Mật mã phương Đông (Quyển 1 – Phần 3.1): Hồi quy Thần tính, giá trị quan vĩnh hằng của sinh mệnh (Kỳ 1)



Phần 3: Quy chính chữ Hán và quan niệm

1. Hồi quy Thần tính, giá trị quan vĩnh hằng của sinh mệnh — Bối cảnh tinh thần sinh ra chữ Hán (Kỳ 1)

Con người có tinh thần nên mới có thể đỉnh thiên lập địa, mới có thể ngẩng cao đầu mà đi, mới có thể dùng đôi mắt sáng tỏ mà nhìn, ấn đường có ánh quang, thần thái sáng sủa, siêu phàm khác thường. Tinh thần là thể hiện của thần tính thông thấu trên bản thể con người ở không gian bề mặt.

Chữ 精 (tinh), gồm bộ mễ 米 ở bên trái biểu tượng cho con đường tứ diện bát phương trong thiên địa vũ trụ, nên chọn đi theo đường nào? Một nét sổ thẳng xuyên qua thiên địa nhân mà nhô đầu lên của chữmang ý nghĩa là tầng thứ thăng lên không bị giới hạn. Chữ ⺝ do nét 丨 (nét sổ) và nét 亅 (nét sổ móc) tạo thành, biểu tượng cho hai đường biên của 三 (tam) tượng trương cho Thiên địa nhân, là tượng của việc tam tài Thiên Địa Nhân trong vũ trụ đã toàn diện đi xuống, là tượng của bại hoại, ⺝ nằm ở vị trí số tám của chữ 精 (tinh), cũng là phương vị cần hủy diệt, phương vị bị đào thải. Nét亅 (nét sổ móc) ở đây là biểu tượng cho việc cần lấy những bộ phận tốt ở trong chữ ⺝ để đưa ra. Chữ 青 (tinh) là chữ hợp thành của cái đi lên, cái đi xuống, cái chính, cái phản. Chữ 精 (tinh) đã chỉ ra cho con người một con đường hướng lên để thoát ra trong vô số những con đường 4 mặt 8 phương trong vũ trụ, đó chính là cái tốt thăng lên, cái xấu giáng hạ, tống khứ bộ phận cặn bã đã bại hoại, đề cao tầng thứ, vì thế nó có ý nghĩa là tinh chế, tinh luyện. Thông qua con đường này con người có thể hướng đến Thần, liên kết lại với nhau thì chính là 精神 (tinh thần), không ngừng tinh luyện tự mình, luyện đến tinh, tinh đến thông, thông đến Thần.

Chữ 神 (thần), bộ thủ là 示 (thị), trong bộ 示 thì 二 (số 2) là âm, đại biểu cho thiên địa, Thiên và địa đều còn nhỏ (小: tiểu), vậy thì cái gì mới là lớn (大: đại)? Chữ 大 biểu tượng cho thứ đầu tiên được sinh ra trong vũ trụ, chữ 大 do chữ 一 (nhất) và chữ 人 (nhân) ghép thành, nó chính là vô cực tối nguyên sơ của vũ trụ, là sinh mệnh sớm nhất. Chữ nhật “日” ở bên phải là biểu hiện của thái cực; nét sổ dọc ở từ vị trí số 1 lên vị trí số 9 (trong Lạc thư) là thiên tượng của âm dương đảo ngược, cả trên và dưới đều nhô đầu ra, mang ý nghĩa là sự biến đổi trong âm dương phản chuyển đã vượt ra khỏi phạm vi của vũ trụ nguyên lai, là sự việc rất lớn, bởi vì vũ trụ này là tầng tầng lớp lớp, là vô cùng tận. Vậy thì, thiên tượng đi xuống trong âm dương phản bối đã nói cho bạn đạo lý về sự biến đổi lớn của của âm dương trong vũ trụ, đã chỉ cho con người con đường tu luyện thăng hoa hướng lên trên, như vậy đó chẳng phải là Thần sao?

Rất nhiều thứ trong cái gọi là hiện thực này khiến cho con người không buông bỏ được, con người thường truy cầu hưởng thụ vật chất, truy cầu danh lợi tình, dường như coi những thứ đó là mục đích căn bản của nhân sinh, dường như coi cuộc sống như vậy mới là ý nghĩa chân thực của nhân sinh. Nhưng như mọi người đều biết, tất cả những thứ vật chất thì sau 100 năm sẽ trắng tay, cái gì cũng không mang đi được.

Chữ danh “名”, nét là thiên tượng vị trí số 4, là vị trí góc (cũng là giác- tức là sừng) của nửa phần trên của âm trong thái cực, biểu tượng cho dương ở phía trên phát sinh biến đổi, đến lúc 夕 (tịch: buổi chiều tối) dương hạ xuống, là khi bắt đầu đi đến hoại. Còn nét 丶 (nét chấm chủ) biểu tượng cho Thần, nhưng nét này lại không nằm ở chính vị của thiên cách, mà lại nằm bên trong sừng bò , hàm ý là: đầu tiên là hàm nghĩa phản diện, biểu tượng rằng nếu con người mà vì danh thì như là thần tính của tự mình đã khoan vào cái sừng bò rồi, con đường đi càng ngày càng hẹp, thế giới của họ (đại diện bởi chữ 口 ở bên dưới) cuối cùng sẽ là không, không đắc được gì cả; hai là hàm nghĩa chính diện, biểu tượng rằng khi thiên tượng đi xuống, thì cần phải lùi một bước, tu khứ danh lợi, tâm tất cả đều thành không, danh mà vô danh, hết thảy đều không chấp trước, 口 biểu tượng cho thế giới vũ trụ đã trở thành không rồi, Đạo Phật đều giảng không – vô. Vũ trụ là bao dung và thành tựu hết thảy mọi thứ trong đó, thế mà cũng chẳng có danh tên, vậy nên một cá nhân nhỏ nhoi trên đời này thì cần danh làm gì.

Chữ tiền “錢”, giản thể là “钱”. Bộ thủ 金 (kim) quán thông được với tam tài thiên- địa- nhân thì mới có thể làm vua (trong chữ kim có bộ 王 vương, trong vương có chữ 三 tam, đại diện tam tài, một nét xổ thẳng qua chữ tam tạo thành chữ vương), vua có thể đặt mình dưới tất cả mọi người (phía trên chữ kim là bộ 人 nhân), địa cách ở thấp nhất đều có thể làm đến âm dương hợp đức (丷) không có lỗi lầm gì, như vậy chính là phẩm chất của vàng mười mới có thể đạt đến được. Người như thế sẽ tỏa kim quang lấp lánh, chịu nạn nhiều nhất mới đáng quý nhất. Bộ 戈 qua (xem chữ diệt ở bài Chính kiến và tà kiến – Vũ trụ quan biến dị là có tội lỗi) là diệt cả Thần cả Thiên, ngay cả cơ hội để thuận Thiên thì cũng không được cấp nữa. Cả 2 chữ 戈 trên và dưới biểu tượng cho sự thanh trừ đối với hết thảy linh thể và sinh mệnh biến dị ở trong tất cả các tầng thứ trên dưới khác nhau. Có thể tự mình tu luyện, đạt đến người có phẩm chất như vàng ròng, mới là người thật sự có “tiền” đồ, điều này đâu có quan hệ gì với tiền tài mà người ngày nay nhắc tới?

Chữ 財 (tài: của cải) giản thể là “财”. Trong chữ 目 (mục) có số 二 (nhị: số hai), số 2 là thuộc về âm, trong tam tài Thiên Địa Nhân, hai nét ngang này không liên quan với nhau, toàn bộ các nét của 三 (tam: số ba) đều rơi tại 3 vị trí không của chữ 目, biểu tượng cho sự tự cao tự đại, đã nhìn thấu vạn sự vạn vật nội trong vũ trụ bao gồm cả Thiên Địa Nhân. Ở địa cách là số 八 (bát: số tám), gồm một nét 丿 (nét phẩy) một nét ㇏ (nét mác) chủ biến, biểu tượng cho âm dương phân khai, là thiên tượng mạt kiếp của âm dương phân khai trong vũ trụ. 目 ở trên 八 tức là đã nhìn thấy rõ sự việc mạt kiếp này, là mắt nhìn xa trông rộng, thể hiện ra sự sáng suốt, đây là biểu hiện của đại trí huệ. Còn chữ 才 (tài), nét 丿 là thiên tượng dương đi xuống, nét 亅 (nét sổ móc) biểu tượng cho đi lên trên, vãn hồi, cứu độ, tại thời mạt kiếp mà đề cao vãn cứu sinh mệnh mới thực sự là đại tài năng. Vậy kết hợp thành chữ 財 (tài) biểu tượng cho đại trí huệ dùng mắt nhìn thấu tỏ thiên tượng thời mạt kiếp của vũ trụ, có đại năng lực lớn để cứu độ chúng sinh. Có bản sự như thế, mới là thực sự có “tài”, không có 貝 (bối) tức là vô minh, 见 (kiến: trông thấy, nhìn thấy) tức là không có tài thực sự (diễn giải của người dịch, ở đây nói rằng chữ giản thể đã đổi 貝 thành 见, nên dẫn đến ý nghĩa của chữ 財 đã khác đi). Tiền tài (钱财) thế tục chẳng qua chỉ là dục vọng vì miếng ăn mà thôi.

Chữ 情 (tình), là quán thông Thiên Địa Nhân mà thăng thành Thần, vẫn bị cuốn theo bại hoại thời mạt thế mà bị đào thải, trong toàn bộ quá trình tu luyện đều là khảo nghiệm xem con người lựa chọn thế nào. Chữ 忄 (bộ tâm đứng) bên trái chữ 情 là nói với con người cần giữ tâm cho chính, nhất tâm hướng thượng, đi theo chính Đạo ở trung tâm mà đi lên trên, nếu đột phá được sự khống chế, cản trở của ma tình thì nhất định có thể tu thành. Điều mà Thần biểu hiện ra là sự từ bi thuần tịnh vô tư chứ không có chút nào nhân tố tình. Xem thêm chữ 精 (tinh) ở phía trên.

Chữ 富 (phú), ở thiên cách là phần đầu của chữ 宝 (bảo: đồ quý) là biểu tượng Thần che chở, nét nhất “一” là biểu tượng thuần dương của thái cực; chữ khẩu “口” ở nhân cách biểu cho tiểu vũ trụ trong hư không, đây là biểu hiện của vị trí 5, cũng tức là tự thân con người; chữ điền “田” ở địa cách tượng trưng cho đại vũ trụ của thế giới thập phương. Thuần chính như Thái cực, lại được Thần bảo hộ, có tấm lòng rộng mở của thế giới thập phương, đây mới chính là có phúc chân chính trong vũ trụ! Sao lại cố chấp trước vào chút danh lợi ở thế gian này, nó có được tính là gì đâu? Nếu mà một cá nhân có thể kiên định tu thành viên mãn, thành đại quả vị, thì cái gì mà không có?

Chữ 貴 (quý: sang, quý), tại nhân cách thủ trung (中) như nhất (一), giống như Thái cực bất biến của thời sơ kỳ; có thể đặt 口 (khẩu: biểu tượng cho thế giới vũ trụ) trên đỉnh đầu, suy nghĩ vì thiên hạ, chân chính trong hành sự (丨, nét sổ), không thiên lệch; lại có thể nhìn thấu vạn thiên tượng của hết thảy mọi biến hóa trong các tầng Thiên Địa Nhân trong vũ trụ, đặc biệt là có thể nhìn rõ Thiên tượng của âm dương phân ly thời mạt kiếp, phân biệt được Thiện – ác, chính – tà, có thể thuận Thiên mà hành, đây chính là tối trân quý. Tham khảo chữ 財 (tài) ở phía trên.

Chữ 病 (bệnh), tuy rằng ở Thiên cách vẫn còn một nét chấm của Thần và nét ngang của dương, nhưng ở địa cách và nhân cách thì hai nét chấm của Thần lại ở phía trước nét phảy 丿 (nét phảy 丿 trong bộ hán 厂 biểu tượng cho dương tại vị trí số 2 bắt đầu xuất hiện biến dị) ngưng kết âm dương làm cho bề mặt của con người ta khí huyết không thông, hoặc là gặp sự bất thuận, đều là biểu hiện có bệnh. Chính là con người đã đánh mất phía bên thần tính, thiên lệnh rời khỏi chính vị, thiên địa âm dương ngưng kết, Thiên Địa Nhân Thần không thể tương thông, 人 (nhân: con người) đã nhập vào trong 冂 (bộ quynh) ở địa cách, đã bị vây khốn trong các nhân tố không toàn vẹn của cựu vũ trụ cũ, ngay cả tư cách làm người cũng đã không đủ nữa rồi, tính chính của dương đã bại hoại thất lạc đến mức rơi vào hoàn cảnh nguy khốn, đó chính là nguyên nhân căn bản của bệnh hiểm nghèo cùng cực. Nếu phần thần của con người xuất hiện vấn đề, thì tương ứng, sẽ dẫn đến hành vi và thân thể cũng xuất hiện vấn đề, khiến mọi việc không thuận lợi, đó chính là trạng thái bệnh. Điều này tương thông với bệnh lý theo quan điểm của Trung y. Một khi tinh thần của người ta suy sụp, thì rất khó khởi hưng phấn lên, vì thế mới nói “bảy phần tinh thần, ba phần bệnh”.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/2021/05/27/dongfangmima-1.pdf

 

 



Ngày đăng: 03-04-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.