Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (13)



(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Thơ ca

Có thể nói, thơ Đường đã bao quát hết thảy mọi thứ của Đại Đường!

Khi mở trang đầu tiên của cuốn “Toàn Đường Thi”, đập vào mắt bạn sẽ là câu thơ do Đường Thái Tông sáng tác: “Tần Xuyên hùng đế trạch, Hàm Cốc tráng hoàng cư” (Tạm dịch: Tần Xuyên hùng vĩ Đế vương ở, Hàm Cốc oai tráng Hoàng đế ngụ). Đường Thái Tông không chỉ đã đặt định nền móng cho sự phồn thịnh hơn 300 năm của đế quốc Đại Đường, mà còn xóa bỏ sự lả lướt trong thơ từ của các triều đại trước, mở ra thời kỳ toàn thịnh cho thơ Đường với khí khái hùng hồn, đồ sộ, rắn rỏi, sôi nổi. Từ câu thơ giản dị “Sàng tiền minh nguyệt quang” (Đầu giường ánh trăng rọi), cho đến tình yêu tình bạn, ruộng vườn sông núi, đại mạc biên thùy, sinh ly tử biệt, cùng toàn bộ tiến trình lịch sử triều Đường, lời thơ ưu mỹ, lay động lòng người.

Sơ Đường tứ kiệt

Vào những năm đầu của Hoàng đế Cao Tông và Hoàng hậu Võ Tắc Thiên, giới thi ca bắt đầu hưng thịnh, còn có sự xuất hiện của sơ Đường tứ kiệt “nổi danh thiên hạ nhờ tài văn chương”, là những người tiên phong cho nghệ thuật thơ ca. Họ là những người “tuổi trẻ mà tài cao, chức quan nhỏ mà danh tiếng lớn”. Bốn người họ gồm có Vương Bột, Lạc Tân Vương, Dương Quýnh và Lư Chiếu Lân.

Trong “Đằng Vương Các Tự” của Vương Bột có câu: “Lạc hà dư cô vụ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (Tạm dịch: Ánh chiều buông vịt trời sải cánh, Dòng nước thu một dải với chân trời) đã đưa chúng ta tiến vào cảnh giới đẹp như tranh vẽ của thơ Đường. Bài thơ “Tống biệt” của ông lại có một thái độ buồn thương khác thường, “Hải nội tồn tri kỷ, Thiên nhai nhược tỷ lân, Vô vi tại kỳ lộ, Nhi nữ cộng triêm cân” (Tạm dịch: Bốn bể còn tri kỷ, Chân trời cũng gần bên, Chớ ở nơi ngã rẽ, Nhi nữ lệ ướt khăn) thể hiện tình cảm chân thành tha thiết, độ lượng mà xúc động lòng người.

Đến năm 684, Đường thất đại loạn, Võ Tắc Thiên soán ngôi. Lạc Tân Vương thời điểm đó đang ở Dương Châu, lòng nguyện chết tận trung với họ Lý, ông đã cùng với Lý Kính Nghiệp (cháu của danh tướng Lý Tích) trù bị khởi binh xả thân cứu quốc, đồng thời đích thân hạ bút viết bài “Thảo Võ Chiếu Hịch” (Hịch thảo phạt Võ Chiếu) với khí thế hào hùng, đã khơi dậy lòng yêu nước trung liệt của dân chúng khắp thiên hạ, trong bài có viết: Võ Tắc Thiên bức hại trung thần Trưởng Tôn Vô Kỵ khiến “người và Thần đều căm ghét, thiên địa bất dung” và dùng câu “vốc đất còn chưa khô, cô nhi thơ dại đâu nơi nương tựa” để mô tả việc Đường Cao Tông vừa mất, mộ phần còn chưa khô, Võ Tắc Thiên đã phế truất Đường Trung Tông. Ông còn kết thúc bằng câu “Hãy nhìn xem nước nhà hôm nay, đã là thiên hạ của ai rồi” đong đầy quyết tâm toàn thiên hạ phải quy về Lý Đường.

Tương truyền rằng khi hịch văn này truyền vào Kinh sư, Võ Tắc Thiên xem xong đã rất khen ngợi Lạc Tân Vương là tài năng xuất chúng, than trách không thể thâu dùng. Về sau nghĩa quân bị đánh bại, có người nói Lạc Tân Vương bị giết, lại có người nói ông xuống tóc làm tăng, không rõ kết cục.

Âm nhạc thời thịnh Đường

“Tiền bất kiến cổ nhân, Hậu bất kiến lai giả. Niệm thiên địa chi du du, Độc sảng nhiên nhi thế hạ!” (Tạm dịch: Trước không thấy người xưa, Sau không thấy người tới. Ngẫm trời đất vô tận, Mình ta sầu lệ rơi!) Tuyệt xướng thiên cổ ấy ai là người sáng tác? Ấy là Trần Tử Ngang đó thôi! Bài “Đăng U Châu đài ca” đã thổi hồi chuông đầu tiên cho thơ ca thời thịnh Đường, đẩy thời không trở về buổi hồng hoang viễn cổ, sự cô độc và bi thương vốn có ấy khiến người ta cảm nhận được sự bé nhỏ của sinh mệnh trong vũ trụ bao la, sự tĩnh lặng vô tận đã chạm đến nỗi bi thương biết bao người trong cõi hồng trần “Ta là ai? Ta đến từ đâu?”

Sự ra đời của tiên thơ và thánh thơ

Sự ra đời của Lý Bạch và Đỗ Phủ, giống như hai vì sao lớn vành vạnh chiếu sáng cả bầu trời đêm của thơ Đường. Tiên thơ Lý Bạch cả đời phong lưu phóng khoáng, Kinh Môn Hoàng Kim đài, Thiên Mụ Minh Nguyệt cung đều đã thần du đến, giai nhân cùng mỹ tửu, kim qua và thiết mã không gì không nhập mộng, các tác phẩm thơ của ông rộng lớn dạt dào như nước Hoàng Hà từ trời vậy, những vần thơ chấn động tuôn trào không ngớt, khiến người đọc phải rung động đến tâm can.

“Sơn tùy bình dã tận, Giang nhập đại hoang lưu. Nguyệt hạ phi thiên kính, Vân sinh kết hải lâu”. (Tạm dịch: Bóng núi dần xa đồng hoang hiện, mênh mông dòng nước giữa hoang vu. Trăng soi mặt nước như gương sáng, Mây trắng gợn lên những lâu đài). (Độ Kinh Môn tống biệt)

“Chiêu Vương bạch cốt oanh man thảo, Thùy nhân cánh tảo Hoàng Kim đài? Hành lộ nan! Quy khứ lai…(Tạm dịch: Chiêu Vương xương trắng vùi trong cỏ, Còn ai lại quét Hoàng Kim đài? Đường đi khó! Thôi ta đành quay bước…) (Hành lộ nan (2))

“Nghê vi y hề phong vi mã, Vân chi quân hề phân phân nhi lai hạ, Hổ cổ sắt hề loan hồi xa, Tiên chi nhân hề liệt như ma…” (Tạm dịch: Cầu vồng làm áo gió làm ngựa, Thần tiên trong mây ùn hạ xuống, Lão hổ gảy đàn xe loan kéo, Thần tiên đông nghịch hệt như vừng). (Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt)

“Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. …Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn; Tỉnh thời đồng giao hoan, Túy hậu các phân tán”. (Tạm dịch: Nâng chén mời trăng sáng, Cùng bóng nữa là ba, …Ta hát trăng bồi hồi, Ta múa bóng ngả nghiêng; Tỉnh thời cùng vui vẻ, Say rồi thì chia xa). (Nguyệt hạ độc chước)

“Ngũ hoa mã, Thiên kim cầu, Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu”. (Tạm dịch: Đây ngựa ngũ sắc áo ngàn vàng, Kêu người đổi hết lấy rượu ngon, Ta cùng bạn tiêu đi sầu vạn cổ.) (Tương tiến tửu)

“Trường phong phá lãng hội hữu thời, Trực quải vân phàm tề thương hải”. (Tạm dịch: Cưỡi gió đạp sóng thời sẽ đến, Giương cánh buồm căng vượt trùng khơi). (Hành lộ nan (1))

“Bách chiến sa trường toái thiết y, Thành nam dĩ hợp sổ trùng vi, Đột doanh xạ sát Hô Diên tướng, Độc lãnh tàn binh thiên kỵ quy”. (Tạm dịch: Trăm trận sa trường áo giáp tan, Nam thành vây hãm biết bao vòng, Đột doanh giết giặc Hô Diên chết, Dẫn nốt tàn binh thiên kỵ về). (Tòng quân hành)

“Khí ngã khứ giả tạc nhật chi nhật bất khả lưu; Loạn ngã tâm giả kim nhật chi nhật đa phiền ưu. … Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu, Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu, Nhân sinh tại thế bất xứng ý, Minh triêu tán phát lộng biên chu”. (Tạm dịch: Người rời bỏ ta ngày hôm qua không thể giữ; Người loạn tâm ta ngày hôm nay lắm muộn phiền. …Rút đao chém nước nước thêm xuôi, nâng chén tiêu sầu sầu thêm sầu. Nhân sinh ở đời đâu như ý, Sớm mai xõa tóc theo thuyền lênh đênh). (Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân)

Những vần thơ nổi tiếng thiên cổ này đến nay vẫn còn vang vọng, khiến người ta bùi ngùi vô cùng. Tương truyền Lý Bạch là do Thái Bạch Kim Tinh trên trời chuyển thế, và ông cũng tự xưng mình là “Trích tiên” (nghĩa là tiên giáng trần).

Còn thánh thơ Đỗ Phủ một đời trôi qua trong nỗi đau chinh chiến loạn lạc gia đình tan nát, chứng kiến cảnh thê thảm người dân phải lưu lạc ly tán ăn thịt cốt nhục của nhau, tất cả tài năng bị mai một và những thương cảm thời cuộc rộ lên trong lòng người thi nhân, phát ra tiếng gào thét chấn động cả núi sông.

“Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm”. (Tạm dịch: Nước tan núi sông còn, Thành đô xuân cỏ phủ). (Xuân vọng)

“Xa lân lân, Mã tiêu tiêu, Hành nhân cung tiễn các tại yêu. Gia nương thê tử tẩu tương tống, Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều. Khiên y đốn túc lan đạo khốc, Khốc thanh trực thượng can vân tiêu…” (Tạm dịch: Xe lộc cộc, Ngựa hí vang, Người ra đi lưng khoác cung tên. Cha mẹ vợ con theo đưa tiễn, Cầu Hàm Dương bụi mù che khuất. Kẻ níu áo người dậm chân khóc lóc, Tiếng khóc xông thẳng tận trời xanh). (Binh xa hành)

“… Sát nhân diệc hữu hạn, Liệt quốc tự hữu cương, Cẩu năng chế xâm lăng, Khởi tại đa sát thương?” (Tạm dịch: Sát nhân cũng vừa thôi, Nước nào biên cương nấy, Chỉ cần chống xâm lăng, Cần chi sát thương lắm?) (Tiền xuất tái cửu đầu)

“Chu môn tửu nhục xú, Lỗ hữu đống tử cốt”. (Tạm dịch: Cửa son thoang thoảng mùi rượu thịt, Bên đường lạnh lẽo nắm xương khô). (Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bách tự)

“Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm”. (Tạm dịch: Ra trận chưa thắng người đã thác, Mãi khiến anh hùng lệ xót xa). (Thục tướng)

“Hợp hôn thượng tri thời, Uyên ương bất độc túc; Đãn kiến tân nhân tiếu, Ná văn cựu nhân khốc?” (Tạm dịch: Hoa hợp hoan còn biết thời, Chim Uyên ương còn sống cặp; Chỉ thấy người mới cười, Nào nghe người cũ khóc? – Ý tứ là loài cây và chim còn có tình có nghĩa, vậy mà người thì lại có mới nới cũ). (Giai nhân)

Đọc thơ của Đỗ Phủ, trong lòng tự dưng dâng lên nỗi niềm thương cảm xót xa.

Những bài thơ về biên cương bi tráng đẹp đẽ hiếm có

“Đại mạc cô yên trực, Trường hà lạc nhật viên”, “Yên Sơn chi tuyết đại như tịch, phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài”, “Hồi Lạc phong tiền sa tự tuyết, Thụ Giáng thành ngoại nguyệt như sương” (Tạm dịch: “Sa mạc mênh mông khói ngút cao, Trường hà hoàng hôn tròn vành vạnh”, “Tuyết Yên Sơn lớn tựa mành tre, phất phơ từng mảnh trên Hiên Viên đài”, “Trước đài Hồi Lạc cát tựa tuyết, Ngoài thành Thụ Giáng nguyệt tựa sương”). Những vần thơ đẹp đẽ khí phách hào hùng ấy đã đưa chúng ta đến với biên ải mênh mông trống trải, chỉ thấy chân trời hoàng hôn như máu đỏ, đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, cát dưới chân mênh mông vạn dặm, đêm đến ánh trăng như khói sương. Ai thấu được cảnh trong ánh trăng dịu nhẹ ấy “Tiếng sáo lau nơi nao vọng đến, Để chinh nhân thâu đêm nỗi nhớ nhà”.

Nếu như thơ vùng Trung Nguyên chủ yếu tả cảnh đồng quê nắng gió tươi đẹp, thì thơ vùng biên cương lại chứa đựng nỗi niềm sinh tử biệt ly đầy bi tráng. “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi, Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. (Tạm dịch: Rượu bồ đào đong đầy chén dạ quang, Chén vừa nâng tiếng tỳ bà đã giục, Trên sa trường say ngủ đừng cười nhé, Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai về). Tuy cả bài thơ không có lấy một chữ “tử”, nhưng việc “sinh tử tồn vong” tất yếu trong chiến trận đã được Vương Hàn thể hiện rõ qua lời thơ rồi.

“Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian, Nhất phiến cô thành vạn nhẫn sơn. Khương địch hà tu oán Dương liễu, Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan”. (Tạm dịch: Hoàng Hà tít tắp tận mây xanh, Mảnh thành cô quạnh núi chênh vênh. Sáo Khương sao phải trách cành liễu, Gió xuân sao vượt Ngọc Môn quan). Có thể nói những câu thơ này là tác phẩm tiêu biểu cho hết thảy thơ ca của vùng biên cương.

Thơ ca thời kỳ cuối nhà Đường – ánh tà dương tuyệt đẹp

Bạch Cư Dị thời mạt Đường bộc lộ tài năng khi ứng thí quan trường, chấn động khắp triều chỉ với câu: “Li li nguyên thượng thảo, Nhất tuế nhất khô vinh. Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh”. (Tạm dịch: Cỏ trên đồng rậm rịt, mỗi năm héo lại tươi. Lửa đồng thiêu không rụi, Xuân đến lại sinh sôi). Ông vì dám nói thẳng, trung trinh chính trực, cuối cùng đắc tội với một số quan lại quyền quý mà bị biếm quan về Giang Châu.

Khi bị đày về làm quan địa phương, ông càng thêm thấu hiểu sâu sắc nổi thống khổ của người dân, vậy nên ông đã làm rất nhiều việc tốt cho dân chúng. Thơ ca của ông mộc mạc, giản dị, ai ai cũng đều thân thuộc. Ví dụ như:

“Thiên sinh lệ chất nan tự khí, Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc. Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh, Lục cung phấn đại vô nhan sắc… Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu, Tại địa nguyện vi liên lý chi. Thiên trường địa cửu hữu thời tận, Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ”. (Tạm dịch: Trời sinh mỹ sắc khó đậy che, Quân vương một sớm đã cặp kè. Ngoảnh đầu tủm tỉm bao say đắm, Lục cung son phấn cũng phai màu… Trên trời nguyện làm chim liền cánh, Dưới đất nguyện làm cây liền cành. Thiên trường địa cửu thời cũng tận, Hận này muôn thuở chẳng nào nguôi). Bài thơ ‘Trường hận ca” này là lấy bối cảnh lịch sử giữa Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi.

“Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân, Tương phùng hà tất tằng tương thức”. (Tạm dịch: Người cùng lưu lạc chân trời, Gặp nhau há phải quen nhau bao giờ). “Tỳ bà hành” biểu đạt nỗi bất hạnh của người con gái gảy đàn tỳ bà và một phần tử tri thức chính trực.

Lúc Bạch Cư Dị còn tại thế thì hai bài thơ này đã vang danh khắp thiên hạ rồi, đúng là “Đồng tử giải ngâm ‘Trường hận’ khúc, Hồ nhi năng xướng ‘Tỳ bà’ thiên”. (Tạm dịch: Con trẻ rành ngâm ‘Trường hận’ khúc, Người Hồ biết vịnh ‘Tỳ bà’ thiên). Cho dù thực lực quốc gia của Đại Đường ngày một suy kiệt, nhưng thơ Đường vẫn luôn ở vị trí không thể thay thế trong lịch sử, ngàn năm truyền tụng đến nay.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29330



Ngày đăng: 25-02-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.