Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (16)
(Từ năm 618 đến năm 907)
Tác giả: Tâm Duyên
[ChanhKien.org]
Công trình kiến trúc
Những thành tựu kiến trúc rực rỡ thời nhà Đường được phản ánh ở nhiều phương diện, bao gồm thành phố, cung điện, chùa chiền, đạo quán, lăng mộ, nhà cửa, lâm viên, xưởng thủ công, hàng quán v.v.. Lăng mộ của các vua chúa nhà Đường chủ yếu nằm ở khu vực Quan Trung, quy mô rất lớn, tiêu biểu nhất là Càn Lăng, hầu hết là được xây dựng dựa vào núi, mà không có phần mộ riêng; nhà cửa, xưởng thủ công và hàng quán từ lâu đã không còn hiện vật, chỉ còn lại một số ít tư liệu lẻ tẻ trong các tác phẩm hội họa; về bố cục của thành phố và cung điện thì đã được chúng tôi miêu tả trong phần Đế kinh ở trước rồi.
Đặc điểm kiến trúc Đại Đường
Kiến trúc thời kỳ sơ Đường có phong cách diện mạo đơn giản, hùng tráng, rộng lớn. Học giả nổi tiếng thời nhà Thanh Cố Viêm Vũ đã nói rằng: “Tôi thấy các châu do nhà Đường cai quản, thành quách đều rộng lớn, đường phố đều thẳng tắp; các sở công do nhà Đường xây dựng, nền móng đều cao lớn rộng rãi. Từ thời nhà Tống trở về sau, càng về sau càng chật hẹp”.
Thành Trường An nhà Đường lớn hơn thành Bắc Kinh của nhà Thanh một phần ba tính cả trong và ngoài thành, cung Thái Cực của Trường An có diện tích tới 4km2, gấp sáu lần Tử Cấm Thành của Bắc Kinh, chưa kể đến điện Lân Đức trong cung Đại Minh, là do bốn điện hợp thành, chiếm diện tích hơn 5.000m2, không kiến trúc nào của các triều đại khác có thể sánh kịp.
Các kết cấu gỗ chuẩn xác
Các kiến trúc kết cấu gỗ thời kỳ sơ Đường đều rất rõ ràng minh xác, không hề có bất kỳ cấu kiện dư thừa nào. Cột trụ, xà ngang, đấu củng, rầm chia là các cấu kiện cơ bản, chúng có tỷ lệ kích thước rất chuẩn xác. Các phần chính của kiến trúc gồm có điện đường, tầng lầu, giác lầu, cổng, lầu gác, hành lang, tháp, đài, cầu v.v. hầu như đều được làm bằng gỗ, rất nhiều điện đường thậm chí không dùng đến bất kỳ chiếc đinh sắt hay cái chêm nào, nhưng kết cấu vững chắc và hình dáng đẹp đẽ của chúng thật khiến người ta phải trầm trồ thán phục. Trong “Nhị Thập Lục Sử” ghi chép rằng Võ Tắc Thiên từng hai lần cho xây dựng Minh Đường ở Lạc Dương, chiều cao 290 thước, mỗi cạnh 300 thước, bên trong có “10 vòng trụ gỗ lớn, thông suốt từ trên xuống dưới”, cho thấy công trình dùng gỗ làm cột trụ trung tâm kết nối tất cả các thành phần gỗ chịu lực để đảm bảo độ vững chắc tổng thể của kiến trúc. Đáng tiếc là hơn một ngàn năm sau, các kiến trúc ban đầu của nhà Đường gần như đã bị phá hủy hoàn toàn, chúng ta chỉ có thể thoáng thấy sự huyền diệu của nó qua một số ít tòa tháp Đường, một ngôi chùa nhỏ và những bức họa còn sót lại mà thôi.
Trong “Đồ họa kiến văn chí” có đoạn nói về những tranh vẽ kiến trúc thời nhà Đường như sau: “Nếu không biết đến cung điện nhà Hán, cung điện nhà Ngô, lương trụ (xà trụ, chỉ cột đỡ xà nhà), xoa thủ (dùng để đỡ xà ngang cao nhất của mái nhà), thế mộc (dùng để đỡ các dầm ngang hoặc các mối nối của xà mái), lạc phong (là một bộ phận nằm giữa các dầm ngang, có chức năng hỗ trợ hệ thống đấu củng – hệ thống kết cấu đỡ mái), thân cột vuông, rãnh mái, ngang đầu (nằm trong kết cấu đấu củng, đóng vai trò như đòn bẩy để chịu lực và đẩy mái hiên ra ngoài), xà hổ phách, đầu rùa, ngai hổ, mái hiên cong (là một dạng mái hiên độc đáo trong kiến trúc truyền thống Trung Hoa. Đặc trưng của nó là phần mái, đặc biệt là các góc mái, cong lên một cách duyên dáng, tạo cảm giác như đang vươn mình trong không trung)… và những chi tiết tương tự, thì dựa vào đâu để vẽ được kiến trúc gỗ?” Một loạt tên các cấu kiện của kiến trúc này đã phản ánh thái độ trung thực của các họa sỹ kiến trúc đối với các tác phẩm của họ, đồng thời cũng cho thấy các bức họa kiến trúc thời Đường hiện có là đáng tin cậy, hơn 300 bức bích họa hang Đôn Hoàng được thực hiện trong thời kỳ thịnh Đường là nguồn tư liệu quý giá và chân thực nhất.
Trang trí và cảnh quan tráng lệ
Đến giữa thời kỳ thịnh Đường, hình dáng của đình, đài, lầu, các ngày càng lộng lẫy và tinh xảo, các nghệ thuật phụ trợ như tranh màu, điêu khắc, bích họa và tạc nặn cũng đạt đến cảnh giới cao chưa từng có. Các bệ móng, bậc thềm, câu lan, xà nhà, cột trụ, cửa ra vào và cửa sổ, khung trang trí và trần nhà thường được vẽ bằng những họa tiết hoa tròn và hoa văn gấm, như hoa bảo tướng, hoa thạch lựu, hoa sen, hoa văn ngọn lửa, và hoa văn châu ngọc v.v., màu sắc rực rỡ tươi sáng đẹp mắt; trong các tác phẩm điêu khắc thường dùng cỏ cuốn, rồng phượng, chuỗi hạt, tua rua, phi thiên, cánh sen v.v., bố cục tròn đầy đường nét mượt mà; chủ đề của các bức bích họa và tác phẩm điêu khắc chủ yếu là về thế giới thiên quốc, hình tượng Thần Phật đẹp đẽ từ bi tường hòa, các hình ảnh hoa tươi nhạc vũ cúng dường rất nhiều, khiến người xem sinh lòng kính ngưỡng và hướng đến. Xung quanh các đình, đài, lầu, các có sông nước, bên bờ có cây có hoa, giữa dòng mọc hoa sen.
Lâm viên tự nhiên của hoàng gia
Từ xưa người Trung Quốc đã rất sùng bái tư tưởng “thiên nhân hợp nhất, trời đất là nhà”, phương pháp tạo dựng vườn chủ yếu dựa trên non nước tự nhiên, bổ sung thêm yếu tố con người để đạt đến ý cảnh rộng lớn.
Cung Dư Khánh là cung uyển lấy lâm viên làm chủ thể, trong cung đào một long trì rộng 180.000m2, bên bờ liễu rũ bóng xanh mướt, trong hồ thuyền hoa nhẹ lướt, trên hồ các đình các được xây nổi trên mặt nước, độc đáo long lanh, ở giữa còn có hành lang đi lại quanh co nối liền. Phía Đông Bắc của long trì là đình Trầm Hương danh tiếng.
Cung Cửu Thành và cung Hoa Thanh là hành cung và biệt uyển (chỗ ở của vua khi đi vi hành). Theo ghi chép của “Cửu Thành cung lễ tuyền minh”: “Cung điện xây dựng trên núi, ngăn suối làm ao; chống cột làm cầu, mở vách núi mà dựng hai lầu gác chót vót. Những lầu các cao được xây dựng xung quanh, và các hành lang dài ở mọi hướng. Các tòa nhà đan xen, đài tạ chênh nhau. Ngước lên xa xăm trăm tầm (một tầm bằng tám thước), nhìn xuống hun hút nghìn nhẫn (một nhẫn bằng bảy hay tám thước)”, có thể thấy cung điện này ở nơi địa hình cao hiểm trở, và được xây dựng theo địa thế tự nhiên của nó.
Cung Hoa Thanh nằm ở chân núi phía Bắc Li Sơn, gần thác nước và suối nước nóng, ẩn mình giữa hơn một nghìn cây tùng và bách xanh biếc. Trên núi có các thắng cảnh thực vật như vườn hoa phù dung, luống hoa mai phấn hồng, đài ngắm hoa. Trên sườn núi thả hươu nai, còn trên đỉnh núi chủ yếu là các đạo quán, có Triều Nguyên các, Lão Quân điện, Trường Sinh điện. Trường Sinh điện danh truyền hậu thế bởi “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị.
Tháp và chùa quán thời nhà Đường hiện có
Tháp dạng lầu các
Các tòa tháp dạng lầu các kết cấu gỗ là kiểu tháp phổ biến thời nhà Đường, hai tòa tháp hiện có đều là những kiến trúc xây bằng gạch mô phỏng kết cấu gỗ. Một là Huyền Trang tháp của chùa Hưng Giáo ở Tây An, được xây dựng vào năm Tổng Chương thứ hai thời vua Cao Tông (năm 669); một nữa là tháp Đại Nhạn của chùa Từ Ân ở Tây An, xây dựng vào năm Vĩnh Huy thứ ba thời Cao Tông (năm 652), hình dạng tổng thể của cả hai tòa tháp đều đơn giản, ổn định mà vững chắc.
Tháp dạng nhiều mái hiên
Tháp Tiểu Nhạn ở Tây An, tháp Pháp Vương Tự ở Hà Nam, tháp Thiên Tầm và tháp Xà Cốt ở Đại Lý đều có hình dạng nhiều mái hiên. Tháp Thiên Tầm phía Đông giáp hồ Nhĩ Hải, phía Tây chân núi Thương Sơn, mái hiên hơi lõm nhẹ, phần góc hơi cong lên, thân tháp trắng tinh khiết, thuôn dài thanh tú, hòa với non sông tươi đẹp, tạo nên cảnh tượng kỳ thú.
Tháp dạng đình
Rất nhiều tháp gỗ một tầng trong các bức bích họa Đôn Hoàng đều là tháp dạng đình, toàn bộ tháp nhỏ nhắn xinh xắn, hình dáng ôn hòa tinh tế. Các tháp hiện có như tháp Huệ Tuỵ, tháp Tịnh Tàng, tháp Phiếm Chu và tháp Minh Huệ đều có kết cấu khá đơn giản, chỉ có tháp Long Hổ của chùa Thần Thông ở Sơn Đông trên toàn thân tháp được khắc nổi các hình tượng Kim Cang, La Hán, phi thiên, Bồ Tát, đằng long và phi hổ, thể hiện rõ phong cách thời kỳ cuối nhà Đường.
Đại điện chùa Phật Quang
Trong bốn ngôi chùa bằng gỗ thời nhà Đường còn sót lại đến nay, thì đại điện chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, Sơn Tây là được bảo tồn hoàn chỉnh nhất. Ngôi chùa này được xây dựng vào năm 857 thời kỳ cuối nhà Đường, nhờ đó đã tránh khỏi nạn diệt Phật hủy chùa trong những năm Hội Xương (841-846), và cũng vì lý do vị trí địa lý xa xôi hẻo lánh, nên nó cũng không phải chịu nạn bị xây dựng lại. Ngoài chính điện là một cấu trúc gỗ hoàn toàn chuẩn xác, còn có hàng chục bức tượng Phật và Bồ Tát thời Đường bên trong điện, dưới xà ngang có bút tích đề danh thời Đường, càng trân quý hơn là trên bức tường giữa các đấu củng còn có một bức bích họa thần tiên thời Đường cỡ lớn, khí thế hào hùng sắc màu rực rỡ, là tác phẩm thời đầu của bích họa Trung Quốc thời cổ đại. Mặc dù ngôi chùa Phật Quang nhỏ bé chỉ là một hạt bụi giữa những kiến trúc oai hùng tráng lệ của Đại Đường, nhưng hình dáng tổng thể hài hòa đẹp đẽ cùng kỹ thuật xây dựng cao siêu mà nó thể hiện cũng đủ khiến thế hệ sau phải thán phục.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29333
Ngày đăng: 20-03-2025
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.