không thể rút, khiến dân chúng chịu nhận tai nạn cực lớn, khiến cho Hoa Bắc lần này trở thành địa phương chịu thiệt hại thiên tai lũ lụt nghiêm trọng. Vào tháng 8, đúng là họa vô đơn chí khi xuất hiện thêm nạn sóng thần lớn, đến tận tháng 11 nước lũ mới từ từ rút đi, nhưng việc cứu chữa sau tai nạn vẫn tiếp tục kéo dài đến nửa đầu năm 1918.

Cũng may là cứu nạn kịp thời, tổng thống đương thời là Mã Quốc Chương cũng vô cùng xem trọng tình hình thiên tai, số người tử vong không nhiều. Cộng thêm cũng đang là thời điểm đại chiến thế giới lần thứ nhất, châu Âu thiếu nhiều lao động, rất nhiều thanh niên trai tráng sau thiên tai đến châu Âu làm lao động, kiếm tiền từ người phương Tây. Có thể đằng sau những may mắn này thật sự có cao nhân Phật môn từ bi thi pháp tiêu giảm trừ tai nạn.

Cuộc gặp kỳ lạ của Hầu Nghi Thủy chứng minh thần thông và từ bi của người tu luyện là sự tồn tại chân thực. Tu luyện là vĩ đại mà chân thực. Thần tăng từ xa đến đã nói câu: “Tăng nhân tu tại gia cũng có thể chứng đắc quả vị” quả thật ý nghĩa thâm sâu, tu luyện không nhất định phải xuất gia. Pháp Luân Công hồng truyền toàn thế giới ngày nay chính là công pháp chính truyền của Phật môn được truyền ra dưới hình thức khí công, là Phật Pháp chân chính, hơn nữa cũng là một loại pháp môn tu luyện Phật gia không cần xuất gia mà vẫn có thể giúp người tu luyện tại gia tu đắc chính quả. Bên cạnh đó, Pháp Luân Công dùng ngôn ngữ giản đơn dễ hiểu trực tiếp giảng ra luận thuật Phật lý thâm ảo một cách thông thấu minh bạch, vô cùng thích hợp với người hiện đại muốn tu hành Phật Pháp. Mong quảng đại những người hữu duyên ngàn vạn lần đừng bỏ lỡ cơ duyên đắc Pháp.

Nguồn tư liệu: Quách Trạch Vân “Động Linh Tiểu Chí Quyển 2 Hầu Nghị Mộng, du tăng”

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/265789

The post Những giấc mơ và cuộc gặp kỳ lạ của Hầu Nghi Thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Cậu bé chăn cừu vì sợ hãi mà lỡ mất cơ duyên, Đạo nhân độn thổ rời đihttps://chanhkien.org/2023/06/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-cau-be-chan-cuu-vi-so-hai-ma-lo-mat-co-duyen-dao-nhan-don-tho-roi-di.htmlFri, 02 Jun 2023 02:37:23 +0000https://chanhkien.org/?p=30316Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Thời nhà Minh, huyện Hải Diêm tỉnh Chiết Giang, có vị Chúc chủ sự, “chủ sự” là tên một chức quan thời đó, một chức quan nhỏ chạy việc trong chế độ quan phủ bấy giờ. Vị Chúc chủ sự này có nuôi một cậu bé chăn cừu, khoảng hơn […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Cậu bé chăn cừu vì sợ hãi mà lỡ mất cơ duyên, Đạo nhân độn thổ rời đi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Thời nhà Minh, huyện Hải Diêm tỉnh Chiết Giang, có vị Chúc chủ sự, “chủ sự” là tên một chức quan thời đó, một chức quan nhỏ chạy việc trong chế độ quan phủ bấy giờ. Vị Chúc chủ sự này có nuôi một cậu bé chăn cừu, khoảng hơn mười tuổi, đúng đang tuổi ăn tuổi lớn, sức ăn rất khỏe.

Một ngày nọ, cậu bé dắt cừu trở về, nôn nóng được ăn cơm. Không ngờ người phụ nữ nấu cơm trong nhà bếp lại không cho cậu ăn, cũng không biết đây chỉ là đùa giỡn với cậu bé hay ác ý chọc ghẹo. Cậu bé chăn cừu thất vọng rời đi, một mình trốn ngoài đồng tủi thân ngồi khóc. Lúc đó có một vị Đạo nhân đi ngang qua, thấy cậu bé ngồi khóc dáng vẻ rất đáng thương, liền hỏi: “Vì sao con khóc?” Cậu bé lau nước mắt kể lại cho vị Đạo nhân nguyên cớ. Đạo nhân nghe xong, từ trong ngực áo lấy ra một viên đan dược màu đen đưa cho cậu bé, viên đan dược chỉ lớn cỡ hạt nhãn. Đạo nhân nói: “Con hãy nuốt viên đan dược này, nhớ kỹ không được nhai nát, con sẽ không bị đói nữa”. Cậu bé trong tình trạng đói lả, liền nhận ngay lấy viên đan dược nuốt xuống, đột nhiên trong bụng liền cảm thấy no. Đạo nhân liền quay người rời đi, trước khi đi, vị ấy nói với cậu bé: “Vô ngữ nhân dã”, ý tứ là tuyệt đối không được nói chuyện này với người khác.

Từ đó về sau, cậu bé chăn cừu này không còn cảm thấy đói nữa, tận năm, sáu ngày sau cũng không cần ăn gì. Người phụ nữ làm bếp cảm thấy kỳ lạ, hoài nghi cậu bé này lén trộm đồ ăn, liền tố cáo với Chúc chủ sự. Chúc chủ sự gọi cậu bé chăn cừu đến hỏi, đang chuẩn bị đánh cậu này, cậu bé trong lúc sợ hãi quá, liền đem tất cả sự tình gặp vị Đạo nhân nọ kể hết ra. Chúc chủ sự nghe xong, liền biết cậu bé chăn cừu đã gặp được Tiên nhân, ông sắp xếp một cậu bé khác từ ngày mai cùng cậu bé này đi chăn cừu, nói: “Nếu lại gặp vị Đạo nhân này, các ngươi một người ôm đạo bào giữ ông ấy lại, một người nhanh chóng chạy về bẩm báo ta”.

Ngày thứ hai, hai cậu bé theo thời gian bình thường thả cừu ra đồng, vị Đạo nhân ấy thật sự lại xuất hiện một lần nữa, lúc đó, cậu bé kia thật sự rất nghe lời ông chủ, liền nhanh chóng chạy về nhà bẩm báo. Vị Đạo nhân tiếc nuối nói với cậu bé chăn cừu này: “Ngươi vì sao lại tiết lộ cơ mật này với người khác chứ?” Cậu bé này liền giải thích: “Con sợ ông chủ đánh”. Vị Đạo nhân dùng một tay nâng cằm cậu bé này lên, cánh tay còn lại vỗ một cái lên đỉnh đầu cậu bé, miệng cậu bé bất giác mở ra, viên hắc đan mà hôm đó bản thân đã nuốt vào, liền từ cổ họng mà vọt bay ra, Đạo nhân khua tay đón lấy viên đan dược, cất lại vào trong ngực áo. Cậu bé cật lực nắm giữ Đạo nhân, không cho ông ấy đi, hỏi: “Viên hắc đan mà ông đã cho con ăn, hiện tại lại lấy đi mất này thực ra là gì thế?” Đạo nhân đáp: “Ngươi đã từng nghe trên thiên giới có các loại quả tiên như giao lê, táo lửa chứ? Viên hắc dược này chính là loại táo lửa đó”.

Lúc này, cậu bé còn lại đã dẫn Chúc chủ sự đuổi đến nơi, mắt thấy chỉ còn cách cả trăm bước là đến nơi. Đúng thời khắc này Chúc chủ sự nhìn thấy một màn thần tích: Hai bàn chân của Đạo nhân bắt đầu từ từ lún nhập vào mặt đất bên dưới, Chúc chủ sự liền chạy nhanh hơn, Đạo nhân tiếp tục ẩn mình vào mặt đất, trong chốc lát chỉ còn thấy phần đầu của vị Đạo nhân này, cuối cùng, đến phần đầu cũng không còn nhìn thấy nữa. Chúc chủ sự đuổi đến kịp, xem xét kĩ lưỡng, nhưng mặt đất hoàn toàn không có chút gì dị thường, không còn lại khe hở hay cửa động nào, ông ta nhìn quanh bốn hướng, đột nhiên nhìn thấy vị Đạo nhân xuất hiện tại bờ bên kia của con sông, chắp tay hành lễ cúi chào mấy người bọn họ xong liền biến mất. Mọi người biết rằng vị Đạo nhân dùng pháp thuật độn thổ rời đi, đúng là giống như vị Thổ Hành Tôn trong Phong Thần Diễn Nghĩa. Kể từ đó về sau, cậu bé chăn cừu này lại phải ăn cơm như mọi người.

Lúc đó, Tô Châu có vị Tô Bàn, người huyện Đại, đúng lúc đang làm gia sư cho gia đình Chúc chủ sự, hiểu câu chuyện này khá tường tận. Sau đó câu chuyện này được một vị văn nhân ở Tô Châu tên là Lữ Cẩn biết đến, liền ghi chép lại, được viết trong Cảnh Tị Biên. Trong quá trình ghi chép, từ việc cậu bé chăn cừu đắc được quả táo lửa mà không còn bị đói, sau đó vì sợ hãi bị trách phạt, một niệm sợ hãi, dẫn đến làm trái lại lời căn dặn của Đạo nhân, kết quả mất đi tiên duyên, táo lửa cũng bị lấy lại mất. Câu chuyện này để lại cho hậu thế, những người tu luyện một bài học: Phải trừ bỏ tâm sợ hãi, vĩnh viễn theo sát an bài của Sư phụ.

Nguồn tài liệu: Thư tịch thời nhà Minh Cảnh Tị Biên

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/282030

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Cậu bé chăn cừu vì sợ hãi mà lỡ mất cơ duyên, Đạo nhân độn thổ rời đi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bút ký tu luyện: Không nhặt của rơi và trạng thái của Thầnhttps://chanhkien.org/2023/05/but-ki-tu-luyen-khong-nhat-cua-roi-va-trang-thai-cua-than.htmlThu, 25 May 2023 02:39:14 +0000https://chanhkien.org/?p=30223Tác giả: Thiên Chân [ChanhKien.org] Không lâu trước đây, tôi đã giao lưu chia sẻ với hai bạn đồng tu, họ đề cập đến một bài chia sẻ của một đồng tu khác. Vì không nhớ chính xác tiêu đề, nên tôi không thể tìm đọc được. Qua lời kể ngắn gọn của họ, tôi […]

The post Bút ký tu luyện: Không nhặt của rơi và trạng thái của Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Chân

[ChanhKien.org]

Không lâu trước đây, tôi đã giao lưu chia sẻ với hai bạn đồng tu, họ đề cập đến một bài chia sẻ của một đồng tu khác. Vì không nhớ chính xác tiêu đề, nên tôi không thể tìm đọc được. Qua lời kể ngắn gọn của họ, tôi biết quan điểm của bài viết đó đại khái là: các đệ tử Đại Pháp không nên nhặt tiền của người khác, bởi vì đó là vị tư, Thần sẽ không nhặt tiền. Hai bạn đồng tu rất không đồng ý với quan điểm này, và chỉ ra rất rõ ràng: Điều này không phải là nói nhận thức của chúng tôi cao như nào, nhưng chúng tôi nghĩ rằng, làm một đệ tử Đại Pháp, nhặt được tiền không nhất định là vị tư.

Cả hai bạn đồng tu này đều đã từng nhặt được tiền. Một người nhặt được tiền bên bờ sông, vài tờ tiền bị gió thổi và cuốn theo đến nơi cô đang đứng. Nếu không nhặt, tiền sẽ bị cuốn bay xuống sông mất. Sau khi đợi hơn hai mươi phút và không thấy ai đến tìm, cố ấy không nghĩ nhiều, trực tiếp đưa tiền cho điểm tài liệu. Còn đồng tu kia sau khi nhặt được tiền, không thể tìm được chủ sở hữu của số tiền đó, trong đầu cô nghĩ: Tiền này là đến vì Pháp. Vì vậy, cô ấy đem số tiền đó đi mua nguyên liệu làm tài liệu giảng thanh chân tướng.

Vậy rốt cuộc thấy tiền rơi có nên nhặt tiền không? Có vẻ như đây là một câu hỏi rất đơn giản nhưng quan điểm của đồng tu lại có thể rất khác nhau. Xem ra vẫn phải từ Pháp để thảo luận vấn đề này, vì vấn đề này liên quan đến những thứ rộng lớn hơn. Trong bài viết này chúng ta có thể chia sẻ quan điểm của mình với các đồng tu.

Việc nhặt được tiền của người khác không nhất định là hành động vị tư, mà phụ thuộc vào tâm thái của người nhặt tiền lúc đó và cách mà họ sử dụng số tiền đó.

Văn hóa không nhặt đồ thất lạc trên đường đã tồn tại ở Trung Quốc cổ đại, thậm chí một số nơi ở các nước phương Tây có phong tục không đóng cửa vào ban đêm và không nhặt đồ thất lạc trên đường. Nếu mọi người đều như vậy thì không phải tốt quá rồi sao? Người mất đồ có thể tìm lại được đồ của mình vào ngày mai. Từ góc độ lớn hơn, điều đó cho thấy một xã hội chưa suy thoái đến mức quá thấp. Tuy nhiên, xã hội Trung Quốc đại lục ngày nay đã bị tà đảng Trung Cộng tàn phá đến thối nát, khác xa trạng thái của một xã hội bình thường rồi. Nhiều người chỉ vì tiền bạc mà làm bất cứ điều gì, huống hồ là nhặt đồ đánh rơi trên đường. Nếu bạn lấy tiền đó và chi tiêu thì có thể đang tạo nghiệp, vì tiền đó không thuộc về bạn. Đương nhiên cũng có thể là bằng cách này người bị mất đồ đó trả nghiệp cho người nhặt được tiền kia mà không biết, nếu bạn giao số tiền đó cho cảnh sát hoặc cho một người khác giữ tiền để chờ người mất đồ đến nhận lại, họ có thể biển thủ số tiền đó cho riêng mình, điều đó càng tạo nghiệp hơn.

Dựa trên thực trạng xã hội hiện nay, việc một người không nhặt đồ làm rơi trên đường là rất hiếm, tuy nhiên điều đó cũng chỉ là kiềm chế lòng tham của con người, giữ mình trong sạch, không vượt qua giới hạn của con người. Trái lại, dù là tìm hay không tìm được chủ nhân, thì việc chúng ta làm đều là phi thường, người thường không thể làm được. Nếu chúng ta tìm thấy người làm rơi đồ, không chỉ trả lại tài sản cho người đó, mà quan trọng hơn là chúng ta có thể nắm bắt cơ hội giảng chân tướng trực diện cứu người; còn khi chúng ta không tìm thấy người làm mất đồ, thì chúng ta sử dụng tiền đó để làm tài liệu giảng chân tướng, cũng là đang làm việc cứu người. Theo lý luận của con người ở đây, dùng hết số tiền nhặt được để làm việc tốt cho người khác đã là làm việc thiện, đáng quý hơn việc không nhặt tiền vì nghĩ cho bản thân mình. Mà chúng ta sử dụng nó để cứu độ chúng sinh, thì không những không xâm phạm đến trạng thái của xã hội loài người, mà còn là việc người bình thường không thể làm được, đó là việc đại thiện. Khi tiền của người làm mất kia được dùng vào việc thiện như vậy, thì anh ta sẽ nhờ đó mà được hưởng phúc phận, mà chính đồng tiền kia cũng sẽ có một nơi chốn tốt đẹp trong tương lai.

Như vậy có vẻ hơi quá chú trọng vào vấn đề cụ thể rồi. Thực tế vấn đề này liên quan đến chúng ta làm một đệ tử Đại Pháp không chỉ là không phá hủy lẽ thường của xã hội nhân loại mà còn là vấn đề nhận thức đúng về trạng thái của Thần. Chúng ta là những người tu luyện, là những sinh mệnh đặc biệt, khác với người thường và cũng khác với Thần Phật. Người thường không chỉ không có Thần tính, nếu không trở thành người tu luyện thì sẽ không thể trở thành Thần; còn Thần Phật thì không tu luyện ở nhân gian, đồng thời cứu độ chúng sinh. Chúng ta vừa phải phù hợp tối đa trạng thái của nhân loại và phải tu luyện thăng hoa theo tiêu chuẩn của Đại Pháp để bước đi trên con đường trở thành Thần; cần buông bỏ mọi chấp trước, tu tâm đoạn dục, nhưng đồng thời phải thực hiện các công việc cụ thể để cứu độ chúng sinh. Vì vậy, chúng ta không thể để bản thân lẫn lộn với người thường và cũng không thể biểu hiện trạng thái giống như Thần; không thể phá vỡ cái mê của nhân loại, nhưng đồng thời phải dùng chính niệm đối đãi tất cả.

Có một số đồng tu cho rằng Thần thấy tiền sẽ không nhặt vì Thần là vô vi thanh tịnh, không có tham vọng của con người và không bao giờ muốn lấy những thứ không thuộc về mình. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng cách nhìn này vẫn chưa đầy đủ, vì trạng thái của Thần không chỉ dừng lại ở đó. Chính Thần là từ bi, vô tư và có trí huệ to lớn, và sự vô tư của Thần không chỉ hiện diện trong việc không đòi hỏi những gì thuộc về chính mình, quan trọng hơn là, Thần, đặc biệt là các vị Chủ và Vương của các thế giới, đều suy nghĩ và bận tâm về các chúng sinh trong thế giới của mình. Trong trạng thái như này, Thần sẽ an bài mọi việc tốt nhất vì lợi ích của chúng sinh. Bây giờ chúng ta chính là vì chúng sinh mà nghĩ, vì vậy, chúng ta phải làm việc và nhìn nhận vấn đề từ một tầm nhìn cao hơn, chứ không chỉ hạn chế ở góc độ cá nhân.

Trên thực tế, nếu coi việc cứu độ chúng sinh là ưu tiên hàng đầu, thì không cần nghĩ xem Thần sẽ làm như thế nào, chúng ta sẽ có được trí huệ phù hợp từ Pháp, đối với bất kỳ vấn đề nào chúng ta cũng có cách nhìn đúng đắn, từ đó mà làm tốt hơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/61264

The post Bút ký tu luyện: Không nhặt của rơi và trạng thái của Thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bị vu oan mà không tranh biện, một nữ bác sĩ tài đức vẹn toànhttps://chanhkien.org/2023/03/bi-vu-oan-ma-khong-tranh-bien-mot-nu-bac-si-tai-duc-ven-toan.htmlMon, 06 Mar 2023 02:30:11 +0000https://chanhkien.org/?p=29744Tác giả: Thiện Lương [ChanhKien.org] Ở bên bờ biển Bột Hải Trung Quốc, tại vùng đất Tề Lỗ (nay thuộc Sơn Đông), có một vị nữ bác sĩ được mọi người tín nhiệm và kính trọng, cô ấy được gọi là Lý Cát (hóa danh), gọi cô ấy là Lý Cát bởi vì Trung Quốc […]

The post Bị vu oan mà không tranh biện, một nữ bác sĩ tài đức vẹn toàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Lương

[ChanhKien.org]

Ở bên bờ biển Bột Hải Trung Quốc, tại vùng đất Tề Lỗ (nay thuộc Sơn Đông), có một vị nữ bác sĩ được mọi người tín nhiệm và kính trọng, cô ấy được gọi là Lý Cát (hóa danh), gọi cô ấy là Lý Cát bởi vì Trung Quốc ngày nay đạo đức trượt dốc, người người vì tiền mà tranh đấu, không nhận người thân, xã hội là thùng thuốc nhuộm lớn, Lý Cát giống như một đóa hoa sen tinh khiết sinh ra trong bùn mà không dính bùn đất. Trong công việc thì cô ấy hết sức tận tình và có trách nhiệm, không nhận tiền bạc hay quà cáp, kiên trì nguyên tắc là làm một người tốt trong xã hội.

Cát từng là một cô bé yếu ớt bệnh tật, đến cả khi tắm cô cũng không thể nắm chặt bồn tắm, đi bộ thì từng bước từng bước rất mệt, rất chậm. Từ khi cô ấy tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thân thể cô ấy trở nên khỏe mạnh một cách rất nhanh chóng, giờ cô ấy đi bộ nhanh như bay, không giống cô bé ốm yếu trước đây nữa. Lý Cát đã tu luyện nhiều năm trong Đại Pháp, kỳ tích xuất hiện rất nhiều, tôi chỉ viết ra những câu chuyện nhỏ khiến cảm động lòng người mà cô ấy kể hơn 10 năm trước.

1. Xem nhẹ tiền tài, dìu già dắt trẻ

Ở nhà mẹ đẻ của Cát có một anh trai không may mất sớm, để lại chị dâu với hai con nhỏ. Cát bàn bạc với chị dâu, để bố mẹ đến nhà chị dâu ở để chăm sóc hai cháu nhỏ, đến khi cháu lớn thì ông bà cũng không cần phải về quê nữa. Lúc đó chị dâu đồng ý, nhưng khi hai cháu vừa mới lớn thì chị dâu đã trở mặt đuổi ông bà đi. Cát về quê xem thì nhà đã cũ lắm rồi, không có cách nào ổn định cuộc sống cho bố mẹ được, Cát tự mình bỏ ra hơn hai mươi vạn tệ xây một căn hộ cho ông bà, căn hộ khá đẹp nằm ở phía Nam giáp đường lớn nên có thể mở một cổng lớn, điều này khiến cho chị dâu đỏ con mắt, vì vậy cả hai mẹ con chị dâu cùng về quê muốn lấy nhà của ông bà, bởi vì là cháu đích tôn nên ông bà đã đồng ý, nhưng giấy tờ thì ở chỗ Cát, hai mẹ con chị dâu lại tìm Cát để đòi. Cát nói ông bà còn sống thì ai cũng không được lấy đi, đợi ông bà qua đời rồi thì để lại nhà cho cháu. Người trong gia tộc khi biết chuyện cũng căm phẫn bất bình thay cho Cát, Cát chỉ mỉm cười bỏ qua.

Ở bên nhà chồng của Cát cũng có một anh trai qua đời để lại hai con nhỏ, lúc đó Cát đang làm chủ nhiệm khoa phụ của một bệnh viện hạng ba, cho nên thu nhập cũng ổn định, nhưng do làm nhà cho bố mẹ và chu cấp học hành cho hai cháu bên nhà chồng nên Cát cũng không còn lại bao nhiêu tiền để tiêu nữa, đồ của cô ấy mặc rất cũ, chồng của Cát cũng là một công chức, cũng mặc những bộ đồ cũ để đi làm và chưa từng thấy anh ấy mặc đồ đẹp. Con gái của Cát chưa từng ăn những món ngon trong siêu thị, có khi những người thân thích biếu cho những món ngon thì con gái của Cát cũng chưa từng được ăn vì Cát sẽ thuận tay chuyển cho người khác. Gần 20 năm nay, Cát còn phải giúp đỡ cho cháu họ bên nhà mẹ tới lúc cháu tốt nghiệp thạc sĩ, rồi lo cho cháu đính hôn. Cha mẹ cháu vì thế mà cảm kích vô cùng. Đến ngày cháu đính hôn thì họ đã đặc biệt lặn lội một chuyến đến nhà Cát để cảm ơn. Cho dù là con cháu bên nội hay bên ngoại, Cát đều lấy thân phận phụ huynh mà ra mặt giúp đỡ, nào là đính ước, kết hôn, vừa bỏ công vừa bỏ tiền, giúp đỡ con cháu thành gia lập nghiệp, sinh đẻ, cô không quản là việc to hay nhỏ đều tận tình giúp đỡ.

Nhờ sự tận tình của Cát mà người trong gia tộc thấy được sự mỹ hảo của Đại Pháp, đặc biệt có một số người đã bước vào tu luyện Đại Pháp.

2. Bị oan mà không biện giải, làm một nữ bác sĩ tài đức vẹn toàn

Cát từng là một bác sĩ chủ nhiệm khoa phụ của một bệnh viện hạng ba trong vùng, lúc Cát làm chủ nhiệm thì khoa của Cát có thu nhập lớn nhất trong bệnh viện, lúc Cát làm phẫu thuật thì hoàn toàn khác với những người khác, cô ấy nói khi cô làm phẫu thuật cho sản phụ, sau khi em bé được lấy ra, thì cô bắt đầu khâu lại vết thương, kỹ năng khâu chỉ của Cát đạt đến trình độ có một không hai. Đồng nghiệp đều hết sức bái phục.

Vào một năm nọ đơn vị thông báo cho Cát đi phẫu thuật, đơn vị có cử một người không có chứng chỉ đi tiêm thuốc gây tê cho thai phụ, sau khi tiêm thì thai phụ xuất hiện vấn đề, qua kiểm tra thì biết là vị ấy đã tiêm thuốc nhầm chỗ. Với sự việc này thì người bình thường có thể bàng quan và từ chối phẫu thuật để tránh liên lụy nhưng Cát thì không thế, khi đối diện với mạng sống của con người, Cát đã ra tay làm phẫu thuật, hành động nhanh và quyết đoán, khi Cát làm phẫu thuật thì đã cứu được em bé nhưng người mẹ thì không thể qua khỏi cơn nguy kịch và đã tử vong.

Sau sự việc đó lãnh đạo bệnh viện và sở y tế đều có toan tính đổ trách nhiệm. Bọn họ biết rất rõ trong việc này trách nhiệm thuộc về người tiêm thuốc gây tê, nhưng người tiêm thuốc gây tê lại không có chứng chỉ hành nghề, đây lại là chuyện lớn, nếu để sự việc này bại lộ thì rất nhiều lãnh đạo trong sở y tế và bệnh viện sẽ mất chức và phải chịu trách nhiệm, vì thế họ âm thầm bàn bạc với nhau đổ trách nhiệm cho Cát, họ đã bán hết lương tâm của mình để khai trừ Cát khỏi bệnh viện, cũng vì thế mà bệnh viện đó về sau làm ăn ngày càng xuống dốc.

Nhiều năm sau, khi nhắc đến câu chuyện này, thì Cát nói tuy bị khai trừ ra khỏi bệnh viện nhưng Cát đã không hối tiếc về việc làm của mình, vì mình đã cứu được một sinh mệnh rồi.

Về sau vì để giải quyết vấn đề cuộc sống, Cát đã đến làm chủ nhiệm khoa phụ cho một bệnh viện gần nhà, những bệnh nhân từng đến khám ở bệnh viện trước đây cô làm việc giờ nghe tin cô đến bệnh viện mới thì đều lặn lội tìm đến thăm khám, mọi người trong bệnh viện đều hỏi họ tại sao lại đi khám ở một bệnh viện xa như vậy, họ đều nói một cách cảm kích rằng, chủ nhiệm của chúng tôi ở đây, đây là chủ nhiệm của chúng tôi, chúng tôi tới tìm chủ nhiệm của chúng tôi khám bệnh.

Ở Trung Quốc cổ đại, đều có những vị y thuật cao siêu hành nghề trong nhân gian, nhưng những vị này không những y thuật cao siêu mà tiêu chuẩn đạo đức của họ cũng rất cao thượng, họ luôn nghiêm khắc ước chế bản thân, cho nên được bách tính tín nhiệm và kính trọng, cũng như vậy ngày nay Lý Cát là một bác sĩ tài đức vẹn toàn được mọi người tín nhiệm và kính trọng, cô luôn cố gắng làm một người tốt mà người ta khó gặp được trong xã hội tuột dốc này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/280697

The post Bị vu oan mà không tranh biện, một nữ bác sĩ tài đức vẹn toàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Trương Quả Lão cưỡi lừa ngượchttps://chanhkien.org/2023/01/truong-qua-lao-cuoi-lua-nguoc-2.htmlSat, 21 Jan 2023 06:45:42 +0000https://chanhkien.org/?p=29578[ChanhKien.org] Trương Quả Lão là một vị Tiên trong truyền thuyết Bát Tiên. Lại nói Trương Quả Lão thấy đạo đức nhân loại xuống dốc, nhân thế mê trầm trong công danh lợi lộc, lại còn cho rằng sống càng đầy đủ càng tốt, bèn cưỡi lừa du hí nhân gian, để lại nhiều câu […]

The post Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Trương Quả Lão là một vị Tiên trong truyền thuyết Bát Tiên.

Lại nói Trương Quả Lão thấy đạo đức nhân loại xuống dốc, nhân thế mê trầm trong công danh lợi lộc, lại còn cho rằng sống càng đầy đủ càng tốt, bèn cưỡi lừa du hí nhân gian, để lại nhiều câu chuyện lưu truyền thiên cổ.

Xưa nay chưa từng có người biết rõ Ông đến từ đâu. Theo sử sách ghi chép, quả thực có vị Trương Quả Lão này. Vào thời nhà Đường, Ông sống ở Điều Sơn, Hằng Châu, và tự xưng là đã hàng trăm tuổi. Người thời đó cho rằng Ông có thuật trường sinh bất lão. Thần Tiên không như phàm nhân, tướng quân, quân thần, vương tướng bất quá cũng chỉ là phàm phu tục tử, muốn gặp Thần Tiên không phải chuyện dễ dàng. Đường Thái Tông và Đường Cao Tông đã nhiều lần triệu kiến Ông, nhưng đều bị Ông từ chối. Võ Tắc Thiên cũng mời Ông xuất sơn, Trương Quả Lão đã giả chết trước miếu Đố Nữ. Lúc đó đang là mùa hè nóng bức, trong nháy mắt thân thể của ông bắt đầu thối rữa, sinh ra sâu bọ. Khi Võ Tắc Thiên biết chuyện, liền cho rằng Ông đã chết thật sự, đành phải từ bỏ. Nhưng sau đó có người nhìn thấy Ông ở trong núi tại Hằng Châu.

Người ta nói rằng Trương Quả Lão luôn cưỡi một con lừa trắng ngược, đi hàng vạn dặm mỗi ngày. Khi nghỉ ngơi, con lừa được gấp lại, mỏng như tờ giấy, đặt vào cái rương nhỏ, khi cần cưỡi thì nhúng nước lại trở thành lừa. Vào năm Khai Nguyên thứ 23, Đường Huyền Tông đã phái người đến Hằng Châu mời Trương Quả Lão, Trương Quả Lão đã chết trước mặt người này. Ông ta sợ hãi lập tức thắp hương và cầu nguyện, giải thích tâm ý cầu Đạo của Thiên tử, Trương Quả Lão mới lập tức hồi sinh sống lại. Người này sau đó không dám ép buộc Ông, vội vã trở về kinh thành để thông báo cho Đường Huyền Tông. Hoàng đế Đường Huyền Tông sau đó lại cho người đến mời Ông kèm theo ấn thư, Trương Quả Lão đã theo ông về Đông Đu. Hoàng đế Đường Huyền Tông đưa Ông đến Tập Hiền Viện, ngồi xe ngựa vào cung và kính biếu nhiều lễ vật.

Đường Huyền Tông thấy Trương Quả Lão đã già yếu bèn hỏi: “Ngài là người đã đắc Đạo, sao vẫn rụng răng trông già như vậy?” Trương Quả Lão nói: “Ta sống đến tuổi già như vậy rồi, lại cũng không có đạo thuật gì để theo, nên ta mới thành ra thế này, thật hổ thẹn. Nếu bỏ hết đi không phải tốt hơn sao?”. Sau đó Ông liền nhổ hết tóc và răng trước mặt Đường Huyền Tông, miệng phun đầy máu. Đường Huyền Tông sửng sốt, vội nói: “Ngài hãy nghỉ ngơi một lát, chúng ta đàm đạo sau”. Một lúc sau, Trương Quả Lão gặp lại Đường Huyền Tông, khuôn mặt hoàn toàn mới, răng trắng tóc đen, là một người đàn ông ở tuổi sung mãn.

Một hôm có hai vị đại thần đến bái kiến Trương Quả Lão. Trương Quả Lão đột nhiên nói với họ: “Nếu như cưới Công chúa làm thiếp thì quả là một chuyện kinh động nhỉ”. Hai người kia nhìn nhau dò xét, không hiểu ý Ông là gì. Không lâu sau, Đường Huyền Tông cho người đến nói với Trương Quả Lão: “Công chúa Ngọc Chân từ nhỏ thích tu Đạo, Hoàng thượng muốn Công chúa hạ giá với ngài”. Trương Quả Lão cười nhưng từ chối. Lúc đó họ mới hiểu Trương Quả Lão muốn nói gì.

Bấy giờ, các quan đại thần đều chạy đến bái kiến ​​Trương Quả Lão, dò hỏi về thế giới Thần Tiên, nhưng đều bị Ông từ chối. Ông tự xưng là sinh vào năm Bính Tý thời vua Nghiêu, nhưng không ai có thể đoán được tuổi chính xác của Ông.

Trương Quả Lão nói mình từng là thị giả thời vua Nghiêu, có thể mấy ngày không ăn, khi ăn chỉ cần uống chút rượu và uống ba viên thuốc màu vàng. Đường Huyền Tông mời ông vào nội điện uống rượu, nhưng Trương Quả Lão từ chối, nói rằng tửu lượng của Ông rất kém, chỉ uống được hai lít. Nhưng Ông có một đệ tử uống rượu rất giỏi, có thể uống một đấu. Đường Huyền Tông mừng lắm, thỉnh mời đệ tử của Trương Quả Lão.

Trong nháy mắt, một tiểu đạo sĩ từ mái hiên trong đại điện bay xuống, nhìn qua chỉ khoảng 16, 17 tuổi, hình dáng ưu tú, khí chất thanh nhã, khi bái kiến Đường Huyền Tông thì ngôn từ rõ ràng, lễ phép chu toàn. Đường Huyền Tông bảo tiểu đạo sĩ ngồi xuống, Trương Quả Lão nói: “Đệ tử nên đứng sang một bên mà hầu hạ, không được ngồi”. Đường Huyền Tông càng lấy làm thích thú, liền ban rượu mời, anh ta uống liền một đấu. Trương Quả Lão từ chối và nói: “Không được uống nữa, uống quá nhiều sẽ có vấn đề, khiến Hoàng thượng cười chê”. Đường Huyền Tông tiếp tục ép tiểu đạo sĩ uống, nhưng rượu đột nhiên phun ra từ đầu anh ta, khiến mũ của tiểu đạo sĩ rơi xuống đất, biến thành vàng. Đường Huyền Tông và các phi tần đều kinh ngạc bật cười, nhìn lại thì tiểu đạo sĩ đã biến mất. Số vàng đó chỉ đủ để đựng vào một cái đấu, nguyên là vàng trong Tập Hiền Viện.

Có vô số tiên thuật như thế này. Có một người đàn ông có thể nhìn thấy ma. Đường Huyền Tông mời ông đến gặp Trương Quả Lão. Người này chạy đến gặp Hoàng thượng và nói: “Trương Quả Lão ở đâu? Để tôi tới xem”. Thật ra, Trương Quả Lão đã đứng trước mặt ông ta từ lâu, nhưng ông ta không thể nhìn thấy Ông. Lại có người tinh thông toán mệnh, mỗi khi gặp người nào, ngay khi lấy quẻ, liền có thể bói ra công danh, phú quý, thiện ác, thọ mệnh, trước nay đã bói hàng ngàn lượt, rất chuẩn xác. Đường Huyền Tông biết bản sự của ông ta nên đã mời đến xem cho Trương Quả Lão. Người này xem qua xem lại mấy giờ đồng hồ, kiệt sức mà vẫn không bói ra được. Những sự việc của các vị Thần không phải là thứ mà nhân gian tiểu đạo có thể nhìn thấy được.

Đường Huyền Tông càng thấy hiếu kỳ. Một lần, Đường Huyền Tông quyết định thử rượu độc. Trương Quả Lão uống liền ba vại, dáng vẻ như say, nói với những người xung quanh: “Rượu này không ngon”. Sau đó lăn ra ngủ, ngủ một giấc, chợt tỉnh dậy, đứng lên, soi gương, nhìn răng mình đã thành màu đen. Ông gọi tiểu thị vệ đi lấy gậy sắt như ý, đập gãy hết răng, nhét vào thắt lưng. Chậm rãi lấy từ trong túi ra một viên thuốc nhẵn nhụi, hơi đỏ, bôi lên chân răng. Rồi lại nằm xuống ngủ thiếp đi, đột nhiên một lúc lâu sau ông tỉnh dậy, soi gương lần nữa, răng đã mọc lại, trắng và chắc, đẹp hơn trước.

Đường Huyền Tông từng đi săn ở Hàm Dương và bắt được một con hươu, trông có vẻ dị dạng. Khi nhà bếp chuẩn bị giết con hươu, Trương Quả Lão nhìn thấy vậy liền nói: “Đây là một con hươu tiên, nó đã sống được một nghìn tuổi. Năm Nguyên Thú thứ năm thời Hán Vũ Đế, ta từng cùng Hoàng đế đi săn ở Thượng Lâm, đã bắt được con hươu này và phóng sinh”. Đường Huyền Tông nói: “Thế giới này có rất nhiều hươu nai, thời gian qua đã lâu như vậy, ông làm sao dám chắc là nó chứ?” Trương Quả Lão nói: “Khi Hán Vũ Đế phóng sinh, sừng bên trái của hươu có miếng đồng làm ký hiệu”, nhìn vào con hươu, quả nhiên có một miếng đồng to khoảng hai thốn (đốt ngón tay), và các từ trên đó bị mờ và không thể nhận ra được. Đường Huyền Tông lại hỏi: “Khi đó là thời nào? Bao lâu rồi?” Trương Quả Lão nói: “Đến nay đã 852 năm”. Đường Huyền Tông sai sử quan tra sử sách, quả nhiên không sai chút nào.

Đường Huyền Tông phong cho Trương Quả Lão làm Ngân Thanh Quang Lộc Đại Phu. Trương Quả Lão quyết tâm quay lại ở núi Hằng Châu. Vào thời đầu của những năm Thiên Bảo (niên hiệu thứ ba của Huyền Tông), Đường Huyền Tông lại cho mời Trương Quả Lão, Trương Quả Lão nghe tin lại đột ngột qua đời. Các đệ tử của Ông đã chôn cất Ông, nhưng khi họ mở quan tài ra, hóa ra đó là một chiếc quan tài trống rỗng. Cuối cùng không ai biết Trương Quả Lão đã đi đâu.

(Nguồn: Cựu Đường thư, Minh Hoàng tạp lục)

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/16426

The post Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Lý Thường Minhhttps://chanhkien.org/2022/08/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-ly-thuong-minh.htmlFri, 26 Aug 2022 04:59:50 +0000https://chanhkien.org/?p=29030Tác giả: Đức Trọng [ChanhKien.org] Lý Thường Minh là một đạo sĩ nổi tiếng sống vào cuối triều Minh đầu triều Thanh, hiệu là “Tử Khí Chân Nhân”. Ông tên thật là Lý Cơ, người vùng Tế Nam tỉnh Sơn Đông, vốn là tiến sĩ trong những năm Vạn Lịch triều Minh. Từ nhỏ ông […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Lý Thường Minh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Trọng

[ChanhKien.org]

Lý Thường Minh là một đạo sĩ nổi tiếng sống vào cuối triều Minh đầu triều Thanh, hiệu là “Tử Khí Chân Nhân”. Ông tên thật là Lý Cơ, người vùng Tế Nam tỉnh Sơn Đông, vốn là tiến sĩ trong những năm Vạn Lịch triều Minh. Từ nhỏ ông đã kính ngưỡng tu luyện Đạo gia, về sau ông rời gia đình đến xuất gia ở động Bạch Vân, thuộc Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông. Ông tu luyện theo Đạo pháp trong Toàn Chân Phái của Đạo giáo, được khẩu truyền tâm thụ, khổ tâm tu hành trong 30 năm. Vào năm Thuận Trị thứ 5 triều Thanh (tức năm 1648), vì “vốn ngưỡng mộ dấu tích của thần tiên ở núi Lao Sơn” mà ông đã đông du đến núi Lao Sơn, thuộc quận Tức Mặc, huyện Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông để thăm viếng dấu tích của tiên nhân. Sau đó, ông phát hiện ở Mã Sơn Tức Mặc lại có một đạo quán hoang, đáng tiếc là đạo quán ấy chỉ còn lại cảnh hoang tàn đổ nát, khói lạnh đìu hiu. [Thế là] ông quyết định ở lại Mã Sơn tu đạo, hơn nữa còn trùng tu lại đạo quán và bắt đầu truyền Đạo.

Thuận theo việc ông truyền Đạo thì thần tích cũng dần hiển lộ. Chẳng hạn như đạo quán ban đầu của Mã Sơn bị hoang phế đã lâu, quỷ quái sơn tinh kéo nhau đến chiếm cứ, thường xảy ra những chuyện kỳ lạ, yêu tinh thậm chí còn quấy phá làm hại đến dân lành. [Thấy thế] Lý Thường Minh đã ngồi tọa một mình trong núi, trải qua 15 ngày đêm, cuối cùng trời quang mây tạnh, từ đó không còn bóng dáng của đám yêu ma nữa, dân chúng ở đó hết sức kinh ngạc, cũng biết ông là người tu Đạo, có thần thông có thể đuổi tà trừ ma. Hơn nữa khi truyền Đạo ông còn dùng đất bùn nặn thành viên để chữa bệnh cho người dân, tức “Sơ dĩ dược tề hoạt nhân, hậu ứng tiếp bất hạ, hòa thổ vi hoàn, dĩ trị bách bệnh, vị hữu bất dũ giả” (nghĩa là: ban đầu lấy việc bốc thuốc để chữa bệnh cứu người, sau đó đáp ứng không xuể, bèn dùng đất làm thành viên để trị bách bệnh, không ai là không khỏi bệnh). Vậy nên người dân bèn gọi ông là ‘Nê hoàn tổ sư’ hoặc ‘Nê hoàn Đạo nhân’. Trong quá trình tu sửa Đạo miếu, nếu như có đá to gỗ lớn mà người dân không nhấc lên nổi, Lý Thường Minh bèn thắp hương niệm chú, [rồi sau đó] vận chuyển đá to gỗ lớn hết sức dễ dàng, như thể được Thần giúp đỡ vậy.

Lý Thường Minh không chỉ kêu gọi những tín đồ cùng tu sửa Đạo quán mà còn nhiệt tâm vì lợi ích chung. Vì để giải quyết tình hình đi lại khó khăn của người dân mà ông đã bỏ không ít công sức để sửa đường, sửa cầu ở những vùng lân cận; những cây cầu đá ở các huyện như Bắc Hà, Cô Hà, Điếm Khẩu Hà, Ngũ Long Hà đều là do ông đóng góp xây dựng. Vào năm Khang Hy thứ 13 (tức năm 1674), người ta đã khắc một tấm bia công đức trên vách núi ở huyện Phúc Tiên Khẩu để ghi nhận tinh thần tạo phúc cho dân của Lý Thường Minh. Trên đỉnh của bia đá có bức hoành thư viết bốn chữ lớn “Thiên thịnh nhân thiện”. Ở giữa bia đá có khắc dòng chữ “Khai sơn tu lộ Đạo nhân Lý húy Thường Minh chi bia” (nghĩa là: bia của người mở núi sửa đường – Đạo nhân họ Lý tên Thường Minh), dẫu trải qua hàng trăm năm gió dập mưa vùi nhưng [đến nay] những dòng chữ trên bia đá vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng như xưa.

Khi Lý Thường Minh tu Đạo và truyền Đạo thì luôn giữ nghiêm giới luật, về mặt tài vụ thì ông tuyệt đối không chiếm dụng bất kỳ số tiền từ thiện nào, lưu lại cho đời sau câu chuyện ‘cưỡi ngựa đoạt lại tiền’. Thường ngày, Lý Thường Minh giữ nghiêm giới luật, chi tiêu cho cá nhân rất đạm bạc, chỉ đi giày cỏ mặc áo vải thường dân, hành vi đoan chính, mang tác phong của một người theo trường phái tu khổ hạnh. Một lần nọ, con trai của Lý Thường Minh thời trước khi xuất gia đã lên núi thăm phụ thân. Lúc cậu rời đi, các đệ tử của Lý Thường Minh đã đem khoản tiền của những tín đồ quyên góp cho đạo quán gửi tặng cậu con trai một ít. Lý Thường Minh sau khi biết chuyện đã nổi giận nói: “Con ta từ xa trăm dặm tới đây, nếu các ngươi không để nó mài dũa rèn luyện, thì trái lại chính là tiễn nó xuống địa ngục đấy!” Nói rồi lập tức lên ngựa đuổi theo cậu con trai, đoạt tiền trả lại [đạo quán]. Từ lời nói của Lý Thường Minh chúng ta có thể thấy khoản tiền đóng góp từ thiện là tuyệt đối không thể chiếm dụng, tiêu xài bừa bãi, dùng vào việc khác hay tham ô, lãng phí, nếu không có thể sẽ bị đày xuống địa ngục, những người tu luyện ngày nay nhất định phải đối đãi nghiêm túc về phương diện này, tuyệt đối không thể xuất hiện vấn đề ở phương diện tiền tài!

Năm Khang Hy thứ 19 (tức năm 1680), Lý Thường Minh thường nói với các đệ tử của mình rằng: “Ngày ba tháng ba năm sau ta sẽ từ biệt các con”. Quả nhiên đúng ngày ba tháng ba năm Khang Hy thứ 20 (tức năm 1681), ông đã rời cõi trần trong tư thế ngồi toạ ngay ngắn. Lúc ông rời đi khói lành bay khắp nhà, ông được chôn cất ở phía Nam khe núi Mã Sơn, cả đời tu hành của ông thu nhận hơn trăm đệ tử từ Nam chí Bắc.

Nguồn tư liệu: “Mã Sơn chí” và “Tức Mặc huyện chí” bản thời vua Càn Long triều Thanh.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/269318

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Lý Thường Minh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Cái tâm kiên định và chân thành của Khương Tử Nhahttps://chanhkien.org/2022/08/truyen-thuyet-dan-gian-cai-tam-kien-dinh-va-chan-thanh-cua-khuong-tu-nha.htmlMon, 08 Aug 2022 08:24:57 +0000https://chanhkien.org/?p=28899Tác giả: Đại Lạp Tử [ChanhKien.org] Khương Tử Nha, tên Thượng, đạo hiệu Phi Hùng, người đời gọi ông là Khương Thái Công, là nhân vật chính trong truyện “Phong thần diễn nghĩa”. Tại sao ông được Nguyên Thủy Thiên Tôn coi trọng, giao phó trách nhiệm phong thần trọng đại? Mọi người đều nói […]

The post Truyền thuyết dân gian: Cái tâm kiên định và chân thành của Khương Tử Nha first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đại Lạp Tử

[ChanhKien.org]

Khương Tử Nha, tên Thượng, đạo hiệu Phi Hùng, người đời gọi ông là Khương Thái Công, là nhân vật chính trong truyện “Phong thần diễn nghĩa”. Tại sao ông được Nguyên Thủy Thiên Tôn coi trọng, giao phó trách nhiệm phong thần trọng đại?

Mọi người đều nói rằng ông có lòng dạ thuần khiết, tấm lòng chính trực, do đó chỉ có ông mới có thể hoàn thành việc này. Nghe nói vào năm đó, ông lên núi Côn Luân bắt đầu bái sư cầu đạo, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tuy rằng ông đã tu luyện trên ba nghìn năm, nhưng chỉ là tự tu, không được chân truyền, do đó mãi vẫn không đắc được chính quả, vẫn là một con gấu bay (Phi Hùng). Sau đó, cuối cùng ông đã được diện kiến Nguyên Thủy Thiên Tôn, nhưng Nguyên Thủy Thiên Tôn trước giờ không thu nhận một đồ đệ giống như vậy, do đó từ chối thu nhận ông. Nhưng Khương Tử Nha một lòng quyết tâm cầu đạo, cho dù có đuổi như thế nào cũng không chịu rời đi, hễ có cơ hội là quỳ trước mặt Nguyên Thủy Thiên Tôn cầu mong thầy thu nhận. Nguyên Thủy Thiên Tôn thấy không đuổi được ông, dứt khoát không để ý đến ông nữa, quay người nằm trên giường Bích Du ngủ một giấc, giấc ngủ này kéo dài ba trăm năm. Tỉnh dậy nhìn một cái, Phi Hùng tuy rằng không thấy nữa, da thịt xương đầu đều đã biến thành tro, nhưng nhìn kỹ vẫn còn một cơn lốc nhỏ đang xoay tròn ở đó, Khương Tử Nha căn bản vẫn chưa rời khỏi giường của sư phụ một bước. Đối diện với tình cảnh này, Nguyên Thủy Thiên Tôn vì vậy mà cảm động, bèn thở dài một tiếng nói: “Tử Nha, con đứng dậy đi, thật khó tìm một người kiên định như con”. Hơn nữa, thân gấu của Khương Tử Nha đã hóa hết sạch, thế là thu nhận ông là đệ tử, truyền cho ông chân Đạo.

Lại nói đến công việc phong thần, Nguyên Thủy Thiên Tôn có mười hai đệ tử, nhưng lại chỉ chọn Khương Tử Nha phụ trách việc phong thần, nói nên rằng Nguyên Thủy Thiên Tôn rất tín nhiệm ông. Kỳ thực, câu chuyện “Phong Thần Bảng” tại nhân gian đã sớm được lưu truyền rộng rãi. Còn nhớ lúc tôi còn nhỏ, ở nông thôn việc xây nhà là một việc đại sự, đặc biệt là khi xà nhà chính được đặt lên cần cử hành một nghi thức trang trọng, phải mời trưởng họ, thầy xem phong thủy, cần bày tiệc rượu, thắp hương, kính trời đất, cảm tạ xóm làng. Trong lúc đặt xà chính, cần làm một cái túi nhỏ màu đỏ, bên trong đặt một đồng tiền cổ, sau đó dùng một sợi dây thừng đỏ buộc nó vào giữa xà chính, người chủ trì nghi thức còn giống như đang hát một bài ca vui vẻ, nói một câu dễ nghe, để biểu thị lời chúc mừng. Trong đó có một câu tôi nghe rõ ràng, nói là: “Thái Công tại đây, chư thần thoái vị”. Sau đó nói một tiếng dựng xà, một chiếc xà lớn được đưa lên khung nhà, đặt xà xong là kết thúc nghi thức. Sau đó tôi thỉnh giáo người khác: Thái công tại đây, chư thần thoái vị là nghĩa là sao? Họ nói với tôi, lúc Khương Tử Nha Phong Thần, toàn bộ vị trí của đài phong thần đều đầy đủ rồi, Khương Tử Nha lại quên mất lưu lại một chỗ cho mình, sau đó nhìn lên xà ngang vẫn còn một chỗ trống, Khương Tử Nha nói, ta sẽ ở chỗ này vậy. Sau này dân gian bèn lưu truyền tập tục như vậy, khi đặt xà để làm nhà, đều phải mời Thái Công đến, chỉ cần Khương Thái Công ở đây, chư thần ai cũng không dám đến làm phiền, bởi vì chư thần đều là do ông đích thân phong cho, chúng thần đều phục ông, phục cái tâm vô tư vô ngã của ông.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/54388

The post Truyền thuyết dân gian: Cái tâm kiên định và chân thành của Khương Tử Nha first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Tịch Sanh tranh cãi đánh mất cơ hội tu Đạo thành Tiênhttps://chanhkien.org/2022/08/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-tich-sanh-tranh-cai-danh-mat-co-hoi-tu-dao-thanh-tien.htmlMon, 01 Aug 2022 23:07:36 +0000https://chanhkien.org/?p=28852Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Trong truyền thuyết Trung Hoa cổ xưa, đào tiên và táo tiên là những loại hoa quả có ở nơi tiên giới. Ví như, Tây Du Ký đã miêu tả tác dụng thần kỳ của trái đào tiên. Hay như trong tác phẩm Ký Vương Ốc sơn nhân Mạnh Đại […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Tịch Sanh tranh cãi đánh mất cơ hội tu Đạo thành Tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Trong truyền thuyết Trung Hoa cổ xưa, đào tiên và táo tiên là những loại hoa quả có ở nơi tiên giới. Ví như, Tây Du Ký đã miêu tả tác dụng thần kỳ của trái đào tiên. Hay như trong tác phẩm Ký Vương Ốc sơn nhân Mạnh Đại Dung (Gửi Mạnh Đại Dung người ở núi Vương Ốc) của Lý Bạch cũng có đoạn miêu tả: Ngã tích Đông Hải thượng / Lao Sơn xan tử hà / Thân hiện An Kỳ Công / Thực táo đại như qua (Tạm dịch: Ta xưa nơi Đông Hải / Ăn mây tím Lao Sơn / An Kỳ Công tặng táo / Trái táo lớn như dưa). Hôm nay, tôi sẽ kể một câu chuyện về trái táo tiên.

Vào thời nhà Minh, tại khu vực núi Động Đình thuộc huyện Ngô (nay là thành phố Tô Châu), có một vị thư sinh họ Tịch, thường gọi là Tịch Sanh. Vào những năm cuối đời, người này xuất tâm một lòng cầu Đạo tu hành. Một ngày nọ, Tịch Sanh đang tản bộ một mình dưới đỉnh Mạc Ly, là đỉnh chính của núi Đông Sơn thuộc Tô Châu, thì bất ngờ nhìn thấy một vị Đạo sỹ đang “lướt đi như gió” trên đường núi, hoàn toàn khác với người thường. Vị Đạo sỹ này lướt qua Tịch Sanh, đột nhiên quay lại nhìn ông, rồi dừng lại nói: “Tiểu tử này xương cốt thanh tịnh, có thể độ được”. Sau đó, Đạo sỹ lấy ra một quả táo nhỏ từ chiếc áo choàng của mình, đưa cho Tịch Sanh và nói “Ăn thứ này vào sẽ không bị đói”.

Tịch Sanh thường ngày luôn nhất tâm hướng Đạo, nên lập tức hiểu rằng đây là cơ duyên, biết rằng thứ mà mình được tặng là một quả táo tiên. Sau khi liên tục cảm tạ Đạo sỹ, ông kính cẩn nuốt quả táo nhỏ. Khi Tịch Sanh trở về nhà, thì quả thực ‘không hề muốn ăn’, và cũng không còn thiết nghĩ đến những món ăn phàm tục của người thường nữa. Kể từ đó, cơ thể ông trở nên nhẹ nhàng, bước đi thanh thoát, mái tóc trở nên đen bóng, dung nhan thoát phàm. Người nhà vô cùng kinh ngạc trước sự thay đổi này.

Hai mươi năm sau, vào một ngày nọ, khi Tịch Sanh đang đi trên phố thì phát sinh mâu thuẫn với người ta, tranh chấp cãi vã, tâm lý phẫn uất, lửa giận bừng bừng. Lúc này, ông đột nhiên nghe thấy có tiếng người nói: “Tưởng rằng ngươi có thể được cứu, vậy mà gốc rễ của lửa giận vẫn chưa được tiêu trừ!” Tịch Sanh băn khoăn tự hỏi đó là giọng của ai, lần theo hướng âm thanh phát ra, thì bất ngờ vị Đạo sỹ xuất hiện. Đạo sỹ bước tới, dùng lòng bàn tay vỗ mạnh vào cổ Tịch Sanh, lập tức từ miệng Tịch Sanh phun ra một quả táo nhỏ và rơi xuống đất. Vị Đạo sỹ nhặt quả táo tiên lên, thở dài, đọc một bài thơ, rồi từ từ biến mất. Người qua đường xúm vào xem náo nhiệt chỉ nhớ được hai câu cuối cùng: “Tòng lai phàm cốt nan khinh độ / Xuy lạc Bồng Lai nhất trận sa” (Tạm dịch: “Xương phàm được độ chẳng hề dễ, một nhúm cát thổi mất Bồng Lai”).

Khi Tịch Sanh trở về nhà, người thân đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy mái tóc của ông bỗng nhiên bạc trắng. Lúc này, Tịch Sanh mới nhận ra rằng mình đã nôn ra quả táo tiên, đồng nghĩa với việc bản thân đã đánh mất cơ duyên tu Đạo thành Tiên. Hối hận tột cùng, đau đớn khôn nguôi, chưa đến 10 ngày, Tịch Sanh qua đời. Sự việc này được Tri huyện lúc bấy giờ của huyện Ngô là Triệu Nhất Hạc kể lại cho Tiền Hy Ngôn. Tiền Hy Ngôn là một trong những văn nhân nổi tiếng thời bấy giờ, đã ghi lại sự việc. Hơn nữa, người kể chuyện lại chính là Tri huyện địa phương nên mức độ tin cậy rất cao.

Nhìn lại câu chuyện này, ta không khỏi cảm thán trước sự khó khăn của việc tu luyện trong quá khứ. Tịch Sanh nhất tâm hướng Đạo, nhưng vị Đạo sỹ chỉ cho ông quả táo tiên mà không hề giảng Đạo, cũng không giảng về yêu cầu tu luyện, hết thảy đều dựa vào Tịch Sanh tự ngộ mà ra. Hai mươi năm sau, Tịch Sanh vì tư lợi đã tức giận, tranh cãi với người ta, phạm phải sai lầm trên con đường tu luyện. Bởi thế mà Tịnh Sanh mất đi quả táo tiên cũng như cơ duyên tiếp tục tu luyện. Thời xưa tu Đạo khó như vậy, con người hiện đại chẳng phải không còn hy vọng tu thành sao? Thực ra không phải vậy.

Con người hiện đại ngày nay đang sống trong một thời đại cực kỳ đặc thù. Thông qua hình thức khí công, Sư phụ Lý Hồng Chí đã truyền cấp cho nhân loại môn tu luyện cao tầng, Pháp Luân Công, còn được gọi là Pháp Luân Đại Pháp. Pháp Luân Công không chỉ dạy các bài công pháp, mà còn giảng Đại Pháp tu luyện – Đại Đạo, từ tối căn bản giảng về đặc tính vũ trụ “Chân – Thiện – Nhẫn”, giảng ra các Pháp lý tăng trưởng công tại các tầng thứ một mạch cho đến viên mãn.

Qua câu chuyện trên, nhìn sơ qua có thể thấy rằng Tịch Sanh đã không biết tu luyện tâm tính, không đủ sức chịu đựng, không thể nhẫn nại nên đã phạm sai lầm mà đánh mất quả táo tiên. Hôm nay, với tất cả những ai mong muốn thực hành tu luyện, tôi chân thành khuyên quý vị: Pháp Luân Đại Pháp là công pháp chân chính từ bi cứu độ chúng sinh, phù hợp với người tu luyện ở mọi giai tầng, dân tộc, quốc gia. Nếu quý vị có thể thực sự buông bỏ các chủng quan niệm, đọc tài liệu chân tướng Đại Pháp, thậm chí cả sách Đại Pháp, chắc chắn quý vị sẽ tìm ra giá trị chân thực sinh mệnh cuộc đời của mình.

Nguồn tham khảo: Quái Viên (còn được gọi là Quái Viên Chí Dị) của Tiền Hy Ngôn thời nhà Minh.

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/271928

https://www.pureinsight.org/node/7691

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Tịch Sanh tranh cãi đánh mất cơ hội tu Đạo thành Tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Vương Liệthttps://chanhkien.org/2022/05/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-vuong-liet.htmlTue, 10 May 2022 07:40:36 +0000https://chanhkien.org/?p=28571Tác giả: Chu Nguyệt Minh chỉnh lý [ChanhKien.org] Vương Liệt, tự là Trường Hưu, là người Hàm Đan, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Ông sống đến 330 tuổi mà dung mạo trông vẫn như thời niên thiếu. Núi cao đèo dốc đối với ông cũng giống như đất bằng, ông đi lại trên núi như […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Vương Liệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chu Nguyệt Minh chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến

Vương Liệt, tự là Trường Hưu, là người Hàm Đan, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Ông sống đến 330 tuổi mà dung mạo trông vẫn như thời niên thiếu. Núi cao đèo dốc đối với ông cũng giống như đất bằng, ông đi lại trên núi như bay. Thời trẻ Vương Liệt là thư sinh trường Thái Học, kiến thức uyên bác lại đa tài, không có sách nào ông chưa từng đọc qua, thường cùng mọi người đàm luận về Tứ thư Ngũ kinh hay triết lý bách gia chư tử. Thúc Dạ (tức Kê Khang, một trong bảy vị Trúc lâm thất hiền), người từng nhậm chức Trung tán đại phu của Tiêu quốc, vô cùng kính trọng Vương Liệt, thường thỉnh giáo ông. Thúc Dạ còn thường cùng ông du ngoạn lên núi hái thuốc.

Sau đó, Vương Liệt tự mình đi vào núi Thái Hành Sơn. Một hôm, ông nghe thấy bên sườn Đông của ngọn núi có vụ sạt lở, tiếng đất lở ầm ầm như sấm dậy. Vương Liệt không biết chuyện gì đã xảy ra, bèn vội đến đó xem. Chỉ thấy ngọn núi lớn nứt ra một khe sâu mấy trăm trượng, hai bên khe nứt toàn là đá xanh, có một hang đá rộng mấy thước, bên trong động không ngừng chảy ra một loại bùn xanh như tuỷ xương. Vương Liệt thử nặn bùn thành viên tròn, trong chốc lát nó liền biến thành cục đá, giống như nặn sáp nóng thành viên, lập tức nó đông cứng lại. Loại bùn này toả ra mùi thơm như cơm gạo, khi cho vào miệng nhai cũng có vị như cơm gạo. Vương Liệt nặn bùn thành vài viên tròn to cỡ quả đào rồi mang về, nói với Kê Khang: “Ta đã có được những thứ không hề tầm thường chút nào”. Kê Khang nghe vậy rất cao hứng, lấy chúng ra xem thử thì thấy những viên bùn đã biến thành những viên đá xanh, gõ vào thì thấy phát ra âm thanh như đồng. Kê Khang bèn bảo Vương Liệt đưa đến chỗ núi lở xem thử, nhưng ngọn núi đã khôi phục lại trạng thái ban đầu tự lúc nào, không còn chút vết tích gì của một vụ lở núi nữa.

Sau này, Vương Liệt lại đi vào trong núi Bão Độc ở Hà Đông, nhìn thấy một ngôi nhà bằng đá, trong nhà có một cái giá làm bằng đá trắng, trên giá có hai quyển sách. Vương Liệt giở ra xem thử, nhưng không đọc được chữ trong đó, ông không dám mang sách đi, chỉ đành đặt chúng lên kệ đá trắng như cũ. Nhưng ông đã thầm ghi nhớ được mấy chục chữ trong sách, mang về viết ra cho Kê Khang xem. Những chữ ấy Kê Khang đều đọc được cả. Vương Liệt vô cùng mừng rỡ, định cùng Kê Khang vào ngôi nhà đá trong núi cùng đọc kinh sách. Ông vốn đã nhớ rất rõ đường đi vào núi, nhưng khi đến chỗ có ngôi nhà bằng đá thì lại không tìm thấy ngôi nhà ấy đâu nữa. Sau đó, Vương Liệt đã bí mật nói với đệ tử của mình rằng: “Bởi Kê Khang không phải là người đắc Đạo, nên không để anh ta nhìn thấy ngôi nhà đá”. Theo cách nói của Thần Tiên, cứ 500 năm một lần, núi Thần sẽ nứt ra, từ trong khe nứt có thạch tuỷ chảy ra, nếu như lấy được thạch tuỷ này, dùng để uống thì có thể sống lâu như thiên trường địa cửu. Những viên đá mà Vương Liệt lấy được trước đây, chúng khẳng định là thạch tuỷ. Hầu hết mọi người ở Văn Hỷ, Hà Đông đều đời đời kính phụng Vương Liệt.

Những năm Vĩnh Ninh đời nhà Tấn, Vương Liệt đến vùng núi Lạc Xuyên huyện Lạc Nam tỉnh Thiểm Tây du ngoạn. Có một ông lão 90 tuổi tên là Trương Tử Đạo cung kính hướng về phía Vương Liệt thi lễ, Vương Liệt ngồi nhận một lạy của ông lão. Những khách ngồi cùng trách Vương Liệt không hiểu lễ nghi, Trương Tử Đạo nói: “Lúc 7, 8 tuổi ta đã gặp ông ấy, bây giờ ông ấy vẫn trẻ như vậy, năm nay ta đã 90 tuổi rồi, mà dung mạo của ông ấy vẫn như thời niên thiếu”. Sau này không ai biết Vương Liệt đã đi đâu.

(Theo Thái Bình quảng ký)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/19694

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Vương Liệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Trương Nhuận Tửhttps://chanhkien.org/2022/02/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-truong-nhuan-tu.htmlSun, 20 Feb 2022 06:41:51 +0000https://chanhkien.org/?p=28373Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Trương Nhuận Tử, không biết tên thật là gì và quê quán ở đâu, chỉ biết ông hay lui tới núi Tung Cao Sơn (nay thuộc Tung Sơn, Hà Nam), thường làm việc cho các Đạo quán mà không cần bất kỳ khoản thù lao nào. Quanh năm ông ấy […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Trương Nhuận Tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Trương Nhuận Tử, không biết tên thật là gì và quê quán ở đâu, chỉ biết ông hay lui tới núi Tung Cao Sơn (nay thuộc Tung Sơn, Hà Nam), thường làm việc cho các Đạo quán mà không cần bất kỳ khoản thù lao nào. Quanh năm ông ấy mang giày cỏ, mặc quần áo giấy, dẫu trời nóng lạnh cũng không đổi. Vào thời Đường và thời Tống xác thực có một số người nghèo khổ và những bậc tu hành khổ hạnh mặc quần áo giấy, cuốn sách cổ Văn phòng tứ phổ – Chỉ phổ thời Tống có ghi chép về “người ở trong núi thường dùng giấy làm y phục”. Ông ấy hay nói với mọi người rằng: “Nhân thân yếu tư nhuận” (thân người cần thoải mái), mọi người không lý giải được ý nghĩa là gì, dần dà bèn gọi ông là ‘Trương Nhuận Tử’. Có vài người biết ông ấy là người tu luyện, bèn muốn hỏi tỉ mỉ về phương pháp tu hành, nhưng ngoài câu “Nhân thân yếu tư nhuận” ra thì ông có những câu thậm chí còn khó hiểu hơn.

Trương Nhuận Tử từng viết một bài thơ như sau:

Minh tính thâm tàng đại đạo căn,
Cảo hình tồn chí mặc nhiên hôn.
Phi phi vũ sái Côn Luân lộ,
Hạo hạo phong oanh hãn hải môn.
Nhật nguyệt khí giao kim đỉnh noãn,
Càn khôn hào động ngọc lô ôn.
Tu tương thử lý sinh tiền luyện,
Mạc học phàm phu tử hậu luận.

Sau đó ông lại đến Tân Trịnh, Trịnh Châu (nay là thành phố Tân Trịnh thuộc tỉnh Hà Nam) xin làm người hầu trong gia đình họ Lý. Năm Sùng Ninh thứ ba triều Bắc Tống (năm 1104) ông từ giã nhà họ Lý ra đi, lúc từ biệt có làm một bài thơ:

Học cần vu sơ,
Thành chi hữu dư.
Nhất thân thường nhuận,
Bách hải bất khô.
Đạo ẩn nguyên minh,
Cấu thực thuần cư.
Tinh thành công tất,
Phục ngã thanh đô.

Ngày từ biệt nhà họ Lý, ông nói với đồ đệ rằng: “Ngọc đế có chỉ, ta thăng thiên đây”. Nói đoạn chỉ thấy trên cây hoè lớn phía Đông Nam phòng ông ở xuất hiện “mây ngũ sắc, tiếng thiên nhạc”, Trương Nhuận Tử bay lên, “cưỡi mây về trời”.

Sách Lễ ký – Đại học có câu rằng: “Phú nhuận ốc, đức nhuận thân” (giàu có có thể tu sửa nhà cửa, tài đức có thể tu sửa thân tâm), tôi nghĩ rằng một tầng hàm nghĩa của câu “Nhân thân yếu tư nhuận” mà Trương Nhuận Tử hay nói chính là cần hành thiện tích đức. Đó cũng có thể là một phương thức tu luyện của ông. Ngoài ra cũng nói lên rằng dẫu con người cần hành thiện tích đức thì cũng phải thông qua phương thức “Nhân thân yếu tư nhuận”. Có thể thấy với việc tu hành trong quá khứ thì chỗ nào cũng là để cho con người ngộ, hầu như hết thảy mọi thứ đều được nói không rõ ràng, phương thức này đối với con người ngày nay nếu muốn tu luyện thì quả thật quá khó. Thế thì có phải con người ngày nay tu hành vô cùng khó khăn không? Không phải, bởi vì môn Pháp Luân Đại Pháp đang hồng truyền khắp thế giới hôm nay là công pháp tu luyện Phật gia chân chính, có thể đạt được tính mệnh song tu, hơn nữa còn dùng ngôn ngữ bạch thoại đơn giản nhất để giảng ra những bí mật trong tu luyện từ xưa đến nay vốn chưa từng được giảng, hy vọng những người có tâm muốn tu luyện đừng bỏ lỡ cơ duyên này.

Nguồn: Lịch thế chân tiên thể đạo thông giám

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/254168

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Trương Nhuận Tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Hoài châu cầu thựchttps://chanhkien.org/2021/12/chuyen-co-phat-gia-hoai-chau-cau-thuc.htmlWed, 29 Dec 2021 02:01:34 +0000https://chanhkien.org/?p=28237Tác giả: Trình Thực chỉnh lý [ChanhKien.org] Thuở xưa có một anh chàng nghèo khó đi thăm họ hàng, khi được người thân tiếp đãi nồng hậu, anh ta đã uống say tuý lúy đến mức ngủ ngay trên bàn rượu. Vừa hay lúc ấy người họ hàng có chút việc công cần phải đi […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Hoài châu cầu thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trình Thực chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Thuở xưa có một anh chàng nghèo khó đi thăm họ hàng, khi được người thân tiếp đãi nồng hậu, anh ta đã uống say tuý lúy đến mức ngủ ngay trên bàn rượu. Vừa hay lúc ấy người họ hàng có chút việc công cần phải đi ngay, thấy người bà con nghèo khó của mình đã say quắc cần câu bèn đem một viên bảo châu vô cùng quý giá tên là “trí huệ” khâu vào trong áo anh ta, rồi vội rời đi.

Anh chàng nghèo khó vì say quá rồi nên không biết chuyện gì đã xảy ra. Sau khi tỉnh rượu anh lại đi sang nước khác. Anh vẫn nghèo rớt mồng tơi, cuộc sống khốn khó đến mức chán nản, chỉ có thể gắng gượng mà sống qua ngày. Khi này anh vẫn chưa biết trong y phục của mình có giấu một viên bảo châu vô giá.

Sau này một lần tình cờ anh gặp lại người họ hàng kia. Trông thấy bộ dạng rách rưới của anh, người họ hàng không nén nổi thở dài: “Anh đúng là một tên ngốc, chỉ vì miếng cơm manh áo mà hao tổn tâm sức, rốt cuộc là vì điều gì? Vì muốn anh sống được thoải mái một chút nên năm đó khi anh đến nhà chơi, tôi đã may vào trong áo của anh một viên bảo châu hết sức quý giá. Những tưởng từ nay trở đi anh sẽ giàu sang, ngờ đâu anh vẫn mảy may không hay biết, vẫn cứ phải bôn ba vất vả vì miếng cơm manh áo”.

Đã từng có một thời Phật đem hết thảy trí huệ ban cho thế nhân, tiếc là mọi người đã vô tình quên đi viên bảo châu “trí huệ” (tức lương tri) vô giá này, vẫn mơ mơ hồ hồ, gian lao khó nhọc bôn ba trên hành trình nhân sinh.

Đừng mải mê trong vinh hoa phú quý, hãy thức tỉnh lương tâm của chúng ta!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/115101

The post Chuyện cổ Phật gia: Hoài châu cầu thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bàhttps://chanhkien.org/2020/09/chuyen-co-phat-gia-ngo-truong-lao-diem-hoa-trinh-hanh-ba.htmlSat, 19 Sep 2020 03:19:47 +0000https://chanhkien.org/?p=26580Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, có một bà lão ở Hợp Châu tên là Trịnh Hành Bà, bà là một cư sĩ Phật giáo rất sùng đạo. Từ nhỏ, bà đã không ăn thịt không uống rượu, bà lớn lên trong gia đình tín ngưỡng Phật giáo. Hàng ngày bà chuyên […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, có một bà lão ở Hợp Châu tên là Trịnh Hành Bà, bà là một cư sĩ Phật giáo rất sùng đạo. Từ nhỏ, bà đã không ăn thịt không uống rượu, bà lớn lên trong gia đình tín ngưỡng Phật giáo. Hàng ngày bà chuyên tâm tụng niệm một bộ kinh trong Phật giáo. Bà vô cùng tinh tấn và hầu như không hề lười biếng, buông lơi.

Mùa xuân năm Tân Vị (năm 1151 sau công nguyên) tại Thiệu Hưng, Trịnh Hành Bà và những người khác đi đến chùa Báo Ân Quang Hiếu để nghe Ngộ trưởng lão hồng dương Phật pháp. Trên đường đi ngang qua cửa hàng thịt, thấy anh đồ tể đang thái thịt bò, bà nói đùa với bạn đồng hành: “Thịt bò này mà chấm với muối và dấm để ăn thì thơm ngon phải biết”.

Khi đến chùa, Ngộ trưởng lão đột nhiên hỏi bà: “Tại sao bà lại ăn thịt bò?” Trịnh Hành Bà nói: “Từ khi sinh ra con chưa bao giờ ăn thịt, tại sao ngài lại nói như vậy?” Thấy bà trả lời khá chắc chắn, Ngộ trưởng lão bèn lấy ra một ít thuốc, pha bằng nước ấm rồi cho Trịnh Hành Bà uống. Sau khi Trịnh Hành Bà uống cạn, một lúc sau, bà cảm thấy buồn nôn và ngay lập tức nhổ ra một thứ giống như một bát thịt bò lớn.

Lúc này, Trịnh Hành Bà ngộ được rằng: khi bà đi ngang qua cửa hàng thịt, bà đã vi phạm yêu cầu về “thân, khẩu, ý” trong Phật giáo, bà đã động vọng niệm và ham muốn ăn thịt, thậm chí còn nói đùa về điều đó với người khác. Sau lần điểm hoá này, bà càng tu hành tinh tấn hơn, càng không dám khởi bất kỳ vọng niệm nào nữa.

Trong câu chuyện này, Trịnh Hành Bà vô tình động vọng niệm với chấp trước ăn thịt, và sau đó lại nói ra khỏi miệng, quả thật tại một không gian khác đã chiêu mời đến những vật chất tương ứng; vị Ngộ trưởng lão này cũng là một cao tăng thần kỳ, thuốc mà ông cho Trịnh Hành Bà uống quả nhiên thực sự có thể đẩy vật chất từ không gian khác vào không gian này. Tất nhiên, tôi không nói rằng tu luyện nhất định phải ăn chay. Các phương pháp khác nhau có những yêu cầu khác nhau, thực ra, Đức Phật Thích Ca đương thời cũng không yêu cầu người xuất gia không được ăn thịt, thay vào đó ông yêu cầu những người xuất gia và tăng nhân: Thí chủ bố thí đồ ăn gì thì tăng nhân ăn đồ ăn đó, nhưng không được động tâm đối với màu sắc hương vị của đồ ăn, không được hữu cầu. Tôi muốn nói rằng qua câu chuyện này có thể thấy tu luyện là vô cùng nghiêm túc, cần phải yêu cầu nghiêm khắc đối với mọi tư tưởng, lời nói của người tu luyện, một suy nghĩ sai, một lời nói sai đều có thể chiêu mời những thứ không tốt đến, người tu luyện nhất định phải tu tâm, trong từng vấn đề nhỏ nhặt đều không được sản sinh chấp trước.

Trích từ: Di Kiên Chí – Chi Chí Đinh – Trịnh Hành Bà

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/257633

The post Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đức huệ của Phật Gia: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quânhttps://chanhkien.org/2020/08/duc-hue-cua-phat-gia-ton-trong-nguoi-khac-la-suc-manh-vuot-qua-ngan-quan.htmlFri, 28 Aug 2020 03:09:53 +0000https://chanhkien.org/?p=26506Tác giả: Lục Nhẫn chỉnh lý   [ChanhKien.org] Câu chuyện thứ nhất: Nhiệt tình giúp người khác, cứu thoát người khác trước Thủa xưa, có một hòa thượng trẻ trên đường đi hóa duyên về thì không may bị hai người bịt mặt bắt đi. Hòa thượng bị trói hai tay ra sau lưng, hai […]

The post Đức huệ của Phật Gia: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Nhẫn chỉnh lý

 

[ChanhKien.org]

Câu chuyện thứ nhất: Nhiệt tình giúp người khác, cứu thoát người khác trước

Thủa xưa, có một hòa thượng trẻ trên đường đi hóa duyên về thì không may bị hai người bịt mặt bắt đi. Hòa thượng bị trói hai tay ra sau lưng, hai chân cũng bị trói chặt, không cách nào đứng dậy được, sau đó lại còn bị bịt mắt, bịt miệng, cuối cùng, vị hòa thượng này bị nhốt vào một gian phòng ẩm ướt.

Anh ta cảm nhận mình bị ném vào một góc tường, vừa bực tức vừa sợ hãi, cảm thấy hoàn toàn bất lực, thậm chí còn cảm nhận được hơi thở âm u của cái chết. Sau một hồi vùng vẫy, cuối cùng lúc kiệt sức và tuyệt vọng, bỗng anh ta nghe thấy ở cách mình không xa có tiếng thở hổn hển, tiếng cựa quậy. Thế là anh nặng nhọc dịch từng chút một về hướng phát ra âm thanh ấy.

Ngay lúc anh ta chạm được đến người cũng bị trói kia, anh mới cảm thấy có một chút hy vọng được sống. Bằng cảm giác của mình, anh cố gắng dịch đến phía sau lưng người đó, úp lưng vào lưng người ấy, sau đó bắt đầu dùng những ngón tay còn có thể hoạt động của mình, lần tìm nút dây trên cổ tay người ấy. Sau một hồi cố gắng, anh đã thực sự mở được nút dây thừng trên cổ tay người kia. Ngay khi hai tay của người ấy được cởi trói, lập tức bịt mắt của hai người cũng được cởi, tiếp đó là mở trói hai tay cho anh ta. Hai người sau đó tự cởi trói chân của mình. Điều làm cả hai người ngạc nhiên và xúc động hơn đó là họ đều là hòa thượng của một ngôi chùa.

Hai người ngầm phối hợp với nhau để mở cửa sổ sau của gian phòng, lần lượt trèo qua cửa sổ thoát thân, chạy về chùa. Cả hai đều được cứu.

Hai người chưa định thần chạy đến gặp lão phương trượng trụ trì chùa để kể về cảnh ngộ kinh hãi họ gặp phải, lão phương trượng mỉm cười không giấu giếm nói: “Hai người các con trong nguy nan đã ngộ ra được con đường giải thoát, chúc mừng hai con… Ngày mai, chính các con đi giúp đỡ hai sư đệ khác khai ngộ nhé”. Nói xong, phương trượng đưa cho họ hai tấm khăn trùm đầu và bốn sợi dây thừng.

Đôi khi chúng ta bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn, không có cách nào để thoát ra, Lúc này chúng ta thường hy vọng được người khác giúp đỡ để được giải thoát. Kỳ thực, rất nhiều lúc chính chúng ta giúp đỡ người khác giải quyết khó khăn, mới có thể tự giải thoát được bản thân mình. Cũng giống như khi chúng ta dọn đá cản chân người khác, cũng chính là làm bằng phẳng con đường đi của mình.

Câu chuyện thứ hai: Đòn gánh

Vào thời cổ, có hai hòa thượng, mỗi người mang theo một hòm hành lý đi đường. Trên đường đi, hòm hành lý nặng trĩu làm cho họ thở không ra hơi. Họ đành phải liên tục đổi tay, khi tay trái mỏi thì đổi sang tay phải, khi tay phải mỏi thì đổi sang tay trái.

Đột nhiên, một hòa thượng dừng lại, mua một chiếc đòn gánh ở bên đường, treo hành lý của người ở hai bên đòn gánh.

Anh ta gánh cả hai chiếc hòm lên đường và cảm thấy nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Anh ta đã giúp đỡ người khác, nhưng cũng chính là giúp đỡ bản thân mình.

Câu chuyện thứ ba: Quý ở hai chữ “ngay chính”

Cao tăng Huệ Năng vì để khảo nghiệm huệ căn của rất nhiều tăng lữ trong chùa nên đã cho tu sửa pháp tượng Đạt Ma rất trang nghiêm trên đỉnh núi Phi Lai, và truyền lời rằng, các đồ đệ của chùa, ai có thể quang minh chính đại chạm tới huệ nhãn của sư tổ, người đó sẽ là người được truyền thừa y bát.

Các hòa thượng nghe thấy liền âm thầm bàn luận sôi nổi, vì sao trưởng lão trụ trì muốn tu sửa tượng Đạt Ma, phải chăng là vì để chuẩn bị cho tương lai, ai có thể chạm được với huệ nhãn của sư tổ sẽ là người được kế vị trụ trì chùa. Người ta cũng nói rằng đường lên đỉnh núi rất gập ghềnh khó đi, thậm chí có không ít các cao tăng đã viên tịch trên đường lên đỉnh núi. Có thể thấy rằng đường lên núi vô cùng khó khăn, nguy hiểm.

Trong chùa có một vị tăng nhân sớm đã dò ra lối đi tắt lên đỉnh núi, đi theo theo hướng đường tắt này, có thể rút ngắn đi một nửa chặng đường, thời gian đi đến đỉnh núi cũng nhanh hơn rất nhiều. Còn có những tăng nhân tập hợp thành nhóm đi lên theo con đường lớn bằng phẳng phía sau núi, chặng đường tuy dài nhưng bằng phẳng không có trở ngại nào.

Chỉ có một tăng nhân tên là Tâm Thiền đã quyết định đi lên đỉnh núi bằng con đường chính phía trước. Con đường chính lên đỉnh núi Phi Lai, thế núi dốc đứng, đường quanh co khúc khuỷu, đầy các bụi cây gai góc. Tâm Thiền từng bước từng bước gian nan trèo lên, vượt qua mọi chông gai, đổ không biết bao nhiêu mồ hồi và cả máu.

Lên đến đỉnh núi, Tâm Thiền thấy rằng rất đông các sư huynh sư đệ đã đến trước đứng trước tượng phật Đạt Ma thân vàng, họ đang chăm chú nhìn Tâm Thiền lững thững đến muộn.

Tâm Thiền cũng không cảm thấy xấu hổ, chầm chậm bước lên tượng Phật chạm vào huệ nhãn.

Ngay lúc này, cao tăng Huệ Năng bước ra tuyên bố Tâm Thiền có đủ huệ căn, có thể được truyền thừa y bát và quyết định truyền lại vị trí trụ trì trong tương lai cho Tâm Thiền. Chúng tăng nghe thấy vô cùng kinh ngạc, một số tăng nhân phàn nàn: “Tâm Thiền đến muộn nhất, phương pháp cứng nhắc, có thể nói không khôn ngoan chút nào. Vị trí trụ trì ấy sao có thể để anh ta ngồi được?”

Tuy nhiên, Huệ Năng nói: “Đời người trong giới tu hành, quí là ở hai chữ ngay chính. Lời nói cần phải ngay chính, suy nghĩ cần phải ngay chính, hành vi cần phải ngay chính. Mọi người đều đi đường tắt, chỉ có Tâm Thiền theo đường chính diện từng bước từng bước leo lên; mọi người đều đi theo đường lớn, chỉ có Tâm Thiền đi trong gai góc, cam chịu đổ mồ hôi và máu. Con đường anh ấy đi là con đường của vị Phật chân chính, còn chư vị thì lại không phải. Ta sao có thể giao chùa này cho những người có hành vi bất chính được? Hãy nhớ: Cần phải đi trên con đường chính đạo!”

Mọi người im lặng không nói được gì nữa.

Lời nói cần phải ngay chính, suy nghĩ cần phải ngay chính, hành vi cần phải ngay chính, đó là thước đo của Phật, đó là sự tu hành của Phật. Trước những lựa chọn trong sự nghiệp hoặc tình cảm của mình, điều mà rất nhiều người nghĩ đến trước hết là tìm cách đi tắt; hơn thế nữa, còn có người đi theo con đường sai lầm. Cả hai cách đó đều không phải là hành động sáng suốt. Con người ta sinh ra ở đời, cho dù bạn làm bất kỳ việc gì, đều phải từng bước cẩn thận, chắc chắn. Không được chỉ vì cái lợi trước mắt, cũng không được đầu cơ trục lợi, càng không thể bất chấp mọi thủ đoạn, nếu không sẽ bị lầm đường lạc lối.

Ghi nhớ: Cần phải đi theo con đường chính đạo.

Câu chuyện thứ tư: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quân

Ngày xưa, có một trưởng lão của một ngôi chùa Thiền tông rất giỏi làm bánh nướng. Những chiếc bánh nướng của nhà chùa làm ra vừa thơm, vừa ngọt, những người hành hương lên núi đều rất thích, họ đều bỏ tiền mua bánh để thưởng thức, vì thế hương hỏa của nhà chùa rất thịnh vượng.

Một ngày, có một người hành khất nhìn rất mệt mỏi từ phương xa đến chùa, lớn tiếng đòi thử bánh nướng. Những tiểu hòa thượng nhìn thấy người này vừa nhếch nhác, vừa bẩn thỉu nên đã không cho anh ta vào bếp, hai bên lời qua tiếng lại không dứt.

Lúc đó, trưởng lão xuất hiện, ông quở trách các đệ tử và nói: “Người xuất gia vì lòng từ bi, các con sao lại có thể làm thế được?” Rồi trưởng lão đích thân chọn cho người hành khất một chiếc bánh nướng to, cung kính mời người hành khất thưởng thức.

Người hành khất vô cùng cảm động, sau khi ăn xong liền lấy ra ba đồng tiền duy nhất mà mình có và nói: “Đây là toàn bộ số tiền mà tôi xin được, hy vọng trưởng lão có thể nhận nó”

Vị trưởng lão đã thực sự nhận tiền, hai tay hợp thập, trân trọng nói: “Thí chủ lên đường tốt lành!”

Các đệ tử đều rất khó hiểu bèn hỏi trưởng lão: “Đã là bố thí cho người ăn xin, thì sao lại có thể lấy tiền đó được?”

Trưởng lão đáp: “Anh ta chẳng phải từ nơi xa ngàn dặm đến đây chỉ vì muốn nếm thử cái bánh này, vì vậy cần phải cho anh ta ăn thử miễn phí; anh ta có tâm vươn lên thế này là rất hiếm có, hiểu được đạo lý đối nhân xử thế, vì vậy cần phải lấy 3 đồng tiền ấy của anh ta. Được sự khích lệ trân trọng này, thành tựu trong tương lai của anh ta nhất định sẽ lớn”.

Các đồ đệ hoàn toàn không đồng ý, trong tâm họ nghĩ thầm: “Sư phụ của chúng ta thật là hồ đồ, nói như đang mơ ngủ vậy”.

Mấy chục năm sau, có một vị thương nhân rất giàu có lên núi chỉ để cảm ơn về bữa ăn năm đó. Điều làm cho các lão hòa thượng giật mình sửng sốt là ông ta chính là người hành khất bỏ ba đồng tiền để ăn bánh trước kia!

Bố thí chiếc bánh có thể giúp cho người hành khất tránh được nỗi khổ đói khát, ngược lại lấy tiền bánh của người hành khất có thể làm cho anh ta thấy nhân cách của mình được tôn trọng. Ăn đầy bao tử chỉ có thể giải quyết nhu cầu tạm thời, nhưng sự tôn trọng về mặt tinh thần lại có thể khích lệ cả cuộc đời một con người. Đây chính là chỗ cao minh của trưởng lão.

Tôn trọng người khác là một sức mạnh có thể khích lệ người ta đi theo con đường chính đạo: Tôn trọng người khác đôi khi có thể khích lệ cả cuộc đời của họ, từ đó thay đổi vận mệnh của họ. Chúng ta cần học cách biết tôn trọng người khác. Sự tôn trọng kết hợp với tấm lòng nhân ái thường sẽ mang lại kết quả tốt đẹp bất ngờ. Hãy đối đãi với thế giới này bằng cả tấm lòng, hãy tôn trọng chính mình và tôn trọng tất cả mọi người bằng cả tấm lòng, lúc đó bạn sẽ phát hiện rằng bạn và những người xung quanh đều có tiềm lực vô hạn!

(Theo Truyện cổ Phật giáo)

 

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/258793

The post Đức huệ của Phật Gia: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đức huệ của Phật gia: Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không?https://chanhkien.org/2020/08/duc-hue-cua-phat-gia-cau-noi-nguoi-khong-biet-khong-co-toi-co-dung-khong-ba-cau-chuyen.htmlMon, 03 Aug 2020 15:37:56 +0000https://chanhkien.org/?p=26471Tề Chỉnh Thăng chỉnh lý   [ChanhKien.org] 1. Phần thưởng của quốc vương Xưa kia có một vị vua của vương quốc Ba Tư, một ngày nhà vua đang đi dạo, khi đến cổng sau của hoa viên, ông nghe thấy hai người thị vệ đang tranh luận với nhau. Một người nói: “Tôi dựa […]

The post Đức huệ của Phật gia: Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tề Chỉnh Thăng chỉnh lý

 

[ChanhKien.org]

1. Phần thưởng của quốc vương

Xưa kia có một vị vua của vương quốc Ba Tư, một ngày nhà vua đang đi dạo, khi đến cổng sau của hoa viên, ông nghe thấy hai người thị vệ đang tranh luận với nhau. Một người nói: “Tôi dựa vào vua, tất cả mọi thứ của tôi đều là do vua ban cho”. Người kia lại nói: “Tôi không dựa vào cái gì, mọi thứ của tôi đều phụ thuộc vào số phận của chính tôi”.

Nhà vua nghe xong thấy rất thích người thị vệ đã nói “dựa vào ơn vua”, liền có ý định ban thưởng cho anh ta. Thế là nhà vua ra lệnh: “Người đâu!” Người thị vệ đang làm nhiệm vụ ngay lập tức đến trước mặt nhà vua. Nhà vua nói với anh ta: “Ta sẽ phái một thị vệ đến gặp hoàng hậu, ngươi đến bẩm báo với hoàng hậu rằng hãy trọng thưởng tiền, quần áo và châu báu cho anh ta”.

Sau đó, nhà vua cho gọi người thị vệ đã nói “dựa vào ơn vua” đến, bảo anh ta mang nửa bình rượu quý và hoa quả mà các sứ giả nước ngoài đã tiến cống đến tặng cho hoàng hậu.

Không ngờ, người thị vệ này mắc căn bệnh kinh niên chảy máu cam. Anh ta vừa mang rượu và hoa quả ra khỏi cửa, thì đột nhiên máu mũi chảy không ngừng, vừa đúng lúc đó anh ta gặp người thị vệ nói “phụ thuộc vào số phận của chính tôi”, thế là anh ta đành phải nhờ người kia thay mình mang rượu và hoa quả đến cho hoàng hậu. Hoàng hậu nhìn thấy người thị vệ mang rượu đến, bà theo lời chỉ thị của nhà vua trọng thưởng cho anh ta rất nhiều tiền, quần áo và châu báu.

Người thị vệ được ban thưởng đó trở về bẩm báo với nhà vua. Nhà vua nhận thấy người này không phải là người đã nói câu “dựa vào ơn vua”, thì cảm thấy vô cùng kinh ngạc, lập tức cho gọi người thị vệ kia đến hỏi: “Ta bảo ngươi mang rượu và trái cây đến cho hoàng hậu, tại sao ngươi lại không đi?”

Người thị vệ đó trả lời: “Con vừa bước ra khỏi cửa thì bất ngờ bị chảy máu cam liên tục, không thể đi đến chỗ hoàng hậu được, con đành nhờ anh ta mang rượu của đức vua ban tặng cho hoàng hậu”.

Nhà vua thở dài nói: “Giờ ta mới minh bạch rằng, Đức Phật dạy “Tự tạo nghiệp thì tự nhận quả báo” đúng là chân lý. Mỗi người đều có số mệnh riêng, không thể thay đổi”.

Tất cả mọi thứ bên ngoài đều không thể dựa vào được, số phận của bản thân mình phải dựa vào bản thân hàng ngày tích đức hành thiện, kính trời trọng mệnh, thuận theo tự nhiên mới là tốt.

2. Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không?

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng pháp, Ngài thường thể hiện sự hòa nhã dễ gần, Ngài hay nói về những sự việc mà các đệ tử quen thuộc và thích nghe. Mặc dù Ngài giảng giáo lý, nhưng không hề khô khan nhàm chán, cũng không phải nghiêm mặt dạy bảo mọi người. Để mọi người có thể hiểu được, lời giảng giáo lý của Ngài luôn rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, dùng rất nhiều ví dụ, các môn đệ đều cảm thấy vô cùng gần gũi.

Một ngày nọ, sau khi Thích Ca Mâu Ni giảng pháp, Ngài dành ra một chút thời gian để các đệ tử nêu câu hỏi. Có một đệ tử xin Ngài thỉnh giáo: “Con không biết câu nói ‘người không biết không có tội’ có đúng không?”

Thích Ca Mâu Ni không trả lời trực tiếp câu hỏi này mà nêu một ví dụ: “Bây giờ có một chiếc kẹp gắp than đang bị nung trong lò lửa, nhưng mắt thường lại không thấy được chiếc kẹp gắp than này rất nóng. Nếu bảo con cầm chiếc kẹp gắp này, con thử nghĩ xem nếu biết nó nóng thì con sẽ bị bỏng nghiêm trọng hơn, hay khi không biết nó nóng thì con sẽ bị bỏng nghiêm trọng hơn?”

Đệ tử nghĩ một lúc rồi trả lời rằng: “Thưa Đức Phật, là khi không biết nó nóng thì sẽ bị bỏng nghiêm trọng hơn. Bởi vì không biết nên mới không chuẩn bị tâm lý trước, khi bị bỏng sẽ không kịp trở tay đề phòng”.

Thích Ca Mâu Ni hòa nhã nói: “Đúng thế! Nếu con biết chiếc kẹp rất nóng thì khi cầm nó lên con sẽ tập trung chú ý cảnh giác, không dám mảy may khinh xuất, lúc cầm sẽ không nắm chặt nó. Nếu con không biết chiếc kẹp gắp rất nóng thì khi cầm nó lên con sẽ nắm chặt lấy nó. Vậy có thể thấy rằng không phải là “người không biết là không có tội”, mà là người không biết sẽ chịu tổn hại nặng nề nhất, gánh chịu tội nghiệp và khổ nạn càng nghiêm trọng hơn. Con người chính là vì không hiểu rõ chân lý nên mới trầm luân trong bể khổ”.

Vô tri mới là ngu muội, bị lừa mới là nghiêm trọng. Hiểu biết mới có thể giúp người ta sáng suốt. Những người nghe theo kẻ tà ác miệt thị Thần Phật, không hiểu rõ sự thực, phản Thần loạn Pháp, bị đầu độc nghiêm trọng, cần mau chóng tỉnh ngộ mới có thể thoát khỏi tai hoạ.

3. Các thương nhân hỏi: “Đâu là pháp môn thuận tiện?”

Ngày xưa, ở vương quốc La Đà có một vị Bồ Tát, thương nhân của nước này mỗi lần ra biển để tìm kiếm báu vật đều mời vị Bồ Tát này lên thuyền, hy vọng với sự trợ giúp của ông có thể biến nguy thành an, mục đích để được bình yên. Về sau, vị Bồ Tát này vì tuổi già sức yếu, không muốn theo họ ra biển nữa, nhưng vì không nỡ từ chối lời khẩn cầu nài nỉ của thương nhân, ông lại đồng ý đi.

Con thuyền đang trên đường hướng về nơi có báu vật thì trên bầu trời nổi gió bắc, con thuyền lệch khỏi hướng đi và trôi thẳng về phía nam. Đến ngày thứ bảy, nước biển bỗng nhiên lại biến thành màu vàng, giống như trải lên một lớp vàng.

Các thương nhân hỏi Bồ Tát: “Vì sao nước biển xanh lại có thể biến thành màu vàng?”

Vị Bồ Tát nói: “Chúng ta đã đi vào biển vàng, nơi này chứa vô số vàng, khắp mọi nơi đều sáng lấp lánh, nên mới có tình huống này xuất hiện. Nhưng thuyền của chúng ta đã đi chệch hướng, việc này vô cùng nguy hiểm, chúng ta nhất thiết không được tham tiếc biển vàng này, phải quay về phía bắc”. Không ngờ, con thuyền thuận theo chiều gió tiếp tục trôi về phía nam. Vài ngày sau, nước biển lại xuất hiện màu trắng, giống như một thế giới băng tuyết.

Vị Bồ Tát lại nói với các thương nhân: “Bây giờ, chúng ta đang ở trong biển ngọc trai. Ở đây toàn là các viên ngọc trai, màu sắc các viên ngọc hòa vào nhau, nên xuất hiện loại ánh sáng này. Nhưng chúng ta đang càng ngày càng cách xa mục tiêu, mọi người phải nghĩ mọi biện pháp để trở về phương bắc”. Tuy nhiên, chiếc thuyền vẫn cứ theo chiều gió, tiếp tục trôi về phía nam.

Vài ngày sau, nước biển lại đổi màu, lần này biến thành màu xanh lam, không khác gì được trải lên một lớp ngọc lưu ly. Vị Bồ Tát nói với các thương nhân: “Bây giờ chúng ta đến biển ngọc lưu ly màu xanh, trong biển này có vô số ngọc lưu ly xanh, màu xanh của ngọc lưu ly phản chiếu lên nên mới biến thành màu này”.

Vài ngày sau, màu nước biển lại thay đổi lần thứ tư, lần này lại biến thành màu đỏ giống như một biển máu. Vị Bồ Tát nói với các thương nhân: “Bây giờ, chúng ta đã đi vào biển lưu ly màu đỏ, trong biển có vô số ngọc lưu ly đỏ, do màu đỏ của ngọc lưu ly phản chiếu lên nên mới xuất hiện quang cảnh này”.

Vài ngày sau, màu nước biển lại thay đổi lần thứ năm, giống như một mảng mực đen, khắp nơi đều một màu đen kịt. Tiếp đó, một tiếng nổ lớn từ xa vọng lại, âm thanh dữ dội, như thể ngọn lửa dữ dội đốt cháy cả khu rừng tre khô. Sau đó, khi con thuyền trôi dạt về phía nam, đột nhiên có một cột lửa khổng lồ bốc lên từ đáy biển, phóng thẳng lên trời.

Các thương nhân nhìn thấy tình huống khủng khiếp như vậy, họ đột nhiên nhận ra rằng tính mệnh của họ khó có thể bảo toàn.

Họ than vắn thở dài, không biết bấu víu vào đâu, cuối cùng phải cầu cứu sự giúp đỡ của vị Bồ Tát. Lúc đó, Bồ Tát nói: “Ngay cả bậc đại trượng phu trên thế gian cũng đều tham sống sợ chết. Bi thương tuyệt vọng chỉ khiến con người mất đi lý trí, mọi người vẫn muốn nghĩ cách giải quyết, hãy dùng pháp môn thuận tiện để thoát khỏi bể khổ”. Các thương nhân đều hỏi: “Thế nào là pháp môn thuận tiện?”

Bồ Tát nói với các thương nhân: “Vứt bỏ ích kỷ và lợi ích cá nhân! Kính tín Thần Phật! Cầu Thần linh bảo hộ thì có thể chuyển họa thành phúc. Đó chính là pháp môn thuận tiện. Chỉ có thành tâm hối cải, nếu có thể bỏ ác theo thiện thì sẽ an toàn đến miền cực lạc. Mọi người không nên ủ rũ, phải thật thành tâm niệm Phật!”

Mọi người lập tức thắp hương rồi lễ bái Thần Phật, cầu nguyện cho gió yên sóng lặng. Một lúc sau, gió dữ cuối cùng cũng dừng lại, mọi người mới thoát khỏi nguy hiểm, đến nơi cất giữ kho báu, toại nguyện ước muốn có được nhiều vàng bạc châu báu.

Lúc đó, vị Bồ Tát nói với các thương nhân: “Những vàng bạc châu báu này ở thế gian khó gặp. Bởi vì đời trước chư vị đã từng bố thí nên đời này mới có được những châu báu quý giá này. Tuy rằng trong kiếp trước các vị đã bố thí khắp nơi, nhưng lại có tâm keo kiệt, nên bây giờ mới gặp phải gió dữ, tinh thần và sức lực kiệt quệ, hoảng loạn và khổ não. Chư vị cần phải biết dùng số vàng bạc châu báu này. Nếu tham lam vô độ, chắc chắn sẽ lại gặp tai nạn. Trong quá trình tìm kiếm kho báu, sinh mệnh là thứ có giá trị nhất, đó mới là kho báu vô giá thực sự! Tiết chế dục vọng và không tham lam, chỉ lấy phần mà mình nên được, vậy mới có thể bình an, hạnh phúc. Sống trong an lạc nhưng không quên những người nghèo đói, nhiệt tình cứu khổ, giúp đỡ người khác mới có thể may mắn lâu dài”.

(Theo “Truyện cổ kinh điển Phật gia”)

The post Đức huệ của Phật gia: Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu Phậthttps://chanhkien.org/2020/03/cau-chuyen-tu-phat.htmlFri, 06 Mar 2020 14:59:16 +0000https://chanhkien.org/?p=26103Tác giả: Cổ Quang   [ChanhKien.org] 1. Ra khỏi lồng Đạt Ma là đệ tử đời thứ 28 của Thích Ca Mâu Ni. Khi ông đến Trung Quốc truyền pháp độ nhân đã trải qua rất nhiều gian khổ, mọi người đều không tin vào Phật pháp mà ông truyền. Một hôm đang đi trên […]

The post Câu chuyện tu Phật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Cổ Quang

 

[ChanhKien.org]

  1. 1. Ra khỏi lồng

Đạt Ma là đệ tử đời thứ 28 của Thích Ca Mâu Ni. Khi ông đến Trung Quốc truyền pháp độ nhân đã trải qua rất nhiều gian khổ, mọi người đều không tin vào Phật pháp mà ông truyền. Một hôm đang đi trên đường, Đạt Ma nghe thấy một con vẹt trong lồng nói: “Người từ phía Tây đến ơi! Xin ông hãy dạy tôi cách ra khỏi lồng”. Đạt Ma nhìn con vẹt và nói: “Ra khỏi lồng, ra khỏi lồng! Hai mắt nhắm lại, chân duỗi thẳng, nín thở. Đó là cách để ngươi ra khỏi lồng”. Con vẹt làm theo như vậy, khi chủ nhân quay lại xem, không hiểu sao con vẹt lại chết thế này! Xem ra mới chết không lâu, thân thể vẫn còn ấm, bèn lấy nó ra khỏi lồng và đặt nó lên cỏ.

Câu chuyện này nói với người tu luyện một đạo lý: Muốn ra khỏi chiếc lồng tam giới thì cần phải làm được ba điều:

1) Hai mắt nhắm lại, không bị mê hoặc bởi giả tướng nơi trần thế, không hướng ngoại nhìn, mà phải hướng nội quan sát, hướng nội tìm.

2) Duỗi thẳng chân, ngừng bôn ba truy cầu theo lợi và sắc, buông bỏ thất tình lục dục.

3) Nín thở, không tức giận thì sẽ không oán không hận. Làm được tu khẩu là đóng cổng  địa ngục.

Những người làm được ba điều này thì có thể thoát khỏi cái lồng tam giới này.

2. Răng gãy nuốt vào bụng

Một hôm Thần Quang tay lần chuỗi tràng hạt đang giảng Phật pháp cho mọi người. Đạt Ma cũng đến nghe giảng đạo, sau khi nghe xong Đạt Ma nói với Thần Quang: “Phật pháp mà ông giảng không thể độ nhân thoát khỏi sinh tử được nữa, làm đệ tử đi sai đường rồi”. Thần Quang tức giận, giơ tay trái lên đập chuỗi tràng hạt (tràng hạt bằng sắt) vào Đạt Ma, Đạt Ma né đầu về phía sau, chuỗi tràng hạt đánh trúng vào răng làm gẫy hai chiếc răng cửa. Đạt Ma biết rằng nếu nhổ răng ra đất thì trong bán kính trăm dặm sẽ bị đại hạn ba năm. Vì không muốn thiên tai này xảy ra, nên ông đành phải nuốt răng vào bụng.

3. Chặt đứt tay trái để cầu Phật pháp

Một đêm, Thần Quang nhìn thấy hai vị Hắc Bạch Vô Thường cầm Câu Hồn bài nói với ông về thời gian ông chết. Thần Quang không hiểu hỏi Vô Thường rằng: “Tôi thành tâm tu Phật đã nhiều năm, mà còn không thể thoát khỏi sinh tử sao? Thế thì trên đời này rốt cuộc có Phật pháp giúp thoát khỏi sinh tử không?” Vô Thường nghĩ một lúc rồi nói: “Có, chính là người bị ngươi đánh một chuỗi tràng hạt đó, ông ấy có Phật pháp giúp thoát khỏi sinh tử”. Lúc này Thần Quang mới tìm đến Đạt Ma.

Thần Quang trải qua muôn vàn gian khổ mới tìm được Đạt Ma, ông quỳ ngoài động thỉnh cầu Đạt Ma dạy Phật pháp cho ông. Đạt Ma nói hiện giờ thời cơ chưa đến, đợi đến khi tuyết đỏ trên trời rơi xuống mới đến thời cơ. Một ngày nọ khi tuyết rơi dày, Thần Quang dùng dao chặt đứt cánh tay trái, ngay lập tức tuyết trắng xung quanh chuyển sang màu đỏ, lúc này Đạt Ma mới chính thức thu nhận Thần Quang làm đệ tử.

Thần Quang vì đánh chuỗi tràng hạt vào Đạt Ma mà gây ra tội nghiệp, sau đó nhờ thành tâm hối cải nên đã giảm nhẹ rất nhiều, cuối cùng phải hoàn trả bằng một cánh tay bị chặt đứt, đó chính là thiên lý.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn có những nhân viên thi hành pháp luật đang tham gia bức hại những học viên tu luyện Pháp Luân Phật Pháp, đến nay rất nhiều người đã phải gặp ác báo, đây là hậu quả mà mỗi người tu luyện Đại Pháp đều không muốn thấy. Đó là lý do tại sao học viên tu luyện Đại Pháp không quản nguy hiểm bị bắt, bị đánh đập, bị giam giữ, vẫn nói cho họ biết sự thật và hy vọng họ sớm tránh xa cái ác.

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/256671

The post Câu chuyện tu Phật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Lai lịch tượng Kiều Diện Đầu Văn Thù Bồ Tát ở chùa Tượng Thù núi Ngũ Đài Sơnhttps://chanhkien.org/2018/09/chuyen-co-phat-gia-lai-lich-tuong-kieu-dien-dau-van-thu-bo-tat-o-chua-tuong-thu-nui-ngu-dai-son.htmlSun, 09 Sep 2018 14:46:18 +0000http://chanhkien.org/?p=25410Tác giả: Học viên Pháp Luân Công [ChanhKien.org] Chùa Thù Tượng nằm ở phía tây nam thị trấn Đài Hoài, Ngũ Đài Sơn được xây dựng vào thời đầu Đông Tấn (năm Tây Nguyên thứ 317). Trong ngôi chùa này thờ cúng pho tượng Văn Thù Bồ Tát lớn nhất Ngũ Đài Sơn. Pho tượng […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Lai lịch tượng Kiều Diện Đầu Văn Thù Bồ Tát ở chùa Tượng Thù núi Ngũ Đài Sơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Học viên Pháp Luân Công

[ChanhKien.org] Chùa Thù Tượng nằm ở phía tây nam thị trấn Đài Hoài, Ngũ Đài Sơn được xây dựng vào thời đầu Đông Tấn (năm Tây Nguyên thứ 317). Trong ngôi chùa này thờ cúng pho tượng Văn Thù Bồ Tát lớn nhất Ngũ Đài Sơn. Pho tượng Văn Thù Bồ Tát này còn có một tên khác là “Kiều Diện Đầu Văn Thù Bồ Bát” (Tượng Văn Thù Bồ Tát  phần đầu làm bằng bột kiều mạch), đây là một câu chuyện có thật.

Vào thời xưa khi các thợ thủ công tạc tượng Văn Thù Bồ Tát, lúc tượng Bồ Tát cưỡi Thần thú là con nghê sắp được tạc xong (con nghê là con thứ năm trong truyền thuyết về rồng sinh chín con, dân gian gọi là “lục mao sư tử” – sư tử lông xanh), tượng Bồ Tát còn thiếu phần đầu, các thợ thủ công có phần lúng túng vì chưa ai từng thấy khuôn mặt Bồ Tát rốt cuộc thần thái ra sao. Người nói phải tạc thế này, người nói phải tạc thế kia, mỗi người một ý. Trong khi các thợ thủ công còn đang khổ não vì không biết phải tạc khuôn mặt Bồ Tát ra sao, trong nhóm thợ thủ công có một anh đầu bếp đang làm cơm ở nhà bếp với bột kiều mạch, nghe thấy ngoài sân có tiếng ồn ào, tưởng có chuyện gì vội vàng chạy ra xem. Sau khi biết rõ sự tình, anh lớn tiếng nói: “Tượng Bồ Tát không thể tuỳ tiện mà tạc được, mọi người có cãi lộn ầm ĩ cũng chẳng ích gì!” Nghe anh nói xong không ai nói được gì nữa.

Anh đầu bếp quay lại nhà bếp, đang chuẩn bị làm bánh kiều mạch thì đột nhiên thấy hào quang chiếu rọi vào phòng, anh đầu bếp mở cửa sổ ra nhìn lên trời, hoá ra chính là Văn Thù Bồ Tát ở giữa không trung, hiển hiện trước mặt anh với vẻ mặt từ bi, hào quang tỏa sáng. Lúc đó mà đi tìm anh thợ thủ công để mô phỏng lại thì không kịp nữa, trong lúc cấp bách anh chợt nảy ra sáng kiến, anh lấy hết bột kiều mạch ra phỏng theo chân dung Bồ Tát mà nặn. Anh vừa nặn xong phần đầu thì Văn Thù Bồ Tát biến mất. Sau khi các thợ thủ công tới, họ vội vàng mang phần đầu nặn bằng bột kiều mạch đặt lên thân tượng, giát vàng ra bên ngoài. Mọi người liền gọi pho tượng Bồ Tát này là “Kiều Diện Đầu Văn Thù Bồ Tát”.

Pho tượng Kiều Diện Đầu Bồ Tát này được thờ trong điện Đại Văn Thù, phía sau tượng Văn Thù hướng ra cửa hậu còn thờ một pho tượng Quan Âm Bồ Tát. Từ trước tới nay, đa số tượng Quan Âm trong chùa đều quay mặt về hướng nam, nhưng tượng Quan Âm trong chùa Văn Thù lại quay mặt về hướng bắc, do đó được gọi là “Quan Âm ngồi ngược”. Điều thú vị là trên bức tường bình phong phía ngoài cửa hậu có vẽ một bức tranh La Hán hàng phục mãnh hổ, hai bên có câu đối: “Hỏi Quan Âm vì sao ngồi ngược, hận phàm phu không chịu quay đầu”. Câu đối này mang hàm nghĩa nghiêm túc mà sâu sắc rằng không phải Thần Phật không thể phổ độ chúng sinh, mà là kẻ phàm phu tục tử không chịu vứt bỏ chấp trước. Ngoài ra, trên vách đại điện còn vẽ 500 vị La Hán, cả toà đại điện mang vẻ trang nghiêm và thần thánh.

Hoàng đế Khang Hi từng năm lần đến lễ trên núi Ngũ Đài Sơn, đã ngự đề lên hoành phi ở chùa Tượng Thù: “Thụy tướng thiên nhiên”, có nghĩa là tượng Văn Thù Bồ Tát giống như được trời sinh ra vậy. Sau này, hoàng đế Càn Long cũng sáu lần đến lễ ở Ngũ Đài Sơn, cũng ngự bút hoành phi ở chùa Tượng Thù: “Đại viên kính trí”, còn ra lệnh phỏng theo chùa Văn Thù để xây dựng một ngôi chùa ở Thừa Đức để thờ cúng tại gia, lại dựa vào trí nhớ lệnh cho người tạc một pho tượng phỏng theo tượng Kiều Diện Đầu Văn Thù Bồ Tát để thờ cúng ở chùa Hương Sơn Bảo Tượng. Như vậy có thể thấy hoàng đế Càn Long rất coi trọng và kính ngưỡng đối với chùa Tượng Thù và Văn Thù Bồ Tát.

Tại sao người đầu bếp này có thể nhìn thấy Bồ Tát hiển linh, tôi nghĩ chính vì anh ấy đã nói rằng: “Tượng Bồ Tát không thể tuỳ tiện mà tạc được”, trong đó đã bao hàm tấm lòng tôn kính đối với Bồ Tát. Ngày nay, rất nhiều người không tin Thần cho rằng: Tôi phải nhìn thấy Thần thì tôi mới tin. Kỳ thực, Thần tuyệt đối sẽ không tùy tiện hiển hiện cho con người xem, đặc biệt là với những người không tin vào Thần, nếu không có nhân duyên đặc biệt thì Thần sẽ không hiển hiện cho họ thấy. Ngày nay có nhiều người tu luyện tin vào Thần, tôn kính Thần, không ngừng đề cao chuẩn mực đạo đức, không ngừng làm người tốt, nhờ đó có thể được trải nghiệm Thần tích, thậm chí có thể trực tiếp nhìn thấy Thần, bản thân họ có thể chứng thực một cách chân thực sự tồn tại của Thần Phật cùng sự vĩ đại trong tu luyện Phật Pháp.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245082

 

The post Chuyện cổ Phật gia: Lai lịch tượng Kiều Diện Đầu Văn Thù Bồ Tát ở chùa Tượng Thù núi Ngũ Đài Sơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh háthttps://chanhkien.org/2016/08/cau-chuyen-phat-gia-cuoc-doi-thoai-giua-duc-phat-thich-ca-mau-ni-va-truong-doan-ganh-hat.htmlWed, 03 Aug 2016 04:55:29 +0000http://chanhkien.org/?p=24816Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến hóa duyên ở nước Ma Kiệt Đà, Ngài ở tại tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà ở phía bắc thành Vương Xá. Một hôm, có một vị trưởng đoàn gánh hát nổi tiếng […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát. (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm)

Một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến hóa duyên ở nước Ma Kiệt Đà, Ngài ở tại tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà ở phía bắc thành Vương Xá. Một hôm, có một vị trưởng đoàn gánh hát nổi tiếng thời bấy giờ đến tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà. Ông đến hành lễ trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cung kính hỏi rằng: “Trước đây, con từng nghe các bậc tiền bối trong giới văn nghệ nói rằng: Nếu người nghệ nhân có thể biểu diễn hết mình trước quần chúng, mang niềm vui đến cho mọi người, giúp mọi người vui cười thỏa thích, vậy thì người nghệ nhân đó sau khi chết có thể có một cuộc sống vui vẻ nơi cõi trời. Nói như vậy Ngài thấy có đúng không?”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: “Chúng ta không nên bàn đến chuyện này nữa, ông đừng hỏi ta nhìn nhận sự việc này như thế nào”. Vị trưởng đoàn gánh hát vẫn không nản lòng, hỏi đi hỏi lại ba lần, Đức Phật đành phải trả lời: “Ta hỏi ông câu này, ông nghĩ thế nào hãy trả lời như thế. Trước đây, khi thế gian còn chưa có đấng cứu độ, mọi người đều chưa xa rời khỏi tham sân si, cũng không biết được cần phải xa rời tham sân si, vẫn bị trói buộc bởi tham sân si. Nội dung các vở biểu diễn ca múa hý kịch của nghệ nhân cũng không tách khỏi tham sân si, như vậy mới có thể phù hợp với thị hiếu của mọi người, thu hút mọi người đến xem. Mọi người đến xem nghệ nhân biểu diễn, vui cười thỏa thích, há chằng phải lại càng làm mạnh thêm tâm tham sân si của họ hay sao, khiến cho mọi người càng bị trói buộc vào tham sân si hay sao? Đây chính là giống như một người bị trói hai tay ngược ra đằng sau bằng dây gai, có người muốn hành hạ anh ta càng đau đớn hơn, bèn liên tục tưới nước lên sợi dây gai, dây gai hút nước liền nở ra, khiến dây trói càng chặt hơn, vậy há chẳng phải là khiến anh ta càng bị trói chặt hơn, càng đau khổ hơn hay sao?”

“Đúng vậy”, vị trưởng đoàn gánh hát trả lời.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Vậy nên chúng sinh đã không thể xa lìa sự trói buộc của tham sân si, lại còn chịu sự kích động của ca múa hý kịch, há chẳng phải là càng làm tăng thêm tâm tham sân si của họ sao?”

Vị trưởng đoàn gánh hát nghe xong không thể không thừa nhận lời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói có đạo lý: các màn biểu diễn ca múa hý kịch giúp cho mọi người vui cười thỏa thích, nhưng cũng kích động chúng sinh tăng thêm tâm tham sân si, nên càng khiến chúng sinh bị trói buộc sâu hơn vào tham sân si.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng tiếp: “Vậy nên, các bậc tiền bối trong giới văn nghệ xưa nay nói rằng người nghệ nhân biểu diễn ca múa hý kịch mang niềm vui đến cho mọi người, giúp mọi người vui cười thỏa thích, thì sau khi chết có thể có cuộc sống vui vẻ nơi cõi trời, quan điểm đó là tà kiến sai lầm! Thành thật mà nói, những người ôm giữ tà kiến như vậy sau khi chết chỉ có thể rơi vào địa ngục hoặc đầu thai làm súc vật, sao có thể lên trời được?”

Trưởng đoàn gánh hát sau khi nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp xong, lập tức quy y Phật Pháp. Nghe nói vị này về sau đã tu thành quả vị A La Hán.

Kỳ thực nếu như dùng hình thức ca múa nghệ thuật để tuyên dương các loại tà kiến, quan điểm sai lầm, văn hóa tà đảng, thuyết vô thần, thuyết tiến hóa và những thứ làm bại hoại đạo đức nhân loại, những thứ văn hóa phẩm đồi trụy hạ lưu, những thứ làm tăng trưởng tâm chấp trước của con người, vậy thì sẽ đều gây hại cho con người. Tuy nhiên, thuận theo sự bại hoại của nhân loại, đa số các tác phẩm nghệ thuật trong giới văn nghệ hiện nay đều mang ít nhiều những nội dung bất chính như vậy; đặc biệt là ở Trung Quốc đại lục ngày nay, trên truyền hình (nhất là chương trình truyền hình trung ương Trung Quốc), đài phát thanh, cho đến báo chí truyền thông đều ồ ạt phát đi các chương trình với nội dung ca tụng văn hóa tà đảng, miệt thị Thần Phật, phủ nhận tu luyện, cổ xúy đấu tranh, tuyên dương tà đảng và kẻ đầu sỏ của nó, bóp méo lịch sử, tô vẽ kẻ xấu, bôi nhọ người tốt…

Các chương trình, tiết mục do tà đảng làm ra này chứa một lượng lớn độc tố khiến người xem bị đầu độc nghiêm trọng. Chính những người gọi là nghệ sĩ, người của công chúng này đang phục vụ cho tà đảng đầu độc chúng sinh, chính họ cũng đang tạo nghiệp.

Trái lại, nếu dùng hình thức nghệ thuật chính thống chân chính để ca ngợi Thần Phật, ca ngợi những người tu luyện chân chính, ca ngợi vẻ đẹp của Phật Pháp, vạch trần tà ác, thức tỉnh lương tâm con người thế gian và chúng sinh, tuyên dương những điều ngay chính, tốt đẹp, vậy thì đều tốt cho nhân loại, cho chúng sinh, thậm chí là một việc đại thiện, tích vô lượng công đức. Hiện nay, các học viên Pháp Luân Đại Pháp ở hải ngoại đã thông qua các hoạt động nghệ thuật như “Triển lãm mỹ thuật quốc tế Chân Thiện Nhẫn” , “Thiên Quốc Nhạc Đoàn”, “Đoàn Nghệ Thuật Thần Vận” để thức tỉnh chúng sinh, cứu độ con người thế gian. Những việc làm của họ chính là việc đại thiện, tích công đức vô lượng. Nhân loại tương lai sẽ mãi mãi ca tụng những người nghệ sỹ vĩ đại này.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2008/05/08/52731.佛家故事:释迦牟尼佛与歌舞团团主的对话.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhân quả báo ứng: Đi vào không gian khác mới biết Phật Pháp uy nghiêm, báo ứng vô tìnhhttps://chanhkien.org/2016/07/nhan-qua-bao-ung-di-vao-khong-gian-khac-moi-biet-phat-phap-uy-nghiem-bao-ung-vo-tinh.htmlFri, 08 Jul 2016 03:32:26 +0000http://chanhkien.org/?p=24798Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Giữa năm Thiệu Thánh – Tống Triết Tông thời Bắc Tống (tháng 04 năm 1094 – tháng 05 năm 1098), có một vị tăng nhân du ngoạn lên núi Thiên Thai, Triết Giang. Trên đường đi ông bị lạc, cuối cùng ông lại […]

The post Nhân quả báo ứng: Đi vào không gian khác mới biết Phật Pháp uy nghiêm, báo ứng vô tình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org] Giữa năm Thiệu Thánh – Tống Triết Tông thời Bắc Tống (tháng 04 năm 1094 – tháng 05 năm 1098), có một vị tăng nhân du ngoạn lên núi Thiên Thai, Triết Giang. Trên đường đi ông bị lạc, cuối cùng ông lại đi đến núi Ốc Tiêu thuộc huyện Tân Xương, Việt Châu (ngày nay là huyện Tân Xương, tỉnh Triết Giang). Ông phát hiện trước mặt có một ngôi chùa lớn, trong chùa im ắng không một tiếng người.

Vị tăng nhân rất thích thú trước cảnh hàng cây thẳng tắp trong sân chùa, tiếp đó ông đi vào trong điện sảnh lớn của ngôi chùa, nhìn thấy các quan lại đang xử án rất nghiêm minh. Ông bắt đầu cảm thấy nơi đây không giống cảnh tượng một ngôi chùa trong núi sâu. Lát sau, ông từ từ tiến vào nơi giảng pháp, đi ngang qua hai tòa nhà, cuối cùng nhìn thấy mấy vị trưởng lão Phật giáo. Các vị trưởng lão ngồi đối diện nhau, im lặng không nói lời nào. Vị tăng nhân bước lên muốn hỏi thăm, trưởng lão xua tay ngăn ông lại, tăng nhân cũng không dám hỏi thêm nữa.

Vị tăng nhân bèn đi xuống tăng đường, đứng bên cạnh quan sát, một lúc sau, nghe thấy có người mời một vị trưởng lão thăng đường, trưởng lão đó kêu khóc ngồi vào chỗ, có một người mặc áo tím mang theo sớ vàng đứng trước mặt trưởng lão. Trong nháy mắt, chỉ thấy lửa từ trong thân trưởng lão bốc lên, tràn ra cháy khắp toàn thân, không sót lại gì, hết thảy đều đốt thành tro, sau đó lại theo thứ tự thăng đường, vòng đi vòng lại. Tăng nhân hỏi viên quan, họ đang làm gì ở đây. Viên quan trả lời rằng, mấy trưởng lão Phật giáo này lúc còn sống không tuân thủ giới luật Phật giáo, lại làm người trụ trì trong chùa, còn phỉ báng Phật pháp, vậy nên phải nhận báo ứng này. Tăng nhân biết đây không phải là nhân gian, lấy làm sợ hãi vội vàng rời khỏi chùa. Đến lưng chừng núi, thấy có mấy tên lính đang đuổi theo một bà lão, bà lão này trông có vẻ rất giống mẹ của ông. Tăng nhân vội vàng ngoảnh đầu nhìn kỹ, nghe thấy bà lão kêu gào với ông rằng, vì ông bình thường hay đàm luận lung tung về trí huệ của Phật pháp nên mới khiến bà bị liên lụy đến bước đường thê thảm thế này. Mấy tên lính đuổi theo phía sau rất gấp, nên hai mẹ con cũng không nói thêm được lời nào nữa.

Vị tăng nhân xuống núi tìm đường, hỏi người địa phương đây là núi gì, trên núi có chùa gì. Người địa phương nói vùng này không có ai lên núi, cũng không có chùa miếu nào, họ còn chỉ cho ông đường lên núi Thiên Thai, hỏi thời gian mới biết đã ba ngày trôi qua rồi. Vị tăng nhân cũng không đi du ngoạn nữa, thẳng đường trở về nhà, phát hiện mẹ già đã qua đời rồi. Lúc đó câu chuyện này được lan truyền rộng rãi, có mấy vị trưởng lão trong chùa sau khi nghe chuyện lập tức từ chức không đảm đương nữa.

Câu chuyện này thật khiến người ta kinh ngạc, thiết nghĩ Phật pháp từ bi nhưng đồng thời cũng uy nghiêm, chuyện nhân quả báo ứng như vậy cũng không có gì kỳ lạ cả. Trưởng lão Phật giáo trong câu chuyện có thể nói là người phụ trách của nhóm người tu luyện trong chùa, nếu như bản thân tu không tốt, còn phỉ báng Phật pháp, thì đó chính là can nhiễu nghiêm trọng đến những người tu luyện khác, gây phá hoại lớn từ trong nội bộ, đó thật sự là tội quá lớn rồi. Còn vị tăng nhân kia cũng vì tùy tiện đàm luận Phật pháp mà đã gây liên lụy đến người thân, quả thật là điều răn dạy cho chúng ta, khi đàm luận Phật pháp nhất định phải cung kính, trân trọng, tuyệt đối không được đưa ra định nghĩa, có hành vi bóp méo, trộm pháp, tu luyện Phật pháp là điều cực kỳ nghiêm túc.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/2008/03/29/52031.因果报应实录:進入另外空间方晓佛法威严,报应无情.html

The post Nhân quả báo ứng: Đi vào không gian khác mới biết Phật Pháp uy nghiêm, báo ứng vô tình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện: Dạo bước trên núi đaohttps://chanhkien.org/2016/05/cau-chuyen-tu-luyen-dao-buoc-tren-nui-dao.htmlSun, 22 May 2016 17:34:02 +0000http://chanhkien.org/?p=24776Tác giả: Hạo Thiên [ChanhKien.org] Cách đây rất lâu, có một bộ lạc man rợ, ỷ vào tà thuật được truyền lại trong bộ lạc, chúng thường xuyên tập kích những ngôi chùa, làm hại các tăng nhân vô tội. Loại ma thuật này có thể biến thân thể chúng trở nên rất cường tráng, […]

The post Câu chuyện tu luyện: Dạo bước trên núi đao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hạo Thiên

[ChanhKien.org] Cách đây rất lâu, có một bộ lạc man rợ, ỷ vào tà thuật được truyền lại trong bộ lạc, chúng thường xuyên tập kích những ngôi chùa, làm hại các tăng nhân vô tội. Loại ma thuật này có thể biến thân thể chúng trở nên rất cường tráng, cao lớn. Chúng dùng tà thuật này để tập kích những ngôi chùa, giết hại các tăng nhân, khiến dân chúng khắp vùng lầm than, thống khổ. Rất nhiều chùa chiền và tăng nhân đã không cách nào thoát khỏi sự tàn hại của loại ma thuật này.

Một lần nọ, có vị tăng nhân rời khỏi chùa lên núi bế quan tu luyện. Khi ông trở về thì phát hiện ngôi chùa của mình đã bị phá nát, thiêu hủy, gần như không còn tăng nhân nào sống sót. Vị tăng nhân vô cùng đau đớn, quyết tâm trong phần đời còn lại của mình phải trừ bỏ thế lực tà ác này, nhưng ông chẳng biết bắt đầu từ đâu. Một hôm khi ngồi thiền, trong định ông gặp được Phật Tổ. Vị tăng nhân bèn hỏi Phật Tổ: “Xin Ngài chỉ cho con làm cách nào trừ bỏ triệt để mầm họa này?” Phật Tổ nói với ông rằng: “Cần phải vô vi”. Sau khi xuất định, ông vẫn luôn ngẫm nghĩ về lời của Phật Tổ, nhưng lại không hiểu rõ hàm nghĩa, cảm thấy vô cùng khổ não.

Vị tăng nhân vừa tu luyện, vừa tìm cách diệt trừ tà ác. Một lần nọ khi nhập định, Phật Tổ lại hiển hiện trước mặt ông, Ngài diễn hóa ra một ngọn núi đao, trên núi toàn là những thanh kiếm bằng đá vô cùng sắc bén. Những thanh kiếm đá sắc nhọn lởm chởm khiến người ta không khỏi rùng mình kinh hãi. Phật Tổ nói với ông rằng: “Nếu như con có thể đi lại tự do trên núi đao này thì con sẽ có thể loại trừ được mầm họa tà ác”. Nói xong Phật Tổ liền biến mất, chỉ còn lại núi đao trước mặt vị tăng nhân. Vị tăng nhân đi lên trên núi đao, ông thận trọng thử đứng trên những thanh kiếm đá, nhưng vẫn bị mũi kiếm sắc bén đâm rách lòng bàn chân. Trong lòng ông thực sự oán hận, hận bản thân không có năng lực chinh phục ngọn núi đao, hận bản thân không thể trừ bỏ mầm họa tà ác, hận bản thân không đủ nghị lực. Lần đầu tiên, tăng nhân mang theo tâm trạng bất lực, mang theo nỗi thất vọng tràn trề mà xuất định.

Mỗi lần xuất định, vị tăng nhân luôn nghĩ đến câu nói “cần phải vô vi” của Phật Tổ, cũng không ngừng suy nghĩ biện pháp chinh phục được núi đao. Một lần nọ, vị tăng nhân nghĩ ra nếu muốn không bị kiếm đâm bị thương thì cần phải khiến cho thân thể của mình nhẹ hơn cả thanh kiếm. Nhưng làm sao có thể khiến thân thể mình đạt đến trình độ đó? Thuận theo quá trình dần dần tu luyện, vị tăng nhân hiểu được rằng mỗi một lưỡi kiếm sắc bén trên núi đao đều là những cái tâm trong thế tục, nếu như không muốn bị cái tâm thế tục đâm bị thương, thì trước hết cần phải nhổ bỏ đi những thứ nơi thế tục từ trong tâm của mình. Sau khi ngộ ra, vị tăng nhân nhập định lần nữa, nhìn thấy núi đao không còn cảm thấy những lưỡi kiếm sắc bén kia có gì đáng sợ nữa. Dần dần, thân thể vị tăng nhân mỗi lúc một nhẹ hơn, sau khi không ngừng vứt bỏ những thứ nơi thế tục, thân thể càng lúc càng nhẹ giống như Tiên vậy, còn có thể bay trên không trung. Khi tăng nhân vượt qua khỏi thanh kiếm đá cuối cùng, có thể thật sự dạo bước tự do trên núi đao, ông bỗng nhiên hiểu ra hàm nghĩa vô vi mà Phật Tổ nói. Thì ra vô vi chính là không chấp trước, đối với hết thảy mọi thứ nơi thế tục đều không có bất cứ chấp trước nào cả. Lúc này, ông bỗng nhiên xuất định, trong lòng minh tỏ mọi điều.

Khi bộ lạc man rợ một lần nữa chuẩn bị tập kích một ngôi chùa ở nơi xa, vị tăng nhân nhanh như bay xuất hiện trước mặt thế lực tà ác. Thế lực tà ác thi triển đủ mọi phép thuật, biến thân thể chúng trở nên rất cao lớn, khi chúng hùng hổ vác kiếm định chém giết vị tăng nhân, thân thể nhẹ nhàng của vị tăng nhân trong chốc lát biến thành rất nhỏ, tựa như chuồn chuồn đạp nước vậy, đứng trên lưỡi đao của thế lực tà ác. Thế lực tà ác ngó bên này, tìm bên kia, thỉnh thoảng bắt được vị tăng nhân trong tay, nhưng ông liền biến thân mình trở nên ngày càng nhỏ hơn, nhẹ hơn, thoắt cái đã thoát ra từ kẽ hở trong lòng bàn tay chúng. Thế lực tà ác thấy vậy tức đến sôi cả máu, liền chém loạn lung tung như điên như dại. Kết quả là thế lực tà ác tàn sát lẫn nhau, ma thuật cũng tự tiêu tan. Vị tăng nhân đã bằng tâm thái vô vi tiêu trừ triệt để thế lực tà ác.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2011/10/23/78139.修炼故事:刀山漫步.html

The post Câu chuyện tu luyện: Dạo bước trên núi đao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo gia tu luyện cố sự: Thẩm Kính luộc đáhttps://chanhkien.org/2016/03/dao-gia-tu-luyen-co-su-tham-kinh-luoc-da.htmlThu, 03 Mar 2016 02:04:40 +0000http://chanhkien.org/?p=24635Tác giả: Vân Khai [ChanhKien.org] Vào những năm triều đại nhà Đường-Tống, vùng đất Trung Hoa xuất hiện một vị Tiên nhân tên là Thẩm Kính, quá trình đắc Đạo của ông vô cùng kỳ lạ nên mọi người đã truyền nhau câu chuyện về ông: “Thẩm Kính luộc đá”. Thẩm Kính, người Triết Giang, […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Thẩm Kính luộc đá first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vân Khai

[ChanhKien.org] Vào những năm triều đại nhà Đường-Tống, vùng đất Trung Hoa xuất hiện một vị Tiên nhân tên là Thẩm Kính, quá trình đắc Đạo của ông vô cùng kỳ lạ nên mọi người đã truyền nhau câu chuyện về ông: “Thẩm Kính luộc đá”.

Thẩm Kính, người Triết Giang, từ nhỏ đã có tâm hướng Đạo, nhưng khổ nỗi mãi không tìm được Tiên sư truyền dạy.

Sau cùng, ông vân du đến núi Chung Nam để cầu đạo tu Tiên, ở đó ông gặp một bà cụ nói với ông rằng: “Cậu là người có cốt cách phi phàm, thần khí trang nghiêm, lòng dạ ngay chính, mười năm sau ắt sẽ đắc Đạo, chỉ cần chuyên tâm tu Đạo là được”. Rồi bà cụ đưa cho ông một viên đá màu trắng, nói với ông rằng: “Hãy dùng nước suối để luộc viên đá này, không được để lửa tắt, luộc đến khi viên đá trở nên mềm giống như đan dược vậy, khi đó cậu ăn nó vào sẽ thành Tiên. Nhưng nếu đá chưa mềm thì tuyệt đối không được để lửa tắt”. Nói xong, bà cụ liền biến mất.

Thẩm Kính thấy rất đỗi kì diệu, bèn dựng một gian nhà tranh trên núi, hàng ngày cần mẫn đốn củi, múc nước suối để luộc đá, rồi cẩn thận trông coi lò lửa, ngay cả khi ngủ cũng thấp thỏm, sợ nếu ngủ quên mất để củi cháy hết thì lò lửa sẽ tắt. Để sinh tồn, đôi lúc ông cũng phải tranh thủ thời gian đến những nhà lân cận hóa duyên, xin miếng cơm ăn, rồi lại vội vã trở về ngay. Thời gian lâu dần, người dân quanh đó đều biết trên núi có một quái nhân luộc đá. Có người đồng tình với ông, cũng có người xem thường ông, còn có người khuyên ông đừng có ngốc như vậy, dẫu người khác nói thế nào ông vẫn tin theo lời bà cụ mà không ngừng nấu đá.

Trải qua gió mưa sương tuyết; ngày đông giá lạnh, ngày hè nóng bức, Thẩm Kính vì nấu đá mà đã chịu biết bao khổ nhọc cả về thể xác lẫn tinh thần. Tuy vậy, ông trước sau như một vẫn không quên lời dặn của bà cụ: “Mười năm ắt sẽ đắc Đạo”. Từng ngày từng ngày trôi qua, kỳ hạn mười năm mà bà cụ nói đã sắp đến gần. Khi luộc đá Thẩm Kính thường kiểm tra xem viên đá đã mềm chưa. Cuối cùng đã đến ngày vừa tròn mười năm luộc đá, Thẩm Kính lòng tràn đầy hy vọng mở nắp nồi ra xem, thì thấy viên đá vẫn cứng như vậy, chẳng có biểu hiện mềm chút nào. Trụ cột tinh thần của Thẩm Kính trong chốc lát sụp đổ tan tành, từ đó ông tắt lửa không nấu nữa.

Mấy ngày sau, bà lão đó đột nhiên lại xuất hiện, đến hỏi Thẩm Kính rằng: “Trước đây ta bảo cậu lấy nước suối trên núi nấu đá, sao giờ không thấy nấu nữa?” Thẩm Kính trả lời: “Nghe theo lời dặn của bà, con đã luộc đá ròng rã suốt mười năm nay, nhưng đá vẫn cứng không thể ăn được, nên con đã tắt lửa rồi”. Bà lão nói: “Hòn đá ấy vốn không phải là hòn đá bình thường. Người khác có muốn cũng không được đâu. Cậu có được hòn đá quý rồi sao còn không giữ lòng thành kính, buông bỏ mọi nghi hoặc mà nấu nó? Nếu có thể làm được như vậy thì không cần đến mười năm cậu đã có thể ăn được nó rồi. Còn nếu trong tâm vẫn nửa tin nửa ngờ thì dù có nấu trên mười năm vẫn không ăn được đâu”.

Thẩm Kính hỏi: “Bà ơi, đây là đá gì vậy? Nếu không phải là đá nơi cõi trần thì hẳn là đá thần mới có thể ăn được, cớ sao lại cần phải luộc rồi mới có thể ăn?” Bà lão đáp: “Đá này là quả của cây quỳnh trên thiên thượng. Không biết ai có được nó rồi lại đánh rơi trên ngọn núi này, gió độc nơi nhân gian thổi vào khiến nó trở nên cứng rắn. Nếu mang tâm thành kính dùng nước trên núi để luộc nó thì nó sẽ mềm trở lại, sau khi mềm rồi thì có thể ăn, ăn vào liền có thể đắc Đạo”. Thẩm Kính bái tạ bà lão, bà lại đột nhiên biến mất.

Thẩm Kính nghiêm túc suy ngẫm lại nguyên nhân mình đã luộc đá không thành, ông nhận ra rằng suốt mười năm qua tuy trên bề mặt ông không ngừng luộc đá nhưng trong lòng vẫn có chút hoài nghi lời bà cụ nói, ông không làm được như lời căn dặn của bà cụ “chỉ cần chuyên tâm tu Đạo là được”. Qua mười năm ông liền tắt lửa không nấu nữa, đó chẳng phải là biểu hiện của tín tâm không đầy đủ sao? Lời hứa mười năm thành Tiên của bà cụ sở dĩ không thực hiện được, không phải vì bà cụ thất tín, mà vì bản thân ông tín tâm không đủ, hoàn toàn vì bản thân tín niệm chưa vững vàng!

Hiểu ra điều này rồi, ông lập tức tắm gội trai tịnh, cầu khấn Thần linh, lòng tràn đầy tín niệm kiên định, rồi ông đi lấy nước suối bắt đầu luộc đá trở lại, dẫu cho phải luộc cả đời ông cũng sẽ không nghi ngờ lời của bà lão nữa! Ngày hôm sau, hòn đá đột nhiên trở nên mềm nhũn, hương thơm lan tỏa khắp núi rừng. Thẩm Kính vội vàng tắm gội sạch sẽ, sau đó thành kính nuốt viên đá đã mềm nhũn, ngay lập tức ông trở lại dung mạo lúc còn trẻ, râu tóc đen óng, nội tâm thanh tịnh, thân thể nhẹ nhàng, người dân trên núi nhìn thấy đều vô cùng kinh ngạc. Mấy ngày sau không ai thấy Thẩm Kính đâu nữa, mọi người mới hiểu ra ông thật sự đã đắc Đạo.

Từ đó “Thẩm Kính luộc đá” đã trở thành một câu chuyện điển tích nổi tiếng. Ở tầng thứ hiện tại của cá nhân, tôi lý giải câu chuyện này như sau: Thẩm Kính lần đầu tiên luộc đá, do trong tâm không đủ thành kính, nên bỏ phí thời gian mười năm mà cũng không thành công, lần thứ hai nhờ kiên định chính niệm nên việc lớn một ngày đã xong. Câu chuyện này đã cho thấy rõ tầm quan trọng của đức tin, người tu luyện nhất định phải mang lòng thành kính tuyệt đối với Thần, ý chí và quyết tâm trong tu luyện không được dao động, khi đã bỏ công phu ra rồi sẽ không cầu mà đắc Đạo. Bản thân người tu luyện khi quá chú tâm vào thời gian cũng có thể ẩn chứa thái độ bất tín và hoài nghi; đã là người tu luyện thì dù ở đâu, khi nào cũng phải tuyệt đối tin tưởng vào Sư phụ, tin tưởng vào Pháp.

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/2012/09/04/112867.道家修炼故事:坚定信念,沈敬煮石终得道.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Thẩm Kính luộc đá first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện cố sự: Thương Đạohttps://chanhkien.org/2016/02/tu-luyen-co-su-thuong-dao.htmlMon, 01 Feb 2016 04:56:21 +0000http://chanhkien.org/?p=24583[ChanhKien.org] Có một chàng thư sinh thi cử nhiều lần nhưng không đậu. Sự đời chìm nổi khiến anh quyết ý từ bỏ ước vọng theo đuổi con đường làm quan, vứt bỏ công danh bon chen nơi thế tục để xuất gia tầm Đạo. Được người ta mách bảo, chàng thư sinh tìm đến […]

The post Tu luyện cố sự: Thương Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Có một chàng thư sinh thi cử nhiều lần nhưng không đậu. Sự đời chìm nổi khiến anh quyết ý từ bỏ ước vọng theo đuổi con đường làm quan, vứt bỏ công danh bon chen nơi thế tục để xuất gia tầm Đạo. Được người ta mách bảo, chàng thư sinh tìm đến một sơn động muốn bái Đạo trưởng làm thầy. Đạo trưởng dùng huệ nhãn nhìn một lượt từ trên xuống dưới, trong lòng không khỏi mừng thầm, rồi từ tốn nói với anh rằng: “Cậu muốn học gì đây? Ta có chút thuật biến đá thành vàng, thuật đi trên không, thuật độn nhập.” Chàng thư sinh không nghĩ ngợi nhiều, một lòng thành khẩn nói: “Đệ tử muốn học Đạo.” Kể từ đó, đạo trưởng hàng ngày giảng đạo cho anh, dạy anh ngồi thiền, nhập định tu luyện.

Cứ thế đã mấy năm trôi qua, một ngày kia đạo trưởng gọi chàng thư sinh đến, nói với anh rằng: “Ta muốn xây một tòa thiên cung rộng lớn, nhưng không đủ tiền, vậy nên ta muốn con ban ngày xuống khu chợ sầm uất dưới núi bán son phấn, buổi tối trở về tiếp tục ngồi thiền tu luyện.” Sư phụ đã dặn như vậy, làm đệ tử chỉ có thể tuân theo. Anh ta hỏi: “Thưa sư phụ, con nghèo rớt mồng tơi, lấy tiền đâu để mua son phấn đây?” Vị đạo trưởng chỉ tay về phía một đống đá, trong nháy mắt, những hòn đá này đều biến thành son phấn thượng hạng bậc nhất, đủ để chất đầy cả mấy chiếc rương lớn. Chàng thư sinh không sao hiểu được, sư phụ đã có thuật biến đá thành vàng, cớ sao còn bắt đệ tử phải bôn ba nơi thế tục kiếm tiền làm chi? Nghĩ đi nghĩ lại thì thấy người tu luyện nên tuân theo ý nguyện của sư phụ mới là quan trọng nhất.

Vậy là hàng ngày trời vừa tảng sáng, chàng thư sinh liền gánh son phấn đi xuống núi, mang theo tâm trạng không tình nguyện. Anh vốn là người nho nhã, hay ngại ngùng, không quen với việc lớn tiếng rao hàng giữa khu chợ, giống như mấy người bán hàng ăn vậy. Lúc đầu, chàng thư sinh đứng ở nơi vắng vẻ ít người qua lại, mặt cúi gằm, cất tiếng vo ve như muỗi kêu, rao rằng: “Bán son phấn đây, bán son phấn đây!” Dẫu thi thoảng có người đi ngang qua cũng phải lắng tai nghe kỹ mới có thể nghe thấy tiếng rao hàng của anh. Vị Đạo trưởng đứng cách đó không xa theo dõi anh, thấy anh đã là một người tu Đạo mà vẫn còn sợ nơi thế tục như vậy, Đạo trưởng vừa nhìn vừa lắc đầu, bèn hóa thành một đổ tể thô lỗ, vác dao trên người đi đến bên cạnh chàng thư sinh hỏi: “Cậu đang làm gì thế?” Chàng thư sinh cúi đầu, đỏ mặt nói: “Tôi bán son phấn.” Tên đồ tể quát to một tiếng, dùng con dao nâng mặt chàng thư sinh lên, lớn tiếng hết cỡ hỏi: “Nói cái gì hả? Ta nghe không rõ.” Chàng thư sinh im lặng, trấn tĩnh một lát, nhìn xuống con dao, run rẩy nói: “Bán son phấn.” Tên đồ tể nói: “Bán hàng thì phải rao to lên chứ, khu chợ ồn ào thế kia, mà giọng của ngươi lại nhỏ như vậy, thử hỏi ai nghe thấy chứ! Nếu ngươi còn rao nhỏ như vậy nữa, ta sẽ chém vụn cái rương hàng của ngươi.”

Chàng thư sinh thật không hiểu nổi, người đi kẻ lại đàng hoàng trên phố, sao lại đột nhiên xuất hiện một tên vô lại như vậy. Nhưng mà muốn hoàn thành ý nguyện của sư phụ thì cần phải mau chóng bán hết số son phấn này. Hiểu thông rồi, chàng thư sinh cố gắng khắc phục tâm nhút nhát, dần dần lớn tiếng chào hàng một cách tự nhiên.  Sống ở nơi thế tục, nên những điều nhìn thấy hiển nhiên đều là chuyện thế tục: tiếng chửi bới, tiếng đánh nhau, những lời tán tỉnh ve vãn, tiếng trẻ kêu khóc, lưu manh quậy phá, thật là không lúc nào được yên. Đủ để khiến chàng thư sinh cảm thấy chán ngán nhường nào. Mỗi tối trở về ngồi thiền, lòng anh rối bời không an định được. Anh cũng không tiện hỏi sư phụ, đành tự mình ngẫm nghĩ, tự mình ngộ. Cuối cùng anh đã hiểu ra: tâm thái của người tu Đạo là vì tu Đạo mà đến, tâm ở trong Đạo, tự nhiên có thể rời xa thế tục, vậy còn sợ gì chứ?

Một tháng trôi qua, chàng thư sinh vẫn không bán được một hộp son phấn nào. Có lúc không khỏi than vãn: “Bán son phấn sao còn khó hơn cả tu Đạo vậy?” Tuy nhiên, sau này anh cũng dần dần hiểu ra, sư phụ đã bảo mình bán son phấn thì mình cứ vui vẻ mà bán thôi. Tu Đạo cần phải dụng tâm, bán hàng cũng phải dụng tâm, nếu như muốn bán được hàng, kiếm được tiền thì phải biết ai là người dùng son phấn. Chàng thư sinh suy nghĩ một hồi, người dùng son phấn là những người phụ nữ bình thường, các kỹ nữ chốn lầu xanh, các phi tần chốn cung đình, ái thiếp của những nhà giàu có. Nhưng nghĩ lại, bán son phấn cần phải tiếp xúc với nữ giới, vậy còn tu Đạo thế nào được đây? Nữ sắc vẫn thật khó vượt qua. Phải trò chuyện với người ta, còn phải nhìn ngắm người ta, đợi sau khi người ta thoa son phấn lên rồi, còn phải nhận xét xem có hợp hay không, có đẹp hay không. Một ngày kia, chàng thư sinh đã nghĩ ra, dẫu là nam giới hay nữ giới đều là người trong thế tục, đều là con người cả. Mình là người tu Đạo, là siêu việt khỏi người nơi thế tục rồi. Hết thảy mọi thứ của thế tục, bao gồm cả con người trong đó sao có thể động đến chí hướng tu luyện của mình được? Nghĩ đến đây, chàng thư sinh không còn cảm thấy khó xử khi tiếp xúc với người khác nữa, trong lòng bỗng thấy vô cùng bình thản. Chàng thư sinh bắt đầu tiếp xúc với đủ mọi loại người, vì đã giữ vững tâm tính nên thế giới phồn hoa trong mắt của chàng đều trở nên đen tối, dơ bẩn. Chốn hồng trần là như vậy mà, không dơ bẩn mới là lạ.

Có một tiên nữ trên trời động lòng khi thấy những suy nghĩ của chàng thư sinh, bèn hạ thế biến thành một thiếu nữ đang tuổi xuân thì, cố tình làm ra các điệu bộ lả lướt, yêu kiều, đầy quyến rũ để thử lòng chàng thư sinh. Mặc dù những lúc ban ngày chàng thư sinh bán son phấn không thể ngồi thiền tu luyện được, nhưng tâm anh mọi thời mọi khắc đều ở trong định, nên tự nhiên không hề bị nữ sắc làm động tâm. Tiên nữ thấy định lực của anh cao thâm đến vậy, bèn rời đi, sau đó lại biến thành một quý phu nhân lớn tuổi, nhan sắc phai tàn đến mua son phấn. Quý phu nhân mua son phấn xong lập tức thoa lên mặt, trong nháy mắt dung mạo vàng võ kia bỗng chốc biến thành một thiếu phụ xinh đẹp như xưa. Mọi người trông thấy đều vô cùng sửng sốt, trên đời này sao lại có loại son phấn thần kỳ đến như vậy. Chẳng mấy chốc tin tức đã lan truyền khắp cả khu chợ, mọi người tranh nhau đến mua son phấn. Hôm đó lại đúng vào ngày thái hậu lên chùa lễ Phật, nhìn thấy cảnh người huyên náo trên phố, không khỏi hiếu kỳ, bèn sai người dò hỏi ngọn nguồn. Sau khi biết được có loại son phấn thần kỳ đến như vậy, lập tức bỏ ra trăm lạng vàng mua hết toàn bộ. Chàng thư sinh nhìn thấy hoàng kim trăm lạng, trong lòng nghĩ, cuối cùng đã có thể hoàn thành tâm nguyện của sư phụ rồi, bèn vui mừng gánh số vàng trở về núi bẩm báo lại với sư phụ.

Giữa đường, chàng thư sinh bắt gặp một đội quân cưỡi ngựa đang định làm nhục một nhóm thiếu nữ đang đi hái hoa. Từ xưa nữ nhân vốn rất coi trọng trinh tiết, vậy nên chàng thư sinh há có thể khoanh tay đứng nhìn? Suốt một thời gian dài lớn tiếng rao bán hàng khiến giọng nói của chàng không còn ngượng ngùng như trước nữa, mà còn vang vọng như chuông. Chàng thư sinh nói: “Tại hạ có trăm lạng vàng nguyện tặng hết cho tướng quân, chỉ mong tướng quân có thể rộng lòng bỏ qua cho những thiếu nữ này.” Đám tướng lĩnh vừa nhìn thấy hai gánh vàng, lập tức mặt mày rạng rỡ vui sướng tột cùng, liền đồng ý bỏ qua cho những thiếu nữ này. Thật đúng là thế sự vô thường, mới đây còn giữ trong tay trăm lạng vàng để hoàn thành tâm nguyện xây dựng thiên cung của sư phụ, vậy mà trong nháy mắt không còn gì nữa. Chàng thư sinh không khỏi có phần chán nản trở về núi, kể lại mọi chuyện với Đạo trưởng.

Kỳ thực, Đạo trưởng vẫn không ngừng dõi theo, trông coi việc tu luyện của chàng thư sinh, hóa thành những người khác nhau coi sóc, bảo hộ anh, hễ có điều gì không đúng liền tức thì điểm hóa cho anh. Nghe chàng thư sinh kể xong, Đạo trưởng liền chỉ tay lên bầu trời, chàng thư sinh nhìn thấy một cung điện nguy nga tráng lệ. Đạo trưởng nói: “Con đã giúp ta xây xong thiên cung rồi. Chính là trong khi bán son phấn, con đã giữ cho tâm không bị con người nơi thế tục làm xao động, vậy nên đã tu luyện ra một cung điện nơi thiên giới rồi.”  Chàng thư sinh không khỏi “ồ” lên một tiếng: “Thì ra là như vậy!”

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2011/10/21/78122.修炼故事:商道.html

The post Tu luyện cố sự: Thương Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vì sao khó tu thành Thần tiên, chỉ vì thế gian có quá nhiều phiền lụyhttps://chanhkien.org/2015/11/vi-sao-kho-tu-thanh-than-tien-chi-vi-the-gian-co-qua-nhieu-phien-luy.htmlSat, 28 Nov 2015 17:26:18 +0000http://chanhkien.org/?p=24545Tác giả: Thái Bình (chỉnh lý) [ChanhKien.org] Có một người tên là Thạch Mân, không biết đến từ nơi nào, ông phiêu bạt giang hồ đã qua rất nhiều năm. Đạo thuật của ông huyền diệu, cao thâm khó mà lường được. Giữa năm Trường Khánh, ông làm khách tại quận Uyển Lăng. Có một […]

The post Vì sao khó tu thành Thần tiên, chỉ vì thế gian có quá nhiều phiền lụy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thái Bình (chỉnh lý)

[ChanhKien.org] Có một người tên là Thạch Mân, không biết đến từ nơi nào, ông phiêu bạt giang hồ đã qua rất nhiều năm. Đạo thuật của ông huyền diệu, cao thâm khó mà lường được.

Giữa năm Trường Khánh, ông làm khách tại quận Uyển Lăng. Có một người đàn ông họ Lôi, thường gọi là Lôi Sinh, từng làm bộ tướng ở Tuyên Thành. Một ngày nọ, ông Lôi cùng với mấy người bạn tụ họp uống rượu trong một dinh thự ở quận Nam, lúc ấy Thạch Mân cũng có ở đó. Gia đồng của Lôi gia thả lưới bắt được một con cá lớn dài mấy thước, liền gửi đến dinh thự. Lúc bấy giờ, Lôi Sinh cùng bạn bè đều đã say mèm. Khách khứa đều đã giải tán hết cả, chỉ riêng Thạch Mân vẫn còn ở trong dinh thự Lôi gia. Lúc này đang là giữa ngày hè nóng bức, sang ngày hôm sau nhìn lại con cá đó thì đã thối rữa không thể ăn được nữa rồi. Gia đồng định mang cá ném đi, Thạch Mân ngăn lại nói: “Con cá này tuy đã thối rữa, nhưng ta có linh dược, có thể cho nó sống lại, sao lại phải đem nó vứt đi chứ?” Lôi Sinh cười nói : “Tiên sinh tùy tiện nói chuyện hồ đồ, dù cho có linh dược thật cũng làm sao có thể khiến cho con cá thối rữa này sống lại kia chứ.” Thạch Mân nói: “Vậy cậu nhìn xem nó sẽ sống lại như thế nào nhé!” Thạch Mân lấy từ trong áo ra một cái túi nhỏ trong đó chứa vài viên thuốc, ông đem viên thuốc bỏ vào trong mình cá. Chờ thời gian một bữa cơm, cá kia chợt tươi nhuận trở lại, lúc sau thì vây cá cử động, vẫy vẫy như đang bơi trong nước vậy. Lôi Sinh cảm thấy chấn động, hướng về Thạch Mân bái lạy, nói: “Đạo thuật của tiên sinh có thể nói là Thần rồi! Tôi quả là kẻ trần tục mê lạc không biết gì, cùng tiên sinh mà so cao thấp, đúng như là hạng tôm tép, cóc nhái trong giếng nước mà sánh với chim bay trên trời vậy. Ngài sao có thể hạ mình làm bạn với kẻ hèn này vậy?”

Lôi Sinh bị bệnh nhiều năm, vì thế mà hướng về Thạch Mân cầu đan dược, mong sao giảm trừ nỗi thống khổ của bệnh tật đã phải chịu đựng bấy lâu nay. Thạch Mân không đáp ứng, hơn nữa nói: “Đan dược của ta chí thanh chí liêm, cậu là người trần tục, không biết giữ mình, ham mê phóng túng, trong người nội tạng uế khí chồng chất. Nếu uống đan dược của ta vào trong bụng, thế thì uế khí trong tạng phủ cùng dược lực đánh nhau, tựa như nước lửa giao chiến, tính mạng của cậu tất khó giữ, vậy nên vạn lần không được uống.”

Thạch Mân còn nói: “Tu thành Thần tiên không khó, chỉ do con người quá mê đắm vào cuộc sống thế tục, như vượn kia thân trong cũi sắt, như cá chậu chim lồng, không có tâm cầu giải thoát, làm sao có thể tu thành Thần tiên được.”

(Trích từ Thái Bình quảng ký)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2003/04/24/21232.神仙故事:为何神仙难修成,只因尘俗多牵累.html

The post Vì sao khó tu thành Thần tiên, chỉ vì thế gian có quá nhiều phiền lụy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện về Chân Nhân Đạo gia Doãn Hỷhttps://chanhkien.org/2015/10/cau-chuyen-ve-chan-nhan-dao-gia-doan-hy.htmlFri, 02 Oct 2015 15:05:28 +0000http://chanhkien.org/?p=24443[ChanhKien.org] Một phụ nữ trẻ mang thai một hôm bỗng mơ thấy những vầng mây tía rất đẹp từ trên trời giáng hạ xuống quấn quanh thân mình. Không lâu sau, vào ngày đứa bé được sinh ra, mọi người đều kinh ngạc khi thấy từng đóa hoa sen rực rỡ mọc khắp nơi trong […]

The post Câu chuyện về Chân Nhân Đạo gia Doãn Hỷ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org] Một phụ nữ trẻ mang thai một hôm bỗng mơ thấy những vầng mây tía rất đẹp từ trên trời giáng hạ xuống quấn quanh thân mình. Không lâu sau, vào ngày đứa bé được sinh ra, mọi người đều kinh ngạc khi thấy từng đóa hoa sen rực rỡ mọc khắp nơi trong nhà đứa trẻ. Đứa trẻ sau này trở thành Chân Nhân Đạo gia Doãn Hỷ, ông sinh ra tại Thiên Thủy vào triều Chu.

Khi Doãn Hỷ trưởng thành, ánh mắt sáng ngời, thân hình cao ráo, phong thái nho nhã, tay dài đến gối, tướng mạo đường đường. Từ nhỏ, Doãn Hỷ đã thích đào sâu nghiên cứu thuật tu hành, giỏi quan sát tinh tú. Ông tu thân tích đức, sống nhân nghĩa thiện lương, không màng danh lợi.

Chu Khang Vương lập Doãn Hỷ làm quan đại phu. Một ngày kia, ông ngẩng đầu quan sát bầu trời, nhìn thấy phía đông có vầng mây tía bay về hướng tây, biết rằng sẽ có Thánh nhân đi qua quan ải phía tây. Vậy nên ông dâng tấu xin được đi làm quan lệnh ở Hàm Cốc quan. Đến Hàm Cốc quan, ông nói với quan lại rằng: “Nếu trông thấy một người dung mạo không giống người thường, trang phục, ngựa xe dị thường, thì nhất định không được để ông ấy đi qua.”

Vào giờ Giáp Tý ngày 12 tháng 07 năm thứ 23 đời Hỷ Chiêu Vương, quả nhiên thấy Lão Tử ngồi xe trắng do trâu xanh kéo, định qua cửa ải đi về hướng tây, phu xe của ông là Từ Giáp.

Doãn Hỷ biết tin rất vui mừng: “Hôm nay ta cuối cùng cũng gặp được Thánh nhân rồi.” Ông ăn mặc chỉnh tề ra đón, quỳ gối dập đầu, khẩn khoản giữ Lão Tử ở lại. Lão Tử tự nhận mình là một ông già có nhà ở quan ải phía đông, ruộng ở quan ải phía tây, chẳng qua chỉ muốn qua quan ải đi lấy củi. Doãn Hỷ bái lạy hết lượt này đến lượt khác, kiên quyết gọi Lão Tử là Thánh nhân, thỉnh cầu Lão Tử bằng cả tấm lòng thành của mình. Lão Tử hỏi: “Ông làm sao biết tôi là Thánh nhân?” Doãn Hỷ nói: “Tháng 10 năm ngoái, sao Thiên Lý đi về phía tây, bắt đầu từ tháng này liên tục có gió hòa, chân khí phương đông như hình rồng rắn hướng về phía tây, đây là dấu hiệu của bậc Đại Thánh nhân, vậy nên tôi biết chắc chắn sẽ có Thánh nhân đi qua quan ải.” Lão Tử cười nói: “Ông đã biết được ta, ta cũng biết được ông. Ông có đôi mắt tinh tường thần thông, có thể độ thế được.”

Lão Tử vì ưu ái Doãn Hỷ nên đã lưu lại Hàm Cốc quan hơn 100 ngày, truyền thụ pháp tu luyện cho ông.

Phu xe của Lão Tử là Từ Giáp, đã đánh xe cho Lão Tử từ khi còn rất trẻ, giao ước tiền công mỗi ngày 100 đồng. Khi đến Hàm Cốc quan thì Lão Tử đã nợ Từ Giáp 7.300.000 đồng rồi. Từ Giáp thấy Lão Tử từ quan ra đi nên muốn đòi tiền công. Lão Tử nói: “Ta phải đi các nước ở Tây Hải, sau khi trở về ta sẽ trả công bằng vàng cho ngươi.” Từ Giáp đã đồng ý. Đến Hàm Cốc quan, Từ Giáp không muốn đi nữa, thế là y hủy bỏ giao ước, tố cáo Lão Tử lên quan lệnh, kiên quyết đòi tiền công.

Lão Tử nói với Từ Giáp: “Ngươi đi theo ta đã hơn 200 năm, về lý thì đã chết từ lâu rồi, nhờ ta cấp cho ngươi Thái Huyền Sinh Phù nên ngươi mới sống đến hôm nay. Sao ngươi chẳng những không cảm kích ta, mà còn muốn tố cáo ta?” Lời vừa nói xong, Thái Huyền Sinh Phù từ trong miệng Từ Giáp rơi ra, chữ triện màu đỏ vẫn hệt như mới, Từ Giáp trong nháy mắt biến thành một đống xương trắng. Doãn Hỷ dập đầu thỉnh tội thay cho Từ Giáp, xin Lão Tử tha thứ cho y, cho y sinh mệnh một lần nữa. Lão Tử trả lại Thái Huyền Sinh Phù cho Từ Giáp, Từ Giáp sống trở lại. Doãn Hỷ thay Lão Tử trả tiền công rồi đuổi Từ Giáp đi.

Về sau, Lão Tử hẹn Doãn Hỷ sau 1.000 ngày nữa gặp nhau ở phiên chợ Thanh Dương, tỉnh Tứ Xuyên, rồi ông vươn mình bay lên không trung. Ông ngồi trên áng mây, khuôn mặt tỏa sáng, thân hiện kim quang, từ từ bay lên. Hào quang ngũ sắc rực rỡ chiếu rọi khắp nhà, hồi lâu mới tan đi.

Doãn Hỷ nhìn theo Lão Tử cho đến khi biến mất, nước mắt tuôn rơi. Ngày hôm đó, nước sông dâng cao, núi non rung chuyển, hào quang ngũ sắc xuyên thấu khắp nơi, trải rộng khắp bốn phương trời.

Từ đó, suốt ba năm Doãn Hỷ tu luyện theo phương pháp trị quốc tu thân mà Lão Tử truyền dạy. Đến năm Đinh Tỵ, ông khởi hành đi đến Tây Thục để tìm kiếm phiên chợ Thanh Dương.

Lúc này, Lão Tử lại phân thân sinh ra trong nhà đại quan họ Lý ở nước Thục. Còn trâu xanh chuyển sinh thành con dê có màu lông xanh vàng, luôn quanh quẩn bên cạnh, chơi đùa với đứa bé mới sinh nhà họ Lý.

Nhưng một ngày kia không thấy dê xanh đâu nữa. Sau đó, nô bộc nhà họ Lý đã tìm được dê xanh ở chợ. Doãn Hỷ đến Tứ Xuyên, hỏi thăm khắp nơi có chợ Thanh Dương (dê xanh) hay không, đột nhiên trông thấy người nô bộc dắt dê xanh đi đến. Ông nghĩ, nếu trong chợ có dê xanh, đây ắt hẳn là nơi mà Đại Tiên nói đến rồi. Ông hỏi người hầu rằng đây là dê của nhà ai, định dắt về đâu? Người nô bộc trả lời: “Phu nhân của nhà tôi mới sinh một bé trai, đứa bé rất thích con dê này. Con dê đã đi mất hai ngày rồi, đứa bé cứ khóc mãi không thôi. Bây giờ khó khăn lắm mới tìm lại được nó, chúng tôi phải đưa nó về nhà đây.” Doãn Hỷ nói với người nô bộc: “Phiền cậu nói lại với đứa con của phu nhân rằng Doãn Hỷ đã đến rồi.”

Người nô bộc trở về liền đem lời của Doãn Hỷ nói cho đứa bé nghe, đứa bé lập tức nhỏm dậy nói: “Mời Doãn Hỷ vào đây!” Doãn Hỷ đi vào nhà họ Lý. Phòng ốc sân nhà họ Lý bỗng biến thành cao lớn, một tòa sen hiện ra. Đứa bé biến thành thân bạch kim cao hơn một trượng, sáng chói như mặt trời, ngồi trên tòa sen. Người nhà họ Lý trông thấy vô cùng kinh ngạc. Đứa bé nói: “Chẳng có chi phải sợ cả, ta là Lão Tử.”

Trong nháy mắt, vua của các cõi trời, vua của chúng Thần mười phương, các Tiên chúng đều từ trên không giáng hạ xuống, hai tay dâng hoa thơm, cúi đầu nghe lệnh. Lão Tử phong cho Doãn Hỷ làm Vô Thượng Chân Nhân. Từ đó, Doãn Hỷ gia nhập hàng ngũ Thần Tiên.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2002/07/24/16858.道家真人尹喜的故事.html

The post Câu chuyện về Chân Nhân Đạo gia Doãn Hỷ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện cố sự: Thánh khổ linh hoahttps://chanhkien.org/2015/09/tu-luyen-co-su-thanh-kho-linh-hoa.htmlTue, 29 Sep 2015 08:01:14 +0000http://chanhkien.org/?p=24432Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Một ngày nọ, có một người ăn mày tuổi già sức yếu, bụng đói rã rời, đi đến một quán ăn nhỏ để xin ăn. Chủ tiệm đang lúc tiếp khách, vừa trông thấy người ăn mày toàn thân bốc ra mùi hôi thối nồng nặc, lập tức […]

The post Tu luyện cố sự: Thánh khổ linh hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org] Một ngày nọ, có một người ăn mày tuổi già sức yếu, bụng đói rã rời, đi đến một quán ăn nhỏ để xin ăn. Chủ tiệm đang lúc tiếp khách, vừa trông thấy người ăn mày toàn thân bốc ra mùi hôi thối nồng nặc, lập tức cơn giận từ đâu ập đến, liền bịt mũi lại vội vàng vung gậy đuổi người ăn mày ra ngoài. Cảnh tượng này vừa khéo lại bị một Pháp sư đến hóa duyên trông thấy. Chủ tiệm vừa quay đầu lại, nhìn thấy vị Pháp sư khí độ siêu phàm thoát tục, thân hình cao lớn khôi ngô, tướng mặt đẹp đẽ uy nghi, lập tức sinh lòng tôn kính, vội gọi gia nhân chuẩn bị đồ chay thượng hạng cho Pháp sư, đồng thời cũng bố thí tiền tài và quần áo. Sau khi Pháp sư cảm tạ chủ tiệm, liền đi thẳng đến bên cạnh người ăn mày. Người ăn mày vốn tuổi đã già, hai mắt đã lờ đờ, nhưng khi Pháp sư từ từ đến gần ông ta, thị lực của người ăn mày đã hồi phục hẳn, nhìn thấy Pháp sư hết sức rõ ràng. Pháp sư sửa sang lại râu tóc rối bù cho ông ta, khoác lên người ông những bộ y phục ấm áp, và còn bảo ông hãy ăn đồ chay trong lúc còn nóng. Người ăn mày vô cùng cảm động, hai hàng nước mắt chảy mãi không ngừng.

Ngay trong lúc Pháp sư định rời khỏi, người ăn mày đột nhiên quỳ xuống, hai tay nắm chặt lấy chân của Pháp sư, khóc lóc nghẹn ngào: “Pháp sư ơi, xin hãy để lão già đây được đi theo ngài, có được không?” Vì Pháp sư đang trên đường đi hóa duyên, nên đã trả lời với vẻ áy náy: “Ta là người xuất gia, không có tiền, cũng không có vật, tuy lấy từ bi làm gốc, nhưng quả thật là không biết phải cung dưỡng lão thế nào.” Người ăn mày vừa khóc vừa nói: “Pháp sư à, lão không phải cầu ngài cung dưỡng. Chỉ là hy vọng trước khi chết, có thể nghe được một lần Phật Pháp, để đạt được giải thoát thôi.” Pháp sư thấy cơ duyên đã chín muồi, liền đỡ ông dậy, nói: “Hãy đi theo ta, từ sớm ta đã biết hết thảy sự tình của ông rồi.” Thế là, Pháp sư dìu dắt người ăn mày tàn phế, bệnh tật khắp thân ấy về chùa, tụng niệm Phật Pháp cho ông ta nghe.

Lão ăn mày một đời đã chịu rất nhiều khổ, trong cảnh giá rét hay nóng bức, sống cảnh màn trời chiếu đất, trong đói khát mãi không biết được cảm giác no đủ, chịu khổ dày vò năm này qua năm khác. Mặc dù ông mỗi thời mỗi khắc đều đang chịu khổ, nhưng khổ là gì, ông không hề hay biết. Ai cũng nhìn không thấy, sờ không được. Có những lúc cảm thấy sao vận mệnh lại bất công như vậy, có những lúc chịu không nổi nữa, người ăn mày liền phẫn uất chỉ tay lên bầu trời, lớn tiếng hô to: “Ông Trời ơi, ông không có mắt hay sao, sao lại đối xử với tôi tàn nhẫn như vậy?” Nhưng mỗi lần ông kêu xong, thì giữ lúc trời quang đột nhiên có tiếng sấm rền vang, sau mấy lần như vậy, người ăn mày không còn dám tùy tiện la hét nữa. Trong lúc người ăn mày lẩn trốn khi bị mọi người bắt nạt, bị chó hoang đuổi cắn, sẽ luôn có một trận mưa to giúp ông vượt qua. Có ai biết được rằng, cơn mưa lớn khắp trời này chính là Thần Phật trên trời, vì sự chịu khổ của người ăn mày mà rơi lệ.

Sau khi về đến chùa, mỗi ngày nghe vị Pháp sư tụng niệm kinh Phật, tinh thần của người ăn mày dần dần chuyển biến tốt hẳn lên. Một ngày kia, người ăn mày hỏi Pháp sư: “Khổ là cái gì vậy?” Pháp sư duỗi tay ra, trong nháy mắt đã thấy trên tay nở ra một bó hoa với đủ mọi màu sắc. Những bông hoa nhẹ nhàng chập chờn phiêu động trên tay, trông đẹp vô cùng. Người ăn mày mở to đôi mắt, nhìn một cách kinh ngạc, trong lòng nghĩ rằng: trước nay chưa từng nghe nói, khổ lại trông như thế này, còn dễ nhìn đến như vậy. Pháp sư ngắt một cánh hoa xuống, đưa cho người ăn mày, nói: “Ông hãy nếm thử, xem xem nó là mùi vị gì.” Sau khi người ăn mày đón lấy, liền trực tiếp nuốt thẳng xuống, những cơn đói khát phải chịu đựng trong bao năm tháng lâu dài, khiến cho người ăn mày đã quen với cách ăn như hổ đói.

Tuy nhiên ngay khi vừa nuốt cánh hoa vào bụng, người ăn mày mới giật mình bừng tỉnh, cánh hoa trông đẹp đẽ như vậy, thì ra lại đắng (khổ) đến thế. Cái khổ vô cùng vô tận, khổ đến nỗi khiến cho người ăn mày cứ lăn qua lăn lại trên mặt đất, không biết phải làm sao. Pháp sư nói: “Ông chớ động đậy.” Người ăn mày bèn không động đậy nữa. Dần dần, mùi vị của cái khổ xuyên qua mỗi đường kinh lạc, xương cốt và cơ thịt, sau khi dần dần tiêu mất, người ăn mày mới từ từ hồi phục trở lại. Ông không khỏi ngẫm nghĩ rằng: Mình một đời đã chịu nhiều khổ như vậy, thì ra đều không bằng được cái khổ của một cánh hoa này, thật là lợi hại. Pháp sư bảo người ăn mày hãy đứng lên, lúc này người ăn mày mới phát hiện, thì ra cái thân thể bị còng lưng nay đã thẳng trở lại, tay chân bị tổn thương do giá rét đều đã khỏi hẳn, hàng trăm bệnh tật hết thảy đều đã biến mất, thân thể nhẹ nhàng khoan khoái từ trong đến ngoài. Người ăn mày một lần nữa hạnh phúc mà khóc đến nước mắt nước mũi lưng tròng, hướng về Pháp sư quỳ lạy dập đầu lia lịa, từ đó trở đi cùng với Pháp sư tu hành.

Vị Pháp sư liền đỡ ông dậy, dùng tay vẫy nhẹ một cái trong phòng thiền, tức khắc toàn bộ sàn nhà, trên tường vách, trên nóc nhà của toàn bộ gian phòng hiển hiện ra những bông hoa màu sắc rực rỡ lộng lẫy muôn kiểu muôn dạng với đủ loại tư thái, tất cả lớn nhỏ, lấp lánh ánh quang, hiện ra khắp phòng, hương hoa kỳ dị thấm vào lòng người. Pháp sư nói với ông: “Những bông hoa này gọi là Thánh Khổ Linh Hoa. Là bản thân ta đời đời kiếp kiếp, đi khắp mỗi một góc xó của thế gian, chịu đủ hết thảy cái khổ trên đời, chịu khổ, khổ tu mà xuất lai. Người đời chỉ đơn thuần chịu khổ là không có được, cũng không hình thành được Thánh Khổ Linh Hoa này. Chỉ có dưới sự bảo hộ và gia trì của Chính Pháp mới có thể hình thành. Nhưng sự hình thành của mỗi cánh hoa này đều cần phải chịu rất nhiều khổ mới được.” Người ăn mày nói: “Đại sư, ngài chịu đủ thứ khổ như vậy, dùng cạn tâm huyết mà vun trồng số Thánh Khổ Linh Hoa này, rốt cuộc là vì sao vậy?”. “Vì chúng sinh đó!”, Pháp sư ngữ khí nghiêm trang nói: “Sau này ông cũng cần phải chịu khổ tu luyện, cũng sẽ hình thành Thánh Khổ Linh Hoa, tế thế độ nhân vậy.”

Người ăn mày nói: “Lão ngay từ khi mới sinh ra đã phải chịu khổ, sao cái gì cũng không minh bạch được? Trái lại trở nên vừa già nua vừa bệnh tật, căm phẫn đố kỵ với cuộc đời.” Pháp sư nói: “Bởi vì lão không có gặp được Chính Pháp. Ngay từ khi mới sinh ra ông đã bị cha mẹ vứt bỏ, trong khi xin ăn, lại thường bị người đời chửi mắng đánh đập tàn nhẫn. Đây đều không phải là nghiệp lực mang đến, mà là con đường chịu khổ ông đã lựa chọn dưới bệ Phật Như Lai [trước khi chuyển sinh]. Bởi Thánh Khổ Linh Hoa mang theo cái khổ của các chủng các loại của chúng sinh, vì vậy chúng sinh có thể nhờ đó mà tu luyện Chính Pháp, đạt được niềm vui vĩnh hằng, tự tại và quang minh. Trong chịu khổ tu luyện, không chỉ có thể hình thành Thánh Khổ Linh Hoa, ngoài ra chúng sinh cũng sẽ theo việc ông không ngừng chịu đựng hết cái khổ trong tu luyện, mới được cơ duyên hữu sinh, mới có duyên lành tiến nhập vào thế giới Thiên quốc.” Đến đây, tư tưởng của người ăn mày lập tức đả khai, hiểu rõ nguyên do của hết thảy những điều này.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2011/11/25/78818.修炼故事:圣苦灵花.html

The post Tu luyện cố sự: Thánh khổ linh hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệmhttps://chanhkien.org/2015/06/truyen-co-phat-gia-ba-hoa-thuong-tre-vuot-khao-nghiem.htmlWed, 24 Jun 2015 09:09:41 +0000http://chanhkien.org/?p=24254Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Trong triều đại Nam Bắc, có ba hòa thượng trẻ ngụ tại chùa Linh Thứu thuộc núi Ngũ Thai. Núi Ngũ Thai là một ngọn núi Phật gia nổi tiếng. Ba vị hòa thượng đồng lòng đi tìm Thánh giả Phật gia sống ẩn dật trên núi […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org] Trong triều đại Nam Bắc, có ba hòa thượng trẻ ngụ tại chùa Linh Thứu thuộc núi Ngũ Thai. Núi Ngũ Thai là một ngọn núi Phật gia nổi tiếng. Ba vị hòa thượng đồng lòng đi tìm Thánh giả Phật gia sống ẩn dật trên núi Ngũ Thai. Họ đóng gói hành lý, lương thảo và lên đường. Vượt qua nhiều rừng rậm và ăn gần hết số lương thực, họ quyết tâm phải gặp được Thánh giả cho dù có phải ăn lá cây để sống qua ngày.

Ba vị hòa thượng đã tìm kiếm khắp nơi trên ngọn núi suốt ba tháng trời. Một hôm, trong khi đang nghỉ ngơi dưới một gốc cây, họ nhìn thấy một người đàn ông cao lớn đi ngang qua, từ thân thể người này tỏa ra vầng hào quang hiếm thấy. Họ tiến tới người đàn ông và hỏi ông có phải là Thánh giả không. Người đàn ông phớt lờ họ và tiếp tục bước đi. Họ đi theo người đàn ông hàng dặm đường cho đến khi ông ấy đi vào một cái hang. Họ đợi ông ở bên ngoài cửa hang. Sau một thời gian, có một dị nhân tướng mạo thanh thoát từ trên mây đáp xuống, và mời ba vị hòa thượng vào trong hang. Sau khi đi được một đoạn trong hang, cảnh sắc trong hang đột nhiên biến đổi, họ không còn ở tại nhân gian nữa mà đã tiến nhập vào một thế giới nguy nga lộng lẫy, cảnh sắc mỹ hảo. Có những hạt minh châu rực rỡ lấp lánh ở phía trên đầu tỏa ánh hào quang rực rỡ, và hàng chục hang động đầy những ngọc ngà châu báu ở phía xa xa.

Các vị hòa thượng thấy mình đã tiến nhập vào nơi tiên cảnh, do đó đã khẩn cầu xin được vị dị nhân cứu độ. Vị dị nhân đưa cho họ một bình rượu thuốc và nói: “Hãy uống hết đi rồi ta sẽ dạy chư vị.” Ba vị hòa thượng đáp: “Chúng con là đệ tử Phật gia nên phải trì giới không được uống rượu.” Dị nhân nghe xong, không hài lòng nói: “Làm sao ta có thể độ được chư vị trở thành người Trời nếu chư vị không uống rượu này?” Ba vị hòa thượng trẻ tuổi đáp lại quả quyết: “Mặc dù chúng con rất thiết tha được trở thành Thánh giả, nhưng những giới luật của Phật Thích Ca Mâu Ni là tối cao nhất. Nếu bắt buộc phải uống rượu thì chúng con xin phép cáo từ.” Dị nhân thấy họ chuẩn bị ra về thì thuyết phục họ: “Trời sắp tối rồi, đường xa đi lại không tiện. Các vị có thể ở lại đây qua đêm.” Mỗi vị hòa thượng tự chọn cho mình một chiếc hang rồi ngủ lại đó. Thật ngạc nhiên, đêm đó dị nhân cử các mỹ nữ vào hang để qua đêm cùng các hòa thượng. Mỗi hòa thượng tự nghĩ: “Chúng ta xuất hành để tìm Thánh giả dạy ta, nào ngờ chỉ thấy ma sắc” và thế là họ liền bỏ trốn.

Họ gặp lại nhau rồi rời khỏi hang. Họ đi rất nhanh mà không quay đầu nhìn lại, rồi một tiểu đồng bay tới chỗ họ và nói: “Dị nhân mà các vị đã gặp chính là Thánh giả Phật gia đó. Các vị đã phụng trì giới luật kiên định vượt qua khảo nghiệm, thật là đáng khen. Đại sư rất hài lòng, nên Ngài bảo tôi tới đưa cho mỗi vị một viên thần dược.” Những viên thần dược này được chế từ bạch ngọc, sau khi ba vị hòa thượng uống thần dược thì bắt đầu có khả năng bay lên khỏi mặt đất, họ trở về chùa Linh Thứu để cáo biệt chúng tăng ở đó rồi bay đi mất.

Trong câu chuyện trên, ba vị hòa thượng đã đối diện với những cám dỗ, không chỉ là những mỹ nữ mà cả dụ dỗ tu đường tắt –uống rượu thuốc rồi mới được độ thành Thánh giả. Tuy nhiên họ đã kiên định tuân theo giới luật và cuối cùng đã vượt qua các khảo nghiệm. Những người tu luyện ngày nay trong mọi tình huống phải tuyệt đối tin tưởng vào Sư phụ của chúng ta và Đại Pháp khi đối mặt với những cám dỗ, bất kể đó là lợi ích vật chất trước mắt, hay những lối tắt trong thế giới con người, hoặc trong những không gian khác do ma quỷ diễn hoá ra. Chúng ta phải không ngừng học Pháp mà Sư phụ đã dạy chúng ta và làm theo những gì Sư phụ dạy bảo.

Dịch từ: http://www.pureinsight.org/node/6653

The post Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bàn về ‘tín’ từ câu chuyện Ngụy Bá Dương luyện đan thành tiênhttps://chanhkien.org/2015/05/ban-ve-tin-tu-cau-chuyen-nguy-ba-duong-luyen-dan-thanh-tien.htmlSun, 10 May 2015 15:25:02 +0000http://chanhkien.org/?p=24125Tác giả: Trần Nhất Tín [ChanhKien.org] Cuối triều Đông Hán, vùng Giang Nam có một người tên là Ngụy Bá Dương. Ông đi khắp nơi tầm sư học đạo, tìm kiếm pháp môn về thuật luyện kim đan, cuối cùng cũng đạt được như ý nguyện, ông có được cuốn kinh sách về thuật luyện […]

The post Bàn về ‘tín’ từ câu chuyện Ngụy Bá Dương luyện đan thành tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trần Nhất Tín

[ChanhKien.org]Cuối triều Đông Hán, vùng Giang Nam có một người tên là Ngụy Bá Dương. Ông đi khắp nơi tầm sư học đạo, tìm kiếm pháp môn về thuật luyện kim đan, cuối cùng cũng đạt được như ý nguyện, ông có được cuốn kinh sách về thuật luyện đan. Sau đó, Ngụy Bá Dương cùng ba đồ đệ trở về ẩn cư trong núi nơi quê nhà của mình ở quận Hội Kê, huyện Thượng Ngu để luyện thần đan.

Một hôm, thần đan được luyện thành, Ngụy Bá Dương thử thăm dò đệ tử, ông nói: “Đan dược mặc dù đã luyện thành rồi, nhưng trước tiên cần cho chó ăn thử đã, để xem đan dược có công hiệu hay không. Thế là Ngụy Bá Dương liền vứt đan dược cho chó ăn, chó vừa ăn xong ngay lập tức lăn ra chết. Bá Dương nói với đệ tử: “Khi luyện đan sợ nhất là không luyện thành được kim đan. Hiện giờ kim đan đã luyện thành rồi, mà chó ăn vào liền chết, e là vì không làm cho thần linh vừa ý. Người uống kim đan rồi, sợ rằng lại chết giống như chú chó kia thôi, thế thì bảo ta phải làm sao đây?” Ba đệ tử lưỡng lự không biết làm thế nào, bèn hỏi: “Tiên sinh quyết định uống nó sao?” Bá Dương nói: “Ta đi ngược với cách hành xử của người thế gian, rời xa gia đình đi vào núi sâu, không đắc được Tiên đạo, cũng đành hổ thẹn quay trở về. Nhưng đối với ta mà nói là sống hay chết thì chẳng có gì khác biệt, nên ta quyết định uống nó cho xong.” Thế là Bá Dương liền uống đan dược, xong rồi lăn ra chết. Các đệ tử nhìn nhau, nói: “Luyện đan là để tìm kiếm sự trường sinh bất tử, vậy mà uống vào liền chết, thế thì phải làm sao đây?” Trong ba đệ tử có một người nói: “Sư phụ của chúng ta không giống như người thường, mặc dù có vẻ như uống đan này liền chết, nhưng lẽ nào điều này lại không có ý nghĩa gì khác ư?” Thế là vị đệ tử này liền tự cầm lấy đan và uống, lập tức cậu cũng ngã lăn ra đất và chết. Hai người đệ tử còn lại thương lượng với nhau: “Uống kim đan là để cầu trường sinh, bây giờ uống vào lại chết, thì chúng ta uống vào làm gì chứ? Không uống kim đan này, thì còn có thể sống thêm mười mấy năm nữa trên thế gian.” Hai người họ không dám uống kim đan nữa, và họ cùng nhau xuống núi, muốn đi tìm cho sư phụ và sư huynh hai cái quan tài.

468e87b3g74a513b02471&690&690

Ngụy Bá Dương vứt đan dược cho chó ăn thử, chó vừa ăn xong ngay lập tức lăn ra chết trước sự chứng kiến của ba người đệ tử. (Nguồn: Internet)

Sau khi hai người đệ tử này rời đi, Bá Dương lập tức sống lại. Thì ra ông giả chết để thử đệ tử của mình. Ông nhanh chóng đứng dậy, nhét viên đan dược thật vào miệng người đệ tử và con chó đã chết, người đệ tử và con chó lập tức tỉnh lại. Vị đệ tử và con chó trắng cùng sư phụ thành Tiên. Trên đường họ gặp một người lên núi đốn củi, đó là người quen trong thôn, Ngụy Bá Dương liền tự tay viết một bức thư, nhờ người đốn củi cảm tạ hai người đệ tử đã xuống núi tìm quan tài cho ông. Hai người đệ tử nhìn thấy bức thư tay của sư phụ thì hối hận không nguôi.

Trong thế gian con người, những thứ biểu hiện ra thường là giả tướng, không phải là mặt chân thực của sự vật. Người đang trong tu luyện khó mà thấy rõ được chân tướng, cho nên niềm tin đối với sư phụ sẽ quyết định người đó có tu luyện thành hay không.

(Nguồn: Sách tranh những câu chuyện về Đạo giáo)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2002/07/05/16662.从魏伯阳炼丹成仙的故事谈信.html

The post Bàn về ‘tín’ từ câu chuyện Ngụy Bá Dương luyện đan thành tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyện cổ Đạo gia: Một niệm không chính trộm đan dược, lỡ mất cơ duyên tiếc cả đờihttps://chanhkien.org/2015/05/truyen-co-dao-gia-mot-niem-khong-chinh-trom-dan-duoc-lo-mat-co-duyen-tiec-ca-doi.htmlMon, 04 May 2015 08:33:31 +0000http://chanhkien.org/?p=24108Tác giả: Thái Bình chỉnh lý [ChanhKien.org] Đạo sĩ Phụ Thần Thông, nhà ở đất Thục Châu, từ nhỏ cha mẹ mất sớm, cuộc sống khó khăn, đành phải đi chăn trâu cho người ta để kiếm sống qua ngày. Ở chỗ Thần Thông chăn trâu có một vị Đạo sĩ thường hay lui tới, […]

The post Truyện cổ Đạo gia: Một niệm không chính trộm đan dược, lỡ mất cơ duyên tiếc cả đời first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thái Bình chỉnh lý

[ChanhKien.org] Đạo sĩ Phụ Thần Thông, nhà ở đất Thục Châu, từ nhỏ cha mẹ mất sớm, cuộc sống khó khăn, đành phải đi chăn trâu cho người ta để kiếm sống qua ngày. Ở chỗ Thần Thông chăn trâu có một vị Đạo sĩ thường hay lui tới, cậu sinh lòng kính mến, lâu dần hai người họ trở nên ngày càng thân thiết.

Thời gian thấm thoát trôi qua, một hôm vị Đạo sĩ hỏi Thần Thông rằng:

– Con có bằng lòng làm đệ tử của ta không?

Thần Thông đáp:

– Con rất sẵn lòng.

Đạo sĩ liền dẫn Thần Thông đi vào trong nước, ông nói với Thần Thông rằng:

– Khi ta xuống nước, con cứ đi theo ta, đừng sợ gì cả.

Sau khi đi vào, Đạo sĩ dẫn Thần Thông đến nơi ông sinh sống, chỉ thấy tòa nhà ngăn nắp sạch sẽ, có túi thuốc cùng với lò luyện đan, dưới giường toàn là đan dược. Đạo sĩ để cho Thần Thông canh giữ lò lửa, còn dạy cho cậu một số phép thuật biến đá thành vàng. Ba năm trôi qua, Thần Thông đã hơn 20 tuổi, cậu bắt đầu tưởng nhớ đến nhân gian. Có một lần, thừa lúc vị Đạo sĩ không có nhà, cậu liền lấy trộm viên Đại Hoàn Đan, đem nó giấu ở một nơi khác. Sau khi Đạo sĩ trở về, hỏi cậu đan dược ở đâu, Thần Thông chối rằng cậu không nhìn thấy. Vị Đạo sĩ thở dài nói:

– Ta vốn dĩ muốn truyền dạy cho ngươi tinh tấn yếu chỉ của Đạo gia, nhưng hôm nay ngươi lại như vậy, bảo ta truyền dạy ngươi thế nào đây? Bản thân ta tuy tinh thông các phép thần thông, nhưng những thứ này đối với việc trường sinh bất lão cũng chẳng có ích lợi gì.

Nói xong liền đuổi cậu đi.

Phụ Thần Thông trong câu chuyện, căn cơ phải rất tốt mới có thể được vị Đạo sĩ chọn làm đồ đệ. (Nguồn: NTDTV)

Thần Thông ra khỏi động phủ, vui mừng khôn tả, hang động ghập ghềnh khó đi, cậu đành phải dựa vào thuốc để tăng cường thể lực, đi hơn 70 ngày mới đến nhân gian. Về sau, Thần Thông chán ghét những chuyện thế tục, bắt đầu tưởng nhớ đến vị Đạo sĩ. Nghe nói ông thường hay lui tới Khai Nguyên đạo quán ở Thục Châu, liền xin được xuất gia tu hành, trở thành người của Khai Nguyên quán. Từ đó về sau, chỉ cần nghe nói vị Đạo sĩ kia đến, liền ra ngoài chờ đợi, nhưng đều bỏ lỡ cơ hội. Mấy chục lần chờ đợi như vậy cũng đều không thể gặp được. Thần Thông liền bỏ ra 100 cân vàng mua chuộc hết kẻ hầu người hạ của Đạo quán, dặn họ rằng khi nào vị Đạo sĩ kia đến thì hãy báo cho cậu biết ngay lập tức. Kể từ khi bọn nô bộc nhận được vàng, số lần báo cáo cậu nhận được nhiều hơn, nhưng chẳng lần nào tìm gặp được vì Đạo sĩ đó cả.

Phụ Thần Thông trong câu chuyện, căn cơ phải rất tốt mới có thể được vị Đạo sĩ chọn làm đồ đệ, gần như sắp được chân truyền, nhưng đáng tiếc thay một niệm không chính trộm đan dược, lỡ mất cơ duyên. Quả thật là đáng tiếc.

(Trích từ Thái Bình quảng kí)

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2003/04/27/21284.道家修炼故事:一念不正窃丹药,永失机缘恨终生.html

The post Truyện cổ Đạo gia: Một niệm không chính trộm đan dược, lỡ mất cơ duyên tiếc cả đời first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúnghttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-tat-ca-deu-dung.htmlhttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-tat-ca-deu-dung.html#respondThu, 19 Jun 2014 01:37:02 +0000http://chanhkien.org/?p=21538Một ngày, một nhà sư ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, bên cạnh có một người hầu hạ, ở ngoài cửa là hai đồ đệ đang tranh luận kịch liệt.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Một ngày, một nhà sư ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, bên cạnh có một người hầu hạ, ở ngoài cửa là hai đồ đệ đang tranh luận kịch liệt. Hai bên không ai chịu ai, chấp vào ý kiến bản thân, đều cho rằng chứng thực và sở ngộ của mình mới là đúng.

Kết quả là tranh luận tới khi sư huynh tiến vào trong phòng hỏi nhà sư đang đả tọa: “Sư phụ, người tu hành nên đạt đến ‘tâm không vướng víu’ hết thảy mọi thứ thế gian, xả bỏ vinh nhục, hết thảy tốt xấu thị phi đều không động tâm, đây mới là cốt tủy của tu hành, thế nhưng sư đệ cho rằng con nói không đúng. Xin hỏi sư phụ, quan điểm của con rốt cuộc đúng hay không đúng?”

“Con nói đúng”, nhà sư nhẹ nhàng đáp.

Sư huynh đắc ý lắm, dương dương tự đắc bước ra ngoài cửa, làm ra vẻ đắc thắng trước mặt sư đệ, nói với sư đệ rằng sư phụ nói quan điểm của ta là đúng.

Sư đệ nghe xong rất không phục, lập tức cũng tiến vào phòng hỏi nhà sư đang tĩnh tọa: “Sư phụ, người tu hành nên đạt đến ‘tâm có chủ tể’ hết thảy mọi thứ thế gian, minh bạch rõ ràng chọn lựa, nhận rõ đúng sai tốt xấu thị phi, đây mới là tu hành, thế nhưng sư huynh nói con lý giải lệch rồi, sao sư phụ lại nói anh ấy đúng?”

Nhà sư đáp: “Con nói đúng”. Sư đệ nghe sư phụ nói vậy trong tâm cao hứng lắm, vui mừng thích thú bước ra.

Người hầu hạ ở bên cạnh nhà sư thấy vậy trong tâm khó hiểu, mới hỏi nhà sư: “Ban nãy cách nhìn, liễu giải Phật Pháp của hai người họ hoàn toàn tương phản, sao ngài nói người này đúng, người kia cũng đúng, rốt cuộc là ai đúng đây?”

“Con nói đúng”, nhà sư đáp.

Phật Pháp vô biên, mỗi người tu luyện có cái nhìn khác nhau về Pháp lý thâm sâu huyền diệu, không có ai đúng ai không đúng, hơn nữa đúng hay không đúng chỉ là tương đối. Người tu tại cảnh giới của mình mà có nhận thức riêng, tùy theo cảnh giới đề cao mà ngộ về Pháp lý cũng nâng cao, khi ấy mới phát hiện Phật Pháp là bác đại tinh thâm.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/38886
http://pureinsight.org/node/4239

The post Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-tat-ca-deu-dung.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chếthttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-giua-song-va-chet.htmlhttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-giua-song-va-chet.html#respondThu, 12 Jun 2014 01:43:48 +0000http://chanhkien.org/?p=21535Ngày xửa ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi đời hiểm ác nên đã tìm đến cửa Phật, quy y Phật giáo.

The post Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Ngày xửa ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi đời hiểm ác nên đã tìm đến cửa Phật, quy y Phật giáo.

Tuy rằng thân đã xuất gia, nhập không môn, nhưng trong tâm ông vẫn quyến luyến ngoại giới, bị ái dục ràng buộc, thường dùng dầu thơm sát lên thân thể, dùng nước nóng để tắm. Ông thích có làn da thơm tho, lựa chọn đồ ăn, tâm bị chôn vùi bởi vật chất, như bị dây mơ trói thân thể vậy, không lúc nào tự tại. Mặc dù trên hình thức đã xuất gia, thụ giới, nhưng về hành vi và cảnh giới thì vẫn là phàm phu tục tử, cách thánh đạo Niết Bàn còn xa lắm.

Khi ấy tại nước Ma La có một tôn giả tên là Upagupta, là một nhà sư đạo hạnh có tiếng. Vị tỳ kheo mới xuất gia này rất hâm mộ danh tiếng của Upagupta nên đã tới diện kiến.

Tôn giả hỏi ông: “Ông không quản đường xá xa xôi tới đây làm chi?”

“Tôi mộ danh ngài mà tới. Mong được nghe tôn giả từ bi khải thị yếu chỉ Phật Pháp”.

Tôn giả Upagupta quan sát căn cơ của ông, biết ông còn bị ái dục trói buộc, không thể giải thoát, bèn hỏi ông: “Ông có thể hoàn toàn nghe theo lời giảng của tôi, chấp nhận giáo huấn của tôi, chiếu theo ý chỉ của tôi mà làm hay không?”

“Tôi nhất định có thể, hết thảy đều chiểu theo lời dặn dò mà làm”.

“Nếu ông có thể sinh tín tâm, tôi trước tiên dạy ông thần thông, sau đó thuyết Pháp cho ông”, tôn giả nói.

“Học thần thông trước, tuyệt quá!”

Vậy là tôn sư dẫn ông lên núi, dạy ông học tập thiền định, lại dặn dò ông phải tuyệt đối phục tùng. Tôn giả vận dụng lực thần thông, hóa ra một cây đại thụ, nói: “Ông cần phải trèo lên cái cây này”. Vị tỳ kheo kia liền nghe lời tôn giả trèo lên cây đại thụ, nhưng nhìn xuống dưới thấy một cái hố lớn, sâu không lường được, lúc này tôn giả bèn nói: “Giờ thả hai chân của ông ra”. Vị tỳ kheo chỉ còn cách nghe lời buông hai chân ra, lúc này tôn giả lại lệnh ông bỏ hai tay ra. Vị tỳ kheo chỉ dám bỏ một tay ra, nhưng tôn giả bảo phải bỏ nốt tay kia ra, tỳ kheo cực kỳ sợ hãi, nói: “Nếu lại bỏ tay ra, sẽ rơi xuống hố mà chết”.

“Ông đã có lời ước hẹn với tôi, hết thảy tuân theo dạy bảo của tôi, giờ lại hối hận rồi sao?” Vị tỳ kheo không còn cách nào, đành buông tâm không nghĩ gì nữa, bỏ nốt tay kia ra, liền rơi vào cái hố sâu, vừa sâu hoắm vừa đen ngòm. Lúc này ông hồn xiêu phách lạc, toàn thân lạnh ngắt, mở mắt ra nhìn thì thấy cái cây và chiếc hố đã biến đâu mất. Sau đó, tôn giả bắt đầu thuyết Pháp cho ông.

“Giờ tôi hỏi ông, khi ông buông nốt tay ra để rơi xuống, ông còn thấy thế gian có gì đáng để thích nữa không?”

“Tôn giả, đã tới bước ngoặt sinh tử, hết thảy đều không còn gì đáng thích nữa”.

“Là như thế. Hết thảy mọi thứ thế gian, đều là hư ảo hết. Khi sắc thân ảo diệt, ái dục cũng theo đó mà ảo diệt. Nếu ông có thể nhìn thấu sắc thân vô thường, thoát khỏi ái chấp trói buộc, thì sẽ giải thoát khỏi nó. Ưa thích là căn nguyên của phiền não sinh tử, hãy cẩn thận với nó, tinh tấn tu hành, chớ mất bản tâm, sẽ thành chính Đạo”.

Vị tỳ kheo lúc này đột nhiên tỉnh ngộ, từ đó tĩnh tâm suy ngẫm, chuyên cần tinh tấn, chứng đắc quả vị La Hán.

Thế gian con người thật thật giả giả, hư hư thực thực, do con mắt thịt chúng ta nhìn không chính xác, mới lấy ảo làm thật, tham hưởng khoái lạc nhất thời, chỉ vì sai biệt một niệm, kết quả rớt vào vực thẳm không đáy.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/38333
http://pureinsight.org/node/4095

The post Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-giua-song-va-chet.html/feed0
Tu luyện cố sự: Bố thíhttps://chanhkien.org/2014/06/tu-luyen-co-su-bo-thi.htmlThu, 05 Jun 2014 02:45:52 +0000http://chanhkien.org/?p=22561Năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, từng nói về bảy loại bố thí có thể nhận được phúc báo.

The post Tu luyện cố sự: Bố thí first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hạo Thiên

[Chanhkien.org] Sau khi dịch xong bài viết, tôi chuẩn bị nằm xuống nghỉ ngơi. Lúc sắp ngủ, tôi chợt nhớ đến một câu chuyện. Năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, từng nói về bảy loại bố thí có thể nhận được phúc báo. Mọi người nghe xong, nhôn nhao vui sướng vạn phần. Bởi vì mấy loại bố thí này có thể thực hiện ở mọi lúc mọi nơi, rất thuận tiện lại đơn giản.

Có một tiểu hoà thượng xuất thân từ một người quý tộc, năm gần 10 tuổi, cậu vô cùng bướng bỉnh, cũng rất tinh nghịch, hai mắt đầy nét trẻ con, lại hiện ra sự thông minh trời ban. Nghe Phật Thích Ca nói xong, trong nội tâm cậu không khỏi thắc mắc: “Nếu một người rất giàu có, nhưng vừa điếc vừa câm lại vừa mù, làm thế nào người đó có thể bố thí được? Làm sao có thể cứu người như vậy?” Lúc các đệ tử ra ngoài hoá duyên, tiểu hoà thượng vừa chơi đùa vừa suy tư. Phật Thích Ca nhìn thấy được tâm tư của cậu, liền đến trước mặt cậu bé. Tiểu hoà thượng đang chơi đùa, liền lập tức cung kính đứng trước mặt Phật Thích Ca, chắp tay trước ngực nói: “Sư tôn, xin Ngài chỉ cho, đối diện với người vừa câm vừa điếc lại vừa mù cũng rất giàu, người đó làm sao bố thí được? Có Pháp nào có thể cứu được người như vậy không?”

Phật Thích Ca vừa cười vừa nói: “Đợi lúc Pháp Luân Thánh Vương hạ thế con sẽ minh bạch thôi.”

Pháp Luân Thánh Vương lúc nào hạ thế vậy?”, tiểu hoà thượng ngây thơ hỏi.

“2.500 năm sau”, Phật Thích Ca trịnh trọng đáp.

Tiểu hoà thượng nghe xong há miệng trợn mắt, không khỏi nghĩ trong lòng ‘sao lâu như vậy’, lại tiếp tục hỏi: “Thế nhưng mà tại sao phải 2.500 năm sau Pháp Luân Thánh Vương mới hạ thế?”

Phật Thích Ca đáp: “Thực ra, Pháp Luân Thánh Vương là không chỗ nào không có (vô xứ bất tại). Quá khứ, hiện tại, và tương lai, đều là hiện thành từ Uy Đức của Thánh Vương”. Sau đó, Phật Thích Ca chỉ vào con đường thông từ khu vườn tinh xá ra phía ngoài, nói: “Thấy con đường này không? Phải đi đến cuối con đường này, gặp rất nhiều người, rất nhiều vấn đề. Pháp Luân Thánh Vương đang chờ chúng ta đi hết con đường, mới thuận tiện giải quyết hết thảy những vấn đề xuất hiện, đối xử công bình với hết thảy.”

Tiểu hoà thượng lại hỏi tiếp: “Pháp Luân Thánh Vương này có đủ hết thảy Pháp của bố thí để cứu độ chúng sinh sao?”

“Để chúng sinh trong toàn vũ trụ được cứu, Pháp Luân Thánh Vương ban cho hết thảy thiên quốc, thế giới, cho đến toàn vũ trụ hết thảy trí huệ, từ bi, quang minh và Pháp lực. Chỗ con nghe được lúc này, chỉ là một bộ phận bố thí ở cảnh giới của ta; nhưng cảnh giới này so với bố thí của Thánh Vương, thì chỉ là một bộ phận cực kỳ nhỏ bé trong vũ trụ vô biên.”

2.500 năm sau, mọi người có được hưởng thụ và sở hữu nhiều điều về vật chất, nhưng tinh thần sa sút và đạo đức trược đốc, khiến ánh mắt của mọi người rất ít nhìn vào những điều thiện mỹ tinh khiết, mà ham mê sắc tình như người mù nhưng lại không biết mình đui mù. Đối mặt với những lời thật lòng lương thiện, thì mắt điếc tại ngơ, như kẻ điếc mà không biết mình bị điếc. Khi tà linh giữa ban ngày ban mặt, trắng trợn trấn áp “Chân, Thiện, Nhẫn”, mọi người cùng nhau trầm mặt lảng tránh, hành động không khác gì người câm. Đệ tử Đại Pháp mười mấy năm qua, dùng các loại phương thức giảng rõ sự thật cho người đời; những người hiểu rõ sự thật, người giàu càng thêm nhân nghĩa, người mù hai mắt lại được thanh tịnh, hai tai bị điếc cũng được thông; người đời theo thời gian trôi qua đã không còn im lặng, mà công khai ủng hộ chính nghĩa, ngôn từ người ta cũng được cải biến trở nên hiền hoà thiện lương. Đây là kết quả của việc giảng chân tướng, thể hiện ra uy lực lớn lao, đánh thức vô số lương tri.

Được sự chỉ dẫn của Pháp Luân Phật Pháp, người tu luyện trong mâu thuẫn của cuộc sống, không chỉ không còn cư xử giống người thường, mà ở trong mâu thuẫn làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, đồng thời luôn luôn nhìn về khuyết điểm của mình mà xả bỏ nó. Đối mặt với đủ loại lợi ích mâu thuẫn, dần dần tu xuất đại thiện đại nhẫn, đại từ đại bi, ý chí vô tư trong sáng. Bố thí của người tu luyện Chính Pháp, ngoài đối đãi với chúng sinh bằng thiện và từ bi, còn thêm kiên nhẫn như kim cương bất động, xả bỏ những nhân tâm không tốt, từ đó thành tựu ý nghĩa chân chính của hai chữ “bố thí”. Điều này đã vượt xa những quan niệm bình thường, vượt xa các loại tư tưởng quan niệm hẹp hòi như bố thí tiền tài.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/76520

The post Tu luyện cố sự: Bố thí first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hậnhttps://chanhkien.org/2013/11/chuyen-co-phat-gia-tu-luyen-khong-tinh-tan-vao-am-phu-moi-hoi-han.htmlThu, 28 Nov 2013 17:18:37 +0000http://chanhkien.org/?p=22705Vào triều đại nhà Tấn, có một vị xuất gia, pháp danh là Thích Pháp Hành.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc Đại Lục

Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận (Tên tranh: Rennyo (蓮如), nguồn: Wikimedia)

[Chanhkien.org] Vào triều đại nhà Tấn, có một vị xuất gia, pháp danh là Thích Pháp Hành. Tuy ông xuất gia làm hòa thượng, nhưng mãi không thể tinh tấn tu luyện, vẻn vẻn trong lòng chỉ là sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với Phật Pháp và tu luyện mà thôi. Sau đó, có một hôm ông bị mắc trọng bệnh, sau khi đã chịu khổ trong cơn bệnh đau hơn mười ngày, nguyên thần ông ly thể đến cõi âm. Mọi người đều tưởng rằng ông đã chết rồi, nhưng qua ba ngày sau, ông đã tỉnh dậy.

Sau khi tỉnh dậy, ông đã kể với mọi người những cảnh tượng mà ông đã nhìn thấy ở cõi âm. Thích Pháp Hành nói: Lúc nguyên thần của ông ly thể là do bị người cõi âm bắt đi; khi đã đi được một quãng đường, ông bị người bắt ông dẫn đến một nơi có các buồng giam ở cõi âm; ông phát hiện rằng có những người khác cũng bị bắt đến nơi này. Ông mơ màng mà biết được đại khái nơi này không phải là một chỗ tốt, nên không chịu đi vào.

Lúc đó ông đã nhìn thấy trước mắt là một thứ đáng sợ, thứ đó giống như một cái bánh xe sắt lớn gắn các móng vuốt sắt, xoay nhanh như gió. Lúc đó một viên quan ở cõi âm bắt một kẻ phạm tội tới, đè bánh xe sắt lớn có móng vuốt sắt lên người đó. Chỉ trong chốc lát, kẻ phạm tội đó đã bị cắt ra thành một đống thịt vụn nát. Tiếp đó, viên quan cõi âm lại đem vài người phạm tội mà hành hình, cảnh tượng đó quả thực đáng sợ vô cùng, cực kỳ thê thảm.

Không lâu sau, viên quan cõi âm lệnh người đem Thích Pháp Hành đến để chịu cực hình trừng phạt. Thích Pháp Hành lúc ấy trong lòng cực kỳ sợ hãi, lại tự trách mình mãi. Ông vô cùng ăn năn tại sao lúc trước bản thân không nhân lúc còn sống mà tinh tấn tu luyện Phật Pháp? Nếu như lúc còn sống mà tinh tấn tu luyện, thì đâu phải chịu cực hình hôm nay? Thế là, ông bắt đầu niệm Phật hiệu trong tâm, phát thệ tương lai nếu như có cơ hội sẽ nhất định tinh tấn tu luyện.

Lúc ấy, viên quan sứ cõi âm nhìn Thích Pháp Hành, nói: “Ngươi có thể trở về để hoàn dương”. Thế là Thích Pháp Hành lại bị người ta dẫn đi, trải qua một phen lận đận đó, cuối cùng ông hoàn dương mà sống lại. Từ đó, Thích Pháp Hành hầu như ngày đêm không ngừng tinh tấn tu luyện Phật Pháp của Phật giáo, trở thành một vị đệ tử vô cùng tinh tấn của Phật.

Sau khi đọc qua câu chuyện của Thích Pháp Hành, bản thân tôi nghĩ rằng: Tu luyện Phật Pháp nhất định phải tinh tấn; nếu như một vị đệ tử của Phật mà không tinh tấn, vậy thì cuối cùng đánh mất có thể là thứ tốt đẹp không cách nào tìm kiếm lại được, đối mặt với người đó có thể là tương lai vô cùng hối hận và tự trách; tu luyện chân chính là hết sức vĩ đại, thù thắng và cũng cực kỳ nghiêm túc, là tuyệt đối không thể ôm giữ tâm thái mơ hồ được.

(Nguồn tư liệu: “Minh Tường Ký”)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/57137

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựahttps://chanhkien.org/2013/06/chuyen-co-phat-gia-thich-ca-mau-ni-luan-ve-bon-loai-ngua.htmlhttps://chanhkien.org/2013/06/chuyen-co-phat-gia-thich-ca-mau-ni-luan-ve-bon-loai-ngua.html#respondFri, 07 Jun 2013 17:01:57 +0000http://chanhkien.org/?p=21846Một hôm, Thích Ca Mâu Ni triệu tập các đệ tử và thuyết giảng về bốn loại ngựa.

The post Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trình Thực

[Chanhkien.org] Một hôm, Thích Ca Mâu Ni triệu tập các đệ tử và thuyết giảng về bốn loại ngựa.

Loại thứ nhất là loại ngựa tuyệt hảo. Nó chạy rất nhanh và có thể chạy khoảng 1.000 lý (khoảng 333 dặm) một ngày. Ngay khi người chủ nhấc roi lên, nó sẽ biết là chạy hay dừng lại. Nói cách khác, nó có thể hiểu ý chủ một cách nhanh chóng và chính xác. Đây là loại ngựa thượng hạng có thể hiểu rõ tận chân tơ kẽ tóc.

Loại thứ hai là loại ngựa tốt. Khi người chủ nhấc roi lên, nó không chạy ngay. Nhưng khi roi đụng vào mình nó thì nó sẽ hiểu và chạy. Mạnh mẽ và nhanh chóng, nó vẫn là một loại ngựa tốt.

Loại thứ ba là loại ngựa bình thường. Nó không làm theo lệnh của chủ ngay cả khi bị quất roi. Chỉ khi người chủ điên lên và quất mạnh vào nó thì nó mới chạy.

Loại cuối cùng là loại ngựa kém. Nó không chạy ngay cả khi bị quất roi mạnh. Người chủ không còn cách nào khác phải vụt thật mạnh làm nó đau thấu xương. Sau đó con ngựa bị thương sẽ biết chạy nhanh.

Sau đó Thích Ca Mâu Ni giảng về bốn loại người.

Loại thứ nhất cảnh giác khi biết được bản chất vô thường của cuộc sống. Họ tinh tấn và nỗ lực để trở thành sinh mệnh mới. Họ giống như loại ngựa thượng hạng.

Loại thứ hai không nhanh nhạy. Nhưng sau khi chứng kiến cuộc sống thế gian hoa nở hoa tàn, trăng tròn rồi khuyết, đời người lúc thăng lúc trầm, họ dù sao cũng kịp thời tự mình thúc giục, không dám buông lơi. Họ giống như loại ngựa tốt.

Loại thứ ba phải mất nhiều thời gian hơn để học được một cách khó khăn. Chỉ đến khi gia đình chịu thống khổ hoặc chính bản thân họ gặp tai ương thì mới bắt đầu tỉnh ngộ và thiện đãi sinh mệnh.

Loại cuối cùng nói đến những người không chịu hối tiếc cho đến khi bị ốm nặng và đang trên bờ vực của cái chết. Lúc đó họ mong muốn có một cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm đã mắc phải trong cuộc đời để có một sự khởi đầu mới. Nhưng rất có thể đã là quá muộn.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/115089
http://pureinsight.org/node/6399

The post Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/06/chuyen-co-phat-gia-thich-ca-mau-ni-luan-ve-bon-loai-ngua.html/feed0
Tu luyện cố sự: Gieo trồng Đứchttps://chanhkien.org/2013/04/tu-luyen-co-su-gieo-trong-duc.htmlhttps://chanhkien.org/2013/04/tu-luyen-co-su-gieo-trong-duc.html#respondFri, 19 Apr 2013 15:02:21 +0000http://chanhkien.org/?p=21725Ngày xưa, có một gia đình giàu có. Người chủ nhà khi già mới sinh được người con trai.

The post Tu luyện cố sự: Gieo trồng Đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hạo Thiên

[Chanhkien.org] Ngày xưa, có một gia đình giàu có. Người chủ nhà khi già mới sinh được người con trai. Ông vốn là người lương thiện và được ăn học nên đặt tên cho đứa con mới sinh là Tịnh Bản, có nghĩa là tràn đầy thiện tâm. Cái tên này đại biểu cho đặc tính của tổ tiên gia đình dựa trên nền tảng thuần tịnh của họ. Đứa bé trai trông rất đẹp đẽ, tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Cả nhà ông đều rất hạnh phúc. Lúc đó, từ một ngọn núi xa có một vị Đạo trưởng đang dùng huệ nhãn ngồi quan sát thế gian. Bỗng nhiên, ông nhìn thấy ngôi nhà của gia đình nọ được bảo phủ trong những đám mây tốt lành màu sáng tía. Ông vô cùng ngạc nhiên nên vội vã đến xem.

Người chủ nhà gặp vị khách từ xa đến và tiếp đãi vị Đạo trưởng với lòng hiếu khách nồng nhiệt rất tự nhiên. Vào lúc đó, người đầy tớ đang giữ đứa bé trai nhỏ và chơi với nó. Khi đứa bé nhìn thấy vị Đạo trưởng, cái miệng bé xinh của nó cười to. Điều ấy khiến chủ nhà và người đầy tớ cười theo, tạo nên một bầu không khí rất vui vẻ. Vị Đạo trưởng nhìn thoáng qua đứa bé và biết rằng nó sẽ là đệ tử của ông trong tương lai. Chỉ có một điều duy nhất ông cần nói với chủ nhà là: “Đứa bé này sinh ra với bản tính ngang bướng, lại có tướng đoản mệnh. Nó chỉ sống tới 17 tuổi mà thôi. Nếu nó theo học Đạo với ta, số phận nó có thể thay đổi.” Khi chủ nhà và người đầy tớ còn đang đắm mình trong bầu không khí vui tươi nghe về số phận ngắn ngủi của đứa bé, họ chết lặng và không còn cười được nữa. Đột nhiên, người chủ nhà trở nên giận dữ và cắt lời: “Làm thế nào mà người ta có thể lợi dụng dịp lễ này để thốt lên những lời lăng mạ người khác được chứ?” Ông ấy yêu cầu vị Đạo trưởng rời đi. Trước khi rời đi, vị Đạo trưởng nhắc lại với người chủ nhà rằng đó là phương cách cuối cùng của họ, rằng chắc chắn phải cho đứa bé học Đạo.

Đúng như lời vị Đạo trưởng đã nói, tính khí đứa bé rất ngỗ ngược. Anh ta chẳng thích đọc Tứ thư Ngũ kinh hay nghe những lời dạy về Thiện và Đức. Anh ta chẳng chú ý gì đến tất cả những thứ đó. Anh ta chỉ quan tâm đến những gì những đứa trẻ giàu có yêu thích. Một ngày nọ, khi Tịnh Bản 15 tuổi, người chủ nhà đột nhiên nhớ lại lời vị Đạo trưởng đã nói. Trong tâm ông đầy sự ngờ vực, và ông ta tìm thầy bói cho con trai. Một vài thầy bói nói rằng con trai ông chỉ sống đến 17 tuổi. Lần này ông rất lo lắng. Nếu điều đó xảy ra, tim ông sẽ tan nát. Vì vậy, ông quyết định dẫn con trai đến ngọn núi nơi vị Đạo trưởng ở. Ông ta cầu xin vị Đạo trưởng tha thứ cho tội bất kính của mình cách đây nhiều năm.

Vị Đạo trưởng bắt đầu dạy Tịnh Bản những pháp lý về Đạo. Sau vài ngày, vị Đạo trưởng nhận ra là Tịnh Bản không nghe lời của những bậc Thánh hiền về Đạo và Đức. Ông suy nghĩ cẩn thận và nghĩ ra một cách. Một ngày nọ, vị Đạo trưởng dẫn Tịnh Bản theo với một lưỡi cày bằng sắt đến một mảnh đất cằn cỗi trên núi để cày cấy và trồng trọt. Ông cày nhiều luống cày và sau đó rải tay ra. Sau đó, ông lấp luống cày lại. Ông làm nhiều lần điều đó trong vài phút. Tịnh Bản thấy rằng tay của vị Đạo trưởng trống rỗng, không có hạt giống nào. Anh ta tò mò hỏi: “Sư phụ, ngài đang làm gì vậy?” Vị Đạo trưởng trả lời một cách nghiêm túc: “Ta đang trồng Đức.” Khi Tịnh Bản nghe thế, anh ta cười lớn và không biết để làm gì. Anh ta nói: “Sư phụ, trên thế gian này khi gieo trồng cần phải có hạt giống. Vậy Đức cũng có hạt giống nữa sao? Sư phụ, ngài thật sự rất khôi hài ở tầm tuổi này.” Vị Đạo trưởng vẫn nói một cách nghiêm túc, “Tất nhiên là Đức có hạt giống. Hạt giống của Đức là Thiện. Con thấy mỗi niệm lương thiện đánh trong tay tức thì có những màu sắc ánh sáng khác nhau. Con xem, ví dụ như, ta nghĩ rằng ta hy vọng là Tịnh Bản sẽ tu Đạo tốt …” Vị Đạo trưởng đẩy công năng ra ngoài. Tịnh Bản nhìn thấy ngài đưa ra một niệm, là áng mây màu sáng vàng kim. Ánh sáng hạ một lần nữa xuống gan bàn tay ngài. Vị Đạo trưởng đặt ánh sáng đó trong đất, và sau đó lấp luống cày lại.

Vị Đạo trưởng đưa thần thông ra ngoài bằng tay của mình và cho Tịnh Bản thấy nó. Mỗi niệm lương thiện được đưa ra có màu sắc khác nhau, như đỏ, cam, vàng, xanh lục, lục lam, xanh lam và tím. Các màu sắc khác nhau thật mỹ lệ. Tâm của Tịnh Bản dần dần được điều chỉnh đúng đắn. Trong quá trình gieo trồng Đức, Tịnh Bản dần dần quên đi sự ương ngạnh của mình. Anh ta hiểu rằng có thêm nhiều điều kỳ diệu về sinh mệnh nếu họ có một trái tim tốt đẹp và niệm thiện lương. Kể từ đó, Tịnh Bản cần mẫn cùng với sư phụ gieo trồng Đức trên mảnh đất khô cằn.

Một ngày nọ, Tịnh Bản nghĩ đến việc sau khi gieo trồng, họ phải tưới để cây lớn lên trong đời này. Vậy phải dùng gì để tưới những hạt giống Đức được gieo trồng? Hơn nữa, đã không mưa nhiều năm, và đất thì cằn cỗi. Sau khi hoàn thành công việc, Tịnh Bản chạy đến hỏi sư phụ. Vị Đạo trưởng nói, “Tất nhiên là Đức được gieo trồng thì phải cần được tưới bởi Pháp lý của thiên thượng. Con xem …” Ông vẫy tay. Mảnh đất Tịnh Bản vừa gieo trồng đã thay đổi dưới tác động của Pháp lý trên thiên thượng. Nó không ngừng được cải biến. Mọi thứ dường như rất đẹp đẽ và kỳ lạ. Mảnh đất bắt đầu màu mỡ, sinh sôi, và một loại cỏ thơm linh chi kỳ lạ đã nở hoa. Sau đó mảnh đất trở thành vinh hoa phú quý của thế tục. Mảnh đất cằn cỗi cho thấy một tầng trời trong sáng nơi có nhưng sinh mệnh khác nhau. Họ dường như đang mỉm cười và phủ phục trước Tịnh Bản.

Kể từ đó, đầu óc ương bướng của Tịnh Bản được khai mở. Việc ước đoán về cuộc đời 17 năm của anh đã thay đổi nhờ gieo trồng Đức và tu Đạo. Đây là kết quả kỳ diệu của việc gieo trồng Đức.

Đúng là:

Niệm thiện trồng đức trời đất sinh,
Sắc thái rực rỡ vũ trụ minh;
Người đời trồng đức sinh phú quý,
Tu Đạo trồng đức lên thiên đình.

Ghi chú: Khi tôi đọc bài thơ “Tai nạn vi hà đa” trong Hồng Ngâm III hôm qua, Sư phụ giảng, “Chúng sinh bất đức tai nạn tự kỷ chủng”. Nhờ khai mở của đoạn Pháp này, tôi liền nghĩ đến cố sự bên trên.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/11/9/78514.html
http://pureinsight.org/node/6233

The post Tu luyện cố sự: Gieo trồng Đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/04/tu-luyen-co-su-gieo-trong-duc.html/feed0