Ấu Học Quỳnh Lâm bút đàm (5): Ngô ngưu suyễn nguyệt
Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Nguyên văn chữ Hán và Chú âm:
Bính âm:
雪(Xuě) 花(huā) 飛(fēi) 六(liù) 出(chū),
先(xiān) 兆(zhào) 豐(fēng) 年(nián);
日(rì) 上(shàng) 已 (yǐ) 三(sān) 竿(gān),
乃(nǎi) 云 (yún) 時(shí) 晏(yàn).
蜀(Shǔ) 犬(quǎn) 吠(fèi) 日(rì),
比(bǐ) 人(rén) 所(suǒ) 見(jiàn) 甚(shén) 稀(xī);
吳(wú) 牛 (niú) 喘(chuǎn) 月(yuè),
笑(xiào) 人 (rén) 畏 (wèi) 懼(jù) 過(guò) 甚(shèn).
Âm Hán Việt:
Tuyết hoa phi lục xuất,
tiên triệu phong niên;
nhật thượng dĩ tam can,
nãi vân thời yến.
Thục khuyển phệ nhật,
tỷ nhân sở kiến thậm hi;
Ngô ngưu suyễn nguyệt,
tiếu nhân uý cụ quá thậm.
Giải nghĩa từ ngữ
(1) 六出 Lục xuất: Cánh hoa. Các tinh thể của bông tuyết hầu hết có hình lục giác, vì vậy chúng có tên khác là tuyết.
(2) 三竿 Tam can: độ cao bằng 3 cây sào. Người xưa dùng phương pháp đo bóng của mặt trời hoặc ước tính độ cao của mặt trời để tính thời gian. Mặt trời lên 3 cây sào, là khoảng 8-9 giờ sáng.
(3) 晏 Yến: Muộn màng.
(4) 蜀犬吠日 Thục khuyển phệ nhật: là một câu thành ngữ, đồng bằng Tứ Xuyên có các ngọn núi bao phủ xung quanh làm khí ẩm của vùng bình nguyên không tản đi được nên không khí luôn ẩm ướt và trời nhiều mây. Chó ở đó thường không thấy mặt trời, hễ mặt trời ló dạng liền thấy kỳ lạ và hướng về phía đó mà sủa liên tục. Thành ngữ này dùng để ví von với những điều hiếm gặp nên thấy lạ. 蜀 Thục: Tứ Xuyên. 吠 Phệ: chó sủa.
(5) 吴牛喘月 Ngô ngưu suyễn nguyệt: Trâu nước Ngô thở hổn hển khi trăng mọc, ví von người gặp chuyện sợ hãi quá mức, có ngụ ý châm biếm.
Bản dịch tham khảo
Những bông tuyết bay phấp phới đều có hình lục giác, tuyết rơi là dấu hiệu báo trước một năm mùa màng bội thu; mặt trời đã lên cao 3 cây sào, điều này cho thấy không còn sớm nữa.
Ở vùng Thục (Tứ Xuyên), vì nhiều núi cao ít thấy mặt trời nên thường có hiện tượng chó ở đây khi thấy mặt trời thì sủa, là ám chỉ những người có kiến thức hạn hẹp, ít từng trải nên gặp chuyện bất thường thì thấy kỳ lạ. Những chú trâu ở nước Ngô thở hổn hển khi nhìn thấy mặt trăng, người ta dùng điều này để châm biếm những người sợ hãi quá mức.
Đọc sách luận bút
Cuốn sách giáo khoa nhập môn cho trẻ em này được biết đến như một bộ bách khoa toàn thư, chủ yếu là truyền thụ một lượng lớn kiến thức về thiên văn, địa lý và nhân văn, trình độ kiến thức phong phú, càng đọc càng cảm nhận được sự sâu sắc. Cổ nhân giảng Tam tài Thiên địa nhân, thiên văn địa lý có quan hệ mật thiết với nhân văn, nên họ không bao giờ dạy trẻ em học những điều vô dụng. Mục đích của việc nghiên cứu các hiện tượng thiên văn và tri thức là để con người kết hợp với cuộc sống nhân gian mai sau, trở thành nhân tài hữu dụng thông hiểu trời đất, thiên nhiên và con người.
Trong bài học này, người ta nói những bông tuyết có sáu cánh bay phất phơ, rơi trên mặt đất, điều này báo hiệu cho một năm mùa màng bội thu sắp đến, nông nghiệp được mùa, cũng là một cách khác nói tuyết lành báo trước một năm được mùa, rất giàu ý thơ và sắc thái văn học. Qua đó để trẻ em học được kiến thức về mối liên hệ giữa thiên văn và các vấn đề của con người, cũng học được cách diễn đạt giàu sắc thái văn học. Cổ nhân khuyên con người nên quý trọng thời gian, họ thường nói mặt trời mà lên ba cây sào là không còn sớm nữa rồi, không như ngày nay, nói thẳng một câu không còn sớm nữa là coi như xong chuyện, không để lại gì cho trí tưởng tượng. Để chỉ con người kiến thức khá hạn hẹp, không còn là trạng thái ít thấy nên cảm thấy lạ mà đã trở nên kinh ngạc trước những chuyện nhỏ nhặt, cổ nhân lại dùng thành ngữ “Thục khuyển phệ nhật” (chó đất Thục sủa mặt trời) để gián tiếp ví von; khi châm biếm người bị dọa phát sợ và những người dễ dàng hoảng sợ thì dùng cụm từ “Ngô ngưu suyễn nguyệt” (Trâu đất Ngô thở hổn hển khi thấy mặt trăng) để hình dung. Thật có thể nói là hình tượng sống động và vô cùng hàm súc.
Đọc những câu văn này làm ta hiểu được cái tao nhã và dí dỏm trong cuộc sống thường ngày của người xưa từ một góc độ khác, ngay cả việc châm biếm con người cũng rất nghệ thuật, quả đúng là khiến người ta hâm mộ mãi.
Kể chuyện
Ngô ngưu suyễn nguyệt
Ngô Ngưu là loài trâu, có nguồn gốc từ lưu vực vùng sông Dương Tử và sông Hoài ở Trung Quốc. Thời tiết ở vùng Giang Tô và Chiết Giang khá nóng bức, trâu vốn dĩ rất sợ nóng nên vào mùa hè thường thích ngâm mình trong nước hoặc trú trong bóng râm. Vì nắng nóng quá nên trâu cảm thấy rất khó chịu, vì vậy nhiều khi nhìn thấy trăng vào ban đêm, chúng lầm tưởng mặt trời đã ló dạng, nhiệt độ sẽ tăng lên, khiến chúng sợ quá mà thở hổn hển. Vì vậy trong truyện “Phong Tục Diễn Nghĩa – Dật văn” của Ưng Thiệu đời Hán có câu “Ngô ngưu vọng nguyệt tắc suyễn” (Trâu đất Ngô khi nhìn thấy mặt trăng thì thở hổn hển). Câu thành ngữ “Ngô ngưu suyễn nguyệt” này chính là bắt nguồn từ đây mà ra.
Trong cuốn “Thế Thuyết Tân Ngữ” có câu chuyện về “Ngô ngưu suyễn nguyệt”. Một đại thần của Tấn Vũ Đế là Mãn Phấn rất sợ gió. Có lần Mãn Phấn ngồi cạnh Tấn Vũ Đế, cửa sổ phía bắc có tấm bình phong lưu ly khá chắc chắn, rất kín, nhưng trông có vẻ như gió vẫn có thể luồn vào. Mãn Phấn biết rằng bình phong này dày và gió sẽ không lọt qua, nhưng trên mặt ông vẫn lộ ra vẻ sợ hãi, bất giác rùng mình. Khi nhìn thấy thế, Vũ Đế đã bật cười khiến Mãn Phấn ngượng ngùng trả lời: “Thần giống như trâu đất Ngô, hễ nhìn thấy mặt trăng là sẽ nghĩ đó là mặt trời, sợ đến nỗi thở hổn hển”.
Cách xác định thời gian bằng nhìn bóng cây sào
Khuê biểu là khí cụ quan sát mặt trời để đo thời gian, chúng có cấu tạo rất đơn giản, là công cụ đo thời gian lâu đời nhất của Trung Quốc được lưu truyền trên thế giới, đến nay vẫn chưa khảo cứu được niên đại phát minh.
Cái gọi là Khuê biểu chính là phát triển từ “Biểu” (tức đồng hồ), sau đó lại từ Khuê biểu phát triển thành đồng hồ Nhật Quỹ (khí cụ dựa vào bóng của mặt trời để ước lượng giờ giấc). “Biểu” ban đầu chỉ là một chiếc cột tre hoặc cột đá dựng thẳng đứng trên mặt đất, thường gọi là “Can ảnh trắc nhật” (xác định thời gian bằng bóng mặt trời), lợi dụng sự thay đổi của bóng cây cột để biết sự thay đổi của thời gian.
Con người thời cổ đại trong cuộc sống thường ngày đã phát hiện rằng ánh sáng mặt trời tại các vị trí khác nhau sẽ làm bóng của vật thể thay đổi phương hướng và độ dài ngắn của nó, hơn nữa lại có quy luật nhất định, ví dụ vào ngày hạ chí ở bắc bán cầu thì bóng của cái sào hoặc khuê biểu là ngắn nhất trong năm; còn vào ngày Đông chí ở bắc bán cầu thì ngược lại, bóng của sào hoặc khuê biểu sẽ dài nhất trong năm. Vì vậy, người ta dần nghĩ đến việc dùng cọc tre hay cột đá để chuyên môn làm công cụ quan sát sự thay đổi của bóng mặt trời, đây chính là nguồn gốc của “đồng hồ”.
Tuy cấu tạo của “Biểu” khá đơn giản nhưng lại có khá nhiều công dụng, sau nhiều năm sử dụng, người ta đã có thể sử dụng “Biểu” rất thuần thục, hơn nữa có thể dựa vào hướng bóng đổ trên mặt đất với độ dài ngắn khác nhau để xác định được phương hướng, tiết khí, thời gian, khu vực, v.v. “Khuê biểu” được hợp thành bởi “biểu” dựng thẳng đứng trên mặt đất bằng phẳng và thước (Khuê) đặt nằm ngang theo hướng bắc nam. Muộn nhất là vào khoảng giữa thời Xuân Thu, khuê biểu đo bóng của mặt trời đã là một phương pháp quan trọng để làm lịch.
Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa “Ấu học Quỳnh Lâm” của zhengjian.org
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/247813
Ngày đăng: 11-02-2023
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.