«Cách Am Di Lục» toàn giải (Thiên 1): Nam Sư Cổ bí quyết (Phần 1)
Tác giả: Nguyên giải: Chính Hạo / Biên tập: Chánh Kiến Net
[Chanhkien.org] Giới thiệu: «Cách Am Di Lục» (Gyeokamyurok) là cuốn sách tiên tri thần kỳ do học giả Nam Sư Cổ truyền lại từ 470-480 năm trước đây tại Triều Tiên (nay thuộc Hàn Quốc). Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, với khả năng tiên tri, có thể được ví với Thiệu Khang Tiết thời Bắc Tống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, tương truyền «Cách Am Di Lục» là do một vị Thần nhân ở núi Kim Cương khẩu thuật và Nam Sư Cổ ghi lại từng câu từng chữ. Toàn bộ cuốn sách phân làm 60 thiên với gần 4 vạn chữ. Phá giải «Cách Am Di Lục» đã trở thành một chủ đề nóng tại Hàn Quốc vào những thập niên 80-90. Trong dự ngôn giảng rất minh xác về một Đại Pháp Đại Đạo hồng truyền thế gian, nhưng phải trải qua một trường ma nạn, đồng thời cũng giảng về những vấn đề mà nhân loại sẽ phải đối mặt.
* * *
Đệ nhất thiên “Nam Sư Cổ bí quyết”
Lời tựa: Trong «Cách Am Di Lục», thiên đầu tiên “Nam Sư Cổ bí quyết” là một thiên cực kỳ trọng yếu, khởi tác dụng “vẽ rồng điểm mắt” đối với toàn bộ cuốn sách. Cũng là nói rằng, chỉ cần phá giải “Nam Sư Cổ bí quyết” là có thể đem toàn bộ nội dung chủ yếu của «Cách Am Di Lục» ra nói mạch lạc. Thiên này luận thuật chân lý “thập thắng” là gì, Đại Thánh nhân là ai, tiên đoán chân lý thập thắng và người sáng lập sẽ tạm thời bị trấn áp, hơn nữa còn thuyết minh tường tận về “thập thắng”, “tam phong”, “lưỡng bạch”, “hải ấn”. Thiên này kết cấu nghiêm cẩn, dùng từ tinh luyện.
“Sư Cổ hiệu Cách Am, hựu hiệu Kính Am, Anh Dương nhân, Minh miếu triều quan, xã tắc tham phụng bái thiên văn học giáo thụ, thiếu thời phùng Thần nhân thụ bí quyết, phong thủy thiên văn câu đắc thông hiểu, công dĩ Chính Đức tứ niên Kỷ Tỵ sinh, Long Khánh ngũ niên Tân Mùi tốt thọ, lục thập tam tuế“.
Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, còn hiệu là Kính Am, người Anh Dương. Vào triều Minh nhậm chức quan ở Triều Tiên, giảng dạy thiên văn học, thuở nhỏ gặp Thần nhân truyền thụ bí quyết, phong thủy thiên văn không gì không thông hiểu. Nam Sư Cổ sinh năm 1509 Kỷ Tỵ, mất năm 1571 Tân Mùi, hưởng thọ 63 tuổi.
Lưỡng cung song Ất tri ngưu mã, Điền hề tùng kim cấn hoa cung.
Tinh thoát kỳ hữu mễ bàn tự, Lạc bàn tứ nhũ thập trọng sơn.
Bát lực thập nguyệt nhị nhân tầm, Nhân ngôn nhất đại thập bát thốn.
Ngọc đăng thu dạ tam bát nhật, Nam Bắc tương hòa thái bình ca.
“Lưỡng cung song Ất tri ngưu mã, Điền hề tùng kim cấn hoa cung” (Cặp cung đôi Ất biết trâu ngựa, Ruộng này từ cung dâm bụt vàng). “Lưỡng cung song Ất tri ngưu mã”: Trời sinh nhất, nhất sinh lưỡng nghi, “lưỡng cung” hoặc “cung cung” (弓弓) ám chỉ Thái Cực đồ, cũng là Đạo gia. “Song Ất” tức “Ất Ất” (乙乙), Ất+Ất = “乙”+”乙” = “卍”, “song Ất” chỉ đích thị phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia. “Lưỡng cung song Ất” chính là chỉ hai gia lớn là Phật và Đạo. “Ngưu mã” (trâu ngựa) ở đây với “điền” (田) trong câu tiếp là có quan hệ, ngụ ý trâu ngựa cày cấy thu hoạch trên thửa ruộng. “Điền hề tùng kim cấn hoa cung”: “Điền” (田), là “điền” (ruộng) của hoa dâm bụt màu vàng (“kim cấn hoa cung”). Ở đây không phải chỉ “ruộng” với thổ nhưỡng, mà là một loại đồ hình, đồ hình có cung xán lạn màu vàng như hoa. Như vậy, “điền” (田) ở đây với “lưỡng cung song Ất” ở trên là tương liên, ý là trong “cung dâm bụt vàng” có hình tượng “lưỡng cung song Ất”.
“Tinh thoát kỳ hữu mễ bàn tự, Lạc bàn tứ nhũ thập trọng sơn” (Tinh bỏ phần hữu còn chữ mễ, Rụng đi bốn nhũ mười núi nặng). “Tinh thoát kỳ hữu mễ bàn tự”: Chữ “tinh” (精) bỏ đi phần bên phải (“hữu”) chính là chữ “mễ” (米). “Lạc bàn tứ nhũ thập trọng sơn”: “Lạc”, là rụng đi, rụng đi “tứ nhũ”, tức chữ “mễ” (米) rụng đi bốn dấu phẩy (“tứ nhũ”) ở Đông Nam, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam chỉ còn lại chữ “thập” (十).
Bốn câu bí ngữ ở trên miêu tả một đồ hình, “Lưỡng cung song Ất tri ngưu mã, Điền hề tùng kim cấn hoa cung” chỉ ra một thứ gì đó với rất nhiều hình thái. Có Thái Cực, cũng có phù hiệu chữ Vạn “卍”. Hai câu sau “Tinh thoát kỳ hữu mễ bàn tự, Lạc bàn tứ nhũ thập trọng sơn” nói với chúng ta vị trí các Thái Cực (bao gồm Tiên thiên Đại Đạo) và phù hiệu chữ Vạn “卍” trong đồ hình này. Vậy là, dùng bốn câu này miêu tả tổng thể, phác họa đồ hình Pháp Luân.
“Bát lực thập nguyệt nhị nhân tầm, Nhân ngôn nhất đại thập bát thốn” (Tám lực mười trăng hai người tìm, Lời người một lớn mười tám thốn). “Bát lực thập nguyệt nhị nhân tầm”: “bát lực nguyệt nhị nhân” (八力月二人) ghép lại thành chữ “thắng” (勝) (tiếng Hán phồn thể), “Bát lực thập nguyệt nhị nhân tầm” hợp lại thành “thập thắng” (十勝). “Thập thắng” này xuất hiện nhiều lần trong toàn cuốn sách, ở đây lấy hình thức câu đố chữ để đưa ra lần đầu tiên. “Nhân ngôn nhất đại thập bát thốn”: “nhân ngôn” (人言) hợp thành chữ “tín” (信), “nhất đại” (一大) hợp thành chữ “thiên” (天), “thập bát thốn” (十八寸) hợp thành chữ “thôn” (村), hợp lại hết thành “tín thiên thôn” (tin vào thôn ở trên trời, ngụ ý tín tâm tu luyện). Vậy còn “thập thắng” là gì? Phật gia coi vũ trụ như thế giới mười phương, còn Đạo gia giảng Thái Cực, theo Chu Dịch nói thì “cửu cung gia nhất” tức là “thập thắng”; bởi vậy, “thập thắng” (十勝) chỉ Pháp mà Phật gia giảng, hoặc Đạo mà Đạo gia giảng, ở đây chỉ chân Pháp lý của vũ trụ.
“Ngọc đăng thu dạ tam bát nhật, Nam Bắc tương hòa thái bình ca” (Đèn ngọc đêm thu ba tám ngày, Nam Bắc cùng hát thái bình ca): “Ngọc đăng” (đèn ngọc), dùng “lục thập giáp tử” mà giải thì chính là năm Canh Thìn hoặc Giáp Thìn, tức 2000-2001 hoặc 2024-2025. Rất có khả năng là rơi vào mùa Xuân (tam bát nhật) và mùa Thu (thu dạ).
Dục thức thương sinh bảo mệnh xứ, Cát Tinh chiếu lâm chân thập thắng.
Lưỡng bạch tam phong chân lý, Nhãn xích chỉ hóa nhân bất đổ.
Cửu cung gia nhất thập thắng lý, Xuân mãn càn khôn phúc mãn gia.
Long quy hà lạc lưỡng bạch lý, Tâm thanh thân an hóa sinh nhân.
Thế nhân bất tri song cung lý, Thiên hạ vạn dân giải oan thế.
Độ hải di sơn hải ấn lý, Thiên hạ nhân dân Thần phán cơ.
Tứ khẩu hợp thể toàn điền lý, Hoàng đình kinh độc đan tâm điền.
Tứ phương trung chính tùng kim lý, Nhật nguyệt vô quang bất dạ thành.
Lạc bàn tứ nhũ thập tự lý, Tử trung cầu sinh hoàn nhiên giác.
Thủy thăng hỏa giáng bệnh khước lý, Bất lão bất tử cam vũ lộ.
Tam nhân nhất tịch tu tự lý, Chân tâm bất biến đốc tín thiên.
Lục giác bát nhân thiên hỏa lý, Hoạt nhân diệt ma Thần phán cơ.
Tự nhân bất nhân thiên hư vô lý, Thiên Thần hạ giáng phân minh tri.
Bát vương bát khẩu Thiện tự lý, Thiên Chân hóa tâm bất biến tâm.
Càn ngưu khôn mã ngưu tính lý, Hòa khí Đông phong Chân Nhân xuất.
“Dục thức thương sinh bảo mệnh xứ, Cát Tinh chiếu lâm chân thập thắng” (Muốn nhắc thương sinh nơi giữ mạng, Sao lành chiếu rọi thập thắng thật): Muốn biết nơi giữ mạng sống khỏi “tam tai bát nạn”, thì phải tìm “thập thắng” chân chính, “chân thập thắng” mới là Cát Tinh (Ngôi sao May mắn, Sao lành) từ trên cao chiếu rọi.
“Lưỡng bạch tam phong chân lý, Nhãn xích chỉ hóa nhân bất đổ” (Chân lý hai trắng ba phong, Người mắt chỉ tiền nhìn không thấy): “lưỡng bạch” là chỉ ngôn ngữ thiển bạch, đạo lý minh bạch. Đây là nói Pháp lý này dùng ngôn ngữ dễ hiểu để giảng, hơn nữa giảng rất minh bạch rõ ràng, khiến những người có tuổi tác và học thức khác nhau vẫn đều có thể lý giải. Vậy còn “tam phong”? Người viết cho rằng “tam phong” chính là chỉ “Chân-Thiện-Nhẫn”, hoặc từ góc độ Kinh Dịch mà luận, thì có luận về “tam cực”, “tam thiên”, “tam tài”, cũng có thể là “tam phong”. “Lưỡng bạch tam phong chân lý, Nhãn xích chỉ hóa nhân bất đổ” ý tứ mười phần rõ ràng, chính là nói mặc dù công pháp truyền ra với ngôn ngữ thiển bạch, đạo lý minh bạch, nhưng những người bái vật chỉ biết đến tiền thì nhìn mà không thấy.
“Cửu cung gia nhất thập thắng lý, Xuân mãn càn khôn phúc mãn gia” (Lý thập thắng chín cung thêm một, Xuân khắp trời đất phúc khắp nhà). Thế nào là “cửu cung gia nhất”? “Cửu cung”, tức bát quái thêm số 5 ở trung ương thành “cửu cung”; trong Bát quái, số cửu cung lần lượt là 1 Khảm (☵), 2 Khôn (☷), 3 Chấn (☳), 4 Tốn (☴), 5 Giữa, 6 Càn (☰), 7 Đoài (☱), 8 Cấn (☶), 9 Ly (☲). “Cửu cung gia nhất” tức cửu cung cộng thêm Thái Cực thành “thập thiên vô cực” hay “thập thắng”, đây là nói từ góc độ Kinh Dịch. Còn từ hình tượng mà luận, “cửu cung gia nhất” chính là đồ hình Pháp Luân với “cửu cung” — trung ương là một phù hiệu chữ Vạn “卍” lớn, cộng thêm bốn phù hiệu chữ Vạn “卍” nhỏ ở trên dưới trái phải, lại cộng thêm hai Thái Cực ở Đông Nam, Tây Bắc, và hai Thái Cực phù hiệu Tiên thiên Đại Đạo ở Tây Nam, Đông Bắc, tất cả hợp thành “cửu cung” (hình “cửu cung” là nằm ngoài Bát quái, đồ hình Pháp Luân là như vậy). Toàn bộ “cửu cung” hợp thành một khối, cộng thêm màu nền là được Pháp Luân đầy đủ hình tròn (chi tiết xem đồ hình Pháp Luân).
“Thập thắng lý” đã được giải thích ở trước, chỉ Pháp lý chân chính của vũ trụ.
“Long quy hà lạc lưỡng bạch lý, Tâm thanh thân an hóa sinh nhân” (Rồng rùa sông Lạc lý hai trắng, Tâm trong thân an biến hóa người): “long” là Hà Đồ, “quy” là Lạc Thư; “lý lưỡng bạch” ở đây đã được giải thích, là ngôn ngữ thiển bạch đạo lý minh bạch, cũng có lý giải khác là tâm trắng và thân trắng, hoặc nãi bạch thể và tịnh bạch thể (hai giai đoạn tu luyện thân thể người). Công pháp này có thể khiến “tâm thanh thân an” (tính mệnh song tu), bao hàm cả lý Thái Cực của Hà Đồ và lý chữ Vạn “卍” của Lạc Thư.
“Thế nhân bất tri song cung lý, Thiên hạ vạn dân giải oan thế” (Người đời không biết lý song cung, Vạn dân thiên hạ được giải oan): “song cung” cũng là “lưỡng cung” đề cập ở trước, lý “cung cung” này, con người thế gian không biết nó mới là chân lý giải oan đời đời kiếp kiếp cho vạn dân thiên hạ.
“Độ hải di sơn hải ấn lý, Thiên hạ nhân dân Thần phán cơ” (Vượt biển dời núi lý ấn biển, Nhân dân thiên hạ Thần phán cơ): “hải ấn” (con dấu của biển, ẩn dụ Pháp Luân) có thể vượt biển dời núi, có người nhìn được các khả năng kỳ diệu của nó. “Lý hải ấn”, là nền tảng (“cơ”) để thẩm phán nhân dân toàn thiên hạ. Ý là nhân dân thiên hạ cuối cùng sẽ có ngày thẩm phán tà ác. Ở đây dùng chữ rất độc đáo, đổi chữ “thẩm” trong “thẩm phán cơ” thành chữ “Thần”, tiếng Hàn phát âm “thẩm” (审) với “Thần” (神) là giống nhau, dùng chữ vi diệu là ở chỗ đó.
“Tứ khẩu hợp thể toàn điền lý, Hoàng đình kinh độc đan tâm điền” (Bốn miệng hợp thể lý toàn điền, Đọc Hoàng đình kinh tâm tại điền): “Tứ khẩu hợp thể”, bốn chữ “khẩu” (口) hợp lại thành chữ “điền” (田). Dùng «Hoàng đình kinh», sách của Đạo gia để thuyết minh lý tu luyện của Đạo gia cũng bao hàm trong đây, ngụ ý sẽ có sách chỉ đạo tu luyện (“kinh”), phải đọc sách này để tu tâm tính.
“Tứ phương trung chính tùng kim lý, Nhật nguyệt vô quang bất dạ thành” (Bốn phương quy chính từ lý vàng, Nhật nguyệt không sáng thành không đêm): “Tứ phương trung chính tùng kim lý”: Ở giữa đồ hình Pháp Luân là phù hiệu chữ Vạn “卍” lớn màu vàng, hào quang rực rỡ, khiến mặt trăng mặt trời cũng lu mờ như không có ánh sáng. Câu này nhấn mạnh phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, chỉ rõ Pháp Luân Công lấy cơ điểm là Phật gia, bao gồm cả lý của Phật gia. Như vậy kết hợp với hai câu ở trên “Tứ khẩu hợp thể toàn điền lý, Hoàng đình kinh độc đan tâm điền”, thì suy ra là Đại Pháp tu luyện bao hàm cả lý của Phật gia và Đạo gia.
“Lạc bàn tứ nhũ thập tự lý, Tử trung cầu sinh hoàn nhiên giác” (Rụng đi bốn nhũ lý chữ thập, Trong tử cầu sinh mới là Giác): “tứ nhũ” chính là bốn phù hiệu Thái Cực ở bốn góc vuông của đồ hình Pháp Luân. Câu này ám chỉ tu luyện là mười phần gian nan, có thể nói là vào sinh ra tử, mỗi quan, mỗi nạn không qua được đều có thể khiến công sức uổng phí, chỉ kiên trì đi hết quá trình mới có thể được xưng là Giác Giả.
“Thủy thăng hỏa giáng bệnh khước lý, Bất lão bất tử cam vũ lộ” (Nước thăng lửa giáng lý sạch bệnh, Không già không chết giọt mưa lành): “Thủy thăng hỏa giáng”, ý là Âm-Dương quân bình, chứng tỏ công pháp này có thể khiến người ta đạt đến Âm-Dương cân bằng, là Đạo trường sinh thực sự khiến con người trường thọ.
“Tam nhân nhất tịch tu tự lý, Chân tâm bất biến đốc tín thiên” (Ba người một chiều lý chữ tu, Chân tâm không đổi tin vào Trời): “Tam nhân nhất tịch” (三人一夕) hợp lại thành chữ “tu” (修). Thể hiện rằng chúng sinh sẽ chân tâm theo tu luyện Đại Pháp.
“Lục giác bát nhân thiên hỏa lý, Hoạt nhân diệt ma Thần phán cơ” (Sáu sừng tám người lý lửa trời, Người sống ma diệt Thần phán cơ): “lục giác” (六角) tức chữ “thiên” (天), “bát nhân” (八人) tức chữ “hỏa” (火), “lục giác bát nhân” tức “thiên hỏa” (lửa trời), có thể khiến người tu Đạo sống mà ma quỷ diệt, là “cơ” để thẩm phán ma quỷ.
“Tự nhân bất nhân thiên hư vô lý, Thiên Thần hạ giáng phân minh tri” (Tựa người mà không phải người lý không từ thiên hư, Thiên Thần giáng hạ phân biệt rõ ràng): “thiên hư vô lý” có thể nói là lý tối cao ở trên trời, hay còn gọi là lý “thập thiên vô cực”. Người truyền bộ Pháp này, trông giống người mà không phải người, là Thiên Thần hồng truyền lý vô biên của vũ trụ.
“Bát vương bát khẩu Thiện tự lý, Thiên Chân hóa tâm bất biến tâm” (Tám vua tám miệng lý chữ Thiện, Tâm thiên chân là tâm bất biến): Nguyên văn minh xác đề cập “bát vương bát khẩu” (八王八口) hợp thành chữ “Thiện” (善), ý là Đại Pháp này sẽ tu “Thiện”, chiếu theo lý Thiện mà tu luyện. Còn đề cập đến chữ “Chân” (真), “thiên chân” là ngây thơ bẩm sinh, bản tâm bất biến.
“Càn ngưu khôn mã ngưu tính lý, Hòa khí Đông phong Chân Nhân xuất” (Trâu càn ngựa khôn lý giống trâu, Khí hòa gió Đông Chân Nhân xuất): “Càn ngưu khôn mã ngưu tính lý”: Theo lý thường thì là “càn mã khôn ngưu” (ngựa dũng mãnh, trâu ôn hòa), vậy sao ở đây lại là “càn ngưu khôn mã”? Càn ngưu trong lý «Chu Dịch» thì là Càn (☰) ở trên, Khôn (☷) ở dưới, quẻ Thiên Địa Bĩ, ý là khai cuộc thì gian nan, chỉ nhẫn khổ mới có thể chuyển nguy thành an. Khôn mã trong lý «Chu Dịch» thì là Khôn (☷) ở trên, Càn (☰) ở dưới, quẻ Địa Thiên Thái, biểu thị vạn sự hanh thông. Ở đây gợi ý rất rõ, lần truyền Pháp và tu luyện này sẽ “khổ tận cam lai”, giai đoạn đầu sẽ gặp phải ma nạn, nhưng chỉ cần kiên trì chịu khổ vượt qua, thì vạn sự sẽ hanh thông. “Hòa khí Đông phong Chân Nhân xuất”: Báo trước Chân Nhân sẽ xuất hiện ở phương Đông.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/20793
Ngày đăng: 05-08-2012
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.