Ấu Học Quỳnh Lâm bút đàm (11): Đua thuyền trong ngày Tết Đoan Ngọ



Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Nguyên văn chữ Hán và chú âm:

端(ㄉㄨㄢ) 阳(ㄧㄤˊ) 竞(ㄐㄧㄥˋ) 渡(ㄉㄨˋ),

吊(ㄉㄧㄠˋ) 屈(ㄑㄩ) 原(ㄩㄢˊ) 之(ㄓ) 溺(ㄋㄧˋ) 水(ㄕㄨㄟˇ);

重(ㄔㄨㄥˊ) 九(ㄐㄧㄡˇ) 登(ㄉㄥ) 高(ㄍㄠ),

效(ㄒㄧㄠˋ) 桓(ㄏㄨㄢˊ) 景(ㄐㄧㄥˇ) 之(ㄓ) 避(ㄅㄧˋ) 灾(ㄗㄞ)。

Bính âm

端(Duān) 阳(yáng) 竞(jìng) 渡(dù),

吊(diào) 屈(qū) 原(yuán) 之(zhī) 溺(nì) 水(shuǐ)

重(chóng) 九(jiǔ) 登(dēng) 高(gāo),

效(xiào) 桓(huán) 景(jǐng) 之(zhī) 避(bì) 灾(zāi)。

Âm Hán Việt

Đoan Dương cạnh độ,

điếu Khuất Nguyên chi nịch thuỷ;

Trùng Cửu đăng cao,

hiệu Hoàn Cảnh chi tị tai.

Giải nghĩa từ ngữ

(1) 端陽 (Đoan Dương): Tết Đoan Ngọ là ngày mùng 5 tháng 5 theo lịch truyền thống.

(2) 競渡 (Cạnh độ): Đua thuyền.

(3) 吊 (Điếu): Tưởng nhớ.

(4) 屈原 (Khuất Nguyên): Người nước Sở thời Chiến Quốc.

(5) 重九 (Trùng Cửu): Mồng 9 tháng 9 theo lịch truyền thống, còn được gọi là “Trùng Dương”.

(6) 效 (Hiệu): Phỏng theo, làm theo.

(7) 桓景 (Hoàn Cảnh): Là người thời Đông Hán, theo Phí Trường Phòng học Đạo, sư phụ của Phí Trường Phòng là Hồ Công. Trong Tục Tề Hài Ký của Ngô Quân, một người nhà Lương thời Nam triều có ghi chép: “Trường Phòng nói với Hoàn Cảnh rằng: “Ngày mùng 9 tháng 9, nhà con sẽ có tai họa, hãy mau bảo người nhà lập tức dệt túi, đựng thù du và buộc trên cánh tay, leo lên chỗ cao, và uống rượu hoa cúc có thể giải trừ tai họa này”. Hoàn Cảnh làm theo, sau đó cả nhà lên núi ở, buổi chiều trở về nhà thấy gà, chó, bò, dê đều đã chết. Phí Trường Phòng nghe thấy liền nói: “Là chết thay đó”.

Bản dịch tham khảo

Tết Đoan Ngọ tổ chức lễ hội đua thuyền rồng để tưởng nhớ Khuất Nguyên, người đã chết ở sông Mịch La; vào ngày mùng 9 tháng 9 tết Trùng Dương cắm cành thù du, là làm theo Hoàn Cảnh để tránh tai họa.

Đọc sách luận bút

Bài học này nói về hai ngày tết truyền thống mà ngày nay chúng ta đều biết rất rõ. Tết Đoan Ngọ hầu như ai ai cũng biết vì để tưởng nhớ đến lòng trung nghĩa lo cho dân cho nước của Khuất Nguyên, đến ngày 9 tháng 9 là Tết Trùng Dương leo lên cao, cũng bởi vì bài thơ của Vương Duy:

“Độc tại dị hương vi dị khách,

Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.

Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,

Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.”

Dịch nghĩa:

Một mình ở nơi đất lạ làm khách lạ

Mỗi khi tới ngày tiết đẹp lại nhớ người thân bội phần

Từ nơi xa này vẫn biết rằng anh em lên nơi cao

Đều cắm cành thù du nhưng thiếu mất một người

Dịch thơ (Trác Văn Quân):

Một mình phiêu bạt chốn tha phương

Cửu trùng tiết đẹp nhớ người thương

Nơi xa vẫn biết người phương ấy

Thù du cầm nhớ kẻ phong sương

Bài thơ này không ai không biết, không ai không hiểu. Trong hai ngày tết này, một là tập trung vào việc đề cao tinh thần yêu nước thương dân của Khuất Nguyên, hai là tập trung vào tình đoàn tụ gia đình, vì vậy mỗi một lễ hội đều có nội hàm riêng của nó. Hôm nay chúng ta sẽ chủ yếu nói về Tết Đoan Ngọ. Ngoài việc tưởng nhớ Khuất Nguyên, nó cũng có một số tập tục từ rất sớm.

Đoan Dương có nghĩa là gì?

Ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch được gọi là Tết Đoan Ngọ, còn có các tên gọi khác là “Tết Trùng Ngũ” và “Tết Đoan Dương”, “Đoan” này là liên quan đến ý nghĩa “khai đoan”(bắt đầu), “sơ” (ban đầu). Người xưa gọi sơ nhất (mùng một) là “đoan nhất”, sơ ngũ (mùng năm) là “đoan ngũ”, và mùng 5 tháng 5 là hai ngũ trùng nhau nên gọi là “Trùng Ngũ”. Lịch truyền thống là dựa vào 12 địa chi để ghi tháng và đặt tên cho các tháng. Ví dụ như tháng Một là Dần, tháng Hai là Mão, tháng Ba là Thìn, tháng Tư là Tị, và tháng Năm vừa đến lượt địa chi Ngọ, vì vậy gọi tháng năm là tháng Ngọ, cổ nhân lại lấy mùng 5 gọi là ngày Ngọ, cho nên mùng 5 tháng 5 còn được gọi là “Đoan Ngọ”. 5 là con số dương nên còn được gọi là “Đoan Dương”.

Trừ ngũ độc

Tục ngữ dân gian có câu: “Tết Đoan Ngọ, thời tiết nóng nực, “ngũ độc” thức dậy thì không yên”. Ngày xưa dân gian gọi rắn, bọ cạp, rết, cóc, thạch sùng hoặc nhện là “ngũ độc”. Đến ngày Tết Đoan Ngọ, người ta dùng giấy màu cắt thành hình dán năm con “ngũ độc” để dán lên cửa ra vào, cửa sổ, bệ nằm hoặc buộc vào tay trẻ em để tránh các loại độc. Thậm chí, có người còn cắt hình quả bầu đựng ngũ độc, cho rằng quả bầu có thể trấn được ngũ độc. Ở một số vùng ngũ độc được xâu thành chuỗi dài, trên cùng buộc cây ngải và cây xương bồ, sau đó buộc ba nhánh tỏi ở đầu dưới tạo thành hình ngó sen. Cây xương bồ và cây ngải tượng trưng cho dao kiếm để trảm ngũ độc, còn tỏi tượng trưng cho khóa, mục đích là khóa lại để giết. Còn phải treo nó ở một nơi trước cửa dễ nhìn, được gọi là “Huyền Đoan Ngọ cảnh” (tức là treo bức ảnh thần Chung Qùy để trừ ngũ độc).

Treo cây ngải

Vì cổ nhân tin rằng ngày mùng 5 tháng 5 là ngày tà độc thịnh hành, nên phong tục treo ngải cứu trong ngày Tết Đoan Ngọ là để xua đuổi tà độc và giữ cho gia đình khỏe mạnh. Sách Kinh Sở Tuế Thời Ký của Tông Lẫm người Lương thời Nam triều có ghi chép: “Người Kinh Sở đạp các loại thảo mộc vào mùng năm tháng năm, hái ngải làm hình người, treo trên cửa, để giải trừ độc khí.”

Ngày mùng 5 tháng 5 đầu hè, mưa nhiều ẩm thấp, vi khuẩn sinh sôi nhanh, người ta dễ sinh bệnh, mùi của cây ngải và cây xương bồ có tác dụng xua đuổi tà khí, trừ virus.

Uống rượu hùng hoàng

Rượu hùng hoàng được dùng trong ngày Tết Đoan Ngọ ở hầu hết các vùng của Trung Quốc. Hùng hoàng là một khoáng chất, cũng là vị thuốc thường được sử dụng trong thuốc Bắc, nó có tác dụng ức chế các loại nấm da, khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) và trực khuẩn biến hình (Proteus). Vì vậy Đoan Ngọ là ngày gia đình đoàn tụ để uống rượu hùng hoàng, vì người ta cho rằng làm như thế có sẽ xua đuổi mọi bệnh tật. Vẽ trên mũi, tai và trán của trẻ một chữ “vương” mang ý nghĩ cầu sức khỏe, trừ tà, nên dân gian có câu: “Uống rượu hùng hoàng, bách bệnh chạy xa”.

Kể chuyện

Truyền thuyết về Tết Đoan Ngọ

Tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 Âm lịch hàng năm còn được gọi là Tết Đoan Dương, Tết Ngọ Nhật, Tết Ngũ Nguyệt, Tết Ngũ Nhật, Tết Ngải, Trùng Ngọ, Ngọ nhật, Hạ tiết, cùng với Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu hợp thành ba ngày Tết truyền thống lớn quan trọng.

Về nguồn gốc của Tết Đoan Ngọ, có rất nhiều cách nói khác nhau, nhưng cách phổ biến nhất được mọi người chấp nhận rằng Tết Đoan Ngọ là để tưởng nhớ Khuất Nguyên một nhà thơ nước Sở thời Chiến Quốc. Mặc dù trung thành nhưng ông đã bị lưu đày đến Giang Nam, vì không đành lòng nhìn thấy cảnh đất nước dần rơi vào suy tàn diệt vong, ông đã ôm đá tự gieo mình xuống sông Mịch La vào ngày mùng 5 tháng 5.

Người ta kể lại rằng, ngay khi tin Khuất Nguyên trầm mình xuống sông được lan truyền, người dân nước Sở vô cùng đau buồn và đổ xô ra bờ sông để tỏ lòng thành kính với Khuất Nguyên. Các ngư dân chèo thuyền trên sông để vớt thi thể ông. Một ngư dân còn lấy bánh ú bá trạng và trứng ném xuống sông, nói rằng cho tôm cá ăn no để chúng không ăn thi thể của ông. Một thầy thuốc già lấy một vò rượu hùng hoàng đổ xuống sông, nói rằng dùng để khống chế giao long dưới sông và ngăn chặn chúng làm hại thi thể Khuất đại phu.

Một lúc sau, thực sự xuất hiện một con giao long choáng váng nổi trên mặt nước, một vạt áo của Khuất đại phu vẫn còn dính trên râu giao long. Người ta kéo giao long lên bờ, rút gân nó ra rồi lấy gân quấn quanh tay và cổ trẻ con, dùng rượu hùng hoàng xoa vào bảy huyệt để bảo vệ trẻ khỏi bị rắn và các côn trùng khác cắn. Kể từ đó, cứ đến ngày mùng 5 tháng 5 hàng năm, mọi người tụ lại chèo thuyền rồng, ăn bánh ú bá trạng và uống rượu hùng hoàng để tưởng nhớ Khuất Nguyên.

Trên thực tế, nhiều phong tục của Tết Đoan Ngọ đã được lưu truyền trước đó, người Trung Quốc từ lâu đã có ngày Tết phản ánh sự thay đổi của các mùa và đặc trưng của thời tiết. Thời cổ đại, tháng 5 thường được gọi là độc nguyệt, hay tà nguyệt. Bởi vì tháng 5 thời tiết chuyển sang nắng nóng, thực phẩm dễ hỏng, muỗi, ruồi sinh sôi, các loại chất độc phát ra, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm, vì để xua đuổi tà ma, tránh nhiễm độc giữ bình an, nên nhiều tập tục đã được hình thành.

Người ta ăn bánh ú bá trạng, uống rượu hùng hoàng, đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ, treo ảnh vẽ Thần Chung Quỳ trước cửa nhà, treo ngải và cây xương bồ (ngải cứu và thạch xương bồ) để khử các chất độc. Tết Đoan Ngọ gói bánh ú bá trạng làm quà tặng người thân, bạn bè được gọi là “tống tiết”. Đua thuyền rồng là hoạt động có ý nghĩa phong tục tập quán dân tộc nhất của Tết Đoan Ngọ, mục đích của nó là cầu bình an.

Nguồn gốc leo cao vào Tết Trùng Dương

Ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch là “Trùng Dương”, còn được gọi là “Trùng Cửu”. Cổ nhân chia các con số thành Âm và Dương, số 9 là số dương. Vào ngày mùng 9 tháng 9, ngày và tháng đều là số dương, vì vậy được gọi là “Trùng Dương”.

Nguồn gốc Tết Trùng Dương, theo ghi chép trong Tục Tề Hài Ký của Ngô Quân người nhà Lương thời Nam triều: Tương truyền thời Đông Hán, có một người tên là Hoàn Cảnh ở huyện Nhữ Nam theo Phí Trường Phòng học đạo.

Một ngày nọ, Phí Trường Phòng nói với ông: “Ngày mùng 9 tháng 9, trong nhà con sẽ gặp nạn, con mau về nhà và nói với gia đình làm một cái túi, đặt cây thù du trong đó, buộc vào cánh tay, đi lên chỗ cao, uống rượu hoa cúc, thì có thể sẽ tiêu trừ được tai họa”. Hoàn Cảnh làm theo lời chỉ dạy của sư phụ, cùng cả nhà leo lên núi. Đợi đến khi trời tối trở về thì thấy gà, chó, bò, dê trong nhà đều chết hết.

Sau đó, câu chuyện được lan truyền, người dân tổ chức Tết Trùng Dương vào ngày mùng 9 tháng 9 và họ có phong tục leo cao, cắm cành thù du và uống rượu hoa cúc.

Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa Ấu Học Quỳnh Lâm của zhengjian.org

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/248395



Ngày đăng: 08-04-2023

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.