Luân hồi Tiểu Liên | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Loạt bài: Luân hồi ký sự (Tiểu Liên)https://chanhkien.org/2021/03/luan-hoi-ky-su.htmlSun, 07 Mar 2021 09:05:09 +0000https://chanhkien.org/?p=27165Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org]   Luân hồi ký sự: Cao sơn lưu thủy Luân hồi ký sự: Tiếng sáo ấy đến từ đâu? Luân hồi ký sự: Bỏ mạng nơi hoang dã Luân hồi ký sự: Quý phi túy tửu Luân hồi ký sự: Cơn gió bấc tại Đôn Hoàng Luân hồi ký sự: […]

The post Loạt bài: Luân hồi ký sự (Tiểu Liên) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

 

Luân hồi ký sự: Cao sơn lưu thủy

Luân hồi ký sự: Tiếng sáo ấy đến từ đâu?

Luân hồi ký sự: Bỏ mạng nơi hoang dã

Luân hồi ký sự: Quý phi túy tửu

Luân hồi ký sự: Cơn gió bấc tại Đôn Hoàng

Luân hồi ký sự: Đạo tặc cũng phải có “đạo”

Luân hồi ký sự: Vừa chân thực vừa huyền ảo

Luân hồi ký sự: Thiên nhai hành giả

Luân hồi ký sự: Thiên nhai phổ độ

Luân hồi ký sự: Thông linh bảo ngọc

Luân hồi ký sự: Tìm Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ

Luân hồi ký sự: Mối quan hệ tiền duyên cách đây hai đời 

Luân hồi ký sự: Nhân thân nan đắc (1)

Luân hồi ký sự: Nhân thân nan đắc (2)

Luân hồi ký sự: Nhân thân nan đắc (3)

Luân hồi ký sự: Nhân thân nan đắc (4)

Luân hồi ký sự: Nhân thân nan đắc (5)

Luân hồi ký sự: Thầy tu trên sông Hằng

Luân hồi ký sự: Sự ảnh hưởng của phương Tây với Trung Quốc

Luân hồi ký sự: Số phận của một Hoàng tử Minoan

Luân hồi ký sự: Phong tăng cứu người

Luân hồi ký sự: Nguồn gốc suối Nguyệt Nha tại Đôn Hoàng

Luân hồi ký sự: Kiếp sống hiện tại của tôi

Luân hồi ký sự: Một tâm hồn trung nghĩa trên đại mạc

Luân hồi ký sự: Duyên phận cơm canh

Luân hồi ký sự: Đội quân đất nung của Tần Thủy Hoàng xưa và nay

Luân hồi ký sự: Một tháng làm việc

Luân hồi ký sự: Bồ tát từ bi

Luân hồi ký sự: Thiện duyên thiện giải

Luân hồi ký sự: Vì Pháp mà đến

 

The post Loạt bài: Luân hồi ký sự (Tiểu Liên) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Phong tăng cứu ngườihttps://chanhkien.org/2014/03/luan-hoi-ky-su-phong-tang-cuu-nguoi.htmlThu, 20 Mar 2014 04:05:47 +0000http://chanhkien.org/?p=23190Đây là câu chuyện không nhớ rõ thời gian xảy ra.

The post Luân hồi ký sự: Phong tăng cứu người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

Đây là câu chuyện không nhớ rõ thời gian xảy ra.

Trên núi Nga Mi có một vị cao tăng đắc đạo, từng thu nhận một tiểu đồ đệ. Tiểu đồ đệ này rất thông minh, ngộ tính cũng rất cao, về sau vị cao tăng này vì để đồ đệ mình đến nhân gian tu luyện cho tốt liền cố ý làm cho tư duy của cậu trở nên hỗn loạn, nhìn có vẻ điên khùng, nhưng thực chất lại không phải là điên cũng chẳng phải là ngốc. Khi vị tiểu đồ đệ này lớn đến khoảng 35 tuổi, có một hôm, vị cao tăng gọi đồ đệ đến trước mặt, nói: “Con hãy đến thế gian lấy việc tế thế cứu người để viên mãn bản thân!” Vừa nói, tay vừa lấy ra vài thứ; vị đồ đệ này nhìn một cái, thì ra là mũ rách, áo rách, còn có đôi giầy rách lộ ra ngón chân; tất cả các thứ này đều là đồ dùng thường ngày của tăng nhân, còn có một cái hồ lô. Vị cao tăng nói: “Đồ nhi, để sư phụ chọn cho con một pháp hiệu: Vân Bác.  Vân trong ‘Vân du tứ hải’, Bác trong ‘bác thái cổ kim’. Những đồ này dường như dùng không bao giờ hỏng. Còn cái hồ lô này con dùng nó đựng rượu đựng nước, không bao giờ phải lo đói, con hãy xuống núi đi! Đúng rồi, con còn gặp một người bạn đi cùng con nữa”. Vân Bác nghĩ: “Ồ! Chuyện này vốn không hay lắm”. Nhưng sư phụ khi tiễn Vân Bác đi lại không nói thêm điều gì nữa. Thế là Vân Bác quỳ xuống bái lạy sư phụ, nước mắt nghẹn ngào mà xuống núi. Từ đó Vân Bác bắt đầu phiêu bạt khắp nơi, tế thế cứu người.

Một hôm, tăng điên Vân Bác vừa đi vừa hát bài kệ của mình (kệ chính là bài thơ của hòa thượng sáng tác):

Phiêu bạt chân trời
Không vướng không bận
Đi đến nơi đâu
Nơi đó là nhà
Ngu ngu ngốc ngốc ở thế gian
Điên điên khùng khùng đi khắp thiên hạ
Thức dậy sớm chiều uống cam lộ
Say rồi đá xanh kia làm gối
Áo rách mũ hỏng giầy lộ chân
Tay cầm bình rượu dạo tam giới
Trảm yêu trừ ác cứu thế nhân
……

Đang hát, bỗng nhiên Vân Bác gặp một rừng hoa đào, dưới gốc cây đào có một tiểu đạo sĩ đang ngồi đó, trông có vẻ khoảng 23~24 tuổi, mặt mày khôi ngô, đôi mắt long lanh rất khả ái. Tiểu đạo sĩ vừa nhìn thấy vị tăng điên đi đến, lập tức đứng dậy, dường như đang lẩm bẩm một mình:

Sư phụ bảo ta ở đây đợi người
Lúc sáng sớm có một người đến
Áo cũ mũ rách trông bộ dạng có vẻ điên khùng
Lẽ nào chính là người kia?

Nói đoạn liền chắp tay vái: “Không biết tăng huynh muốn đi đâu?”

Vân Bác đáp:

Tiểu tăng tới từ núi Nga Mi
Đến chốn hồng trần để khổ tu
Tế thế cứu người làm việc thiện
Biển khổ mênh mông kết thiện duyên!
Thiện tai! Thiện tai!

Tiểu đạo sĩ nghe thấy vậy trong lòng vui như hoa nở, liền nói:

Tiểu đệ pháp hiệu Tử Đông
Đảo nhỏ Bồng Lai có một tiên cung
Vâng mệnh sư phụ tìm đạo hữu
Tế thế cứu người phổ độ chúng sinh!

Vân Bác nói: “Vậy xin hỏi hiền đệ rằng ‘Tử Đông’ có ý gì?”

Tử khí đông lai trần vụ khai
Tâm hữu chân Đạo đại tự tại
(Khí màu tím từ hướng đông đến thì bụi bặm mây mù tan biến
Trong tâm có Đạo chân thật là đại tự tại)

“‘Tử Đông’ – Đúng là cái tên hay!”, Vân Bác không ngừng vỗ tay nói.

“Vậy huynh tên gì?”, Tử Đông hỏi.

Vân du tứ hải thụy khí giáng
Bác thái cổ kim Phật quang lượng!
(Vân du bổn biển khí lành giáng xuống
Bác thái cổ kim hào quang của Phật chiếu rọi)

“Hay! Hay!”

Từ đó hai người trở thành tri kỷ của nhau. Họ cùng nhau trải qua hoạn nạn, trong khi cứu người nơi thế gian mà không ngừng triển hiện thần tích.

Bài viết này chỉ kể ra một trong số đó.

Một hôm, Vân Bác nói với Tử Đông: “Hôm nay nếu có ‘hỷ sự’, thì ‘hỷ’ đến từ đâu?” Tử Đông không hiểu, liền ra ngoài xem thử, đúng là có hộ gia đình đang làm nhà. Tử Đông chạy đến hỏi: “Nhà ông có việc vui hay sao?” “Không có, gia đình tôi có việc cần nên mới làm nhà!” Người đó chẳng buồn ngẩng đầu lên mà nói.

Tử Đông trở về hỏi Vân Bác, Vân Bác liền cười:

Chớ hỏi việc vui từ đâu đến
Tạm thời chưa nói hãy cứ đợi
Lát sẽ đến tìm anh và tôi
Trảm yêu diệt ma giải tâm nghi!

Quả nhiên một lát sau, có một người dáng vẻ giống một đầy tớ tìm đến, vừa nhìn thấy Vân Bác, liền quỳ xuống đất kêu khóc không ngừng. Tử Đông bảo anh ta đứng dậy rồi từ từ nói rõ đầu đuôi, người đó nói: “Vốn dĩ tiểu thư nhà tôi ngày mai kết hôn, nhưng không biết vì sao sáng sớm nay đã không nhìn thấy nữa, hơn nữa trong nhà lại có người trở nên đần độn, không thể nói được, biểu hiện lại chậm chạp, hoàn toàn giống một kẻ ngốc. Tiểu thư nhà tôi ngày mai phải kết hôn rồi! Nếu lỡ mất giờ tốt thì làm thế nào!” Vân Bác dường như không tỏ ra lo lắng: “Làm sao mà anh tìm được đến chỗ ta vậy?” “Là một người phụ nữ nói cho tôi biết ngài ở đây”. “Một người phụ nữ?” Đến đây, Vân Bác không biết gì nữa. (Thực ra người phụ nữ đó là một vị Thần, biến thành hình người điểm hóa cho anh ta). Lúc này anh ta dường như đã hiểu được, nhưng không phải việc gì cũng biết, trên thế gian vẫn còn nhiều việc mà bản thân mình không biết. Từ đó anh ta có chút lo lắng, liền nhanh chóng nói: “Vậy chúng ta mau đến nhà tiểu thư thôi”.

Đường đi không xa, không lâu sau họ liền đến nơi. Đến nơi rồi, viên ngoại kể rõ chi tiết những gì đã xảy ra, Vân Bác nói: “Buổi tối đến khi lên đèn, chúng tôi chắc chắn có thể tìm thấy tiểu thư. Tuyệt không để làm lỡ thời gian kết hôn, hơn nữa chắc chắn là trở về bình an nguyên vẹn không có bất kỳ tổn thất nào”.

Nói xong vấn đề chính, khi đến giờ lên đèn, Vân Bác đặt hồ lô xuống đất, sau đó cùng Tử Đông ngồi xếp bằng, rồi dùng công năng làm cho kẻ ngốc kia tỉnh lại. “Kẻ ngốc” kia vốn dĩ rất bình thường, nhưng bị tà ma nhập vào, làm cho nguyên thần bị tê liệt, mới thành ra như vậy.

Được một lúc, chỉ nghe thấy Vân Bác nói: “Nguyên thần tiểu thư hãy quay về, chớ làm lỡ mất hôn sự ngày mai!” Rồi đưa tay về phía trên đầu của người đàn ông kia chộp một cái, sau đó chuyển tay hai vòng, nói: “Viên ngoại hãy ra ngoài đón tiểu thư đi!”

Viên ngoại vừa nghe thấy thì rất vui mừng, liền quay đầu lại đích thân ra ngoài đón tiểu thư, hóa ra tiểu thư đang đứng ngoài cửa rồi! Trong lòng viên ngoại nghĩ muốn cảm ơn hai vị, nhưng đã không nhìn thấy bóng dáng đâu nữa! Cả nhà viên ngoại đều quỳ xuống đất cảm ơn! Những điều này xin không nói nữa.

Về đến chỗ ở, Tử Đông nói với Vân Bác: “Tôi vừa nhìn thấy chuyện như thế này, không biết tôi nói có đúng hay không? Người đàn ông kia là do yêu ma tác quái làm thành như vậy, anh ta cũng là người bị hại, còn vị tiểu thư kia bị yêu ma dùng phép thuật bắt đi. Anh trừ bỏ phụ thể trên thân người đàn ông kia, con ma đó bị công năng của chúng ta thanh trừ, sau đó chúng ta lại dùng công năng đưa tiểu thư đến tận cổng nhà. Có đúng như vậy không?”

“Cũng không khác là mấy, vì sao chúng ta chọn lúc tối khi lên đèn chứ? Bởi vì ta không muốn cho người khác biết chúng ta có bản sự to lớn!”

“Được rồi, hôm nay đã làm xong một việc tốt rồi, chúng ta uống rượu nhé, phải uống rượu trong cái bầu này!” Tử Đông nghe Vân Bác nói có lý, liền đáp: “Vậy chúng ta vào trong hồ lô của anh uống là được chứ gì!” Thế là hai người dùng thần thông nhảy vào trong bầu rượu.

Hai người vào trong bình hồ lô dường như nhìn thấy rất nhiều thứ tốt đẹp, viết tới đây tôi nhớ đến bài thơ “Thiên địa hành”, tôi nghĩ rằng dùng bốn câu thơ đầu để biểu đạt là hợp nhất:

Mây ngũ sắc bay khắp trời
Bướm sặc sỡ quấn theo người
Ca múa nhẹ nhàng lưới buông xuống
Đào nguyên làm cho người ta say…

Thì ra, họ nhìn thấy sư phụ của mình, sư phụ mỉm cười nói: “Các con đã hoàn thành khảo nghiệm của mình rồi. Các con nếu muốn để cho con người thế gian thứ gì đó thì hãy viết ra, để lưu lại cho con người”.

Hai người liền quay trở lại, biết viết gì cho tốt đây? “Hay là chúng ta viết hai câu đối lên trên hồ lô?”, Tử Đông đề xuất ý kiến. “Vậy được đấy!”

Câu đối trên: Vân khai vụ tản hành thiện sự
Câu đối dưới: Bác thái cổ kim liễu trần duyên
Hoành phi: Phổ tế thương sinh

Câu đối trên: Tử khí đông lai tường thụy giáng
Câu đối dưới: Bát phương vân du thần tích lưu
Hoành phi: Hồng trần liễu nguyện

Viết xong, họ lại chui vào trong hồ lô. Chữ viết trên chiếc hồ lô này mặc dù đã trải qua bao nhiêu niên đại, nhưng chưa từng bị xóa mờ, bây giờ vẫn còn trong ký ức tôi, hiện rõ trước mắt tôi…

Vì để tránh phiền phức và dẫn khởi chấp trước, trong bài viết xin không nói rõ các nhân vật tương ứng, mong quý độc giả lượng thứ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/60531

The post Luân hồi ký sự: Phong tăng cứu người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Thiên nhai phổ độhttps://chanhkien.org/2011/07/luan-hoi-ky-su-thien-nhai-pho-do.htmlhttps://chanhkien.org/2011/07/luan-hoi-ky-su-thien-nhai-pho-do.html#respondSat, 16 Jul 2011 10:56:38 +0000https://chanhkien.org/?p=12582Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Nếu như nói, trong chu kỳ văn minh nhân loại lần này, sự kiện Phật Di Lặc hạ thế là vô cùng hy hữu, thì trong thời kỳ viễn cổ, hành trình tu luyện và phổ độ của một vị nữ Phật là hy hữu đến nỗi không cách nào […]

The post Luân hồi ký sự: Thiên nhai phổ độ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Nếu như nói, trong chu kỳ văn minh nhân loại lần này, sự kiện Phật Di Lặc hạ thế là vô cùng hy hữu, thì trong thời kỳ viễn cổ, hành trình tu luyện và phổ độ của một vị nữ Phật là hy hữu đến nỗi không cách nào dùng ngôn ngữ để hình dung được.

Bài viết này chỉ có thể dùng ngôn ngữ khái quát nhất để tóm tắt hành trình trong cả một kiếp người.

Cách đây 200 nghìn năm, tại nơi mà ngày nay là Mexico có một quốc gia nọ; Quốc vương quốc gia này rất có đức hạnh, ông có một vị đại thần cũng rất đức cao vọng trọng. Sau đó phu nhân của vị đại thần này sinh hạ được một bé gái, tên gọi là Nhụy Hinh (nghĩa là mùi hương thơm ngát của nhụy hoa bay xa). Khi vừa sinh ra, trên mình bé gái này đã có một vòng hào quang, thần sắc mười phần uy nghiêm. Tại quốc gia này có một gian thần, sau khi biết tình huống của Nhụy Hinh, ông ta đã tới Hoàng cung tìm Hoàng hậu, vu cáo đứa bé này tương lai sẽ soán ngôi. Sau đó, Hoàng hậu nói dối rằng đêm ấy nằm mơ thấy một đứa bé gái tương lai sẽ giết bà và nhà Vua, mong Quốc vương đem đứa bé đi xử tử. Nhà Vua sáng suốt, cảm thấy khó hiểu, chỉ nói rằng đó chỉ là một giấc mơ thôi, đừng suy nghĩ nhiều. Hoàng hậu vẫn nuôi hy vọng và phái người thân tín truyền thánh chỉ, nói phải đem đứa bé quăng ra biển cả. Vị đại thần này không biết thánh chỉ là giả, nên buộc phải đem đưa bé giao cho hạ thần. Sau đó vị hạ thần này cưỡi ngựa ra bờ biển, thì đột nhiên bụng ông quặn lên, đành phải đặt đứa bé xuống để đi vệ sinh. Sau khi trở lại, ông phát hiện thấy đứa bé đã biến mất; ông nghĩ có lẽ nó đã bị thú hoang tha đi rồi. Khi trở về, ông bẩm báo đã hoàn thành mệnh lệnh của Hoàng hậu.

Sự việc này không hề được tấu lên nhà Vua.

Lại nói về đứa bé kia. Kỳ thực đứa bé đã bị một tên thổ phỉ ẵm đi; họ trú tại một nơi rất yên ắng gần đó. Nhụy Hinh sống tại đó cho tới năm tuổi.

Một ngày nọ, một người hầu gái đem đứa bé tới bờ biển nô đùa. Khi ấy bỗng nhiên từ trên không trung, một vị Thần tiên từ từ hạ xuống, chỉ thấy vị Thần này:

Cưỡi trên đài sen có bảy tầng,
Vô hạn uy nghi hạ thiên không.
Đơn thủ lập chưởng từ bi hiện,
Cười giúp Nhụy Hinh đắc thần thông!

Cô hầu gái vội vàng kéo Nhụy Hinh quỳ lạy dưới mặt đất. Vị Thần nói: “Nhụy Hinh, con sắp có sư phụ dạy con cách giải thoát khỏi sinh tử. Kiếp này con phải trải qua nhiều ma nạn, chỉ để phổ độ chúng sinh; tương lai qua một thời gian rất lâu dài, ta sẽ để con người nghĩ về nó và khải ngộ người đời sau. Con nhất định phải nhớ lấy điểm này. Hài tử, phải nhớ ‘chịu khổ để hoàn thành trọng trách!’” Nói xong, vị Thần phóng vào tay Nhụy Hinh một vật giống như chiếc khăn tay: “Nhớ lấy, lúc nguy nan thì nhìn xem mấy chữ trên đó”. Nhụy Hinh cầm nó xem một lúc, cuối cùng nói: “Chẳng có chữ gì trên đó cả!” Vị Thần nhìn gương mặt đáng yêu của cô bé, cười nói: “Con xem lại đi”. Nhụy Hinh nhìn lại thì thấy trên đó xuất hiện vô số chữ vàng, hơn nữa còn chuyển động. Tuy nhiên cô bé không hiểu, chỉ cảm thấy nó không phải là chữ thường, mà có năng lượng. “Giữ lấy cho kỹ”, nói xong vị Thần biến mất.

Khi ấy Nhụy Hinh nhìn lại chiếc khăn tay thì lại thấy y như cũ, không có chữ nào. Thế nhưng sự việc này đã in sâu vào tâm trí cô bé trong suốt đoạn hành trình.

Khoảng 3 tháng sau, nhóm thổ phỉ này gặp phải một đám giặc cướp khác và xảy ra một trận chiến sống còn. Nhụy Hinh được cô hầu gái bế đi chạy trốn, tới tận sâu trong rừng rậm; sau khi chạy quá mệt, cô hầu gái ngồi trên một tảng đá và ngủ thiếp đi. Sau khi tỉnh lại, cô cảm thấy rất đói. Khi cô đi quanh tìm đồ ăn, đột nhiên có tiếng hát của ai đó vọng lại, tựa hồ muốn nói:

Nhân sinh bể khổ vạn dặm trường,
Trong mê kẻ phàm nghĩ vẩn vương.
Như ta ca hát chốn rừng núi,
Minh tỏ chân lý tìm cố hương.

Cô hầu gái nghe xong vận hết sức lực hét to: “Tôi đang đói lắm, có thể cho tôi và đứa trẻ năm tuổi một chút gì để ăn không?” Một lúc sau, lại vang lên một bài ca khác:

Chân trời xa thẳm khổ biết bao,
Trải qua ma nạn đói cồn cào.
Nay ta mang đến đồ lót dạ,
Ăn no lên đường tu đại Đạo!

Bước tới là một người trung niên, thân mặc thường phục, mặt để râu dài. Ông cầm trên tay mấy quả trái cây và đưa cho họ ăn. Cô hầu gái đỡ lấy hai quả và cho Nhụy Hinh ăn, có lẽ Nhụy Hinh đã quá đói nên ăn xong lại còn đòi thêm. Khi ấy người kia trên tay chỉ còn một quả, cô hầu gái lúc ấy chỉ nghĩ về trải nghiệm thần kỳ của cô và Nhụy Hinh ở bờ biển, nên đã đem nốt quả trái cây kia cho Nhụy Hinh ăn. Thế nhưng khi cầm nó trên tay, Nhụy Hinh đưa lại nó cho cô hầu gái, nói chị ăn trước đi, em đã ăn hết hai quả rồi. Nhìn thấy cảnh này, người kia cười lớn, thế là chỉ sau một cái vung tay, trên mặt đất xuất hiện rất nhiều trái cây. Nhụy Hinh ăn xong rồi cười, vừa cười vừa chơi đùa…

Sau khi ăn xong, họ được đưa tới nơi tu hành của người kia; Nhụy Hinh bắt đầu 14 năm tu hành của mình.

Họ chủ yếu là tu tâm, tăng cường nỗi sợ hãi luân hồi sinh tử của thế gian, đồng thời ngộ rõ sự vĩnh hằng của chân lý và sự tốt đẹp của thiên giới. Về sau, vị tu Đạo này giảng cho họ những câu chuyện tu luyện của các vị cổ Phật và những người tu luyện trong quá khứ. Họ nghe xong thường ứa nước mắt. Họ phát nguyện đi khắp thiên hạ, cứu giúp thương sinh!

Sau đó, họ chia tay vị tu Đạo kia và ra khỏi rừng già. Khi ấy tại nơi đó có mấy quốc gia liền (kỳ thực gọi là “bộ lạc” thì chuẩn xác hơn). Bởi vì sau khi lớn lên, Nhụy Hinh xinh đẹp phi thường nên bị một bộ lạc cướp đi, còn cô hầu gái bị sát hại. Khi ấy Nhụy Hinh không chút sợ hãi, cô nhớ lại câu nói của vị Thần tiên bên bờ biển: trong lúc nguy nan, hãy nhớ chiếc khăn tay. Khi cô vừa nghĩ đến chiếc khăn tay, chiếc khăn trong người cô tự động mở ra (bởi vì hai tay cô đang bị trói), trên đó hiện hai dòng chữ:

Trong lúc nguy nan chịu nhẫn nhục,
Tâm không sợ sệt vẫn thản nhiên.

Mấy tên giặc này đem cô giam trong một căn phòng, để cô làm vợ tên tướng cướp. Cô quyết không chịu. Họ bèn đem cô trói vào cây cột lớn trên một tảng đá ngầm bên bờ biển, để mặt trời thiêu đốt cô. Cảm giác này thật khó chịu đựng. Mỗi ngày, họ chỉ đem cho cô một chút đồ ăn; do đó chỉ vài ngày sau, cô gầy đi rất nhiều. Thế nhưng cô vẫn chiểu theo hai câu trên chiếc khăn để hành xử. Sau đó, nhờ một người nói giúp, cô được đưa xuống và thả ra.

Trải qua đợt ma nạn này, cô dường như đã có thể thấy được rất nhiều thứ, và tư tưởng cô càng thêm kiên định.

Sau đó, khi nghỉ tại một nhà trọ trong thành phố, cô bị người chủ hạ độc và bán cho một kỹ viện.

Tại đây, cô phải chịu đủ loại đánh đập và ngược đãi, mình đầy thương tích; đói và rét đã giày vò cô như chết đi sống lại nhiều lần. Một lần cô nằm mộng, mơ thấy chiếc khăn tay mà trên đó chỉ một một chữ “Nhẫn” rất lớn. Cô hiểu rằng mình phải trải qua đợt khảo nghiệm này mới có thể hoàn thành sứ mệnh cứu độ chúng sinh trong kiếp ấy.

Sau đó, cô bị đánh đến mức chỉ còn thoi thóp, bị người ta ném ra đường phố vắng; trong cơn gió lạnh, cô choàng tỉnh. Một mình cô loạng choạng đi trên phố, hướng về phía những người vẫn còn chút thiện niệm…

Cô vừa xin ăn, vừa giảng về đạo lý thoát ly sinh tử cho con người. Lúc đầu, do người ta mê quá sâu nên không tin, thế nhưng cô vẫn từ bi và kiên nhẫn, không ngừng nói với họ tính trọng yếu của trọng đức, về sự vô thường của thế gian. Thế là dần dần, người ta bắt đầu tin những gì cô nói, bắt đầu truyền bá những điều cô giảng.

Cứ như thế, mấy năm trôi qua, ảnh hưởng của cô đã càng ngày càng lớn. Khi ấy tại vương quốc của phụ thân cô, lão Quốc vương đã qua đời, và Quốc vương mới rất dốt nát. Cô quyết định thiện hóa vương quốc này.

Chẳng ngờ vừa tới nơi, cô đã bị gian thần hãm hại, tống vào đại ngục.

Trong ngục, các phạm nhân dùng những từ ngữ thô bỉ nhất để nhục mạ cô, đánh đập cô, hành hạ cô, để cô đeo cùm, đeo đá vào bàn chân cô, ngoài ra mỗi bữa chỉ cho cô ăn một chút cháo… Hôn mê, bỏ mạng có thể đến bất cứ lúc nào!

Loại giày vò này kéo dài tới 10 năm! Sau này, những gian thần kia vì mưu phản mà bị giết chết; Quốc vương dốt nát phóng thích cô, để cô tiếp tục hồng truyền triết lý.

Tại quốc gia này, sau khi được cô cứu độ hơn 5 năm, rất nhiều dân chúng đều minh bạch về sự vô thường của trần thế, đều phát tâm tu hành, đề cao phẩm chất đạo đức.

Sau đó, một kẻ theo oai đạo thấy cô được hoan nghênh, bèn nghĩ ra một độc kế. Hắn lừa cô tới một hòn đảo và bỏ cô lại đó. Cô được đưa vào một căn nhà đá, cứ mấy ngày mới có một người tới cấp cho cô chút thức ăn. Mùa hè khát quá thì trời đổ mưa, cô nhoài người ra cửa sổ, há miệng hớp lấy những giọt nước mưa; mùa đông giữa trời rét như cắt da cắt thịt, cô ngồi xếp bằng đả tọa, mỗi lần lâu tới mấy tháng… Hết thảy mọi thứ thế gian dường như không động được tới cô, khi ấy điều duy nhất cô mong muốn chỉ là đem pháp trong tâm cô truyền cho thật nhiều người. Bất kể cô phải chịu khổ bao nhiêu, chịu ủy khuất bao nhiêu, thì cô đắc được bấy nhiêu! Cô đã ở lại đó trong khoảng 20 năm.

Sau đó, một tiếng sét vang lên đánh vỡ tan căn nhà đá, cô lại thấy ánh mặt trời.

Trải qua biết bao ma nạn, cô hun đúc chính niệm, biến khuất nhục thành từ bi và truyền cấp cho thật nhiều người, nhiều người…

Đúng là:

Trải bao ma nạn khổ tu hành,
Giữ vững chân tâm từ bi thành.
Độ thoát chúng sinh khỏi bể khổ,
Thiên nhai phổ độ vượt hành trình!

Lời kết: Kỳ thực vị Thần này đã trải qua rất nhiều điều; cuộc hành trình của cô không chỉ giới hạn trong những gì tôi kể, mong độc giả và các bạn thứ lỗi.

Hy vọng các đệ tử Đại Pháp ngày càng tinh tấn, hy vọng con người thế gian đều có thể thức tỉnh, thiện đãi Phật Pháp, thiện đãi người tu luyện Pháp Luân Công!

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/2/2/71326.html

The post Luân hồi ký sự: Thiên nhai phổ độ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/07/luan-hoi-ky-su-thien-nhai-pho-do.html/feed0
Luân hồi ký sự:Nguồn gốc suối Nguyệt Nha tại Đôn Hoànghttps://chanhkien.org/2010/02/luan-hoi-ky-sunguon-goc-suoi-nguyet-nha-tai-don-hoang.htmlhttps://chanhkien.org/2010/02/luan-hoi-ky-sunguon-goc-suoi-nguyet-nha-tai-don-hoang.html#respondWed, 03 Feb 2010 09:09:10 +0000https://chanhkien.org/?p=4795Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Đây là câu chuyện xảy ra sau khi một nền văn minh của loài người bị hủy diệt. Có một nhóm người nhỏ còn sót lại và bắt đầu một nền văn minh mới. Tại vùng Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, đất đai rất màu mỡ. Có hai bộ lạc […]

The post Luân hồi ký sự:Nguồn gốc suối Nguyệt Nha tại Đôn Hoàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Đây là câu chuyện xảy ra sau khi một nền văn minh của loài người bị hủy diệt. Có một nhóm người nhỏ còn sót lại và bắt đầu một nền văn minh mới. Tại vùng Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, đất đai rất màu mỡ. Có hai bộ lạc ở đây. Ban đầu họ sống với nhau rất hòa thuận, nhưng sau đó lại liên tục đánh lẫn nhau. Vào lúc ấy, loài người khá man rợ do tiêu chuẩn đạo đức thấp kém. Nếu họ giết chết kẻ thù thì họ sẽ ăn luôn thịt kẻ thù của họ. Sau đó, để giáo hóa họ, một đạo sĩ với công năng mạnh mẽ đã hạ xuống từ thiên thượng. Sau khi học cách sống như con người, họ bắt đầu phát triển.

Vị đạo sĩ này dạy người ta cách trân quý mạng sống và trở nên văn minh hơn một cách không biết mệt mỏi. Không may thay, nhiều người không muốn theo lời dạy của ông và còn muốn hãm hại ông. Sau hơn hai năm, vị đạo sĩ này nhận ra rằng người dân trong hai bộ lạc này thực sự thiếu từ bi. Ông nghiêm túc cảnh báo họ vào một buổi chiều nọ: “Một điều rất nghiêm trọng sắp xảy ra tại nơi đây, và những người man rợ phải bị trừng phạt vì hành động của họ. Cả vùng này sẽ biến thành một sa mạc lớn.” Hầu hết họ đều làm ngơ trước điều này, và thậm chí còn ném đá vào ông. Chỉ một vài đứa trẻ biết rằng ông là một Thần tiên đến từ thiên thượng. Những đứa trẻ này quỳ xuống và nói rằng họ sẽ nghe theo lời chỉ dẫn của ông.

Vị đạo sĩ mỉm cười và nói với chúng: “Giờ mọi người sẽ tiếp tục cuộc sống bộ lạc, và ta sẽ đưa các con tới một khu vực xa xôi vào tối nay. Bất kể điều gì xảy ra, chỉ nằm ở đó và nghĩ về ta, rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp thôi. Hãy nhớ giữ mồm giữ miệng, nếu không các con sẽ tiết lộ thiên cơ, và sẽ chết như những người còn lại trong bộ lạc.”

Đêm hôm đó, một trận bão cát lớn nổi lên và cả vùng nhanh chóng bị ngập trong biển cát. Những con người man rợ gào lên và dần dần bị chìm trong biển cát. Mọi thứ đã qua đi, và chỉ còn lại sa mạc bất tận như thể chưa có chuyện gì từng xảy ra ở đó!

Khi vị đạo sĩ trông thấy cảnh này, ông bật khóc. Ông có thể làm gì đây? Đó là sự lựa chọn của họ, vì họ đã không thể trân quý chính bản thân mình!

Khi mặt trời mọc vào sáng hôm sau, những đứa trẻ thức giấc. Chúng kinh ngạc vô cùng khi trông thấy sa mạc. Sau khi tập hợp lại, chúng bắt đầu khóc. Vị đạo sĩ hỏi tại sao chúng khóc. Chúng nói rằng chúng khóc thương những người đã quá man rợ và không nghe theo ông, và cuối cùng phải chịu kết cục bi thảm – bị cát chôn sống.

Vị đạo sĩ cảm động trước hiểu biết của chúng và tin rằng chúng có thể dạy dỗ được. Có lẽ là Trời muốn khuyến khích những đứa trẻ này – nước mắt chúng rơi xuống đâu thì ở đó mọc lên đám cỏ xanh. Dù gió có mạnh đến thế nào, đám cỏ xanh vẫn đứng vững. Sau đó, những đứa trẻ bắt đầu thiền định cùng vị đạo sĩ. Sau một thời gian ngắn, vị đạo sĩ nhận thấy những đứa trẻ cần có thức ăn. Nhưng không may là sa mạc quá rộng, không có nước và cũng không có gì để ăn. Vị đạo sĩ định rằng sẽ dùng thần thông tạo ra thức ăn, nhưng thiên thượng cấm ông làm điều đó. Sinh mệnh cao cấp hơn nói: “Sa mạc xuất hiện do sự suy đồi về tiêu chuẩn đạo đức của con người. Nếu con người muốn tu luyện tại đây, họ phải kiên định và có niềm tin mạnh mẽ vào ông.” Vị đạo sĩ hiểu rằng những đứa trẻ cần bày tỏ lòng biết ơn với thiên thượng bằng chính hành động của chúng! Vị đạo sĩ nói với chúng: “Ta sẽ rời đi trong một thời gian ngắn để giải quyết một số vấn đề cá nhân, và các con phải tu luyện tinh tấn. Đừng buông lơi!” Và rồi ông biến mất.

Lúc đầu, những đứa trẻ rất kiên định. Nhưng sau đó, một số bắt đầu đói và đi ra ngoài tìm thức ăn. Khi chúng bị lạc trong bão cát, chúng bị vùi trong cát. Một số thì thích vui chơi, quên mất tu luyện và bị chết trong sa mạc. Chỉ còn một đứa trẻ, luôn nghĩ về tu luyện, coi thường hoàn cảnh khó khăn và có niềm tin mạnh mẽ vào sư phụ của cậu. Một ngày, khi cậu rất đói và khát, cậu cảm thấy gió và cát đang chuẩn bị chôn vùi mình. Ngay cả khi mắt và mũi bị dính đầy cát, cậu vẫn ngồi đả tọa tại đó. Cậu nghĩ chỉ về một câu của sư phụ: “Tu luyện tinh tấn và đừng buông lơi!” Dần dần, môi cậu trở nên khô và nứt nẻ, và cơ thể cậu gần mất hết nước. Cậu nghĩ: “Bất chấp điều gì xảy ra, ta phải tu luyện, ngay cả có mất đi mạng sống. Điều sư phụ ta nói là đúng. Đó là lý do để ăn mừng khi ta hiểu được những nguyên lý đó trong đời này, và ta không nên đòi hỏi gì khác.” Trong thời khắc trọng yếu nhất giữa cuộc sống và cái chết, đứa trẻ này không nghĩ về được và mất. Cậu cho thấy một niềm tin mạnh mẽ.

Cùng lúc ấy, một nữ thần áo trắng khổng lồ xuất hiện trên bầu trời. Cô bị cảm động sâu sắc và mỉm cười trong cõi người. Trông thấy mặt trăng lưỡi liềm, cô vẫy tay, và một con suối hình lưỡi liềm với dòng nước trong mát xuất hiện trước cậu bé (*). Khi cô vẫy tay vài lần, cây xanh, ao cá với vịt ngan bơi lội xuất hiện.

Vào thời điểm ấy, vị đạo sĩ trở lại. Ông cười với đứa trẻ và nói: “Con trai, con đã vượt qua nhiều khảo nghiệm. Con đã đắc chính quả và cũng đã để lại một tấm gương tốt cho con người tương lai. Mọi thứ sẽ còn tiếp tục tại đây, và dòng suối lưỡi liềm sẽ không bao giờ cạn, trừ khi tiêu chuẩn đạo đức của con người trượt dốc rất lớn. Rồi nó sẽ dần dần cạn đi. Dòng suối này là một lời nhắc nhở cho con người. Giờ con sẽ trở lại thiên thượng và ở đó trong một thời gian, rồi sau đó con sẽ chuyển sinh tại nhiều nơi khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Vì con đã chứng kiến điều này, con nên viết chúng ra khi Đại Pháp được hồng truyền nơi nhân gian, và khi thế lực tà ác khảo nghiệm Đại Pháp.”

Mục đích của việc lật lại trang sử này là để cảnh báo thế nhân: Khi con người không còn xứng đáng là người nữa, Thần sẽ thực sự hủy diệt họ! Ngoài ra, tu luyện kiên định có thể thực sự làm lay chuyển Trời Đất!

Sau này, thêm nhiều người tu luyện và thậm chí các ngôi chùa đã xuất hiện quanh dòng suối này. Dòng suối Nguyệt Nha trong trẻo vẫn còn ở đó, khi con người đã dần dần hiểu ra mục đích để làm người. Hôm nay, việc dòng suối vẫn còn trong trẻo và tĩnh lặng được coi là một phép màu.

Tôi phải dừng bút tại đây bởi vì tôi không thể ngăn được nước mắt chảy xuống má tôi.

Xin hãy trân quý mục đích làm người và tận dụng thời gian để tu luyện!

Chú thích của người dịch:

(*) Trong tiếng Trung Quốc, “Nguyệt Nha” có nghĩa là trăng lưỡi liềm.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2008/3/6/51467.html
http://www.pureinsight.org/node/5498

The post Luân hồi ký sự:Nguồn gốc suối Nguyệt Nha tại Đôn Hoàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/02/luan-hoi-ky-sunguon-goc-suoi-nguyet-nha-tai-don-hoang.html/feed0
Luân hồi ký sự: Tiếng sáo ấy đến từ đâu?https://chanhkien.org/2009/11/luan-hoi-ky-su-tieng-sao-ay-den-tu-dau.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/luan-hoi-ky-su-tieng-sao-ay-den-tu-dau.html#respondTue, 24 Nov 2009 21:48:27 +0000https://chanhkien.org/?p=4052Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Dẫn nhập: Nếu người nào đó đề cập tới thiên lý “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” với người Trung Quốc hiện đại, thì người đó sẽ bị cười nhạo. Họ sẽ nói: “Bạn thấy các quan tham của Đảng Cộng sản Trung Quốc đấy. Họ đã tham […]

The post Luân hồi ký sự: Tiếng sáo ấy đến từ đâu? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Dẫn nhập: Nếu người nào đó đề cập tới thiên lý “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” với người Trung Quốc hiện đại, thì người đó sẽ bị cười nhạo. Họ sẽ nói: “Bạn thấy các quan tham của Đảng Cộng sản Trung Quốc đấy. Họ đã tham ô rất nhiều tiền của dân chúng – họ đáng bị đi tù hay thậm chí bị xử tử, nhưng họ vẫn sống tốt đấy thôi! Bạn nhìn những người trung hậu thật thà kia đi, khó mà tìm được người nào có vận mệnh may mắn! Ngày nay bạn phải thực tế hơn đi, nếu không bạn sẽ tự làm khổ mình thôi.” Nhiều người đã nói theo cách này, nhưng theo tôi, họ mới thực sự là đáng cười.

Người thường luôn luôn nhìn vào lợi ích trước mắt, họ không quan tâm tới điều gì sẽ xảy ra sau khi chết hay sự bất diệt của sinh mệnh. Thực ra, quan hệ nhân duyên giữa con người trên thế gian này là hết sức phức tạp. Lấy ví dụ thế này: trên bề mặt, A có thể đã làm điều gì đó bất công với C, nhưng vì A đã làm điều tốt với C trong quá khứ (hoặc kiếp này, hoặc kiếp trước), nên C sẽ muốn trả nợ cho A vì hành động tốt đó. Nếu B nợ C rất nhiều trong quá khứ, C tất nhiên sẽ muốn đòi lại những gì B nợ trước kia (bao gồm cả vật chất và tinh thần). Nếu B xem xét điều đó từ lòng ích kỷ, B sẽ cảm thấy rằng mình là người bị thua thiệt và thường tự hỏi tại sao mình luôn là người bị đối xử bất công. B sẽ có một thái độ bi quan và tạo thành một cảm giác bất bình trong tâm. Nhưng nếu B có thể xem xét sự việc vượt lên trên những điều ở bề mặt đó, lấy chúng làm động lực để tiến bước thì kết quả sẽ hoàn toàn thay đổi.

Câu chuyện được đề cập tới trong bài viết này là để giải thích sự phức tạp trong quan hệ nhân duyên giữa con người với nhau. Nó cũng minh chứng rằng “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” không phải là điều con người có thể hiểu được dựa trên quan niệm đã hình thành trong xã hội và từ góc độ của sự ích kỷ. Ngoài ra, nó cũng cho thấy sự tồn tại của nhân loại từ cổ đại tới hiện đại thực ra là vì điều gì. Chúng ta hãy cùng nhau bắt đầu câu chuyện này.

Câu chuyện về Tô Vân Tĩnh (Xin xem câu chuyện của cô ở bài: “Câu chuyện có thật về luân hồi: Quý phi túy tửu”) bắt đầu từ một sự kiện xảy ra dưới thời Tùy Dương Đế. Có hai chị em nhà họ Lâm đã lấy chung một người chồng, và người em gái đã đầu độc chị mình rồi quăng xác cô xuống một cái giếng bên ngoài ngôi nhà. Sau đó, khi người chồng trở về nhà và hỏi về điều đó, người em gái đã nói với anh rằng chị mình đã uống thuốc độc và nhảy xuống giếng. Cô nói lý do là vì chị mình cảm thấy không được chồng sủng ái và không thể chịu đựng thêm được nữa. Người chồng biết rằng hai chị em vốn bất hòa và rất có thể một người trong số họ đã có ý định tự vẫn. Vì vậy anh đã không truy cứu thêm nữa. Anh nhờ người mang xác vợ ra khỏi giếng và mai táng một cách đơn giản. Người em gái cuối cùng đã độc chiếm được người chồng. Chồng của cô rất tốt với cô. Hai năm sau, cô có với anh hai người con, một nam một nữ, từ đó cả gia đình sống trong cảnh hạnh phúc và hòa thuận.

Tuy nhiên, không ai có thể nghĩ rằng điều đó sẽ không thể kéo dài lâu. Một trận ôn dịch đã bắt đầu ở vùng Tô Châu, và bệnh dịch nhanh chóng lây lan thành đại dịch. Cả gia đình họ đã chết trong trận ôn dịch đó. Sau khi chết, nguyên thần của họ phải xuống Địa Phủ để xét hỏi. Diêm Vương đã lệnh cho vị Phán quan dở sổ ghi chép lại tất cả những việc thị phi mà người em gái họ Lâm đã làm trong kiếp sống ấy. Vị Phán quan nói: Việc thiện nhất mà cô đã làm là toàn tâm toàn ý chăm lo cho tướng công của mình, không chút kêu ca hay tơ tưởng người khác. Việc ác nhất mà cô đã làm là dùng rượu độc để sát hại chính chị gái mình do tâm đố kỵ quá mạnh mẽ. Hai người con của cô có quan hệ nhân duyên rất lớn với cô. Cô đã cứu mạng họ trong một tiền kiếp và họ đã trở thành con của cô trong kiếp này để báo ân. Diêm Vương phán: “Cô không được phép chết theo cách này, bởi vì nếu con người không biết được hậu quả mà một người đố kỵ hành ác phải nhận ra sao, họ sẽ dám làm mọi thứ.” Do đó, đám tiểu quỷ đã trói cô gái bằng dây sắt dày và áp giải cô trở lại dương gian.

Lúc ấy, bách tính đang phải sống trong cảnh sợ hãi tột cùng giữa trận ôn dịch. Khi cô được áp giải trở lại dương gian, người dân vùng đó đã vô cùng khiếp đảm. Một số người gan dạ run rẩy hỏi cô: “Chẳng phải cô đã chết rồi sao? Cô trở lại bằng cách nào vậy?” Đám tiểu quỷ đã kể ra chi tiết công tội của cô lúc còn sống và nói: “Lý do Diêm Vương bảo chúng tôi mang cô ấy lên đây là để nói với tất cả các người rằng làm điều xấu sẽ phải đọa Địa Ngục, và thậm chí nếu người ấy được chuyển sinh thành người, nghiệp người đó nợ sẽ vẫn phải hoàn trả. Bây giờ chúng tôi phải trở về để bẩm báo với Diêm Vương”. Đám tiểu quỷ cùng cô gái biến mất ngay tức khắc. Điều này xảy ra giữa ban ngày ban mặt. Những người chứng kiến đều cảm thấy như thể họ đang nằm mơ vậy.

Sau khi bị mang trở lại Địa Ngục, cô gái đã bị đưa tới một hầm nước, nơi cô bị cắn bởi thủy trùng, độc xà cùng nhiều hình thức trừng phạt khác. Sự đau đớn và thống khổ là không thể mô tả được bằng lời. Cô gái đã phải chịu đựng như vậy trong gần một trăm năm. Một ngày nọ, Hằng Nga Tiên nữ cùng Nhị Lang Thần phụng mệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống thị sát Âm Phủ. Khi tới hầm nước, họ nghe thấy tiếng khóc của một người con gái, nghe thập phần thương tâm. Hằng Nga Tiên nữ nghe thấy tiếng khóc của cô gái bèn tới gần xem xét, cuối cùng nói: “Nghiệt chướng! Hóa ra nhà ngươi ở đây!” Nguyên lai cô gái là cây Ngọc thạch Tỳ Bà [1] mà Hằng Nga Tiên nữ thường sử dụng nơi tiên giới. Trông thấy Hằng Nga Tiên nữ, cô gái khóc lóc nghe càng thương tâm hơn. Hằng Nga Tiên nữ sinh lòng thương cảm bèn nói: “Nhà ngươi đã phạm đại tội gì để đến nỗi rơi vào cảnh này?” Cô gái bèn kể lại sự việc sát sinh năm xưa cho Hằng Nga Tiên nữ nghe. Hằng Nga Tiên nữ thở dài: “Cõi phàm trần đúng là nơi tạo ác nghiệp. Chúng sinh chỉ vì khởi tâm ma mà tạo nên ác nghiệp, cuối cùng đều bị xuống Địa Phủ chịu tội! Bị đọa xuống đây thì dễ nhưng được siêu sinh thì thật khó! Ngươi đợi ở đây, ta đi bẩm báo với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng sẽ làm chủ sự việc của ngươi!”

Đúng lúc ấy, Hằng Nga Tiên nữ nghe thấy một giọng nữ từ bên trên, nghe còn đau khổ và thống thiết hơn. Cô gái đó vừa khóc vừa nói: “Tôi là tiên nữ mà phải chết thống khổ và oan khuất thế này đây. Từ lúc bị cô ấy đầu độc, tôi đã rơi vào một nơi không ăn không uống. Cuộc đời được định trước của tôi vẫn chưa kết thúc. Nếu cô ấy được tha dễ như vậy thì tôi sẽ không chịu đâu. Tôi sẽ đi kiện!” Hằng Nga Tiên nữ cùng Nhị Lang Thần nhìn gần hơn và thấy rằng cô gái ấy đang sống tại một nơi không ăn không uống (đó không phải là Địa Phủ, mà tồn tại cùng nơi cùng lúc với Địa Phủ, và các vị Thần chỉ cần liếc mắt là trông thấy). Nhị Lang Thần nói với cô gái: “Hiện tại cô đang không ăn không uống, nhưng sau này cô sẽ lại có những vui vẻ nơi thế gian. Đừng khóc và giữ tâm oán hận như vậy nữa.” Hằng Nga Tiên nữ nói: “Cô ấy đã nợ cô một mạng sống và mọi thứ rồi sẽ được hoàn lại. Đừng khóc nữa.” Nhị Lang Thần cười nói: “Hiện giờ cô đang cô độc [một mình], sau này ở nhân gian Hoàng đế sẽ phong cho cô làm ‘Cô Độc Hoàng hậu.’” Sau khi hai cô gái thấy hai vị thần tiên đã có chủ ý để họ chuyển sinh lên nhân gian hưởng phúc, cô gái nói: “Tôi sẽ thôi không oán hận cô ấy, nhưng tôi muốn trở thành ‘Độc Cô Hoàng hậu’ thay vì ‘Cô Độc Hoàng hậu.’” Nhị Lang Thần cười nói: “Cô có khác gì một đứa trẻ tinh nghịch nơi nhân gian đâu? Cô vẫn còn thấy bất bình khi chúng tôi đã cứu độ cô hay sao? Độc Cô thì Độc Cô, Cô Độc thì Cô Độc, không có vấn đề gì cả!” “Chúng tôi phải trở về Thiên Đình ngay bây giờ đây.” Hằng Nga Tiên nữ và Nhị Lang Thần cùng nhau cáo biệt Diêm Vương rồi cùng bay về Linh Tiêu Bảo điện. Cùng lúc ấy, Ngọc Hoàng Thượng đế đang nghị sự với Thái Ất Chân nhân. Hằng Nga Tiên nữ hành lễ bái kiến Ngọc Hoàng rồi nói về mục đích mà họ tới đây. Thái Ất Chân nhân cười lúc lâu rồi nói với Ngọc Hoàng: “Người này (cô gái) có lai lịch đấy, sẽ rất tốt khi giải quyết theo cách này.” Sau đó Thái Ất Chân nhân thì thầm vào tai Ngọc Hoàng một lúc. Ngọc Hoàng nói một cách nghiêm trang: “Tiên tử hãy hồi cung đi. Ta sẽ an bài cho Ngọc thạch Tỳ Bà.”

Sau khi Hằng Nga Tiên nữ đã hồi cung, Ngọc Hoàng gọi Diêm Vương đến và hỏi: “Khi nào thì cô gái hoàn trả xong nghiệp nợ do sát nhân?” “Ba năm nữa ạ.” “Sẽ tốt hơn nếu an bài theo cách này: Khi cô gái đã trả hết nghiệp, hãy đưa cô ấy lên tiên giới, nơi một vị Thượng Tiên cần một miếng bích ngọc trầm tĩnh phi thường để tu luyện. Nguyên cô gái là một cây Ngọc thạch Tỳ Bà mà ta đã ban cho Hằng Nga. Khi tự mình hạ xuống phàm trần, cô gái đã phạm phải ác sự. Nếu cô ấy có thể trợ giúp vị Thượng Tiên tu luyện thành công, nghiệp chướng sẽ được bãi miễn và cô ấy sẽ được liệt vào hàng Tiên.” Diêm Vương gật đầu khen phải.

Bằng cách ấy, cô gái cuối cùng đã trở lại nguyên hình – một cây Ngọc thạch Tỳ Bà. Vị Thượng Tiên tâm thần ngưng tụ tại cây Ngọc thạch Tỳ Bà và không lâu sau đã tu luyện đắc Đạo. Sau khi rời khỏi Tam Giới, ông đột nhiên nhận thấy rằng sinh mệnh nguyên lai của cây đàn Tỳ Bà này còn thâm viễn (sâu xa) hơn nhiều. Trên trán cô gái có mang một dấu ấn của Phật hết sức rõ ràng minh hiển. Dấu ấn này không phải là của một vị Phật bình thường, mà là được ban bởi đức Chuyển Luân Thánh Vương mà sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai, khi vũ trụ bước vào thời Mạt Kiếp. Điều này thật vô cùng ý nghĩa! Đây là vinh dự lớn nhất của một sinh mệnh trong vũ trụ! Ông đã mời nhiều vị Thần tới để cùng bàn bạc cách an bài cho tương lai của cô gái. Một vị Thần nói: “Hiện tại đức Chuyển Luân Thánh Vương đã chuyển sinh tới nhân gian được một giai đoạn thời gian rồi. Đây chính là đệ tử được đánh dấu của Thánh Vương, vậy chúng ta hãy an bài cho cô ấy được chuyển sinh vào một gia đình tu luyện, để hoàn thiện lịch sử nhân loại, đồng thời giúp một đệ tử tích lũy uy đức khi đức Chuyển Luân Thánh Vương truyền Pháp vào thời Mạt Kiếp trong tương lai, và chúng ta cũng đã làm được một việc tốt?” Một vị Thần khác nói: “Chúng ta không thể để đệ tử này xuống nhân gian dễ dàng như vậy được, hãy cấp cho cô ấy một vài trở ngại…”

Vì vậy, cây Ngọc thạch Tỳ Bà lại một lần nữa chuyển sinh xuống nhân gian, và được sinh ra trong một gia đình họ Tô tại Dương Châu [2]. Lúc ấy đang là triều đại của Đường Huyền Tông [3]. Cha của cô, Tô lão viên ngoại là người hết sức vui vẻ và tốt bụng. Ông cùng vợ của mình, phu nhân họ Quách tích đức hành thiện và thường được xóm giềng khen ngợi. Tuy nhiên, đôi vợ chồng trẻ lại phải chịu đựng nhiều tai ương. Trâu bò mà họ nuôi đã bị đạo tặc lấy mất, còn ngôi nhà họ ở thì bị hỏa thiêu. Khi cả hai đến tuổi 30 thì Tô phu nhân sinh hạ được hai người con trai, nhưng đều bị bệnh từ khi mới sinh ra. Do vậy đôi vợ chồng đã phải mang con đi khắp nơi tìm thầy thuốc chữa trị. Năm năm sau, hai đứa con vẫn bị chết mà không thuốc nào chữa trị được. Hàng xóm có người cười Tô viên ngoại: “Ông đã tu Phật hành thiện nhiều năm như vậy mà vẫn không thấy ông đắc được điều gì tốt, trái lại còn vật lộn với miếng cơm manh áo? Việc gì phải khổ như vậy?” Tô viên ngoại cười nói: “Cả nhà tại hạ là người học Phật, chẳng mong gì cuộc sống an nhàn thoải mái nơi thế gian. Vạn sự đều có nhân quả cả.” Mặc dù nói như vậy nhưng trong thâm tâm ông vẫn cảm thấy có điều bất bình khó lý giải…

Một thời gian sau, có một đạo sĩ điên tìm đến nhà Tô viên ngoại với cây sáo ngắn giắt nơi thắt lưng. Vị đạo sĩ điên khăng khăng đòi ở lại nhà của họ. Tô viên ngoại nói: “Cả nhà tại hạ đều là người tu Phật, nếu ông ở lại e rằng sẽ can nhiễu đến sự tu luyện của nhau.” “Chẳng phải nhà ông có ba gian phòng hay sao? Ta chỉ ở một phòng thôi. Chẳng lẽ những người học Phật lại để một người tu Đạo chết đói ở ngoài đường phố hay sao? Các người là người học Phật loại gì vậy? Hôm nay bất kể các người có nói gì, ta sẽ vẫn phải ở lại đây.” Thế rồi vị đạo sĩ điên bước thẳng vào trong nhà. Tô viên ngoại chẳng còn cách nào khác ngoài việc để cho ông ta ở lại trong nhà mình. Vị đạo sĩ đã ở nhà Tô viên ngoại tới nửa năm. Điều tốt là vị đạo sĩ điên này không đòi hỏi gì từ gia đình ngoài đồ ăn, và ông ta cũng không can nhiễu đến việc tu luyện của họ. Đạo sĩ điên ngồi đả tọa tu luyện mỗi ngày trong phòng của ông và đôi lúc mang sáo ra thổi. Âm thanh của tiếng sáo là chưa từng được nghe nơi thế gian con người:

Thanh âm phiêu miểu xuất ngô tâm,
Phàm trần ác thế hiển chân kim.
Thống khổ ân oán cửu tiêu phao,
Tự tại tiêu dao khán cổ kim!

Diễn nghĩa:

Âm thanh trong trẻo phát xuất từ tâm ta,
Cõi phàm trần ác độc hiện ra vàng thực sự.
Bao ân oán thống khổ biến mất sau chín tầng trời,
Ta ung dung tự tại ngắm nhìn chuyện xưa và nay!

Nửa năm sau, vào một buổi tối nọ, vị đạo sĩ cười nói với vợ chồng Tô viên ngoại: “Hai vị đã thể hiện là những người tu Phật thực sự. Không những hai vị có thể Nhẫn những việc nhỏ, mà còn khoan dung được cả sự can nhiễu trong tu luyện. Tại hạ thực sự bội phục. Hôm nay tại hạ phải ra đi, nhưng muốn lưu lại cây sáo này cho hai vị như vật kỷ niệm. Hãy để lại nó cho hài tử của hai vị trong tương lai.” Vợ chồng Tô viên ngoại chưa kịp nói gì thì đạo sĩ điên đã bay lên không trung rồi biến mất tăm. Điều kỳ lạ là sau khi ra đi, vào những lúc mà đạo sĩ thường thổi sáo, tiếng sáo vẫn được nghe thấy, vừa gần lại vừa xa, lúc thì hùng hồn tráng mĩ, khi thì thâm trầm tế nhị, lúc như trăm chim đua hót, khi thì như trăm sông cùng đổ ra biển, lúc như vạn mã phi nước đại, khi thì như tiếng nước chảy xuống đồi…

Trước đó, Tô phu nhân đã có mang và sinh hạ được một nữ hài tử. Ngay trước khi hài tử được sinh ra, tiếng sáo lại xuất hiện, cho nên Tô viên ngoại đã đặt tên cho con gái mình là “Vân Tĩnh”, có nghĩa là thanh tịnh tựa như đám mây mà vẫn tràn đầy sức sống. Tô viên ngoại cũng nhớ đặt cây sáo ngắn của đạo sĩ điên bên cạnh con gái mình. Khi cô bé được hơn một tuổi thì có một hòa thượng tới nhà Tô viên ngoại. Vừa đến hòa thượng đã nói: “Một đạo huynh đã nói với tôi rằng ông ấy hy vọng tôi sẽ tới dạy tiểu thư cách thổi sáo.” Sau khi nghe điều này, Tô viên ngoại thầm nghĩ: “Thổi sáo thì có tác dụng gì nhỉ?” Rồi một ý nghĩ khác hiện lên trong đầu ông: “Âm thanh tiếng sáo của đạo sĩ điên quả thật phi thường; mỗi khi ta có vấn đề về tâm tính và bị cản trở việc đề cao, tiếng sáo có thể đả khai tâm trí ta và làm ta không thoái chí.” Vì vậy ông cười lớn và nói: “Vì ông là bằng hữu của vị phong đạo sĩ, xin hãy chỉ dạy tiểu nữ của ta cách thổi sáo sao cho thật hay.” Từ đó hòa thượng bắt đầu dạy Tô tiểu thư cách thổi sáo.

Thực ra, việc dạy Tô tiểu thư cách thổi sáo chỉ là cách để cô gái kết duyên với Hoàng đế Đại Tông [4] (triều Đường) trong tương lai, đồng thời lưu lại một giai đoạn văn hóa cho nhân loại. Nó cũng là để hai người (Hoàng đế Đại Tông và Tô Vân Tĩnh) đoàn tụ cùng nhau khi đức Chuyển Luân Thánh Vương truyền Đại Pháp vào thời Mạt Pháp sau này, đồng thời hoàn thành thệ ước ban sơ của họ khi giáng hạ từ thượng giới (Trợ Sư Chính Pháp, cứu độ thế nhân!).

Kỳ thực, thổi sáo không phải là một việc đơn giản, cảnh giới của nó là vô hạn vô biên. Giai điệu tiếng sáo phụ thuộc vào cảnh giới của người thổi, và nó không tách rời sự đề cao trong cảnh giới tu luyện. Tô Vân Tĩnh đã tiến bộ vượt bực cả về tu luyện và thổi sáo. Nhưng khi cô trưởng thành hơn, Tô viên ngoại phát hiện rằng cô có một khiếm khuyết: Cô hay quên mọi thứ và có trí nhớ rất kém. Cô quên ngay nơi để mọi thứ đồ đạc chỉ trong một thời gian ngắn. Tô viên ngoại có đôi chút thất vọng, nhưng cô trở nên ngày càng xinh đẹp hơn. Cuối cùng ông cũng không để ý đến khiếm khuyết về phương diện ấy của cô nữa.

Khi Tô Vân Tĩnh lên 16 tuổi, một hôm vị hòa thượng nói rằng ông phải rời đi. Trước khi ra đi, ông hỏi Tô viên ngoại xem tiểu thư đã thành thục với cây sáo chưa. Tô viên ngoại nói với hòa thượng: “Chúng tôi không muốn giữ nếu ông cứ khăng khăng đòi ra đi. Nhưng hôm nay tôi có một thắc mắc mong ông giải đáp giúp.” Hòa thượng nói: “Xin viên ngoại cứ nói.” Tô viên ngoại bèn hỏi: “Gia đình tôi cớ sao lại có một cuộc sống khó khăn đến vậy, theo lý thì một gia đình tu Phật không nên có nhiều bất hạnh.” Hòa thượng đáp: “Ha ha, cuối cùng thì viên ngoại cũng nêu ra vấn đề này rồi. Nó cho thấy rằng dù viên ngoại đã đạt tiêu chuẩn tâm tính của một người tu Phật, nhưng vẫn chưa minh bạch được đạo lý.” Tô viên ngoại thừa nhận: “Đúng là như vậy.” Hòa thượng hỏi: “Viên ngoại thử nhớ lại xem tổ tiên đã từng phạm phải đại ác sự nào chưa?” “Tổ tiên tôi rất gần gũi với phe thân tín của Võ Tắc Thiên [5].” Hòa thượng nói: “Để tôi nói cho viên ngoại biết sự thật. Viên ngoại chính là tổ tiên của Võ Tắc Thiên trong một tiền kiếp. Phật gia giảng về luân hồi nhân quả, nhất quyết là không có trường hợp ngoại lệ. Hãy tưởng tượng xem viên ngoại đã làm rất nhiều điều ác như vậy, làm sao không thể không bồi thường? Điều tốt là kiếp này viên ngoại tu Phật hành thiện, mọi thứ trong quá khứ đều có thể thiện giải. Tô tiểu thư sẽ nhập Hoàng cung và kết liễu mối ân oán. Trong kiếp này, dù viên ngoại không thể tu xuất Tam Giới nhưng nghiệp nợ đã được hoàn trả và viên ngoại sẽ có nơi tốt lành để tới. Thiện tai! Thiện tai!” Vừa nói xong, hòa thượng đã biến mất trong chớp mắt.

Trở lại, đất nước khi ấy đang trong thời kỳ An Sử chi loạn [6], thành Dương Châu không được hưởng cảnh thái bình. Đạo tặc thường khởi lên tứ xứ và bách tính không được sinh sống trong cảnh yên ổn. Thêm vào đó, năm ấy bị mất mùa và bách tính phải sống trong cảnh vô vàn khó khăn. Tuy nhiên, gia đình họ Tô vẫn chưa bao giờ bị thiếu đói.

Khi Tô Vân Tĩnh lên 18 tuổi, Triều Đình cử người tới Dương Châu tuyển tú nữ. Tô Vân Tĩnh được tuyển chọn, nên cô phải từ biệt phụ mẫu cùng xóm giềng vùng Dương Châu rồi lên đường đến Kinh Thành chuẩn bị nhập cung (Muốn biết diễn biến tiếp theo xin đọc bài: “Câu chuyện có thật về luân hồi: Quý phi túy tửu”).

Hậu ký: Vô luận một sinh mệnh đã làm gì trên thế gian này, sinh mệnh ấy sẽ phải đối mặt với báo ứng, hoặc là thiện báo, hoặc là ác báo. Nguyên lý này là không thể cải biến cho dù người ta có tin nó hay không. Ở đây tôi muốn cảnh báo những ai vẫn còn mê vào tà giáo cộng sản, vì sự tồn tại vĩnh viễn của sinh mệnh mình, hãy mau thoát khỏi sự khống chế của tà linh cộng sản và lựa chọn cho mình một tương lai tươi sáng. Đừng bao giờ quên rằng Thần là từ bi nhưng cũng uy nghiêm vô hạn.

Chú thích:

[1] ‘Tỳ Bà’: (Pipa) Tên một loại đàn dây gảy truyền thống Trung Quốc có bốn dây. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi.

[2] ‘Dương Châu’: Một thành phố nay thuộc tỉnh Giang Tô, nằm bên bờ Bắc sông Dương Tử.

[3] ‘Đường Huyền Tông’: (685-762) (chữ Hán: 唐玄宗) Thụy hiệu Đường Minh Hoàng, tên húy là Lý Long Cơ (李隆基), là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Đường ở Trung Quốc, trị vì Trung Quốc từ năm 712 đến 756.

[4] ‘Đường Đại Tông’: (726-779) (chữ Hán: 唐代宗 , bính âm: Dài zōng), tên lúc sinh là Lý Thục hay Lý Thích (李俶) nhưng ông đã tự đổi tên là Lý Dự (chữ Hán: 李豫, bính âm: Lǐ Yù) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đường trong lịch sử Trung Hoa. Ông là con trai của Đường Túc Tông.

[5] ‘Võ Tắc Thiên’: (625-705) (chữ Hán: 武則天) Tên thật là Võ Chiếu (武曌), là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới danh hiệu Thánh Thần Hoàng Đế ((聖神皇帝) từ 690 đến 705. Bà bị nhiều người cho là tàn ác vì đã giết hại nhiều người và lật đổ ngai vàng của Hoàng đế nhà Đường.

[6] ‘An Sử chi loạn’: Cuộc phản loạn quy mô lớn đời nhà Đường, được cầm đầu bởi An Lộc Sơn (nguyên là một tiết độ sứ của Triều đình) và thuộc hạ là Sử Tư Minh. Cái tên ‘An Sử’ là lấy từ tên họ của hai người này ghép lại mà ra.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/12/38515.html
http://www.pureinsight.org/node/4128

The post Luân hồi ký sự: Tiếng sáo ấy đến từ đâu? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/luan-hoi-ky-su-tieng-sao-ay-den-tu-dau.html/feed0
Luân hồi ký sự: Quý phi túy tửuhttps://chanhkien.org/2009/11/luan-hoi-ky-su-quy-phi-tuy-tuu.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/luan-hoi-ky-su-quy-phi-tuy-tuu.html#respondSun, 01 Nov 2009 22:49:12 +0000https://chanhkien.org/?p=3777Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Dẫn nhập: Dù chúng ta là người tu luyện hay không tu luyện, nhìn chung, chúng ta đều rất hứng thú với những câu chuyện luân hồi và muốn biết xem những tiền kiếp của chúng ta liên hệ thế nào đến kiếp sống hiện tại này. Do vậy, những […]

The post Luân hồi ký sự: Quý phi túy tửu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

Dẫn nhập:

Dù chúng ta là người tu luyện hay không tu luyện, nhìn chung, chúng ta đều rất hứng thú với những câu chuyện luân hồi và muốn biết xem những tiền kiếp của chúng ta liên hệ thế nào đến kiếp sống hiện tại này. Do vậy, những bài viết về đề tài này khá là phổ biến. Tuy nhiên, với chúng ta, những người đang sống trong thời kỳ lịch sử hy hữu này khi toàn thể vũ trụ đang trải qua quá trình Chính Pháp, vô luận chúng ta đã từng ở đâu và đã từng sống như thế nào trong quá khứ, không gì được tính ngoại trừ việc ai đang tu luyện và đồng hóa với Pháp và ai đang không biết được chân tướng về Đại Pháp ngày hôm nay. Nếu một sinh mệnh không thể đạt đến tiêu chuẩn nhất định tại mỗi cảnh giới do Pháp đặt ra, thì mọi thứ sẽ bị xóa bỏ.

Câu chuyện “Quý phi túy tửu (say rượu)” này không phải là nói về Dương Quý Phi (719-756 SCN) nổi tiếng trong lịch sử, người sống trong thời kỳ cực thịnh của triều đại nhà Đường. “Quý phi túy tửu” trong câu chuyện này sống dưới thời trị vì của Hoàng đế Đường Đại Tông [1], người nắm giữ ngai vàng từ năm 762 đến năm 779 SCN.

Câu chuyện:

Vào thời Hoàng đế Đường Đại Tông, đất nước khá thanh bình. Khi phụ vương của Hoàng đế Đường Đại Tông là Đường Túc Tông [2] còn sống, hai kinh thành Trường An và Lạc Dương vốn bị chiếm đóng bởi quân nổi loạn An Lộc Sơn đã được thu hồi lại. Hai đại tướng Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật đã bình định cuộc nổi loạn An Sử [3] và đưa đất nước trở lại cảnh thái bình. Khi Hoàng đế Đường Đại Tông lên ngôi, đất nước đã tương đối ổn định. Vấn đề duy nhất mà ông phải đối mặt là việc lão thần Lý Lâm Phủ, người là đương kim Tể Tướng thời bấy giờ, đã cùng với Trương Thái Hậu âm mưu hãm hại các  trung thần của Hoàng đế. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Hoàng đế Đường Đại Tông đã cử người chặt đầu Lý Lâm Phủ vào ban đêm để trừ hậu họa.

Hoàng đế Đường Đại Tông rất kính Thần và lễ Phật. Ba trong số những thủ hạ quan trọng bậc nhất của ông đều rất tin Phật. Đường Đại Tông đã đại hưng Phật sự ở Trường An và đóng góp rất lớn vào việc hoằng dương Phật Pháp vào thời ấy. Một hôm, Đại Tông nghe nói rằng phần mộ phụ thân của Tướng quân Quách Tử Nghi đã bị làm hư hại, và nhiều người cho rằng điều đó do những viên quan trong Triều có hiềm khích Quách Tướng quân gây ra. Đại Tông vô cùng quan tâm đến sự việc này. Khi Quách Tướng quân nhập Triều, Hoàng đế Đại Tông hỏi ông về sự việc ấy xem ông phản ứng ra sao. Quách Tướng quân không hề đổ lỗi cho ai mà chỉ nói: “Tâu Bệ hạ, đó là do thần đã không thống lĩnh tốt ba quân và không giữ cho quân pháp được nghiêm cẩn. Khi chiến loạn, quân của thần thường lấy cắp của cải từ mộ của người khác. Hiện tại, phần mộ phụ thân của thần cũng bị phá, chẳng phải đây chính là nhân quả báo ứng hay sao?” Sau này, người ta bình luận rằng An Lộc Sơn và Sử Tư Minh đã sát hại rất nhiều bách tính trong cuộc nổi loạn. Cuối cùng, họ đều bị giết chết bởi chính con trai họ, đây cũng là báo ứng. Những câu chuyện này đã được ghi vào sách lịch sử. Sau đây là một vài câu chuyện mà chưa từng được ghi chép lại trong sách lịch sử.

Hoàng đế Đường Đại Tông là người rất mực anh minh, nhưng ông vẫn thiếu tính quyết đoán và mưu lược của Đường Thái Tông [4]. Thật ra, mặc dù ông đã có một Thượng thư Bộ Lễ khá tài ba, ông vẫn gặp khó khăn khi cai trị đất nước trong thời bình.

Hoàng đế Đại Tông rất giỏi chơi đàn, đặc biệt là ngũ huyền cầm [5]. Một lần, khi những cung nữ xinh đẹp nhập cung để được tuyển lựa, ông đã không tới xem mặt họ. Vào lúc ấy, ông đã là một đệ tử Phật giáo. Ông chỉ muốn hỏi những tú nữ xem liệu đất nước có thanh bình hay không và cuộc sống của dân chúng ra sao. Ông cũng muốn nghe các tú nữ chơi nhạc để đoán xem cảnh giới tư tưởng của họ thế nào. Kỳ thực, dẫu một bản nhạc có hoa lệ đến đâu, những người mang cảnh giới tư tưởng khác nhau sẽ tấu ra [những âm hưởng] khác nhau.

Do vậy, Đường Đại Tông truyền chỉ triệu những tú nữ vào trong cung. Ban đầu, họ khiêu vũ và hợp tấu cùng nhau. Sau đó, Đại Tông có ý tưởng rằng: “Tại sao ta không làm một phép thử để xem có ai trong số họ hiểu được lòng ta?” Và ông bắt đầu chơi một bản nhạc bằng cây ngũ huyền cầm. Một lúc sau, ông tiến nhập vào cảnh giới nội tâm và hoàn toàn hòa mình vào dòng âm nhạc:

Thanh âm phiêu miểu tự thiên lai,
Thiên nhân thải đới phong trung bãi,
Hồng chung Pháp giới hiển thần thánh,
Đãng tận phàm trần liên tự khai.
Quốc gia hữu nạn cô ưu tâm,
Sấn thử thời cơ liễu dân tình,
Bách tính an lạc liễu tâm nguyện,
Thục tri ngã tâm đồng cầm tại!

Diễn nghĩa:

Điệu nhạc thanh thoát như đến từ trên Thiên thượng,
Dải lụa thiên nhân phất phơ trong không trung,
Tiếng chuông âm vang hiển vẻ thần thánh trong Pháp giới,
Hoa sen khai nở sau khi rũ sạch bụi trần.
Ta lo lắng ưu sầu vì vận mệnh của đất nước,
Nhân cơ hội này để liễu giải chuyện dân tình,
Khi bách tính được an vui là ta mãn nguyện,
Ai biết được lòng ta trong điệu nhạc này!

Dần dần, Đại Tông nghe thấy một tiếng sáo du dương thanh thoát như thể đến từ trên không trung, giống như bao nhiêu con sông đang chảy ra biển cả và đôi bàn tay làm ấm áp trái tim. Ông lại dụng tâm truyền thêm cảm hứng vào điệu nhạc:

Luân hồi nhân quả thuật vu âm,
Thiện ác quả báo biểu vu cầm,
Phàm phu kính Phật Đế vương xuất,
Bách tính kính Phật lễ tại tâm!

Diễn nghĩa:

Luân hồi nhân quả tựa trôi theo điệu nhạc,
Thiện ác quả báo hiển hiện trong tiếng đàn,
Đế vương kính Phật thay cho kẻ phàm phu [6],
Bách tính kính Phật và giữ lễ trong tâm!

Lúc ấy, tiếng sáo chuyển thành:

Thanh tĩnh vô vi tự tại tu,
Bích hải tình thiên nhâm ngã du,
Thân tại thảo đường thô trà phạn,
Lãnh quan thế thượng đa phiền ưu!

Diễn nghĩa:

Tu luyện vô vi tự tại trong thanh tĩnh,
Biển trời trong xanh là nơi ta đắm mình,
Sống ở nơi tồi tàn và ăn cơm nhạt,
Lặng lẽ quan sát người đời bao ưu phiền!

Và rồi tiếng sáo chuyển thành thống thiết bi ai, giống như cơn mưa phùn trong một ngày trời trong sáng. Đại Tông hiểu rằng điệu nhạc này bày tỏ sự lầm than của bách tính trong thời chiến loạn. Ông cũng cảm thấy phảng phất trong ấy mối lưu tâm tới thiên triều và lòng kính trọng Hoàng đế. Sau khi thưởng thức xong điệu nhạc, Đại Tông nhìn đám tú nữ và hỏi: “Ai trong các ngươi vừa tấu sáo vậy?” Một thiếu nữ bèn bước ra. Cô không phải là người đẹp nhất trong số những tú nữ ấy, nhưng trông cô nhu mì và không bị biến sắc khi đứng trước mặt Hoàng đế. Cô nói: “Hoàng thượng vạn tuế, tiểu nữ  làm kinh động đến Bệ hạ, tội bất xá!” Đại Tông thập phần ưng ý; ông quay sang hỏi tả hữu xem tên tuổi cô gái là gì. Tả hữu nói: “Thử nữ  (cô ấy) là người Dương Châu, họ Tô, tên Vân Tĩnh, năm nay 18 tuổi.” Hoàng đế truyền chỉ thu nạp cô gái làm thiếp và chịu trách nhiệm cho sinh hoạt hàng ngày của ông.

Sau này, Đại Tông mới biết rằng cô không chỉ giỏi chơi sáo mà còn vô cùng xuất chúng về thư pháp và hội họa. Quan trọng hơn, cô thường kể cho Hoàng đế nghe về nỗi lầm than của dân chúng dưới thời “An Sử chi loạn”. Do vậy, Đại Tông đã miễn giảm thuế, đồng thời cho thu thập tiền và lương thực để trợ giúp bách tính.

Không lâu sau, Đại Tông phong cho cô làm Quý Phi. Ông muốn phế Độc Cô Hoàng hậu và để cô lên thế chỗ nhưng cô không đồng ý. Cô khuyên giải Hoàng đế: “Hoàng hậu chưa phạm phải lỗi lầm gì lớn, nếu Bệ hạ phế truất bà, thiên hạ nhất định sẽ đàm tiếu. Huống hồ Bệ hạ là người đang tu Phật, sao có thể làm chuyện bất thiện như vậy được?” Đại Tông nghe xong vô cùng cảm kích, ông nói: “Trong cõi phàm tục này, ta rất vui khi thấy vẫn còn người có thiện tâm. Người thiện tâm tất sẽ được hưởng phúc sau này.”

Không lâu sau, quân Thổ phồn (người Tây Tạng) và Hồi hột (người Uyghur Tân Cương) xâm nhập Trung Nguyên. Đại Tông phải rời Kinh Thành và lẩn trốn. Độc Cô Hoàng hậu vốn rất ganh ghét với Tô Quý Phi. Bà giả truyền chiếu chỉ của Hoàng đế để mời Tô Quý Phi vào uống rượu cùng. Đến khi Tô Quý Phi đã say rượu, bà mới nói thật: “Trước kia cô là người được Hoàng đế sủng ái nhất và ông ấy không hề để mắt gì tới chúng tôi. Bây giờ ông ấy đang lâm nguy, tất cả là lỗi của cô.” Rồi Độc Cô Hoàng hậu đưa cho cô một chén rượu độc và bảo cô uống nó: “Cái chết của cô sẽ là bảo chứng cho sự tồn vong của giang sơn xã tắc Đại Đường.” Mặc dù đang say nhưng đầu óc của Tô Quý Phi vẫn rất tỉnh táo. Cô nói: “Vì Hoàng hậu muốn thiếp chết, thiếp cũng chẳng còn cách nào. Xin hãy đưa thiếp một chiếc bút.” Rồi cô viết những dòng sau đây:

Học Phật yếu chân hành,
Trị quốc yếu đức chính,
Giang sơn vị hoàn bích,
Họa khởi hậu cung trung,
Khuyến quân tế tư lượng.
Vạn sự nhân quả trung,
Vật quái Độc Cô hậu,
Phù trực kình thiên trụ,
Tảo nhật diệt tặc khấu.
Tứ hải thừa bình nhật,
Liễu khước trần duyên hậu,
Bỉ thử trọng kiến thời!

Diễn nghĩa:

Học Phật phải tu hành chân chính,
Trị quốc chính yếu phải trọng đức,
Giang sơn vẫn chưa được khôi phục,
Tai họa khởi đầu tự hậu cung,
Xin quân vương suy xét kỹ càng.
Vạn sự đều nằm trong nhân quả,
Đừng nên đổ lỗi cho Độc Cô Hoàng hậu,
Hãy vun đắp cột trụ thông thẳng lên trời,
Sớm tiêu diệt quân giặc.
Đến khi bốn biển lại thanh bình,
Sau khi đã dứt hết duyên trần,
Là chúng ta lại được gặp nhau!

Sau khi viết xong bài thơ này, cô uống hết chén rượu độc. Trước khi lâm chung, cô thỉnh cầu Độc Cô Hoàng hậu hai điều: (1) Xin hãy đưa bức thư này cho Hoàng thượng (2) Hãy vứt xác thiếp xuống một cái giếng cạn. Thiếp đã nợ Hoàng hậu trong một tiền kiếp, bây giờ hai chúng ta không ai nợ ai.

Tức thì Độc Cô Hoàng hậu trông thấy phảng phất mối nhân duyên trong đời trước:

Đó là vào thời nhà Tùy. Đương thời, Tùy Dương Đế vô đạo và quần hùng nổi lên khắp nơi. Ở thành Tô Châu, có một gia đình giàu có họ Lâm sinh được hai chị em sinh đôi. Khi đến tuổi gả chồng cho hai cô, nhiều mai mối đến bàn chuyện hôn sự với gia đình. Nhưng phụ thân hai cô, Lâm viên ngoại không hề ưng ý với chàng rể nào. Sau đó có một bà mối đến giới thiệu với gia đình hai anh em sinh đôi nhà nọ: “mười phần tài hoa, võ nghệ siêu quần, đúng là văn võ song toàn”. Lâm viên ngoại nghe chuyện thì thập phần cao hứng, muốn gả hai tiểu thư cho gia đình ấy. Ông muốn hai chị em được gả vào cùng một gia đình để họ có thể coi sóc cho nhau. Nhưng đến khi thành hôn xong xuôi cả rồi thì nhà họ Lâm mới phát hiện ra rằng “hai chàng rể” không phải là anh em sinh đôi nào cả. Chỉ có một nam tử, nhưng quả thật văn võ toàn tài. Lâm viên ngoại hối hận vô cùng nhưng vì sự tình đã rồi nên cũng không thể làm gì được nữa. Ông chỉ biết mong rằng hai người con gái sẽ không ganh ghét lẫn nhau vì họ có chung một vị tướng công. Một tháng sau lễ cưới, hai cô gái bắt đầu đánh nhau để tranh giành chồng. Hai năm sau, người em gái giả vờ muốn hàn gắn quan hệ với người chị. Rồi nhân lúc người chị không đề phòng, cô đã cho chị gái mình uống một chén rượu độc. Sau đó cô vứt xác chị gái mình xuống một cái giếng cạn.

Sau khi thấy được cảnh tượng, Độc Cô Hoàng hậu than: “Than ôi, ai có thể thoát khỏi vòng luân hồi nhân quả!”

Sau khi Hoàng đế Đại Tông trở về Kinh Thành, ông mới biết được điều gì đã xảy ra và đọc bài thơ do Tô Quý Phi để lại. Ông vô cùng buồn bã. Tuy nhiên, ông là người học Phật nên đã minh bạch được đạo lý luân hồi nhân quả. Ông gắng sức an bang trị quốc và hàn gắn đất nước sau hàng thập kỷ chiến tranh và thảm họa. Dù vẫn còn chiến loạn và tai họa dưới thời của ông, Đại Tông vẫn được coi là một trong những Hoàng đế toàn tài nhất đời nhà Đường.

Hậu ký:

Bài viết này nói về mối quan hệ nhân quả giữa hai người là tri kỷ và có cảnh giới tương thông với nhau. Hoàng đế Đại Tông chính là tôi trong một tiền kiếp. Tô Quý Phi trong kiếp ấy chính là bạn gái hiện tại của tôi. Độc Cô Hoàng hậu hiện là một đồng tu [Pháp Luân Công] trong vùng chúng tôi. Cô ấy là một người tu luyện Đại Pháp rất tinh tấn. Tôi sẽ không nói quá nhiều về cô ấy. Xin hãy chờ đọc bài viết tiếp theo của tôi “Câu chuyện có thật về luân hồi: Tiếng sáo ấy đến từ đâu?”. Nó giải thích nguyên nhân tại sao tiếng sáo của Tô Vân Tĩnh lại có thanh âm trong trẻo và huyền diệu đến vậy. Mối nhân duyên nào đã dẫn cô đạt tới cảnh giới âm nhạc siêu việt như vậy?

Chú thích:

[1] “Đường Đại Tông” (726-779) (chữ Hán: 唐代宗 , bính âm: Dài zōng), tên lúc sinh là Lý Thục hay Lý Thích (李俶) nhưng ông đã tự đổi tên là Lý Dự (chữ Hán: 李豫, bính âm: Lǐ Yù) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đường trong lịch sử Trung Hoa. Ông là con trai của Đường Túc Tông.

[2] “Đường Túc Tông” (唐肅宗), tên lúc sinh là Lý Hanh (李亨) là Hoàng đế thứ 7 của nhà Đường, là con trai Đường Huyền Tông. Đường Túc Tông lên ngôi khi vua cha thoái vị lúc chạy trốn đến Tứ Xuyên trong loạn An Sử năm 756; Lý Hanh chạy theo hướng ngược tại, đến Linh Châu (ngày nay gọi là Linh Vũ ở Ninh Hạ). Ông trị vì trong giai đoạn năm 756-762.

[3] “An Sử Chi Loạn”: cuộc phản loạn quy mô lớn đời nhà Đường, được cầm đầu bởi An Lộc Sơn (nguyên là một tiết độ sứ của Triều đình) và thuộc hạ là Sử Tư Minh. Cái tên ‘An Sử’ là lấy từ tên họ của hai người này ghép lại mà ra.

[4] “Đường Thái Tông” (599 –649) (唐太宗), tên thật là Lý Thế Dân (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 626 đến 649. Ông là một vị vua tài ba, người đã thiết lập sự cường thịnh của Đại Đường.

[5] “Ngũ huyền cầm” (cổ cầm): Một loại đàn tranh cổ của Trung Quốc. Tiếng đàn khi khoang khi vồn, nghe rất du dương. Xưa kia, đức Khổng Tử chỉ nghe tiếng đàn cổ cầm mà đã mất ăn mất ngủ ba tháng. Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời Nghiêu Thuấn, và chỉ có 5 dây, nên được gọi là “ngũ huyền cầm”.

[6] “Kẻ phàm phu”: Ở đây là chỉ dân chúng nói chung, bách tính trong thiên hạ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/9/38475.html
http://www.pureinsight.org/node/4113

The post Luân hồi ký sự: Quý phi túy tửu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/luan-hoi-ky-su-quy-phi-tuy-tuu.html/feed0
Luân hồi ký sự: Tìm Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổhttps://chanhkien.org/2009/10/luan-hoi-ky-su-tim-phat-phap-tren-cao-nguyen-mong-co.htmlhttps://chanhkien.org/2009/10/luan-hoi-ky-su-tim-phat-phap-tren-cao-nguyen-mong-co.html#respondFri, 16 Oct 2009 20:43:23 +0000https://chanhkien.org/?p=3197Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời dẫn: Không như viết tiểu thuyết, khi viết một câu chuyện có thật người ta không thể tạo thêm bất kỳ chi tiết hư cấu nào. Nó phải là một câu chuyện hoàn toàn chân thật. Người ta không thể vì bất kỳ lý do nào mà thêm vào […]

The post Luân hồi ký sự: Tìm Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời dẫn: Không như viết tiểu thuyết, khi viết một câu chuyện có thật người ta không thể tạo thêm bất kỳ chi tiết hư cấu nào. Nó phải là một câu chuyện hoàn toàn chân thật. Người ta không thể vì bất kỳ lý do nào mà thêm vào đó chi tiết không thật. Khi viết mỗi bài thuộc thể loại này, tôi xem xét cẩn thận từng câu và từng chi tiết. Tôi phải chịu trách nhiệm với bản thân, với trang web của học viên Pháp Luân Công cũng như con người thế giới. Lẽ dĩ nhiên, tôi cũng phải có trách nhiệm với Pháp và xã hội.

Đây là một câu chuyện có thật bắt đầu ở Tô Châu, một thành phố nổi tiếng ở phía Nam Trung Quốc, nó diễn ra vào khoảng thời hậu Minh. Do triều đình vô cùng hủ bại, dân chúng Trung Quốc thời đó đã lâm vào cảnh đói nghèo. Tình hình còn tồi tệ hơn, khi thái giám trong triều, dẫn đầu là một thái giam có tên là Ngụy Trung Hiền thâu tóm quyền lực trong triều chính khiến đời sống bá tánh càng thêm lầm than. Thời gian đó, một đảng có tên là Đảng Đông Lâm đã chống đối lại Ngụy Trung Hiền và ban thái giám đông và tây cơ mật của ông ta. Ban cơ mật của họ Ngụy bắt đầu bắt giữ thành viên đảng Đông Lâm ở Tô Châu, khiến cho người dân toàn thành nổi giận và khiến máu chảy khắp thành Tô Châu. Câu chuyện luân hồi có thật của tôi trong kiếp đó bắt đầu ở đó.

Ở phủ Thường Châu không xa thành Tô Châu có một góa phụ họ Trương. Chồng chết sớm để lại bà và một nam tử lên 10 tuổi tên là Lạc Thiên. Bà gần như không còn gì để sinh nhai vì người em chồng đã hoang phí tất cả số tiền chồng bà dành dụm. Cả gia sản còn lại của bà là một túp lều tranh và một con lừa què. May thay, bà Trương là người giỏi thêu thùa nên có thể kiếm sống nhờ nghề thêu ở một xưởng thêu tại phủ Thường Châu. Một hôm, có một thương gia sở hữu một xưởng thêu nổi tiếng ở Tô Châu đến Thường Châu. Nhận thấy bà là người có tài nghệ, ông bèn mời bà đến xưởng mình làm việc. Ái ngại trước hoàn cảnh người góa phụ, nên ông giúp bà và cậu con trai Lạc Thiên chuyển đến Tô Châu. Vào thời hậu Minh, Tô Châu đã trở nên nổi tiếng khắp Trung Thổ về nghề thêu. Nó đã tiến cống cho triều đình một lượng lớn hàng thêu cùng với một lượng lớn thuế lượng. Vào thời ấy, Trung Thổ không thịnh vượng cho lắm, nông nghiệp là nguồn thu nhập chủ yếu để duy trì triều đại nhà Minh.

Những thành trấn thịnh vượng chủ yếu dựa vào nghề thủ công như Tô Châu rất hiếm hoi. Do thái giám thâu tóm quyền lực, đặc vụ của đảng Yêm lê la khắp Trung Quốc, đặc biệt ở dọc hai bên bờ sông Trường Giang. Những đặc vụ này tống tiền của những xưởng thủ công lớn ở Tô Châu. Nếu ai đó buông lời phàn nàn, người đó sẽ bị tố cáo với đặc vụ để rồi phải chịu án tù hay bị thiệt mạng. Ông chủ xưởng thủ công nổi tiếng đã giúp đỡ mẹ con cậu bé cũng trở thành nạn nhân của bọn đặc vụ. Một hôm, đặc vụ nhất định đòi cướp lấy chiếc bình trà tím rất quý giá đã được thừa kế qua nhiều thế hệ. Mới chỉ vừa có vài lời đôi co với đặc vụ mà ông đã bị tống vào nhà lao. Sau đó đặc vụ thậm chí còn gia tăng việc tống tiền các xưởng thủ công ở Tô Châu. Cuối cùng dân chúng toàn thành Tô Châu trở nên rất tức giận với bọn đặc vụ. Dân chúng nổi giận đã bắt tất cả bọn đặc vụ trong thành lại, rồi treo chúng lên ở phía nam thành và đánh chúng một trận nên thân. Triều đình gửi quân lính tới trấn áp đám người nổi loạn, máu chảy khắp nơi.

Sau khi ông chủ xưởng thêu bị tống giam, mẹ Lạc Thiên tự nhiên mất chỗ kiếm cơm. Bà mang Lạc Thiên rời Tô Châu và bắt đầu phiêu bạt tứ xứ. Cuối cùng họ định cư lại một nơi mà ngày nay chính là Hoài Bắc và Từ Châu. Ở đó cậu bé Lạc Thiên gặp một người họ Lý là người có học thức phi thường. Được Lý tiên sinh chỉ dạy, cậu bé Lạc Thiên đã đọc rất nhiều sách và đỗ tú tài. Tuy nhiên, sự hủ bại của triều đình đã lan cả đến hệ thống thi cử. Mặc dù chăm học, Lạc Thiên vẫn không đỗ được cử nhân bởi vì cậu không cố đút lót giám khảo và không chịu đi cửa sau.

Khi Lạc Thiên tròn 20 tuổi, cậu tham dự khoa cử lần cuối cùng. Một thí sinh nói với cậu “Tôi nghe nói rằng có một cao nhân Phật giáo tinh thông Phật Pháp sống ở vùng phía bắc Trương Gia Khẩu của Nội Mông. Nhân thế vô thường. Sinh, lão, bệnh tử là lẽ thường tình. Ngày nay, chuẩn mực đạo đức xã hội đã suy đồi. Do vậy, đối với tôi bây giờ cuộc sống thật thập phần khó khăn. Sao huynh không gắng đi tìm vị cao nhân và tìm đạo giúp thoát khỏi vòng luân hồi? Sao huynh lại phải lao tâm tham dự khoa cử để truy cầu danh lợi làm chi?”

Sau khi trở về nhà, Lạc Thiên mơ thấy mình đang đi tìm Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ. Giống như Đường Tam Tạng (vị cao tăng của nhà Đường trên hành trình sang Tây Thiên), cậu đã phải chịu muôn vàn đau khổ và cuối cùng cũng thoát khỏi Tam Giới. Sau khi tỉnh mộng, Lạc Thiên kể với mẹ và Lý tiên sinh về giấc mộng. Họ đều bảo cậu “Giấc mộng này quả là điềm rất lành. Nếu con thực sự có tiền duyên với vị cao tăng Phật giáo đại đức đó, thì nhất định sẽ gặp. Nhưng chúng ta cách Mông Cổ những hơn 10 nghìn dặm. Hơn nữa, ta nghe nói rằng con người ở đó rất man rợ và tàn bạo. Ở đó không có gì ngoài khác ngoài một thảo nguyên mênh mông nơi sói, hổ, và sư tử gầm rú. Con đi một mình có an toàn không?” Lạc Thiên trả lời “Trời sẽ giúp người đại căn khí. Với cả, hài nhi tới Mông Cổ để cầu Phật Pháp. Khi Đường Tam Tạng ở triều đại nhà Đường sang Tây Trúc thỉnh kinh, ngài cũng phải chịu biết bao khổ nạn nhưng cuối cùng vẫn lấy được kinh và quay trở về Trung Hoa an toàn. Mạnh Tử đã từng nói “Khi thiên thượng giao sứ mệnh trọng đại cho người nào, tất sẽ khiến người đó phải mệt cái gân cốt, khổ cái tâm chí”. Mẫu thân cậu cắt ngang lời cậu và nói “Con hãy giữ cái đạo l‎ý đó cho riêng mình đi. Lời đó ta nghe không hiểu. Hãy nhanh chóng lên đường đi thôi” Lạc Thiên bèn nói với mẫu thân “Mẫu thân, sao người không đi cùng hài nhi? Nếu không, người sẽ luôn lo lắng cho hài nhi”. “Được” Vậy là hai mẹ con từ biệt Lý tiên sinh rồi lên đường.

Họ vượt sông Trường Giang rồi đi qua An Dương, Hình Đài và cuối cùng đặt chân tới Trương Gia Khẩu. Dọc đường, họ đã phải chịu đói, chịu lạnh và vô vàn khổ nạn. Buồn thay, mẫu thân của Lạc Thiên mắc chứng phong hàn ở Trương Gia Khẩu rồi qua đời. Trước lúc lâm chung, bà nhắn nhủ Lạc Thiên phải tìm được Phật Pháp và tinh tấn tu luyện. Lạc Thiên khóc thống thiết.

Sau khi mẫu thân tạ thế, Lạc Thiên đã ngộ ra rằng thế nhân vốn vô thường. Thời gian như nước chảy mây trôi nơi cõi người. Cậu nghĩ về ba người quan trọng nhất trong cuộc đời cậu: vị ân nhân đáng kính người sở hữu xưởng thủ công, Lý tiên sinh người đã dạy dỗ cậu và người mẹ đã một mình nuôi dạy cậu. Bọn họ đều đã phải chịu những dạng khổ nạn khác nhau. Những tên vô lại đã tống giam vị ân nhân và cậu phải chia tay với Lý tiên sinh. Giờ đây, mẹ cậu lại qua đời. Chỉ khi cậu tìm được Phật Pháp, cậu mới có cơ hội siêu thoát khỏi Tam Giới. Lạc Thiên lại càng thêm quyết tâm tu theo Phật Pháp nếu cậu có thể tìm được.

Sau khi làm tang lễ đơn sơ cho mẹ, Lạc Thiên gói ghém hành lý rồi rời Trương Gia Khẩu và tiến đến vùng thảo nguyên Mông Cổ mênh mông.

Lạc Thiên là một người gầy gò ẻo lả. Cậu không thông thuộc đường ở Mông Cổ nên cậu phải hỏi tất cả những người cậu gặp về nơi ở của vị cao tăng Phật giáo đại đức. Càng ngày cậu càng hoang mang vì không ai từng nghe nói đến người như vậy. Thỉnh thoảng cậu phải lang thang cả vài tháng trời trên một thảo nguyên mênh mông rồi mới có thể vượt qua đó. Đôi lúc cậu gặp dã thú như sói nhưng vì lý do kỳ lạ nào đó, mà chúng không hề hại cậu. Khi cơn đói lên đến cực điểm, cậu lại tình cờ tìm được những chiếc bánh hấp ở trên mặt đất. Khi cơn khát tới, lại xuất hiện một con suối trước mặt. Khi trời mưa hay tuyết, một mái lều tranh hay vài ngôi nhà lại chợt xuất hiện. Những người sống trong những túp lều và những ngôi nhà này luôn luôn nhiệt tình và hiếu khách. Họ không chút nào man rợ như người ta vẫn thường đồn đại. Sau khi đãi Lạc Thiên thức ăn và nước uống, và cho cậu một chỗ để trú mưa hay tuyết, họ lại đột ngột biến mất. Lúc đầu, Lạc Thiên còn sững sờ trước những sự việc kỳ lạ này nhưng rồi sau đó cậu hiểu ra rằng Thần Phật đang khích lệ cậu đi tìm Phật Pháp. Lạc Thiên càng quyết tâm tu Phật hơn.

Hai rồi ba năm trôi qua. Lạc Thiên giờ đây đã 26, 27 tuổi. Cậu đã trở thành một lữ hành dày dạn kinh nghiệm trên thảo nguyên rộng lớn. Cậu cũng đã trở nên khỏe mạnh, kiện tráng chứ không còn là một cậu bé gầy gò, ốm yếu nữa. Nhưng có một điều vẫn không thay đổi. Lạc Thiên vẫn có hứng thú làm thơ. Những trải nghiệm cuộc sống trong vài năm qua gợi cho cậu rất nhiều cảm hứng và khiến thơ cậu mang nội hàm ngày một ‎ sâu sắc. Cậu không định chia sẻ thơ của mình với người khác. Cậu thường làm thơ và quay mặt vào núi non hùng vĩ hay thảo nguyên bao la mà ngâm như một thú tiêu sầu.

Một hôm khi đang một mình lang thang trên thảo nguyên như thường lệ, cậu bắt gặp vài đám mây ngũ sắc sà xuống đỉnh núi liền bên. Cảnh đó ngay lập tức khiến cậu cao hứng xuất ra bài thơ:

Mây vờn bay, núi cao sừng sững,
Ta là ai, bể khổ mênh mang
Muốn tu Chân, tầm Sư tìm Đạo
Chẳng đắc Pháp, thật quá bi ai”

Sau khi làm xong bài thơ, Lạc Thiên cảm giác như có ai đó đang ở đằng sau cậu. Cậu quay đầu lại và thấy một hồng y cô nương. Cô đang cố giấu mình không cho cậu thấy. Quá tò mò, cậu hỏi: “Tiểu cô nương, tại sao cô lại đi theo tại hạ vậy?” Cô nương trả lời: “Thực ra tôi đã đi theo anh nhiều ngày rồi. Tôi là con gái của một trưởng bộ lạc. Anh trai tôi cũng là trưởng bộ lạc. Vài ngày trước đây, khi ra ngoài đi dạo, tôi đã trông thấy anh. Tôi rất tò mò về anh bởi vì trông anh giống như một người Hán. Sao anh lại tới chốn thảo nguyên Mông Cổ hoang vắng này?” “Tiểu cô nương, để tôi kể cho tôi về bản thân mình…”

Rồi Lạc Thiên kể cho cô nghe về cậu đặc biệt là phần cậu đã tới đây để tìm Phật Pháp. Vị cô nương liền nói với cậu, “Xin đừng gọi tôi là tiểu cô nương nữa. Anh chưa đủ tuổi làm anh tôi đâu.” Vị cô nương có vẻ hơi bị xúc phạm. Lạc Thiên nói “Có vẻ như mình đã gặp một cô nương rắc rối đây. Mình phải tìm cách thoát khỏi cô ta mới được.” Lạc Thiên nói với cô gái “Vì cô không muốn bị gọi là tiểu cô nương, tôi sẽ gọi cô là tiểu muội. Tiểu muội, sao muội không về nhà ngay đi? Nếu không, phụ thân muội lại lo lắng cho muội đấy”. Vị tiểu cô nương bèn thẳng thắn nói với cậu: “Tôi cần phải sớm về với phụ thân tôi nhưng tôi cũng rất muốn tìm được vị cao tăng Phật gia đại đức vì tôi cũng muốn tu Phật. Anh có biết là rất nhiều người Mông Cổ tin vào Phật Pháp không? Chúng tôi tin rằng có luân hồi. Anh không phải là người duy nhất sợ luân hồi đâu. Tôi cũng sợ. Tôi cũng muốn tu Phật để thoát khỏi Tam Giới. Tại sao tôi không quay về gặp cha tôi rồi nói với ông ấy rằng tôi sẽ cùng đi tìm Phật Pháp với anh nhỉ? Rồi chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm Phật Pháp. Anh nghĩ sao? Chúng ta sẽ lo cho nhau” Cuối cùng Lạc Thiên cũng đồng ý với kế hoạch của cô. Nói cho cùng đi tìm Phật Pháp một mình rất khó khăn và cả cô đơn nữa. Cậu bèn nói với cô gái “Muội phải nhanh lên. Ta sẽ đợi muội ở đây. Sau 10 ngày nữa, muội hãy quay lại đây”. “Ta hứa là ta sẽ trở lại”. Hồng y cô nương vận bèn rời đi.

Khoảng 8 ngày sau, hồng y nữ đã quay lại thổn thức. Lạc Thiên hỏi cô điều gì đã xảy ra và cô kể lại cho cậu mọi chuyện. Khi cô về gặp lại phụ thân, ông đã cho cô biết tin dữ. Bộ tộc của anh trai cô đã bị san bằng trong một trận giao chiến với một bộ tộc khác. Anh cô đã bị giết và thân thể bị xé tan thành từng mảnh. Trước khi kẻ thù đốt xác anh, một người đàn ông tốt bụng đã cất đi một phần xương cẳng chân của anh ấy. Ông đã liều mạng mà mang miếng xương về cho phụ thân cô. Ông cũng nói với phụ thân cô rằng bộ tộc đã giết con trai ông đang chuẩn bị tấn công bộ tộc của ông và khuyên họ nên đi trốn. Sau khi hồng y nữ kể với phụ thân về Lạc Thiên, phụ thân đã nghiêm nghị nói với cô rằng: “Nha đầu, có lẽ gia tộc chúng ta được phúc phận rồi. Toàn gia chúng ta sẽ được phúc phận nếu con tìm được Phật Pháp, nhất là khi cả gia tộc chúng ta đang gặp nạn sinh tử này. Nhân thế khó lường. Nha đầu, từ nay trở đi, con phải học cách tự chăm lo cho bản thân đi thôi. Bên ngoài không như ở nhà đâu. Con không thể mãi ngoan cố như vậy đâu!” Tiểu cô nương liền đáp lại: “Phụ thân, người thật xem nhẹ con. Nếu giờ con ra đi, không biết lúc nào chúng ta mới có ngày tái ngộ nhất là khi những tên vô lại kia đang săn đuổi người. Con rất lo lắng cho người”. “Nha đầu, có phải ta thường nói với con rằng ‘Phật sẽ bảo hộ người đại đức sao’ Đừng lo lắng gì cả. Hãy lo cho bản thân mình thôi!”. Người cha gạt nước mắt rồi an ủi cô. Sau đó, vị cô nương quay lại chỗ Lạc Thiên.

Sau khi nghe hết câu chuyện thê thảm, Lạc Thiên thở dài rồi ngâm câu thơ:

Huyết lệ gươm đao bao giờ dứt
Nhân thế oán cừu, lỗi từ đâu
Danh lợi vô thường nay bỏ hết
Chỉ đường chính Pháp, sạch khổ đau
!”

Từ đó trở đi, cả hai rong ruổi khắp nơi trên vùng cao nguyên Mông Cổ. Họ đồng cam cộng khổ trong suốt hành trình. Họ nâng đỡ và khích lệ nhau. Họ đã vượt qua vô số khổ nạn. Mỗi lần tới một thị trấn lớn hơn, họ lại cố gắng hỏi thăm tin tức về phụ thân của cô. Lúc đầu, người ta nói với họ rằng bộ lạc của phụ thân cô đã bị tiêu diệt và không tìm thấy phụ thân cô đâu. Khoảng một năm sau, cô có mang. Nhưng họ vẫn không tài nào tìm được vị cao tăng Phật giáo đại đức mà Lạc Thiên đã cố công tìm kiếm trong suốt những năm qua. Một hôm, họ tới một thị trấn lớn và hỏi thăm tin tức về phụ thân. Hóa ra phụ thân cô vẫn còn mạnh khỏe. Bộ lạc đã tiêu diệt bộ lạc của phụ thân và anh trai cô có mâu thuẫn nội bộ gay gắt và rồi họ tự đánh giết lẫn nhau. Cuối cùng, một bộ lạc nữa tới và tiêu diệt bộ lạc đó. Vì phụ thân cô là một người đáng kính và có đức, ông được bầu làm người đứng đầu của tập hợp tất cả các bộ lạc. Phụ thân cô cũng đang đi tìm hai người. Họ lập tức nhờ người nhắn tin cho phụ thân cô để ông khỏi lo lắng.

Vài ngày sau, phụ thân của ông mang xe ngựa tới đón họ. Khi thấy người con gái yêu mà ông đã không được gặp trong nhiều năm và người con rể ông chưa từng biết mặt, ông vỡ òa trong cảm giác buồn vui lẫn lộn. Ông nói với họ trong nước mắt: “Các con, những khổ nạn đã qua rồi. Mọi thảm họa đã qua qua rồi. Giờ chúng ta đã có thể sống yên ổn rồi.” Cả ba người cảm thấy như thế cuối cùng họ đã có thể tự do tung hoành trên vùng thảo nguyên mênh mông. Khi họ đang trò chuyện, trên mặt đất hiện ra dòng chữ lớn bằng tiếng Trung:

Lưu đắc trung trung tồn”. Điều đó có nghĩa là họ sẽ đắc Chính Pháp ở Trung Thổ.

Tôi viết bài này năm 2002 nhưng không đăng vì những nguyên do khác nhau. Tôi đã viết một bản súc tích năm ngoái khi trang Minh Huệ kêu gọi viết bài cho “Pháp hội tâm đắc thể hội trên mạng internet của Trung hoa lục địa lần thứ nhất”. Giờ đây, tôi quyết định viết ra toàn bộ câu chuyện với các đồng tu và những người có tiền duyên với Pháp Luân Công.

Chia sẻ bài viết này, tôi muốn phản ánh những khổ nạn và khó khăn vô biên mà chúng ta đã phải trải qua trong nhiều kiếp trước để kiếm tìm Pháp. Chúng ta không thể tìm thấy Phật Pháp trong một đời! nhưng vì chúng ta có thể từ bỏ được chấp trước vào bản thân, vào danh, lợi, tình, chúng ta mới có được cơ hội qu‎ý báu đích thân nghe vị Phật chủ từ bi vĩ đại giảng Pháp trong đời này. Không có mối tiền duyên nào thiêng liêng hơn thế! Khi chúng ta không tinh tấn tu luyện, sao chúng ta không nghĩ rằng: để đắc được Chính Pháp, chúng ta đã mạo hiểm cả cuộc đời đi tìm kiếm trong suốt những kiếp trước của mình. Chúng ta phải tu luyện tinh tấn và đưa chúng sinh trở về nhà bởi vì đó là đại nguyện của chúng ta.

Để các đồng tu không phát triển chấp trước, tôi sẽ ngừng không chỉ ra đồng tu nào chung quanh tôi là hiện thân của những nhân vật trong những câu chuyện thật về tiền kiếp của tôi. Những duyên nghiệp trong tiền kiếp của chúng ta không còn quan trọng nữa. Tôi chỉ có ý định khích lệ mọi người hãy trân quý tiền duyên đối với Pháp. Đối với duyên nghiệp của chúng ta trong đời trước, giờ đây chúng không còn quan trọng nữa. Đối với chúng ta điều quan trọng hơn là hãy trân quý quan hệ của chúng ta trong ngày hôm nay và trở thành “đệ tử Đại Pháp” đích thực. Đó là điều mà chúng ta không bao giờ nên quên.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/3349
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/9/5/33736.html

The post Luân hồi ký sự: Tìm Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/10/luan-hoi-ky-su-tim-phat-phap-tren-cao-nguyen-mong-co.html/feed0
Luân hồi ký sự: Thiên nhai hành giảhttps://chanhkien.org/2009/09/luan-hoi-ky-su-thien-nhai-hanh-gia.htmlhttps://chanhkien.org/2009/09/luan-hoi-ky-su-thien-nhai-hanh-gia.html#respondThu, 24 Sep 2009 22:30:48 +0000https://chanhkien.org/?p=2895Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vui sướng khi hòa mình với non nước thiên nhiên. Sở thích này dường như đã hình thành từ khi tôi sinh ra. Dù bận rộn đến đâu, tôi vẫn luôn có một cảm giác thanh tĩnh trong nội […]

The post Luân hồi ký sự: Thiên nhai hành giả first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời mở đầu: Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vui sướng khi hòa mình với non nước thiên nhiên. Sở thích này dường như đã hình thành từ khi tôi sinh ra. Dù bận rộn đến đâu, tôi vẫn luôn có một cảm giác thanh tĩnh trong nội tâm. Tâm thái này càng trở nên rõ ràng hơn sau khi tôi bắt đầu tu luyện. Dường như trái đất này là non nước của đại lục Trung Quốc, đi tới đâu tôi cũng có cảm giác thân quen! Khi đọc các tài liệu về phong cảnh, núi non, tôi có thể cảm nhận chúng và cả tâm hồn của chúng ngay trong tâm tôi, như thể tôi cảm nhận chính da thịt của mình vậy. Chỉ gần đây, tôi mới hiểu được lý do vì sao tôi cảm thấy như vậy. Không phải vì tôi đã tu luyện nhiều lần trong các kiếp trước, hay tôi đã có hoàn cảnh trên quả Địa cầu khi còn ở trên thiên thượng. Đó là bởi vì bằng chính đôi chân của mình,tôi đã từng chạm vào những tinh thần cổ xưa này.

Hãy cùng theo tôi đến núi Trường Bạch ở vùng Đông Bắc Trung Quốc vào cuối thời nhà Nguyên (1271–1368 sau công nguyên). Tại đó, gần hồ Thiên Trì có 1 gia đình nhà họ Lục! Nhà họ có 1 đôi vợ chồng và 1 ông lão bị liệt! Ông lão không phải là cha của đôi vợ chồng. Trên đường trở về nhà sau 1 chuyến đi dài, ông Lục gặp ông lão bên đường. Ông Lục cảm thấy ông lão này thật đáng thương và đã cõng ông lão về nhà.Vừa đi ông Lục vừa nghĩ: “Liệu phu nhân của ta có vui không khi ta đưa về nhà một người lạ? Nhưng ta không thể thấy chết mà không cứu vì mạng người là trân quý nhất. Phụ thân của ta luôn nói làm điều tốt không cầu báo đáp và khi ấy cuộc đời của ta mới có một kết cục tốt đẹp.” Khi họ về đến nhà, Lục phu nhân đang giặt giũ quần áo trong sân. Bà ngay lập tức bước tới giúp khi trông thấy chồng và ông lão. Rồi bà đi nấu cơm.

Đến đêm, ông Lục kể lại sự tình cho vợ nghe. Lục phu nhân cười và nói: “Tướng công, xin đừng lo lắng. Trước khi thiếp xuất giá, mẫu thân thiếp đã nói rằng phải luôn lấy thiện đãi người. Bà nói rằng hãy đối xử tốt với người khác như đối xử với chính bản thân mình và rồi con cháu sẽ được phúc đức.” Từ đó ông lão sống cùng đôi vợ chồng này. Hai người họ đối xử với ông lão như thể cha ruột của mình. Nhưng không những ông lão không tỏ ra biết ơn mà lại thường gây khó khăn cho đôi vợ chồng nhà ông Lục. Dẫu vậy, họ vẫn không hề phàn nàn điều gì!

Thời gian cứ thế trôi qua. Hai hay ba năm sau, Lục phu nhân có mang. Ông lão vẫn gây khó khăn cho họ như mọi khi. Một ngày nọ, ông Lục không còn cách nào khác ngoài việc nói với ông lão: “Thưa cụ, chúng tôi đối xử tốt với cụ. Tại sao cụ cứ làm khó chúng tôi như thế? Bây giờ vợ tôi đã có mang, cụ có thể đối xử với chúng tôi tốt hơn một chút được không?”. Ông lão ra hiệu rồi đọc một bài thơ:

Tích đức hành thiện thuyết vô cầu,
Vạn sự du du hữu nhân do,
Vật luận đối phương chẩm dạng tố,
Thiện tâm thường tại tâm trung lưu!”

Diễn nghĩa:

“Tích đức hành thiện mà không truy cầu,
Mọi sự việc đều có nguyên do của nó,
Đừng để ý người khác hành xử ra sao,
Lòng tốt vẫn luôn ở trong tâm.”

Rồi cụ nói: “Tuy các con vẫn chưa hành xử đúng như những gì đã nói nhưng các con vẫn còn đủ thiện tâm”. Ông Lục cảm thấy rằng ông lão không phải là một người bình thường sau khi nghe những lời này. Rồi ông đối xử với ông lão hòa hảo thân thiết hơn nữa. Ông lão cảm thấy vô cùng phấn khởi.

Đứa bé chào đời không lâu sau đó. Đó là một bé trai. Ông lão đặt cho đứa bé một cái tên: “Lục Tu Tĩnh”. Đây là một cái tên mang đậm sắc thái tu luyện.

Ông lão thường chơi đùa với Tu Tĩnh và kể cho nó nghe rất nhiều câu chuyện. Một lần nọ, Tu Tĩnh nằm ngủ cùng phụ mẫu và hỏi: “Tại sao có nhiều ngựa đẹp và tiên nữ bay lượn trên thiên thượng thế ạ? Tại sao chúng mỹ diệu thế ạ?” Đôi vợ chồng vô cùng ngạc nhiên. Họ biết rằng ông lão rõ ràng có lai lịch không phải tầm thường.

Đến khi Tu Tĩnh chập chững biết đi, ông lão nằm liệt giường bỗng nhiên bước tới và nói với đôi vợ chồng: “Đã đến lúc ta nói cho các con biết sự thật. Ta không có bệnh tật gì cả. Ta cố ý giả vờ bị liệt để khảo nghiệm tâm tính của các con. Ta muốn dạy Tu Tĩnh công phu tu luyện bắt đầu từ ngày hôm nay. Ta cũng muốn nói với các con điều này: Ta đã 103 tuổi. Ta đã tu luyện đắc Đạo và đạt viên mãn vào tuổi 40. Ta đã đi tìm một đồ đệ tốt từ lâu lắm rồi. Ta muốn truyền cấp phương pháp tu luyện trong pháp môn của ta cho nó. Như các con biết, rất khó để tìm được một đồ đệ tài đức song toàn. Nhiều năm trước, ta đã được một vị Thần tiên điểm hóa trước khi gặp Lục tiên sinh. Các con đã đạt tiêu chuẩn trong phương pháp tu luyện của ta. Tuy nhiên, đồ đệ của ta phải là đồng tử. Vì vậy ta đã đợi để đứa trẻ được sinh ra. Bây giờ Tu Tĩnh đã biết đi. Ta biết rằng nó có một căn cơ tốt và tâm tính cũng tốt như các con. Ta phải nói với các con tất cả điều này.” Ngay lúc ấy, Tu Tĩnh bước vào phòng rồi quỳ gối xuống và nói: “Hôm qua, trong giấc mộng, một vị Thần tiên đã nói với con rằng nếu con tu luyện với sư phụ, con sẽ có thể trở về thiên thượng. Con đã hỏi rằng sư phụ của con là ai. Vị Thần tiên nói rằng ông lão trong nhà chính là sư phụ. Bây giờ con đã rõ tất cả. Thỉnh cầu ân sư thu nhận con làm đồ đệ!”. Kể từ đó, Tu Tĩnh bắt đầu tu luyện trong pháp môn của ông lão.

Khi Tu Tĩnh khoảng hai mươi tuổi, ông lão rời đi. Trước khi ra đi, ông lão đưa cho Tu Tĩnh một cái bình quý. Cái bình này có thể tùy ý biến hóa thành bất cứ thứ gì theo ý muốn của chủ nhân. Ông lão yêu cầu Tu Tĩnh đi vân du năm châu bốn biển, đặc biệt phải đến bốn nơi sau: Sa mạc ở vùng lòng chảo Tarim thuộc Tân Cương, hồ Điền Trì thuộc tỉnh Vân Nam, núi Ngũ Chỉ thuộc đảo Hải Nam và đảo Bồng Lai thuộc tỉnh Sơn Đông. Sau cùng, ông lão nói: “Đi ngay đi! Ta sẽ đợi con trên đỉnh núi Lư Sơn!”.

Tu Tĩnh bắt đầu cuộc hành trình với hành trang đơn giản, chiếc bình quý và lòng kiên tín vào sư phụ. Cậu phải ngủ ngoài trời và chịu đựng rất nhiều gian nan. Nguy hiểm và khó nạn luôn rình rập khắp mọi nơi. Lúc ấy, khởi nghĩa loạn lạc nổ ra ở nhiều địa phương. Tu Tĩnh bị coi là gian tế và đã bị bắt một lần. Lần khác, cậu thực sự đã bị đem ra tử hình. Ngạc nhiên thay, cậu đã sống lại ngay khi những tên đao phủ rời đi. Nhiều lần khi bị hết nước nơi hoang mạc, cậu mở chiếc bình ra. Cậu thấy rằng không những có một chút nước ở bên trong bình mà đó còn là một thế giới rộng lớn. Thế giới này vô cùng mỹ diệu và thần thánh. Cậu không còn cảm thấy khát chút nào nữa. Khi thể hiện quyết tâm vào tu luyện và và tín niệm vào phản bổn quy chân, cậu đã thoát được mối đe dọa sinh tử.

Cứ như vậy, cậu đã đi khắp núi nam bể bắc trên đôi chân của mình. Chuyến hành trình đã làm phong phú tâm hồn cậu và giúp cậu hiểu được ý nghĩa của cuộc sống. Hiện nay, người ta nghĩ rằng người xưa du sơn ngoạn thủy chỉ để giải trí, thật ra không phải vậy. Trên đường đi vân du, Tu Tĩnh đã thiết lập được sự trân quý đối với các sinh mệnh. Chuyến hành trình đã giúp cậu trở về với bản nguyên của tự nhiên và vũ trụ. Đây là sự phản ánh trạng thái tu luyện của cậu. Cậu đã hoàn toàn siêu thoát khỏi cảnh giới của người thường. Cậu không hề cố gắng chạy trốn khỏi thế giới trần tục này. Chân chính giúp cậu giải thoát, tắm mình trong mưa gió để hòa mình với thiên nhiên. Trong con mắt của Tu Tĩnh, mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông đều có sinh mệnh riêng của chúng. Chúng cũng có mừng vui, giận hờn, yêu thương như con người. Chúng được các vị Thần tiên trên thiên thượng phái xuống đây để giúp ích cho con người. Cậu đối xử với chúng như tri kỷ. Cậu kể cho chúng nghe về kinh nghiệm tu luyện và cuộc hành trình của mình.

Tu Tĩnh hoàn thành chuyến hành trình của mình trong vòng 20 năm. Cuối cùng, cậu đã leo lên được đỉnh núi Lư Sơn. Tuy nhiên, cậu không thấy bóng dáng một ai trên đó cả. Hai ngày sau, sư phụ vẫn không xuất hiện. Tu Tĩnh nghĩ rằng có thể sư phụ đang bận việc gì đó và ông sẽ không đến trong vài ngày nữa. Cậu muốn đợi sư phụ ở phía giữa của ngọn núi này. Do vậy, cậu bắt đầu trèo xuống. Trên đường đi xuống, cậu đi ngang qua một lão bà. Lão bà là một người còng lưng. Bà la lên khi gặp Tu Tĩnh: “Cậu ơi, cậu đã từng gặp ai không giữ lời hứa chưa? Con trai lão hứa là sẽ đợi lão, nhưng nó đã không giữ lời hứa. Nó đã đi rồi. Làm sao nó có thể làm như vậy chứ?” Tu Tĩnh cảm thấy chấn động: ‘Lẽ nào đây là sư phụ…” Nghĩ lại, cậu thấy sư phụ đã từng biến thành một ông lão bị liệt. Hôm nay, sư phụ cũng có thể biến thành một lão bà để điểm hóa cho cậu. Vì vậy cậu nói: “Là một người con, cậu ấy nên giữ lời hứa. Nếu không, cậu ấy có đáng tin hay không? Cậu ấy có còn là một chính nhân quân tử hay không?” Rồi cậu lại leo ngược trở lên đỉnh núi. Cậu đã qua đêm trên đỉnh núi đó. Sáng sớm hôm sau, mặt trời mọc lên từ phương Đông. Ngay lúc ấy, cậu đột nhiên trông thấy rất nhiều vị Thần tiên bay lượn trên không trung. Sư phụ của cậu xuất hiện đầu tiên trong số những vị Thần tiên ấy. Tu Tĩnh khấu đầu mãi không thôi. Vị Thần nói: “Con đã công thành viên mãn rồi. Hãy đi đi!” Tu Tĩnh đứng dậy rồi bay lên không trung. Cậu đã bay đi cùng sư phụ của cậu.

“Tẩu biến thiên nhai,
Tứ hải vi gia,
Phản bổn quy chân,
Vô khiên vô quải,
Xả tận danh lợi,
Tâm vô sở cầu,
Trì chi dĩ hằng,
Cước thừa liên hoa.”

Diễn nghĩa:

“Đi khắp mọi nơi,
Bốn biển là nhà,
Phản bổn quy chân,
Không còn chấp trước,
Xả bỏ danh lợi,
Tâm chẳng truy cầu,
Nỗ lực kiên định,
Bước lên đài sen.”

Lời kết: Đây là một bài viết khác mà đã giúp tôi giải quyết được vấn đề trong tâm mình. Sau hàng ngàn năm luân hồi, các chủng nhân tố khác nhau vẫn còn lưu tồn rất nhiều ở bên trong tôi. Những chủng nhân tố này, dẫu là chính diện hay phụ diện, vẫn đang khởi tác dụng trong quá trình tu luyện ngày hôm nay của tôi. Chỉ sau khi lý giải được những khúc mắc trong tâm, chúng ta mới có thể loại trừ đi những nhân tố bất thuần để tiến nhập vào vũ trụ mới. Rất quan trọng khi chúng ta có nhận thức đúng đắn về những vấn đề này.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/11/9/34537.html
http://www.pureinsight.org/node/3711

The post Luân hồi ký sự: Thiên nhai hành giả first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/09/luan-hoi-ky-su-thien-nhai-hanh-gia.html/feed0
Luân hồi ký sự: Đạo tặc cũng phải có “đạo”https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-dao-tac-cung-phai-co-dao.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-dao-tac-cung-phai-co-dao.html#respondMon, 31 Aug 2009 05:44:02 +0000https://chanhkien.org/?p=2669Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Hôm nay, tôi muốn chia sẻ một câu chuyện có thật về luân hồi của tôi, khi tôi còn là một đạo tặc trước khi tôi bắt đầu tu luyện và đạt viên mãn. Câu chuyện bắt đầu vào triều đại Bắc Tống (960 –1127 sau công nguyên). Sau khi […]

The post Luân hồi ký sự: Đạo tặc cũng phải có “đạo” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Hôm nay, tôi muốn chia sẻ một câu chuyện có thật về luân hồi của tôi, khi tôi còn là một đạo tặc trước khi tôi bắt đầu tu luyện và đạt viên mãn.

Câu chuyện bắt đầu vào triều đại Bắc Tống (960 –1127 sau công nguyên). Sau khi liên tục thất trận, triều Bắc Tống cuối cùng đã phải ký hiệp ước ‘Thiền Uyên’ với nước Liêu. Trong hiệp ước đó, Bắc Tống đồng ý cống nạp một số tiền lớn cho nước Liêu hàng năm. Kết quả là, Bắc Tống đã phải thu thuế cao từ người dân, làm bách tính ngày càng trở nên nghèo khổ hơn. Những người dân nước Tống sống gần biên giới giữa Tống và Liêu thì phải chịu đựng khổ cực trong suốt cả năm trời. Ngược lại, nước Liêu đã đạt đến đỉnh điểm của sự thịnh vượng vào thời bấy giờ.

Hồi ấy, tôi được luân hồi thành một vị công chúa của nước Liêu tên là Thiên Hành (天行). Thiên Hành công chúa tính tình khá rắn rỏi và mạnh mẽ. Do sinh trưởng tại phương Bắc nên công chúa có một dáng dấp tương đối đậm đà. Một lão sư tinh thông võ nghệ đã dạy võ cho Thiên Hành công chúa từ khi cô còn nhỏ. Trước khi vị lão sư dạy võ cho cô, ông đã đưa cho công chúa một thanh bảo đao sắc bén đến nỗi có thể cắt sắt ra làm đôi. Vị lão sư nói với công chúa rằng cô phải không được giết người vô cớ. Khi lão sư ra đi thì công chúa đã tròn 20 tuổi. Để lo lắng cho việc hôn sự của Thiên Hành, phụ vương của công chúa đã phải hao tổn rất nhiều tâm tư. Ông đã tìm nhiều người để cô lựa chọn nhưng Thiên Hành công chúa vẫn không ưng một ai. Công chúa cũng luôn cảm thấy sầu muộn về vấn đề hôn sự của mình.

Một ngày, Thiên Hành công chúa có một giấc mơ, trong đó một bạch diện thư sinh vô cùng khôi ngô tuấn tú đọc cho cô nghe một bài thơ:

Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu,
Nhân sinh phồn hoa chi đa thiểu,
Tuế nguyệt du du thiên bách độ,
Công thành danh tựu thân thể khô.
Hà xứ thị vĩnh hằng?
Duy hữu tu luyện phương thành kim cương bất hoại thân!

Diễn nghĩa:

Khi hoa xuân tàn và trăng thu lặn,
Sự phồn hoa nơi cõi người còn được bao lâu,
Hàng ngàn năm dần dần trôi qua,
Đến khi công thành danh toại thì thân thể đã khô mòn.
Cõi vĩnh hằng ở nơi đâu?
Chỉ có cách tu luyện thành thân thể kim cương bất hoại!”

Lúc ấy, công chúa cảm thấy vô cùng thân thiết với người thư sinh này. Đến khi cô định bước tới và chào hỏi thì người thư sinh lập tức biến mất. Cô vô cùng ngạc nhiên và choàng tỉnh.

Sau khi tỉnh dậy từ giấc mơ, cô quay sang nhìn những thị nữ của mình và thấy họ đang ngủ. Công chúa châm lên một ngọn đèn và ngắm nhìn dung mạo như hoa như ngọc của mình phản chiếu lên tấm gương đồng. Mặc dù không có dáng vẻ ‘liễu yếu đào tơ’ của một nàng tiểu thư suốt ngày ở trong khuê phòng, công chúa có một vẻ đẹp cương dương mạnh mẽ. Nhưng vì một vài lý do, cô cảm thấy không có gì là chân thật trong đó. Thời gian liên tục trôi đi như một dòng sông. Làm sao cô có thể bảo trì vĩnh viễn tuổi trẻ và nhan sắc của mình? Công chúa nghĩ về giấc mơ vừa qua và bắt đầu sầu muộn. Cô luôn luôn bất như ý về chuyện hôn nhân của mình. Đột nhiên, một quyết tâm mạnh mẽ thúc giục cô rời khỏi Hoàng cung. “Ta muốn ra đi để tìm kiếm triết lý nhân sinh.” Cô đã quyết định ra đi ngay lập tức bởi vì cô biết rằng phụ vương cô sẽ không bao giờ đồng ý. Cô đã viết một bức thư gửi cho phụ vương: “Thiên Hành sẽ rời khỏi Hoàng cung đêm hôm nay. Thưa phụ vương, xin thứ lỗi cho Thiên Hành đã không chào từ biệt phụ vương. Hài tử phải ra đi một mình để tìm kiếm chính Pháp. Hài tử sẽ tự thân giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử và thoái xuất khỏi tam giới. Đến khi tu thành chính quả, hài tử nhất định sẽ quay trở lại cứu độ song thân!”

Sau khi viết xong bức thư, Thiên Hành công chúa gạt những giọt nước mắt lăn trên má. Công chúa cưỡi trên một con kỵ mã và rời khỏi Hoàng thành với thanh bảo đao. Sáng hôm sau, những thị nữ của công chúa không tìm thấy cô đâu và ngay lập tức bẩm báo với Hoàng thượng. Sau khi đọc xong bức thư, Hoàng thượng đã khóc một lúc lâu. Phải mất một thời gian lâu sau, Hoàng hậu mới làm cho vị Hoàng đế nguôi ngoai đi. Cuối cùng, ông nói một cách lạc quan: “Thậm chí nếu Thiên Hành có ở bên ta, chúng ta cũng vẫn phải xa nhau trong vài chục năm nữa. Nếu hài tử thực sự có thể tìm được chính Pháp và thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, chẳng phải sẽ tốt hơn sao? Khi Thiên Hành còn nhỏ, nó không bao giờ thích thú với những tranh đoạt quyền lợi nơi trần thế. Nó rời khỏi Hoàng cung cũng là một việc tốt. Nó sẽ sống một cuộc sống thanh thản. Ta cảm thấy toại nguyện khi nó được hạnh phúc. Nó một thân võ nghệ và không kể nó đi đâu, không ai có thể bắt nạt nó.” Gần mười năm sau khi công chúa rời khỏi Hoàng cung, phụ vương và vương hậu của công chúa qua đời.

Sau khi Thiên Hành công chúa rời khỏi Hoàng thành, cô đi lang thang trong khoảng 2 tuần cho tới một ngày nọ, khi cô du ngoạn tới một ngọn núi cao có tên là Đại Thanh Sơn. Cô nhớ lại rằng phụ vương cô đã từng nói rằng có một sơn trại trên Đại Thanh Sơn. Theo lời kể của phụ vương, trại chủ tên là Khổng Tâm, tự xưng là ‘kim đao vô địch’ nhưng do chỉ là một người ‘hữu dũng vô mưu’ nên đã bị triều đình nhà Tống cử gian tế xâm nhập. Tên gian tế lẩn trốn tại một nơi phụ cận Đôn Hoàng và đã giết chết trại chủ. Hiện tại sơn trại trên núi đang ở trong trạng thái vô thủ [lĩnh].

Trong khi công chúa đang nghĩ về cuộc đối thoại giữa mình và phụ vương thì một đám lâu la chạy xuống núi và bao vây lấy cô. Dẫn đầu đám lâu la là một đại hán mặt đỏ với cây đại chùy trong tay. Hắn vừa chắn ngang đường vừa nói: “Xú nha đầu, mau đưa tiền ra thì bổn đại gia sẽ tha mạng cho. Bằng không, ta sẽ cho ngươi một chùy.”

“Ngươi dám à! Nếu có bản sự thì lại đây, bổn cô nương sẽ đấu với ngươi một phen!” Thiên Hành rút thanh bảo đao ra và không hề tỏ ra sợ hãi chút nào. Sau một vài phen giao tranh, cây đại chùy của tên đại hán mặt đỏ đã bị thanh bảo đao của Thiên Hành bổ ra làm đôi.

Thiên Hành nhảy lên ngựa và định rời đi, tuy nhiên tên đại hán ôm quyền rồi nói: “Xin cô nương dừng bước. Tại hạ có điều muốn thương lượng, không biết có được hay không?”

“Có gì thì ngươi cứ nói thẳng ra đi.”

“Không biết cô nương có nghe nói về việc bổn sơn trại đang trong trạng thái vô thủ [lĩnh] hay chưa. Hôm nay thấy cô nương võ nghệ siêu quần, nhất định là người hành hiệp trượng nghĩa. Chúng tôi mong cô nương lên núi làm trại chủ, huynh đệ chúng tôi nguyện nghe theo sự điều khiển của cô nương.” Thiên Hành thầm nghĩ mình đang không có nơi nào để dung thân nên đã đáp ứng yêu cầu của họ. Kể từ đó, Thiên Hành trở thành trại chủ của sơn trại.

Trong mười năm sau đó, Thiên Hành và nhóm thổ phỉ này đã giết chết nhiều tham quan trụy lạc và kẻ giàu có ăn chơi sa đọa. Họ đã bảo vệ sự công bằng cho rất nhiều người. Tuy là hành hiệp trượng nghĩa nhưng họ cũng đã giết hại rất nhiều người. Người dân quanh đó đã đặt cho Thiên Hành một cái tên – ‘bảo đao nữ hiệp’. Trong lúc nhàn rỗi, Thiên Hành thường nghĩ rằng: “Ta đã rời Hoàng cung để tầm Đạo cầu Pháp, nhưng số phận run rủi đã dẫn dắt ta trở thành cường đạo! Than ôi! Khi nào ta mới tìm được chân Pháp để tu luyện đây?”

Hai ngày sau, trong khi Thiên Hành và băng nhóm đang tụ họp trong sơn trại ăn thịt uống rượu thì một tên tiểu lâu la vào bẩm báo: “Ở dưới núi có khoảng sáu người đang đi ngang qua, trông rất giống mấy tên tham quan và nhà giàu. Liệu chúng tôi có nên ‘mãi mại’ (cắt hợp đồng) với chúng?”

Thiên Hành ra lệnh: “Cứ làm như mọi khi. Tại sao nhà ngươi chần chừ thế?”

Một lúc sau, tên lâu la quay lại bẩm báo: “Chúng tôi đã giết chết tất cả bọn họ, ngoại trừ một tên có dáng dấp thư sinh. Khi chúng tôi định hạ thủ thì hắn nói rằng hãy để hắn vào nói với trại chủ ba câu rồi muốn làm gì hắn cũng được.”

Thiên Hành nói: “Kẻ nào có gan nói ra những câu này? Đem hắn lên đây. Ta muốn xem mặt mũi hắn ra sao.”

Không lâu sau, người thư sinh được đưa lên núi trong tư thế bị trói. Thiên Hành thầm nghĩ: “Dường như ta đã gặp hắn ở đâu rồi thì phải.” Nhưng cô không có thời gian để nghĩ ngợi. Cô trừng mắt nhìn anh ta rồi quát: “Nghe nói ngươi muốn nói vài lời với bổn trại chủ. Nói nhanh lên rồi chịu chết.”

Người thư sinh không có vẻ sợ hãi chút nào. Anh ta nói với Thiên Hành: “Nghe nói trại chủ được dân chúng vùng phụ cận phong cho đại danh là ‘bảo đao nữ hiệp’, nhưng hôm nay được gặp mặt mới thấy rằng cũng chỉ là hư danh.”

Thiên Hành cảm thấy rất không vừa ý. Cô hỏi: ‘Ngươi định ám chỉ điều gì?”

“Người hành hiệp trượng nghĩa không bao giờ lạm sát người vô tội. Nhưng hôm nay cô nương không thèm hỏi xem tại hạ là ai, đây có phải là tùy tiện giết người hay không?”

Thiên Hành đáp: “Được rồi, để ta hỏi ngươi mấy câu. Tại sao ngươi lại đi cùng những người đó?”

“Tại hạ là nhân sĩ vùng Liêu Đông, tên là Lý Bằng Phi. Tại hạ đi học từ thuở còn nhỏ, sau đó được gặp một vị sư phụ dạy cho pháp môn tu luyện. Sư phụ từng nói với tại hạ hãy đi lên núi Hoa Sơn để tìm gặp một cao nhân dạy cho cách thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Trên đường tới núi Hoa Sơn, tại hạ gặp những viên quan và người giàu có đó rồi đi cùng với họ. Bây giờ đến lượt tại hạ hỏi cô nương vài câu hỏi. Thứ nhất, khi nào thì cô nương ngừng việc sát nhân? Thứ hai, cô nương có cảm thấy mất tự do khi sống trong thế giới con người này hay không? Thứ ba, cô nương có biết rằng ‘thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ chính là đạo lý của thần linh trên thiên thượng hay không?”

Thiên Hành trở nên sững sờ và không nói được câu nào sau khi nghe xong những lời này. Đột nhiên cô nhớ lại giấc mơ mà cô đã có về người thư sinh. Cô nghĩ rằng: “Có thể nào người đàn ông này đã xuất hiện trong giấc mơ của ta?” Cô tự mình cởi trói cho anh ta và lệnh cho đám lâu la đưa anh ta đi.

Đêm hôm ấy Thiên Hành trằn trọc mãi không ngủ được. Cô cứ nghĩ mãi về vấn đề nhân sinh, hôn nhân và lý tưởng của mình. Một điều cứ ám ảnh cô mãi là cô đã giết rất nhiều người trong 10 năm qua và là thủ lĩnh của một băng nhóm thổ phỉ. Một khi cô bắt đầu tu luyện, quá khứ sát nhân của cô có gây chướng ngại cho cô không? Ngoài ra, cô đã phát triển rất nhiều thói xấu khi là trại chủ ở sơn trại này. Cô có khả năng loại bỏ những điều ấy nếu tu luyện trong đời này hay không? Cô không ngừng nghĩ ngợi về những vấn đề này và không sao ngủ được.

Ngày hôm sau, cô kể về nỗi khổ sở của mình cho Lý Bằng Phi nghe. Bằng Phi nói: “Không có vấn đề gì chừng nào cô nương còn có thiện niệm và thiện hành. Phật chỉ nhìn vào tâm người. Cổ nhân có câu: “Tri thác năng cải thiện mạc đại yên.” (Người tự biết lỗi và cải thiện chính mình thật là bao dung vĩ đại). Phật Pháp có sức mạnh tiêu diệt những quan niệm hậu thiên và đưa con người trở về bản lai thuần chính. Ngoài ra… Cô nương đã quên mất tại hạ, tại hạ sẽ luôn ở bên cô nương. Nếu có vấn đề gì thì xin cô nương cứ nói với tại hạ để chúng ta cùng giải quyết!”

Nhìn Bằng Phi thân đầy chính khí, Thiên Hành bất giác nảy sinh lòng ngưỡng mộ. Cô thầm nghĩ: “Ta rất vui lòng tầm Đạo cầu Pháp với người thư sinh này. Huống hồ anh ta rất giỏi thơ phú, và ta sẽ không buồn chán khi ở bên anh ta.” Cô bèn phóng tâm nói với Bằng Phi: “Kể từ bây giờ, nếu ngươi không đối xử tốt với ta, ta sẽ cho ngươi nếm mùi bảo đao đấy!” Bằng Phi nói: “Tại hạ đâu dám bắt nạt cô nương. Chừng nào cô nương không lớn tiếng hay nổi cơn thịnh nộ, tại hạ sẽ vô cùng biết ơn!” Hai người cười nói với nhau một lúc. Và rồi Thiên Hành triệu tập tất cả huynh đệ trong sơn trại để an bài sự việc của hai người. Sau đó hai người họ thành thân và cùng nhau xuống núi.

Khi đến chân núi Hoa Sơn, hai người hỏi bất cứ ai mà họ gặp về vị cao nhân kia. Họ không ngừng hỏi từ chân núi cho tới tận đỉnh núi, nhưng không ai từng nghe về một cao nhân như vậy. Trời đã bắt đầu tối, cho nên họ phải nghỉ qua đêm trong một ngôi miếu hoang trên đỉnh núi. Sáng sớm hôm sau, họ được chứng kiến cảnh Phật quang xuất hiện trên đỉnh núi. Tới tận hôm nay, tôi vẫn còn nhớ khoảnh khắc thiêng liêng ngày hôm đó! Đúng là:

Thất thải Phật quang tự thiên hàng,
Vạn bàn tường thụy phá mê mang
Thù thắng mỹ diệu mãn khung vũ,
Thần Phật từ bi chiếu đại thiên!”

Diễn nghĩa:

Phật quang chiếu thẳng xuống từ bầu trời như bảy sắc cầu vồng,
Ánh sáng huy hoàng xua tan đi đám sương mù buổi sớm,
Thật là một cảnh tượng thiêng liêng và mỹ diệu,
Sự từ bi của Thần Phật tỏa sáng trên thế giới này!”

Họ vô cùng vui sướng và mong ước một điều thật kỳ diệu sẽ xảy đến.

Và rồi một điều gì đó thậm chí còn khó tin hơn đã xảy ra: Trong ánh quang huy, một vị Phật to lớn (cự Phật) xuất hiện, thật vô cùng đẹp đẽ và uy nghiêm! Với đài sen vàng dưới chân, Phật du hành khắp mọi nơi và cứu độ chúng sinh với lòng từ bi vô hạn, đồng thời hiển hiện chân tượng trước mặt những người tu luyện chân chính để điểm hóa cho họ! Cặp vợ chồng khấu đầu không ngừng trước vị Phật. Vị cự Phật chỉ nhìn họ rồi nói một câu: “Dụng tâm lai tu, tất thành chính quả.” Rồi Phật biến mất trong ánh kim quang.

Cặp vợ chồng ôm chầm lấy nhau trong nước mắt! Họ chưa bao giờ hy vọng sẽ có cơ hội được gặp và nhìn tận mắt một cự Phật trong giây phút thiêng liêng ấy! Họ nghĩ: “Chúng ta chắc phải tích được rất nhiều phúc phận từ những kiếp trước!” Kể từ đó, họ sống trên ngọn núi Hoa Sơn và bắt đầu tu luyện. Mỗi khi họ thiếu Phật Pháp để chỉ đạo tại mỗi tầng thứ, họ lại nhận được những điểm hóa trong giấc mơ để giúp họ tiếp tục thăng hoa. Sau khi tu luyện trong gần 30 năm, khi đang ngồi đả tọa vào buổi trưa, họ đột nhiên nghe được tiếng Pháp nhạc trên bầu trời. Không lâu sau, nhiều đóa hoa trong suốt rơi xuống từ trên không trung, trông mười phần mỹ diệu. Sau đó, hai người họ bắt đầu phiêu đãng bay lên; cơ thể họ trở nên thông thấu (trong suốt) và vô cùng uy nghiêm. Rồi họ lại trông thấy vị cự Phật đang cười với họ. Sau đó, từ trên thiên thượng bay xuống một đài sen cùng một con hạc tiên. Thiên Hành bước lên đài sen còn Bằng Phi cưỡi trên lưng hạc tiên và bay lên trời. Những đám mây đầy màu sắc cũng theo họ bay lên trên thiên thượng. Cuối cùng họ đã được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử!

Lời kết:

Có một câu nói của cổ nhân Trung Hoa: “Đạo tặc cũng phải có ‘đạo’”. Không kể là chúng ta đã làm gì trong quá khứ hay bao nhiêu việc xấu chúng ta đã làm, chúng ta vẫn có thể đạt viên mãn chừng nào chúng ta còn tinh tấn trong tu luyện. Câu chuyện về luân hồi của tôi đã minh chứng rất rõ điều này.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/9/18/33891.html
http://www.pureinsight.org/node/3374

The post Luân hồi ký sự: Đạo tặc cũng phải có “đạo” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-dao-tac-cung-phai-co-dao.html/feed0
Luân hồi ký sự: Bỏ mạng nơi hoang dãhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-bo-mang-noi-hoang-da.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-bo-mang-noi-hoang-da.html#respondFri, 21 Aug 2009 05:17:35 +0000https://chanhkien.org/?p=2535Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Đây là một phần của câu chuyện về cá nhân tôi trong suốt quá trình lịch sử, về việc tôi đã nhận quả báo như thế nào sau khi làm những điều xấu ác. Mục đích của tôi khi viết ra bài này là để minh chứng […]

The post Luân hồi ký sự: Bỏ mạng nơi hoang dã first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời mở đầu:

Đây là một phần của câu chuyện về cá nhân tôi trong suốt quá trình lịch sử, về việc tôi đã nhận quả báo như thế nào sau khi làm những điều xấu ác. Mục đích của tôi khi viết ra bài này là để minh chứng rằng, khi bản thân chúng ta chấp trước vào những sai lầm và thiếu sót của người khác, chúng ta nên suy nghĩ cẩn thận về nó. Có thể chính chúng ta cũng đã từng phạm phải những tội lỗi nghiêm trọng trong quá khứ. Tuy nhiên, Sư Phụ từ bi đã không để ý tới những việc làm xấu ác trong quá khứ của chúng ta. Chúng ta nên đánh giá một người một cách toàn diện, và chắc chắn không nên thu hẹp phạm vi bằng cách đánh giá người đó trong một khoảng thời gian nhất định hay riêng về khía cạnh nào đó. Miễn là họ có thể làm tốt trong hiện tại, và khắc phục được lỗi lầm, thì họ vẫn xứng đáng được đánh giá cao! Tất nhiên, nguyên tắc của vũ trụ ‘thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ vẫn là điều mà không sinh mệnh nào có thể chống lại! Bây giờ hãy trở lại câu chuyện của tôi.

Câu chuyện xảy ra là trong thời nhà Tùy (581 – 618 sau công nguyên). Kênh đào lớn Kinh Hàng đang được xây dựng vào khoảng thời gian đó, và đã mang đến sự ảnh hưởng và thịnh vượng cho khu vực Dương Châu. Có một tiên sinh họ Hà sống tại thành phố Dương Châu. Ông là người rất thành thật và trung hậu. Ông và vợ của ông làm việc rất chăm chỉ trong cửa hàng lụa tơ tằm của họ. Họ chỉ có một người con trai tên là Hạ Dương. Gia cảnh của gia đình rất khá giả. Tuy nhiên, Hạ Dương khá hư đốn từ khi còn nhỏ và cậu bé đã phát triển rất nhiều tật xấu. Hơn nữa, Hạ Dương có một bản tính nổi loạn vô cùng đặc biệt. Cha mẹ của cậu đã mời về các lão sư (thầy giáo) để giáo dục cậu, nhưng cậu luôn muốn đi chơi và không bao giờ tập trung vào việc học tập. Sau đó, cha cậu đã mời về một lão sư dạy võ để dạy cậu võ thuật. Một thời gian sau, vị lão sư này nhận thấy rằng Hạ Dương không có đủ đức hạnh để học võ thuật; cậu rất tàn ác và muốn gì là làm nấy. Vì vậy, lão sư chỉ dạy cậu một số kỹ năng võ nghệ nông cạn bề ngoài. Ông nói với Hạ Dương: “Con đừng nên làm bất cứ điều gì xấu. Nếu không con sẽ hại người khác, cũng như hại chính mình đó.” Sau đó, vị lão sư rời đi. Vào lúc đó, Hạ Dương đã gần hai mươi tuổi. Cậu rất khỏe mạnh cường tráng và không sợ bất cứ ai. Một ngày nọ, cậu cãi cọ với cha cậu chỉ vì một điều nhỏ nhặt. Rồi cậu rất tức giận và bỏ nhà ra đi mà không hề nói với cha mẹ câu nào.

Ngay sau khi rời khỏi nhà, cậu đã kết bằng hữu với một đám côn đồ loạn đảng. Bởi vì cậu biết một chút võ nghệ, cậu đã trở kẻ cầm đầu của băng đảng nhỏ này. Những kẻ lưu manh dành phần lớn thời gian của chúng vào việc tiệc tùng, uống rượu, bài bạc và ăn chơi trụy lạc. Không lâu sau, chúng đã tiêu hết số tiền mà chúng có, rồi bắt đầu đột nhập vào nhà dân chúng để trộm cắp tài vật và cưỡng hiếp các cô gái xinh đẹp. Trong một thời gian ngắn, chúng đã khuấy động khắp thành Dương Châu và nơi này bị rơi vào cảnh náo loạn. Lời than vãn của toàn dân trăm họ được nghe thấy ở khắp mọi nơi. Sau khi cha mẹ cậu nghe được tin cậu đã làm những điều độc ác như vậy, họ vô cùng tức giận rồi lần lượt qua đời. Sau đó, quan phủ đã truy bắt những kẻ lưu manh trong băng đảng này và hành quyết chúng. Hạ Dương không có mặt ở đó khi những kẻ đồng bọn bị bắt, và cậu ta đã may mắn thoát khỏi tai họa. Thay vì phản tỉnh sau bài học này, cậu ta vẫn tỏ ra không hề hối cải. Sau khi lẩn trốn trong vòng một năm, cậu ta bắt đầu tác oai tác quái trở lại, và với thủ đoạn còn hạ lưu và tàn nhẫn hơn nữa.

Một ngày nọ, vào lúc trời nhá nhem tối, cậu ta lẻn vào tư gia của gia đình Triệu viên ngoại, một điền chủ giàu có. Thật tình cờ, tiểu thư nhà họ Triệu đang chuẩn bị xuất giá trong hai ngày nữa, và căn nhà được trang hoàng bằng đèn lồng, giấy màu, với bầu không khí tràn đầy niềm phấn khởi và hạnh phúc. Sau khi Hạ Dương phát hiện ra điều này, cậu ta nghĩ rằng: Ta nghe nói rằng tiểu thư nhà họ Triệu xinh đẹp như hoa như ngọc, nếu ta có thể… Ta có thể được cả người đẹp lẫn tiền bạc! Vì vậy, cậu ta đã lẻn đến khuê phòng của Triệu tiểu thư, vận dụng mánh khóe của mình bằng cách liếm ướt giấy dán cửa sổ, sau đó chọc thủng một lỗ nhỏ ở đó để quan sát. Khi nhìn vào bên trong thông qua cái lỗ nhỏ đó, cậu ta thấy Triệu tiểu thư đang ngồi bên cạnh một chiếc bàn và làm một số việc thêu thùa. Cô đang thêu một cặp vịt uyên ương chơi đùa trên mặt nước. Ngay lúc ấy, Triệu tiểu thư ngẩng đầu lên và tủm tỉm cười một mình. Có lẽ cô đang nghĩ tưởng về tương lai tươi sáng và hạnh phúc của mình. Vẻ đẹp của cô đã làm cho Hạ Dương vô cùng sửng sốt. Có thể nói rằng sự kiều diễm của cô khiến cho mặt trăng bị lu mờ và làm cả nụ hoa phải xấu hổ. Sự mỹ lệ của cô có thể khiến cho chim sa cá lặn, và thậm chí một nàng tiên trên thiên giới cũng phải e thẹn khi so sánh với dung nhan của cô! Sự mỹ lệ của cô đơn giản là ngoài sức mô tả. Hạ Dương cảm thấy khó cưỡng lại trước vẻ đẹp của Triệu tiểu thư. Và sau đó, cậu ta đã quyết định sử dụng một phương pháp mà giới giang hồ coi là hạ lưu đê tiện nhất. Cậu ta đã thắp lên một loại hương mà có thể làm cho người ta rơi vào trạng thái mê man. Một lúc sau, Triệu tiểu thư bắt đầu hắt hơi rồi ngã xuống sàn. Sau khi Hạ Dương thấy mình đã thành công, cậu ta nhảy vào phòng của Triệu tiểu thư qua đường cửa sổ, thổi tắt nến và bế cô lên giường. Trong khi cưỡng hiếp cô, cậu ta còn nói: “Triệu tiểu thư, nàng là người trinh nữ thứ năm mà ta đã cưỡng hiếp!” Đúng lúc ấy, đột nhiên có tiếng nói vọng từ bên ngoài: “Tại sao ánh nến trong phòng Triệu tiểu thư lại bị tắt vậy? Tại sao cửa sổ lại mở toang thế này?” “Không tốt rồi! Khẳng định là tên thái hoa dâm tặc đã đột nhập vào phòng tiểu thư! Tên tiểu tử lưu manh đó không có điều ác nào là không làm! Người đâu!!” Và sau đó người ấy hô hoán lên để báo động cho gia nhân chạy tới lùng bắt Hạ Dương. Sau khi Hạ Dương nhận thấy hành vi đồi bại của mình đã bị phát hiện, cậu ta nhanh chóng mặc quần áo vào rồi lao ra khỏi cửa. Nhân lúc người nhà không chú ý, cậu ta trèo qua bờ tường ở phía sân sau rồi chạy trốn.

Vừa khi cậu ta nhảy ra khỏi sân sau, những người lính gác nhìn thấy cậu ta và đuổi theo cậu ta rất gắt gao. Hạ Dương không còn cách nào khác ngoài việc cắm đầu chạy thục mạng theo những ngõ hẻm cũng như tìm mọi cách để trốn thoát. Rồi cậu ta chạy tới một nơi hoang vu. Khi ấy cậu ta quay lại nhìn và thấy rằng không còn một ai ở phía sau. Cậu ta muốn ngồi xuống và nghỉ một chút. Ngay lúc đó, cậu ta trông thấy một người tiến đến gần. Người này được giang hồ biết đến với cái tên Vương Thiên Tả đại hiệp, vị hảo hán chuyên hành hiệp trượng nghĩa với một cây cương đao trong tay . Khi Hạ Dương vừa trông thấy Vương Thiên Tả, cậu ta dựng ngay dậy và cắm đầu cắm cổ chạy. Thực ra Vương Thiên Tả không hề chú ý đến Hạ Dương cho tới khi cậu ta cố gắng chạy đi. Vương Thiên Tả bèn quan sát người đang bỏ chạy, và nhận ra đây chính là Hạ Dương, tên vô lại không điều ác nào mà không làm. Vì vậy, Vương Thiên Tả đã đuổi theo Hạ Dương và giết cậu ta bằng cây cương đao của mình. Sau đó Vương Thiên Tả vứt xác của Hạ Dương vào một nơi hoang vu, và đó là quả báo mà cuối cùng Hạ Dương đã phải nhận. Số phận của Hạ Dương giống hệt những gì mà nhà văn Ngô Thừa Ân vào triều Minh sau đó hàng trăm năm đã miêu tả trong một bài thơ (Ngô Thừa Ân là tác giả cuốn tiểu thuyết Tây Du Ký):

Nhân tâm sinh nhất niệm,
Thiên địa tận giai tri,
Thiện ác nhược vô báo,
Càn khôn tất hữu tư!”

Diễn nghĩa:

Khi một niệm khởi phát từ tâm con người,
Cả trời và đất đều biết,
Thiện và ác mà không có báo ứng,
Thì vũ trụ này thật quá ích kỷ!”

Một lúc sau, Vương đại hiệp đến gặp thân nhân trong gia đình Triệu viên ngoại và gia đình họ kể với Vương đại hiệp về điều đã xảy ra. Vương đại hiệp vô cùng tức giận và anh đi tìm xác của Hạ Dương để cho thêm vài nhát chém nữa. Sau đó, xác của Hạ Dương bị ăn bởi những con chó hoang nơi rừng núi. Khi Vương đại hiệp và gia đình họ Triệu trở về nhà thì họ thấy Triệu tiểu thư đã treo cổ tự vẫn sau khi cô phát hiện ra mình đã bị cưỡng hiếp. Gia đình Triệu viên ngoại phải trải qua nỗi đau buồn khôn tả khi hỉ sự của gia đình chuyển thành tang sự.

Hãy để sang một bên việc gia đình Triệu viên ngoại tổ chức tang lễ như thế nào và trở lại với Hạ Dương. Sau khi Hạ Dương bị giết, nguyên thần của cậu ta rời khỏi thân thể. Bởi vì Hạ Dương đã làm rất nhiều điều ác khi còn sống, cậu ta bị giáng xuống địa ngục tầng thứ sáu. Sau một thời gian dài trả nghiệp ở nơi đó, cậu được chuyển sinh làm thú vật, và phải mang thân trâu ngựa trong hơn một trăm năm trong tầng thứ đó. Khi cậu phải chịu đựng đau khổ nơi địa ngục tầng thứ sáu, một vị Bồ Tát tình cờ phái thị nữ của mình đi thị sát một số nơi trong tầng thứ thấp. Sau khi người thị nữ của Bồ Tát thấy cảnh Hạ Dương phải chịu đau khổ dưới địa ngục, cô đã thưa lại câu chuyện với Bồ Tát sau khi trở về. Bồ Tát bèn sử dụng huệ nhãn của mình để nhìn thấu lai lịch của Hạ Dương. Sau đó, Bồ Tát đã nảy ra một ý tưởng nhằm giúp Hạ Dương giải quyết ác duyên của cậu với năm cô gái mà cậu đã cưỡng hiếp.

Dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì, trong thành Dương Châu, có một gia đình họ Hạ cũng có một cậu con trai tên là Hạ Dương. Cậu bé này tình tình thật thà đôn hậu, và có tài năng từ khi còn rất nhỏ. Hàng ngày, cậu làm việc siêng năng và điều hành cơ sở kinh doanh, một ngân hàng nhỏ, cùng với cha cậu. Trước khi cậu bước sang tuổi hai mươi, rất nhiều gia đình các cô gái tới gia đình họ để đề nghị kết làm thông gia. Hai cô gái đầu tiên mà cậu đã hứa hôn lâm bệnh nặng rồi qua đời. Gia đình họ Hạ bèn hỏi một thầy toán mệnh lý do, và họ nói rằng hai cô gái này đã được chùa gọi về để tu hành. Sau đó, Hạ Dương cưới ba người vợ khác. Người vợ cả đanh đá và rất hay ghen. Người vợ thứ hai thì tính tình khá tốt và là người mà Hạ Dương yêu thương nhất. Người vợ thứ ba là người đẹp nhất trong số ba người phụ nữ trên, nhưng cô ta rất yêu chuộng tiền bạc.

Hạ Dương yêu quí người vợ thứ hai của mình hơn cả. Vài năm sau, người vợ cả, do quá ghen đã nhảy xuống một cái giếng tự vẫn. Không lâu sau, người vợ thứ hai cũng qua đời vì một căn bệnh cấp tính. Những tai ương liên tiếp giáng xuống đầu Hạ Dương lớn đến mức mái tóc của cậu đã chuyển thành màu trắng ngay trước khi cậu ba mươi tuổi. Ngoài ra, cậu còn bị người khác lừa đảo trong một giao dịch buôn bán, và ngân hàng nhỏ phá sản, khiến cậu lao đao và vô cùng tuyệt vọng. Sau khi người vợ thứ ba thấy cậu đã rơi vào cảnh khốn cùng, cô ta đã gói ghém những đồ vật có giá trị vào một bao nhỏ rồi rời đi. Giờ đây, Hạ Dương không còn lại gì cả.

Tại thời điểm đó, Hạ Dương đã khóc đến cạn cả nước mắt. Cậu nghĩ, “Điều gì đã làm cho số phận của ta đen đủi đến như vậy?” Không còn sự lựa chọn nào khác, cậu đành tha hương và lưu lạc khắp nơi. Một ngày nọ, cậu nằm ngủ trên đỉnh núi Thái Sơn và đã có một giấc mộng dài. Trong giấc mộng ấy, cậu đã thấy tất cả điều ác mà cậu đã gây ra vào thời nhà Tùy. Sau khi tỉnh dậy, cậu nhận thấy rằng [luật] nhân quả báo ứng quả nhiên có thật! Vì vậy, cậu đã trở thành một đạo sĩ tu luyện trong một Đạo viện gần núi Thái Sơn.

Ân oán vô thường nghiệp tùy thân,
Thiện ác tất báo quả thị chân,
Nhược đắc phúc báo thiện vi nhân,
Càn khôn lãng lãng thiện ác phân!”

Diễn nghĩa:

Ân oán không bao giờ ngớt, nghiệp vẫn đi theo mỗi người,
Thiện ác đều có báo ứng, quả nhiên là điều chân thực,
Muốn được phúc báo thì phải lấy thiện đãi người,
[Luật] Vũ trụ phân biệt rõ thiện và ác!”

Lời kết:

Người nào tinh ý thì sẽ biết ngay rằng nhân vật Hạ Dương được đề cập đến trong bài viết chính là tôi. Tôi đã từng làm rất nhiều điều ác. Tuy nhiên, Sư Phụ vẫn không bỏ rơi tôi và Ngài đã an bài cho tôi đắc được Pháp Luân Đại Pháp, một may mắn vô cùng khó gặp từ thuở xa xưa. Trong thời nhà Tùy, người trinh nữ thứ năm mà tôi đã cưỡng hiếp chính là người vợ thứ hai của tôi trong triều đại Võ Tắc Thiên. Ba trong số năm cô gái trên đã đắc Pháp trong kiếp sống hiện tại của họ, nhưng hai người còn lại, tiếc là, không đắc được thân người. Thay vào đó, họ đã chuyển sinh thành những cái cây.

Việc xem xét lại lịch sử và hiểu biết rõ ràng tất cả quan hệ nhân quả có thể xóa sạch hết thảy bụi bặm trong tâm trí của chúng ta. Bằng cách xem xét bản thân và khám phá nguồn gốc sự tồn tại của tất cả những người xung quanh chúng ta, mục tiêu cơ bản của tôi khi viết ra loạt bài về luân hồi này là để phán xét một người một cách toàn diện. Tất cả mọi thứ là để chứng thực Pháp. Con đường chúng ta đi phải thật ngay chính. Chúng ta không nên để lại bất cứ một sự hối tiếc nào và phải xứng đáng với lời thệ nguyện linh thiêng mà chúng ta đã lập trước vị Phật Chủ!!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/10/21/34302.html
http://www.pureinsight.org/node/3567

The post Luân hồi ký sự: Bỏ mạng nơi hoang dã first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-bo-mang-noi-hoang-da.html/feed0
Luân hồi ký sự: Cơn gió bấc tại Đôn Hoànghttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-con-gio-bac-tai-don-hoang.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-con-gio-bac-tai-don-hoang.html#respondMon, 17 Aug 2009 10:39:52 +0000https://chanhkien.org/?p=2516Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org] Lời mở đầu: Tôi mong muốn chia sẻ một bài học quý báu mà tôi đã học được từ quá trình tu luyện của tôi ở một trong những đời trước. Qua việc chia sẻ câu chuyện này, tôi hy vọng sẽ giải thoát bản thân khỏi tâm chấp trước […]

The post Luân hồi ký sự: Cơn gió bấc tại Đôn Hoàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org] Lời mở đầu: Tôi mong muốn chia sẻ một bài học quý báu mà tôi đã học được từ quá trình tu luyện của tôi ở một trong những đời trước. Qua việc chia sẻ câu chuyện này, tôi hy vọng sẽ giải thoát bản thân khỏi tâm chấp trước của mình, thứ gắn liền với những bức bích họa [trên động đá] tại Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Ngoài chấp trước vào mảnh đất này, tôi cũng từng rất chấp trước vào những bức bích họa vẽ hình Phật trên những động đá tại Đôn Hoàng. Khi tôi đi ngang qua đó lần đầu tiên, tôi cảm thấy dường như đã thấy chúng từ trước, mặc dù tôi không thực sự hiểu chúng đại diện cho điều gì.

Thật khó để mô tả mong muốn của tôi trong việc tìm một trường phái tu luyện mà có thể giải thoát bản thân khỏi sự luân hồi chuyển sinh mãi mãi, ở giữa cơn gió bấc trên đại mạc tại tỉnh Cam Túc. Trong kiếp luân hồi đó, tôi đã xem việc tu luyện như là một cách để trốn tránh thực tế phũ phàng. Ngoài ra, tôi đã không thể loại bỏ được chấp trước mạnh mẽ của tôi vào chữ ‘tình’. Do vậy, tôi đã bỏ lỡ cơ hội đạt viên mãn trong kiếp luân hồi đó. Tôi vô cùng biết ơn Sư Phụ khi đã an bài cho tôi cơ duyên quý giá được tu luyện Pháp Luân Công trong kiếp sống hiện tại. Tôi muốn nhân cơ hội này để nhắc nhở mọi người rằng tu luyện là rất nghiêm túc và thần thánh. Nếu một người ôm giữ một động cơ kín đáo nào đó hay không thể loại bỏ các tâm chấp trước, người đó sẽ bỏ lỡ cơ duyên tiền định này. Chúng ta chỉ có cơ hội cuối cùng này để tu luyện. Đây là cơ hội sẽ không bao giờ quay trở lại. Hãy trân quý cơ hội này, vì chúng ta đã chờ đợi điều này trong rất nhiều kiếp sống và còn vì mục đích cứu độ chúng sinh, những người đã đặt rất nhiều hy vọng vào chúng ta! Hãy tinh tấn trên con đường tu luyện của chúng ta. Chúng ta không được lãng phí một giây phút nào trong thời điểm trọng đại và huy hoàng này. Chúng ta phải làm tròn lời cam kết của chúng ta! Chúng ta không thể để Sư Phụ thất vọng sau khi Ngài đã liên tục ban cho chúng ta cơ hội tu luyện.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Câu chuyện của tôi xảy ra trong thời “An Sử chi loạn” [1] vào năm 755 sau công nguyên, vào những năm cuối thời trị vì của Hoàng Đế Huyền Tông đời nhà Đường. Cuộc nổi dậy đã phá hủy hoàn toàn triều đại nhà Đường và phải mất nhiều năm sau để tái lập lại sự thịnh vượng. Tại trấn Cảnh Đức, tỉnh Giang Tây, có một thiếu niên tên là Lâm Giang. Cậu sống tại Hữu Tài Phường, nằm bên ngoài cổng thành phía Nam thị trấn. Cha của cậu đã dạy cậu một công phu nội gia (tu nội). Do đó, cậu đã trở nên nổi tiếng với tài năng văn võ song toàn của mình.

Cha mẹ của Lâm Giang làm việc tại Giang Bắc, vì vậy cậu sống một cuộc sống khá sung túc và thoải mái. Điều đáng tiếc nhất là Lâm Giang không thể ở cùng cha mẹ, và cậu sống cùng người chú ruột. Lâm Giang cùng với tiểu nữ nhà hàng xóm, A Tú, có với nhau một tình cảm ngây thơ trong sáng tựa như ‘thanh mai trúc mã’ [2] từ khi chúng còn nhỏ. Họ rất gần gũi nhau. A Tú có một đôi mắt sáng long lanh, tựa như mặt nước hồ trong trẻo và tinh khiết. Mẹ của A Tú đã qua đời từ khi cô bé còn nhỏ. Cha cô trở thành nghiện đánh bạc và thường đi đánh bạc tại sòng bạc lớn nhất trong vùng – Thuận Nghĩa Phường. Cha của A Tú luôn luôn thua tiền sau khi đánh bạc và đã hoang phí gần hết gia tài. Đôi khi gia đình của Lâm Giang cho họ vay một chút tiền. A Tú thường khóc một mình vì cha cô nghiện đánh bạc.

Một ngày nọ vào buổi trưa, Lâm Giang và A Tú nắm tay nhau đi vào thị trấn du ngoạn. Khi còn cách chợ vài bước, đột nhiên họ chú ý tới một thanh niên đến từ một gia đình giàu có đang cố gắng bắt cóc một thiếu nữ. Trong khi cố gắng vồ lấy cô gái, người thanh niên hét lên: “Đại gia ta đã cưới 13 người vợ lẽ rồi. Hôm nay ta sẽ đưa nàng về nhà làm người vợ lẽ thứ 14 của ta! Chúng bay đâu! Đưa nàng về nhà!” Và rồi vài tên đàn em của hắn vồ lấy người thiếu nữ và quăng cô vào một chiếc kiệu nhỏ màu xanh. Khi Lâm Giang nhìn thấy vụ bắt cóc, cậu hét lên: “Dừng lại! Sao các ngươi dám bắt cóc và cưỡng bức con gái nhà lành giữa thanh thiên bạch nhật? Thả ngay cô ấy ra, bằng không các ngươi sẽ nếm mùi nắm đấm của ta!”

Người thanh niên nói: “Tên tiểu tử quê mùa này ở đâu ra vậy? Ai dám ngăn cản đại gia ta đây? Chúng bay đâu, cho tên tiểu tử nhà quê này một bài học!”

Lâm Giang tung một nắm đấm vào người thanh niên, nhưng bị trượt vì anh ta kịp né đòn. Vài tên đàn em của hắn nhảy xổ vào Lâm Giang, nhưng cậu đã nhanh chóng đánh ngã họ xuống đất. Người thanh niên liều lĩnh kia cũng bị đánh.

Đến khi Lâm Giang định rời đi, người thanh niên kia nói: “Cho ta biết tên nếu ngươi dám. Chẳng lẽ ngươi định bỏ trốn mà không để lại danh tính hay sao!”

Lâm Giang nói lớn: “Tên ta là Lâm Giang, là nhân sĩ vùng này. Ta sống tại Hữu Tài Phường phía bên ngoài cổng thành. Nhà ngươi được chào đón đánh một trận với ta vào bất cứ lúc nào!”

Rồi cậu nắm lấy tay A Tú và tiếp tục đi du ngoạn. Trên đường đi, Lâm Giang nói với A Tú: “Hôm nay đánh nhau với tụi vô lại này vui thật đấy.” Họ cười suốt cả ngày hôm đó và rất vui vẻ.

Vào ban đêm, sau khi Lâm Giang trở về nhà, người chú nói với cậu rằng ông đã nghe về sự tình vừa xảy ra hôm nay. Ông khuyên nhủ Lâm Giang: “Cháu thật chẳng biết trời cao đất dày là gì. Cháu có biết hôm nay cháu đã đắc tội gì không?”

“Vì chuyện gì thế ạ?” Lâm Giang hỏi lại vì cảm thấy thật khó hiểu.

“Cậu thanh niên kia là chủ nhân của sòng bạc lớn nhất trong thị trấn – Thuận Nghĩa Phường. Cha của cậu ta là Tri Phủ ở Vũ Tây. Ông ta có thế lực trong Triều đình. Cháu có biết tấn công con trai của một gia đình quyền thế như vậy là tội gì không?!” Lâm Giang bắt đầu cảm thấy áp lực to lớn đè nặng lên mình.

Hai hôm sau, Lâm Giang nhận được một lá thư từ người cha, trong đó ông yêu cầu cậu tới Giang Bắc và giúp ông trong công việc. Trong ngày từ biệt trước khi lên đường, Lâm Giang nắm tay A Tú dưới ánh trăng và nói chuyện với cô trong suốt cả buổi tối. Lâm Giang nói: “Ta sẽ trở về, lâu nhất là 10 đến 15 ngày nữa. Khi ta trở lại, chúng ta sẽ thành thân. Và rồi chúng ta sẽ ở cùng cha mẹ ta. Ta sẽ làm việc cùng ông tại Giang Bắc. Chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao!”

A Tú nói với đôi mắt ngấn lệ: “Huynh sớm trở về nhé! Muội sẽ đợi huynh!” Sau đó Lâm Giang khởi hành đi Giang Bắc.

A Tú trở về nhà trong tâm trạng vô cùng buồn bã. Vừa về đến nhà thì cô nghe phụ thân nói: “Hôm nay cha đi đánh bạc tại Thuận Nghĩa Phường và đã nợ họ 20 nén bạc.”

Sau khi nghe về việc nợ bạc của phụ thân, A Tú vô cùng lo lắng. Cô phàn nàn: “Cha vẫn cứ chứng nào tật nấy. Tại sao cha không từ bỏ cái việc đánh bạc đó đi? Lâm Giang đã đánh chủ nhân nơi đó mấy hôm trước. Sớm hay muộn hắn sẽ quay lại gây sự. Giờ cha đang nợ hắn bạc, con e rằng hắn sẽ quay lại sớm cho mà xem!”

Không lâu sau người thanh niên vô lại, chủ nhân của Thuận Nghĩa Phường cùng vài tên đàn em to con đập cửa xông vào nhà. Hắn cười thô bỉ: “Tốt rồi, cả hai đều ở nhà. Tên tiểu tử Lâm Giang đã đánh ta và làm hỏng việc của ta. Hôm nay ta sẽ bắt vị hôn thê tương lai của hắn phải bồi thường! Lão già, nếu lão trả lại ta ngay 20 nén bạc lão đã nợ thì ta sẽ thả con gái lão. Bằng không… chúng bay! Lột hết quần áo của cô ta ra!”

Cha của A Tú vừa khóc lóc vừa cầu khẩn: “Không! Xin đừng! Xin các người! Hãy để con gái tôi được yên!” Tuy nhiên những kẻ côn đồ đã làm ngơ trước lời cầu xin của ông. Chúng nhanh chóng lột hết quần áo của A Tú. Kẻ thanh niên ác còn hơn cả cầm thú kia đã cưỡng hiếp A Tú ở ngay trước mặt mọi người. Nhưng đây vẫn chưa phải là tất cả những gì mà A Tú phải chịu đựng. Chúng đã rạch mặt và cơ thể của cô bằng dao rồi sau đó rắc muối lên vết thương… (Thứ lỗi cho tôi. Tôi không thể kể chi tiết hơn nữa vì quả thật sự đau đớn là không sao tả nổi).

A Tú vẫn chưa chết nhưng đã hôn mê bất tỉnh sau khi những kẻ côn đồ kia rời đi trong tiếng cười man dại. Phụ thân của A Tú cố gắng bế cô sang nhà của Lâm Giang và đem nguyên sự tình kể lại với người chú của Lâm Giang. Sau khi nghe xong câu chuyện, chú của Lâm Giang bật khóc. Ông ngay lập tức cho người báo tin gấp tới Lâm Giang, đồng thời mời vị lang trung tốt nhất trong thị trấn tới cứu chữa cho A Tú. Tuy nhiên không ai cứu nổi A Tú. Lâm Giang tức tốc trở về nhà sau khi nghe tin. Cậu chạy vội vào nhà, ôm A Tú đang hôn mê trong vòng tay mình rồi khóc thống thiết: “Là ta đã hại muội! Là ta đã hại muội!”

Ba ngày ba đêm sau, Lâm Giang vẫn thức trắng và ôm A Tú trong vòng tay. Cậu khóc nhiều đến nỗi không còn một giọt nước mắt. Chỉ có vài ngày sau mà Lâm Giang trông như thể là đã già đi vài tuổi.

Vào sáng sớm ngày thứ tư, A Tú đột nhiên tỉnh lại. Khi cô nhận thấy cô đang ở trong vòng tay của Lâm Giang, cô nức nở một cách yếu ớt: “Lâm Giang ca, muội e rằng muội không thể trở thành thê tử của huynh trong kiếp này. Huynh sẽ vẫn cưới muội trong kiếp sau chứ? Muội hứa rằng chúng ta sẽ lại đoàn tụ trong kiếp tới. Muội sẽ vẫn yêu huynh!”

Lâm Giang gào lên: “Ta muốn muội mãi mãi ở bên ta kể từ kiếp này. Kiếp này!”

“Muội e rằng muội không thể làm điều đó trong kiếp này. Lâm Giang ca, hãy bảo trọng! Muội đi đây!”

“Không! Không! Đừng bao giờ rời xa ta!” Lâm Giang lay thân thể của A Tú một cách lo lắng, nhưng mắt A Tú đã nhắm và cơ thể cô dần dần cứng lại…

Năm ngày sau, Lâm Giang mai táng A Tú dưới gốc một cây liễu ở bên ngoài thành. Ban đầu trời mưa lất phất, nhưng khi việc an táng đã hoàn tất, bầu trời dần trở nên trong sáng hơn. Trên bầu trời phía tây xuất hiện một chiếc cầu vồng vô cùng ngoạn mục. Để giữ hoài niệm về A Tú, Lâm Giang đặt bút viết một bài thơ:

Thanh mai trúc mã nguyệt trung hành,
A Tú dữ ngã hỗ tương kính,
Kim triêu nhữ dĩ hàm oan khứ,
Chỉ lưu Lâm Giang thân nhất nhân,
Nhữ thuyết dữ ngã trường tương bạn,
Nguyện nhữ thệ ngôn năng thành chân,
Sinh sinh thế thế thủ khiên thủ,
Tự tại như ý thế thượng hành!”

Diễn nghĩa:

“Thanh mai trúc mã đi dưới ánh trăng,
A Tú và ta kính trọng lẫn nhau,
Hôm nay nàng hàm oan ra đi,
Để lại Lâm Giang một thân một mình,
Nàng nói chúng ta sẽ mãi là bạn của nhau,
Ta hy vọng nàng sẽ giữ lời thề,
Đời đời vẫn nắm tay nhau,
Bước đi ung dung và như ý trên thế gian!”

Sau khi viết xong bài thơ, Lâm Giang định đốt nó đi. Nhưng trước khi cậu kịp đốt nó, tờ giấy bỗng bay lên không trung (mà không có cơn gió nào) rồi tự bốc cháy…

Sau khi trở về thị trấn, Lâm Giang tới Thuận Nghĩa Phường toan báo thù, nhưng người thanh niên kia đã rời khỏi thị trấn. Để hả giận, Lâm Giang phá hủy sòng bạc Thuận Nghĩa Phường. Sau đó người ta nói rằng người thanh niên kia đã chết ở tuổi 35 do thân thể suy nhược vì quá đam mê nữ sắc.

Lâm Giang cảm thấy vô cùng đau buồn khi ở tại Giang Nam, vì cậu luôn luôn nghĩ về A Tú. Cậu đã quyết định du hành tới vùng hoang mạc. Cậu nghĩ: “Tại nơi sa mạc này, sẽ không còn những tranh đấu thương tâm và âm mưu hiểm ác nữa.” Sau khi bái biệt người chú và phụ thân của A Tú, cậu lên đường đi về phía Tây Bắc. Cuối cùng cậu đến một nơi phụ cận vùng Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Gió bấc thổi quanh năm tại đây. Cậu đi qua một vài động đá với những bức tượng Phật đang xây dở. Sau khi cậu nhìn ngắm những bức bích họa và tượng Phật bằng đá đẹp đẽ này, cậu bắt đầu nảy sinh lòng sùng kính Phật.

Khi đi ngang qua một tu viện Phật giáo, cậu chạy tới bái kiến vị sư trụ trì, một người đức cao vọng trọng nhưng thái độ vô cùng khiêm nhường. Lâm Giang muốn ông thu nạp cậu làm đồ đệ, nhưng lão tăng nói: “Thí chủ có căn cơ phi phàm nhưng mang tâm phàm quá nặng. Vậy hôm nay ta thu nhận thí chủ làm đệ tử tục gia, vậy được chứ?”

“Tạ ơn Sư phụ!” Lâm Giang vừa khấu đầu vừa nói. Thế rồi Lâm Giang trở thành đệ tử tục gia của vị sư trụ trì tại hang Mạc Cao.

Vài ngày sau, Lâm Giang phát hiện thấy một dòng suối trong mát nằm ngay dưới chân núi cát. Dòng nước trong trẻo ấy tựa như đôi mắt mỹ lệ của A Tú. Khi nghĩ về A Tú, Lâm Giang lại cảm thấy vô cùng thống khổ trong lòng. Cậu nghĩ: “Ta đã phải bỏ nhà ra đi để thoát khỏi nỗi đau xa cách người mà ta hằng thương mến. Chẳng ngờ nỗi thống khổ này lại sâu sắc và nặng nề đến nhường ấy!” “Ta phải tu hành cho tốt!” Lâm Giang tự an ủi mình. Hai mươi năm sau, nỗi đau khi mất A Tú đã phai nhạt dần cùng với sự tu luyện của cậu. Ngay trước khi viên mãn, Lâm Giang có thể bay lượn trên không trung. Tuy nhiên, mỗi khi cậu nhìn thấy dòng suối hình trăng lưỡi liềm, cậu lại liên tưởng đến đôi mắt mỹ lệ và trong trẻo của A Tú. Kết quả là, cậu đã bỏ lỡ cơ hội đạt viên mãn. Cậu khóc trong nước mắt, và hối tiếc cho sự kém tinh tấn của bản thân mình. Ngay lúc ấy, một thanh âm to lớn vang vọng trên bầu trời:

Tu luyện tình vị tận,
Chẩm dạng lượng tâm tính?
Vô lậu phương khả thành,
Nhân yếu tái tinh tiến!”

Diễn nghĩa:

Tu luyện nhưng chưa bỏ được chữ ‘tình’,
Ta đánh giá tâm tính con thế nào đây?
Phải ‘vô lậu’ [3] mới có thể thành công,
Con lại phải tinh tấn lần nữa thôi!”

Cậu đột nhiên nhận ra rằng Sư phụ đã nói cậu “Căn cơ phi phàm nhưng tâm phàm quá nặng”, quả là đạo lý! Cậu đã phải trả một cái giá quá đắt chỉ vì chấp trước vào chữ ‘tình’! Cậu quỳ gối xuống đất với hai tay chắp trước ngực trong thế hợp thập rồi phát nguyện: “Nếu con có cơ hội tu luyện lần nữa trong Phật Pháp, con nhất định sẽ nắm chắc cơ hội và tu thành chính quả!” Sau khi nguyện đã phát ra, nguyên thần của Lâm Giang rời khỏi thân thể và tiếp tục đi vào vòng luân hồi chuyển thế…

Lời kết: Sau khi viết xong bài viết này, tôi cảm thấy nhân tố ‘tình’ trong tôi đã bị thanh lý đi nhiều. Cái cảm giác đau khổ khi phải vượt qua chữ ‘tình’ đã biến mất, đồng thời xuất lai một cảm giác được giải thoát khỏi nó. Tôi cảm thấy thật ung dung tự tại!

Chú thích của người dịch:

[1] “An Sử Chi Loạn”: cuộc phản loạn quy mô lớn đời nhà Đường, được cầm đầu bởi An Lộc Sơn (nguyên là một tiết độ sứ của Triều đình) và thuộc hạ là Sử Tư Minh. Cái tên ‘An Sử’ là lấy từ tên họ của hai người này ghép lại mà ra.

[2] ‘Thanh mai trúc mã’: Câu ‘Thanh mai trúc mã’ lấy lời và ý từ bài Trường Can hành của Lý Bạch (701 – 762) đời nhà Đường, ngụ ý tình cảm thắm thiết của lứa đôi.

[3] ‘Vô lậu’: Không còn thiếu sót, đối lập với ‘hữu lậu’ nghĩa là còn thiếu sót.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/9/29/34023.html
http://www.pureinsight.org/node/3432

The post Luân hồi ký sự: Cơn gió bấc tại Đôn Hoàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-con-gio-bac-tai-don-hoang.html/feed0
Luân hồi ký sự: Thông linh bảo ngọchttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-thong-linh-bao-ngoc.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-thong-linh-bao-ngoc.html#respondFri, 14 Aug 2009 20:05:41 +0000https://chanhkien.org/?p=2487Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] ‘Bảo ngọc’ mà tôi nói tới không phải là miếng ngọc bội quý giá được đeo bởi nhân vật Giả Bảo Ngọc trong truyện Hồng Lâu Mộng. Đó là một vật vô cùng quan trọng ở một trong những kiếp luân hồi của tôi. Câu chuyện bắt đầu từ phủ […]

The post Luân hồi ký sự: Thông linh bảo ngọc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] ‘Bảo ngọc’ mà tôi nói tới không phải là miếng ngọc bội quý giá được đeo bởi nhân vật Giả Bảo Ngọc trong truyện Hồng Lâu Mộng. Đó là một vật vô cùng quan trọng ở một trong những kiếp luân hồi của tôi.

Câu chuyện bắt đầu từ phủ Bảo Định, tỉnh Hà Bắc trong một ngày mùa hè dưới thời Chánh Đức (1505-1521 sau công nguyên) ở triều Minh. Một ngày, trong phủ tổ chức một buổi họp chợ lớn ngoài trời náo nhiệt mà thu hút rất nhiều người mua và người bán. Một lão nhân khoảng 60 tuổi cũng tới khu chợ. Bà đến từ một gia đình văn nhân và là người có học thức, nhưng sau này gia đình bà lụn bại dần. Chồng của bà chết 5 năm trước và bà đã mất liên lạc với con cái, không biết rằng chúng còn sống hay đã chết. Do vậy, bà phải tự chăm sóc lấy bản thân và thường tới khu phố để mua sắm vật dụng đã 5 năm nay. Hôm đó là một ngày nắng đẹp, nhưng sau đó trời bắt đầu đổ mưa phùn. Sau khi mua một vài vật dụng cần thiết, vị lão nhân vội vã trở nhà bà ở Ngọc Lâm Bảo, một khu ngoại ô cách phủ Bảo Định khoảng 65 dặm. Trên đường về nhà, cơn mưa phùn chuyển thành cơn mưa rào. Lão nhân trông thấy một ngôi miếu đổ nát bên đường và bà nhanh chóng chạy vào bên trong để trú mưa.

Sau khi lão nhân bước vào trong sảnh ngôi miếu, bà nhận thấy rằng đây là một ngôi miếu thờ Phật Di Lặc. Không có tăng nhân nào ở bên trong và mọi thứ đều bị phủ lên một lớp bụi dày. Dường như đây là một ngôi miếu bị bỏ hoang. Đột nhiên lão nhân nghe thấy tiếng một đứa bé đang khóc trên chiếc bàn dùng để đựng đồ cúng dường. Bà lần theo tiếng khóc và thấy một đứa bé trai được bọc trong một tấm chăn. Đứa bé trông thật thanh tú và khả ái. “Không biết ai đã để quên đứa bé này ở đây nhỉ?” lão nhân tự hỏi. Bà giở tấm chăn ra và trông thấy một bức thư cùng một đôi ngọc bội được giấu bên trong. Trong thư viết: “Tôi là một thiếu nữ thuộc một gia đình danh tiếng ở phủ Bảo Định. Phụ mẫu tôi đã hứa gả tôi cho một gia đình, do đó tôi không thể cưới người đàn ông mà tôi thực sự yêu. Một năm trước, tôi có hẹn hò với người đàn ông đó vào ban đêm và tôi đã có mang sau đó. Tôi vô cùng xấu hổ với chính mình. Tôi không thể về đối mặt với gia đình, nhưng tôi cũng không muốn trốn đi cùng người đàn ông kia. Tôi đã quyết định để lại đứa bé trước tượng Phật trong dịp họp chợ lớn [Họp chợ lớn – ‘đại tập’, trong tiếng Trung phát âm giống với ‘đại cát’ – may mắn lớn]. Tôi xin những người hảo tâm hãy thu nhận đứa bé này. Hài tử được sinh vào mùng 8 tháng đông năm ngoái. Tôi đã không được thấy nó được sinh ra với miếng ngọc bội bởi vì tôi bất tỉnh khi lâm bồn. Nhưng khi tỉnh dậy, tôi trông thấy miếng ngọc bội trên ngực nó. Đó phải là một kho báu quý giá. Có lẽ đó là dấu hiệu chỉ ra đứa bé đến từ một nơi rất cao. Tôi mong nó sẽ được mạnh khỏe và vượt qua mọi tai ương. Tôi đã để lại một chút vàng bạc làm phí tổn để nuôi nó trưởng thành. Sau khi tôi viết xong bức thư, có lẽ tôi sẽ gieo mình xuống sông tự vẫn. Chừng nào đứa bé tìm được một gia đình tốt nhận nuôi nó, tôi sẽ vui lòng nhắm mắt…”

Lão nhân bày tỏ cử chỉ thể hiện sự đồng cảm với người thiếu nữ xấu số. Rồi bà nhặt miếng ngọc bội lên và nhìn nó kỹ hơn. Đây là một miếng ngọc trong veo và đẹp đến nỗi không có một chút tỳ vết. Nó vô cùng tròn trịa và hơi lớn hơn đồng xu một chút. Có một cái lỗ tròn ở bên trong nó để người ta có thể xỏ một cái dây qua và dùng làm đồ trang sức. Sau khi xem xét kỹ càng, lão nhân nhận thấy có nhiều thứ đang chuyển động và cả các vị Thần ở bên trong miếng ngọc. “Đây phải là một miếng thông linh bảo ngọc [1],” lão nhân tự nói với chính mình. Bà bật khóc, bế đứa bé lên rồi cất miếng ngọc đi. Rồi bà nhìn qua cửa sổ và thấy cơn mưa rào đã tạnh. Bà nghĩ: “Chiếc chăn này quá mỏng. Nếu ta mang đứa bé ra ngoài trong một chiếc chăn mỏng thế này, nó sẽ bị cảm lạnh mất. Liệu còn cái chăn nào lớn hơn và dày hơn không nhỉ.” Và rồi một vệt sáng màu vàng kim xuất hiện. Một chiếc chăn bay từ trên trời xuống. Nó không quá dày hay quá mỏng. Nó không cháy khi bị quăng vào trong lửa. Nó cũng không thấm nước khi bị ném vào trong nước. Ngoài ra, có một ký tự “duyên” bằng tiếng Trung Quốc được thêu lên đó. Lão nhân nhanh chóng lượm tấm chăn lên. Lúc ấy bà đã tin rằng đứa bé phải đến từ trên thiên thượng. Với đứa bé trong tay, bà quỳ xuống rồi khấu đầu trước tượng Phật Di Lặc. Bà bảo đảm với Phật Di Lặc rằng bà sẽ chăm sóc tốt cho đứa bé. Rồi bà ẵm đứa bé về nhà của bà ở Ngô Linh Bảo.

Chăm sóc một đứa trẻ nhỏ thường là một công việc mệt nhọc và đòi hỏi cao. Nhưng đứa bé rất dễ thương và hiền lành. Nó hầu như không bao giờ khóc hay la hét om sòm. Nó lớn lên ngày qua ngày. Lão nhân vô cùng xúc động. Vì dường như đứa bé có một tiền duyên to lớn với Phật Di Lặc, bà đã đặt tên đứa bé là Thuận Duyên, có nghĩa là ‘tùy theo duyên phận’ ở tiếng Trung Quốc. Tiểu Thuận Duyên gọi vị lão nhân là ‘bà’. Lão nhân cười vui suốt cả ngày với nó như thể bà không thể hạnh phúc hơn khi có một đứa cháu trai. Bảy năm đã trôi qua nhanh chóng.

Một buổi trưa vào mùa xuân, trong khi tiểu Thuận Duyên đang chơi đùa trong sân nhà, một tăng nhân đi vào sân với một cái bát khất thực cầm trên tay phải. Vị tăng nhân trông rất uy nghiêm và có một thần thái vô cùng ngay chính. Tiểu Thuận Duyên nhận thấy ông rất quen thuộc và tiến đến bên ông. Nó cầm tay ông rồi dẫn ông vào trong nhà. Nó gọi lão nhân: “Bà ơi, chúng ta có khách! Chúng ta có khách!” Lão nhân dừng việc nấu ăn và rồi chạy ra ngay. Khi bà trông thấy một tăng nhân đang khất thực, bà bèn mời ông vào trong. Vị tăng nhân rất thẳng thắn và cởi mở. Ông ngồi trong phòng khách rồi nói với bà: “Tôi tới đây để xin một bữa ăn và để nói một chuyện quan trọng. Bà phải dưỡng dục đứa trẻ thật tốt bằng cách dạy nó lễ nghĩa để nó trọng đức hành thiện. Bằng cách này, khi thập ác [2] đầu độc thế gian, tiền duyên với Phật Pháp của nó sẽ khởi tác dụng và lại dẫn nó đến với Phật Pháp, và cả hai người sẽ được đắc độ khi đức Chuyển Luân Thánh Vương ở cõi người. Tôi hy vọng rằng bà sẽ chú ý đến những lời tôi nói. Hãy nhớ lấy! Hãy nhớ lấy!” Lão nhân hỏi: “Đây có phải là thế giới thập ác trong thời kỳ mạt pháp và Phật Thích Ca Mâu Ni đã đề cập tới không?” Vị tăng nhân đáp: “Thiên cơ không thể tiết lộ. Bà sẽ biết khi thời điểm tới. Thật bất ngờ, mẹ của đứa bé vẫn còn sống. Cô ấy đã trở thành một ni cô và tu hành trong một nữ tu viện Phật giáo. Đừng nghĩ đến chuyện tìm cô ấy bây giờ vì tất cả sẽ có cơ hội nghe đức Chuyển Luân Thánh Vương giảng Phật Pháp.” Sau khi nói xong những lời này, ông bước đi với một bát đựng đầy cơm và rồi mất hút trong tầm mắt.

Vị lão nhân nghĩ về việc làm sao bà có thể giáo dục Thuận Duyên cho tốt trong suốt đêm hôm đó và cuối cùng bà nhớ rằng chồng bà biết một tiên sinh họ Triệu ở phủ Bảo Định, người đã từng là thầy dạy học. Triệu viên ngoại là người rất hiền đức và có học vấn uyên bác. Bà nhân cơ hội buổi họp chợ lớn để tới phủ Bảo Định và bà cũng đưa Thuận Duyên đi cùng để gặp Triệu viên ngoại. Sau khi bà kể chi tiết cho Triệu viên ngoại nghe câu chuyện về Thuận Duyên kể từ ngày bà nhận nuôi, Triệu viên ngoại đồng ý dạy học cho Thuận Duyên tại nhà ông ngay lập tức. Kể từ ngày đó, Thuận Duyên ở cùng với Triệu viên ngoại để được ông dạy dỗ tại nhà. Triệu viên ngoại dạy cậu bé các kiến thức về kinh điển và lễ nhạc. Trong thời gian rảnh rỗi, Thuận Duyên giúp các việc lặt vặt cho gia đình Triệu viên ngoại như là quét tuyết và nhổ cỏ, và được cả ông cùng gia đình ông quý mến. Khi Thuận Duyên lên 13 tuổi, một bệnh dịch lan khắp các thôn trang quanh phủ Bảo Định. Lão nhân bị nhiễm bệnh và qua đời. Trước khi bà qua đời, Triệu viên ngoại đưa Thuận Duyên đến thăm bà. Bà nhân cơ hội đưa lại bức thư từ người mẹ đẻ của Thuận Duyên, miếng ngọc bội cùng tấm chăn khác thường cho Thuận Duyên và nói cậu bé đừng bao giờ để mất chúng. Bà cũng nói cậu bé phải trở thành một người có học thức và là người tốt. Điều quan trọng nhất là, bà nói với Thuận Duyên rằng cậu bé phải đắc Pháp khi đức Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế phổ truyền Pháp và họ sẽ gặp lại nhau lúc đó. Không lâu sau khi họ gặp gỡ, lão nhân qua đời. Khi Thuận Duyên nghe tin, cậu bé đã phải vượt qua nỗi buồn này. Cậu bé chôn cất lão nhân trong nước mắt và vái ba vái trước mộ của bà.

Sau khi Thuận Duyên trở về từ mộ của bà, Triệu viên ngoại nói: “Con ơi, con cực kỳ xuất chúng và đã vượt qua ta. Ta biết một cao nhân họ Tăng là người có học thức cao và rất tài năng. Tiên sinh sống cách đây 100 dặm. Ta đã quyết định đặt con dưới sự giám hộ của tiên sinh. Tăng tiên sinh thực ra là một tu sĩ Phật gia. Ông rất tinh thông về thiên văn, lịch sử và pháp thuật, nhưng ông không phải là một tăng nhân. Thực ra, tiên sinh có gia đình với vợ và một đứa con gái. Con gái ông ngang tầm tuổi con. Ông ấy có nhiều điều hơn là một ẩn sĩ sống trong một túp lều tranh. Con sẽ thấy điều ta nói khi con đến đó. Thực ra, ‘túp lều tranh’ đó còn hơn cả nhà của ta. Ông ấy cũng có rất nhiều bạn bè. Tại sao con không gói ghém mọi thứ ngay ngày hôm nay? Chúng ta sẽ xuất phát vào ngày mai.” Thuận Duyên nói: “Con sẽ không bao giờ quên ơn bác như là người từ tâm lớn với con. Nhưng sau khi con rời đi, ai sẽ đến quét tuyết và nhổ cỏ cho bác?” “Con ngốc ơi. Đây là lỗi của ta khi không học đủ rộng để dạy dỗ con. Để nói với con sự thật, ta cảm thấy rất miễn cưỡng. Ta có một ý này. Khi con đắc Pháp từ đức Chuyển Luân Thánh Vương vào thời mạt pháp, con phải nói với ta điều đó để ta cũng có thể đắc Pháp. Con nghĩ sao?” Thuận Duyên đáp: “Con sẽ làm vậy. Nếu bác không tin tưởng con, hãy bắt tay để giữ lời hứa.” Thuận Duyên cuối cùng ngừng khóc và cười lên trong hạnh phúc.

Ngày hôm sau, tiểu Thuận Duyên và Triệu viên ngoại đi trên một chuyến xe ngựa đến nhà Tăng tiên sinh. Sau khi họ đến nơi, khi Triệu viên ngoại sai người ở gõ cửa thì Tăng tiên sinh bất ngờ xuất hiện trên bục cửa và bái kiến họ. Tăng tiên sinh nói: “Tôi biết ông sẽ đến hôm nay! Thật là một chuyến đi dài!” “Xin mời vào!” Tăng tiên sinh nói. Khi mọi người an tọa và uống trà, Tăng tiên sinh giải thích với họ về điều đã xảy ra.

Tiên sinh nói: “Ngày hôm qua, vợ tôi, con gái tôi và tôi mỗi người đều có một giấc mơ về miếng ngọc quý. Ông biết rất rõ về gia đình tôi, nhưng có một điều quan trọng mà ông chắc hẳn không biết. Vào ngày mà con gái tôi sinh ra, một miếng ngọc bội xuất hiện trên ngực của nó. Sau khi con gái tôi biết nói, nó nói với tôi rằng đó hẳn phải là một đôi ngọc bội mà miếng kia thuộc về một người khác. Đêm hôm qua, con gái tôi nằm mơ thấy một đôi ngọc quý được treo trên hành lang nhà tôi. Tôi thì nằm mơ thấy hai đứa trẻ đang chơi đùa bên Điện Ngọc trên Thiên Đình. Rồi một giọng nói âm vang và mạnh mẽ vang lên từ trên thiên thượng: ‘Ta sẽ đi phổ truyền Pháp nơi cõi người. Những ai muốn nghe đức Chuyển Luân Thánh Vương giảng Pháp nơi cõi người phải xuống thế giới con người cùng ta!’ Rồi hai đứa trẻ quỳ xuống và phát nguyện xuống thế giới con người. Để gặp lại nhau nơi cõi người, chúng đã mang theo một đôi ngọc bội để chúng có thể tìm thấy nhau. Khi tôi tỉnh giấc vào buổi sáng, tôi có một linh cảm rằng những vị khách quý sẽ tới nhà tôi hôm nay. Ông thấy không? Ông đã tới đây hôm nay!” Triệu viên ngoại ngạc nhiên đến sững cả người. Ông khó có thể tin được một điều kỳ lạ như thế có thể xảy ra trên thế gian này. Tăng tiên sinh hỏi: “Thuận Duyên có mang miếng ngọc theo bên mình không? Tôi có thể xem nó không?” Thuận Duyên bèn lấy miếng ngọc từ trong túi và kể cho Tăng tiên sinh nghe về câu chuyện từ khi cậu bé sỉnh ra. Tăng tiên sinh xem xét miếng ngọc hết sức cẩn thận. Ông la lên: “Nó giống hệt với miếng ngọc bội của con gái tôi!” Sau khi nghe xong câu chuyện của Thuận Duyên, ông gọi vợ và con gái ra để gặp họ.

Ngay khi tiểu Thuận Duyên trông thấy con gái của Tăng tiên sinh, Tiểu Như, cậu bé hành xử như thể cậu bé cuối cùng đã tìm thấy thân nhân trong gia đình, người mà đã xa cách trong một thời gian dài. Cậu bé bật khóc và không thể thốt lên lời nào. Tiểu Như cũng xúc động không kém. Sau khi quan sát phản ứng của hai đứa trẻ, Tăng tiên sinh tuyên bố: “Không phải nói thêm câu nào nữa. Kể từ bây giờ, Thuận Duyên là con rể ta. Ta sẽ cho Tiểu Như thành thân với cậu bé khi nó lớn lên. Khi Thuận Duyên vượt qua được kỳ thi khoa cử, chúng ta sẽ làm đám cưới. Ta chắc chắn sẽ khiến Thuận Duyên trở thành một đấng trượng phu có học vấn và đạo đức.” Sau khi từ biệt Triệu viên ngoại, Tăng tiên sinh bắt đầu dạy Thuận Duyên các kinh điển của đạo Khổng, lễ nhạc, phương pháp tu luyện của Phật gia và thậm chí là cả pháp thuật Đạo giáo.

Khi Thuận Duyên lên 18 tuổi, Tăng tiên sinh cho cậu tham dự kỳ thi khoa cử. Tăng tiên sinh có hai mục đích. Ông muốn Thuận Duyên đạt được công danh. Ngoài ra ông cũng muốn Thuận Duyên giúp Triều đình khôi phục lại lễ nghĩa trong thiên hạ. Thuận Duyên đã vượt qua được kỳ thi hương, thi hội rồi tới thi đình. Cậu đậu kỳ thi đình ở vị trí thứ hai (bảng nhãn). Điều đó xảy ra khi Bộ Lễ còn khuyết một chức quan, và cậu được bổ nhiệm làm chức Lễ Bộ Thị Lang. Trước khi cậu nhậm chức, cậu trở về phủ Bảo Định thăm lại Triệu viên ngoại và cưới Tiểu Như. Trước khi cậu và Tiểu Như đi nhận chức vụ, Thuận Duyên nói với Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân rằng: “Nhạc phụ, nhạc mẫu, tại sao hai người không đi cùng chúng con và tận hưởng vinh hoa phú quý?” Tăng tiên sinh đáp: “Mẹ và cha các con đã quen sống trong túp lều tranh này. Chúng ta không thích thú cuộc sống nơi thế gian. Giờ con gái ta đã trở thành vợ của con. Ta mong con sẽ đối xử tốt với nó. Nhưng ta nghĩ ta cần xây thêm hai túp lều tranh nữa. Có như vậy, các con mới có chỗ để ở khi các con về. Hãy bảo trọng!” Thuận Duyên cùng Tiểu Như quỳ xuống và khấu đầu trước Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân. Rồi họ lên xe ngựa và rời đi. Tăng phu nhân rất buồn và không muốn phải xa họ. Bà lầm bầm với chính mình: “Khi nào thì chúng trở về?” Tăng tiên sinh nói với vợ một cách lạc quan: “Chúng sẽ trở về. Chúng chắc chắn sẽ trở về.” Trên đường tới Bắc Kinh, Thuận Duyên và Tiểu Như đi ngang qua Ngô Linh Bảo, nơi cậu đã từng sống với lão nhân. Thuận Duyên tu sửa lại ngôi mộ của lão nhân và xây một ngôi đền nhỏ ngay cạnh đó. Cậu cũng cử người chăm lo cho ngôi mộ cả ngày lẫn đêm.

Tại Triều đình, Thuận Duyên nhận chức chức Lễ Bộ Thị Lang và đã góp công lớn trong việc khôi phục lễ nhạc của quốc gia. Không may thay, sau này khi đạo đức xã hội suy đồi, nhân tâm biến dị, các tham quan đã giành được quyền lực. Thuận Duyên không thể làm gì hơn. Khoảng mười năm sau, Thuận Duyên từ quan quy ẩn. Cậu và Tiểu Như trở về ngôi nhà của Tăng tiên sinh. Ngay khi họ về đến cửa, Tăng tiên sinh nói: “Đúng như ta đã nói với các con, các con sẽ trở về vào một ngày nào đó. Ta đã xây hai túp lều tranh cho các con. Tại sao hai con không chung sống với chúng ta nốt phần đời còn lại? Trong kiếp tới và các kiếp sau, chúng ta sẽ được gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương và đắc Pháp.” Kể từ đó, Thuận Duyên và Tiểu Như sống trong túp lều tranh mới xây và vui thú điền viên trong phần đời còn lại.

Lời kết:

Tôi đã viết bài viết này trong nước mắt. Việc biết được bao nhiêu khó nạn mà tôi đã phải chịu đựng để đắc được Pháp đã làm tôi cảm kích hơn trước sự khó nhọc mà Sư Phụ đã phải chịu đựng để phổ truyền Pháp. Các bạn đồng tu, chúng ta đã không đắc được Pháp nếu Sư Phụ không trông chừng chúng ta hay nếu chúng ta không chịu đựng rất nhiều đau khổ trong các kiếp trước! Đây là một tiền duyên cao cả và thiêng liêng mà chỉ đến một lần từ vạn cổ! Hãy cố gắng tiến bước cùng nhau trong tu luyện và trở về mái nhà yêu quý của chúng ta.

Cuối cùng, tôi sẽ nói với các bạn những nhân vật trên là ai trong kiếp này. Thuận Duyên là tôi. Tiểu Như là một bạn đồng tu mà tôi gọi là “chị gái thứ hai” của tôi. Vị tăng nhân đó chính là Sư Phụ trong kiếp này. Tôi không rõ có phải Tăng tiên sinh cũng chính là Sư Phụ trong kiếp đó hay không. Còn về Triệu viên ngoại và vị lão nhân, họ đều đã đắc Pháp. Tôi đã gặp “lão nhân” chỉ một tháng trước đây. Ngay khi tôi gặp cô ấy, tôi cảm thấy rất thân thuộc nhưng tôi không biết loại tiền duyên nào mà chúng tôi có. Một đêm tôi bước vào một giấc mộng dài. Bài viết này chính là phần tổng kết những hình ảnh trong giấc mơ của tôi. Người thiếu nữ đã sinh ra Thuận Duyên và cố gắng tự vẫn đó đã trở thành mẹ của tôi trong kiếp này, cho thấy không ai có thể thoát khỏi quan hệ nhân duyên.

Khi thời gian cho phép, tôi sẽ biên soạn và xuất bản những câu chuyện về những kiếp sống khác của tôi. Để bài viết không quá dài, tôi xin dừng bút tại đây. Nếu các bạn không tin tôi, hãy chỉ coi nó là một câu chuyện thần thoại.

Chú thích của người dịch:

[1] Thông linh bảo ngọc: Thứ ngọc quý giá và linh thiêng.

[2] Thập ác: Mười điều ác, điều Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến thế giới con người trong thời mạt pháp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/8/24/33582.html
http://www.pureinsight.org/node/3277

The post Luân hồi ký sự: Thông linh bảo ngọc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-thong-linh-bao-ngoc.html/feed0
Luân hồi ký sự: Thầy tu trên sông Hằnghttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-thay-tu-tren-song-hang.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-thay-tu-tren-song-hang.html#respondSat, 08 Aug 2009 18:04:29 +0000https://chanhkien.org/?p=2441Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Hiện tại, Pháp Luân Đại Pháp đang bị bức hại tại Trung Quốc đại lục. Các học viên Đại Pháp đã trụ vững trước áp lực to lớn, dưới ma nạn chưa từng có tiền lệ này mà đứng vững trong một vài năm qua. Có rất […]

The post Luân hồi ký sự: Thầy tu trên sông Hằng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời mở đầu: Hiện tại, Pháp Luân Đại Pháp đang bị bức hại tại Trung Quốc đại lục. Các học viên Đại Pháp đã trụ vững trước áp lực to lớn, dưới ma nạn chưa từng có tiền lệ này mà đứng vững trong một vài năm qua. Có rất nhiều câu chuyện anh dũng và truyền cảm từ các học viên Đại Pháp. Bài viết này nhằm điểm lại dưới khía cạnh lịch sử và khám phá về việc chúng ta đã tu luyện kiên định chính mình như thế nào trong những đời trước. Câu chuyện này có thể xóa sạch hết thảy cát bụi trong tâm thức chúng ta, cho phép chúng ta tu luyện tinh tấn, thăng tiến hơn nữa trong thời khắc cuối cùng của Chính Pháp, và để chúng ta thực sự trân quý cơ hội khó gặp khi được tu luyện trong Chính Pháp!

* * * * * * * * * *

Khi đề cập đến sông Hằng, người ta có thể liên tưởng ngay đến đất nước Ấn Độ cổ. Đức Thích Ca Mâu Ni đã bắt đầu truyền Pháp của Phật giáo tại đất nước Ấn Độ cổ vào khoảng hai ngàn năm trăm năm trước đây. Sau khi đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và rời khỏi địa cầu, Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng, với sự ủng hộ và quảng bá của vua A Dục (Ashoka) cùng triều đại Mauryan. Hàng trăm năm sau, do những người trị vì sau đó tại Ấn Độ đã bắt đầu cấm Phật giáo, và cũng do các đồ đệ của đức Thích Ca đã trộn lẫn những nguyên lý của Bà La Môn giáo và các tôn giáo nguyên thủy khác vào Pháp của Phật giáo, Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca đã dần dần suy hoại.

Vào khoảng thời gian đó, có một người đàn ông hào hoa phong nhã sống trong lưu vực sông Hằng. Ông sở hữu một trang viên và sinh sống bằng cách trồng cây ăn quả. Ông kiên trì ủng hộ Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca và tu luyện bằng cách chiểu theo nghiêm ngặt Pháp của đức Thích Ca. Một ngày, vợ của ông sinh hạ được một quý tử. Bởi vì người theo Phật gia rất thích hoa sen, cho nên họ đã đặt tên đứa bé là Ailianduo (Ái Liên Hoa), trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là người rất thích hoa sen.

Sau khi đứa trẻ sinh ra, cha nó bế nó và mang tới một bức tượng Phật Tổ. Ông chắp tay trong thế hợp thập và nói: “Hôm nay, con hiến dâng đứa con trai của con cho Đức Phật, với hy vọng rằng Phật sẽ gia trì và cấp cho nó một con đường tu luyện tốt đẹp trong tương lai, để nó có thể rời khỏi Tam Giới, và đắc Chính Quả!” Vào thời điểm đó, Ái Liên Hoa mở to đôi mắt rất sáng và đang chớp chớp của nó, rồi bỗng nhiên nói: “Con sẽ kiên định một lòng tu hành theo ý nguyện của Phật Tổ! Cuộc đời của con sẽ trở nên vô nghĩa nếu con không thể rời khỏi Tam Giới!” Cha đứa bé sửng sốt đến nỗi ông suýt lỡ tay đánh rơi đứa bé xuống nền nhà. Cha đứa bé đột nhiên nhận ra rằng Ái Liên Hoa vừa mới mở miệng nói và nó đã phát nguyện tu hành. Ông ngay lập tức khấu đầu trước tượng Phật Tổ và liên tục dập đầu xuống sàn để thể hiện lòng tôn kính với đức Phật.

Ái Liên Hoa lớn lên trong môi trường tu hành Phật Pháp. Nó có một sự nhận thức rõ ràng về Phật Pháp thậm chí ngay từ khi còn rất nhỏ, và có rất nhiều thần thông. Khi lên 12 tuổi, cha của nó gửi nó tới một ngôi chùa gần đó, nơi nó trở thành vị thầy tu trẻ tuổi nhất ở đó. Trong chùa, nó học cách tụng kinh và kiên định trì giới tu hành. Trong thời gian rỗi, nó cũng bổ củi và chuẩn bị bữa ăn cho các hòa thượng khác trong chùa. Nó đã thực sự trở thành một “tiểu hòa thượng.”

Vì nơi đó thuộc vùng Nam Á, nên thời tiết đôi lúc rất nóng. Trong mùa mưa, mưa nặng hạt liên tục không dừng. Khi Ái Liên Hoa lên 18 tuổi, cả ngôi chùa gần như bị đổ sập trong một trận mưa bão dữ dội, ngoại trừ ngôi nhà nơi nó và vị sư trụ trì đang ở. May mắn thay, tất cả hòa thượng khác trong chùa đều ở bên ngoài vào thời điểm đó, và chỉ có Ái Liên Hoa và vị sư trụ trì, người gần 80 tuổi, là ở trong chùa. Sau khi trận mưa bão qua đi, những hòa thượng khác trở về và thấy ngôi chùa đã bị hư hại nghiêm trọng. Họ trở nên lo lắng. Phải cần một dự án lớn để xây dựng lại ngôi chùa! Phải cần biết bao nhiêu tiền mới có thể đủ để trùng tu lại ngôi chùa đó! Phải cần biết bao nhiêu thời gian để họ ra ngoài xin ăn và của bố thí! Vì vậy, tất cả hòa thượng khác đều lần lượt ra đi. Không lâu sau, vị sư trụ trì viên tịch, và Ái Liên Hoa trở thành người duy nhất còn sót lại trong ngôi chùa.

Nhìn ngôi chùa đổ nát, một cảm giác mạnh mẽ xuất hiện trong tim của Ái Liên Hoa. Không từ ngữ nào có thể mô tả được cảm giác đó. Nó tự nghĩ rằng: “Thế giới con người mới ngắn ngủi và bấp bênh làm sao! Trước sức mạnh của thiên nhiên, con người và mọi thứ được con người xây dựng thật quá nhỏ bé và kém cỏi. Thêm vào đó, tu luyện Phật Pháp là nghiêm túc phi thường. Ngôi chùa đổ nát là một khảo nghiệm cho chúng ta và đã phơi bày được rất nhiều tâm người thường. Ta không nên rời khỏi đây bằng bất cứ giá nào. Có lẽ đây là quan ải của Phật nhằm khảo nghiệm xem ta kính trọng Phật đến đâu và ta tin vào Phật đến đâu.” Kể từ đó, nó bắt đầu đi ra ngoài và lang thang để xin ăn và hóa duyên. Bất cứ địa phương nào nó đến, nó đều thuyết giảng Pháp của Phật giáo cho mọi người, cùng lúc xin quỹ để xây dựng lại ngôi chùa và trùng tu tượng Phật.

Trong bốn hay năm năm sau đó, nó đã đi khắp vùng cao nguyên Deccan. Những nguy hiểm luôn theo sau rình rập nó. Bị người đời nhạo báng, chế giễu và thậm chí là nguyền rủa, nhưng nó đều không động tâm. Khi sự quyết tâm của nó là không đủ, Phật thường triển hiện và cho nó điểm hóa cùng những chỉ dẫn, làm nó tăng cường tín tâm và kiên định thực hiện sứ mạng. Cuối cùng, sau khi nó đã tích trữ đủ tài vật để trùng tu ngôi chùa, Ái Liên Hoa khám phá ra rằng ngôi chùa đã trở nên ngày càng huy hoàng và trang nghiêm hơn (nhưng bề ngoài của ngôi chùa vẫn đổ nát). Nó tự nghĩ: “Đây phải là một sự khích lệ từ đức Phật.”

Trong vòng vài ngày, một trận lụt xảy ra ở gần đó và tất cả nhà cửa của dân làng trong vùng phụ cận đều bị phá hủy. Tuy nhiên, ngôi chùa xiêu vẹo không chỉ không đổ sập xuống, mà nó còn trở nên huy hoàng hơn. Những bức tường lớn và phòng ốc trở nên đẹp hơn so với lần mà Ái Liên Hoa tới ngôi chùa lần đầu tiên, như thể nó đã được trùng tu lại mới. Ái Liên Hoa nhận ra rằng đây là sức mạnh của Phật Tổ. Do đó nó quỳ xuống và nói: “Xin cảm ơn Người, Phật Tổ. Con sẽ sống vì Phật, sẽ tu hành tốt và sẽ dũng mãnh tinh tấn!”

Sau đó, nó đi ra khỏi ngôi chùa và nhìn thấy cảnh đau khổ của dân làng. Nó đã khóc. Nó nghĩ: “Tại sao ta không lấy tài vật mà ta đã xin để trùng tu ngôi chùa đem cho người dân làng để họ xây lại nhà của họ?” Vì vậy nó đã gọi những người dân làng quanh đó lại và nói: “Tất cả tài vật này đáng lẽ dùng để xây lại ngôi chùa, nhưng Phật Tổ từ bi đã dùng Phật lực để trùng tu lại nó. Ta muốn đưa lại những tài vật này cho mọi người để mọi người xây lại nhà cửa. Hãy biết ơn sự từ bi của Phật Tổ!” Mọi người đều rất cảm động và sau đó tất cả họ đều trở thành tín đồ Phật giáo.

Sau đó, một trong những cận thần của Quốc vương đã nghe được sự triển hiện từ bi của đức Phật. Người cận thần này có một thuộc hạ là tu sĩ Bà La Môn giáo. Vị tu sĩ này rất độc ác, nham hiểm và đầy lòng đố kỵ. Khi người cận thần hỏi ông ta về sự hiển hiện từ bi của đức Phật, tu sĩ Bà La Môn giáo này ngay lập tức đề nghị rằng người cận thần nên đến gặp Quốc vương, cầu xin Quốc vương ủng hộ Bà La Môn giáo trên diện rộng, xóa bỏ Phật Giáo của đức Thích Ca, và buộc Ái Liên Hóa phải cải sang Bà La Môn giáo. Quả nhiên vị Quốc vương đần độn này đã chấp nhận lời kiến nghị của người cận thần. Vì vậy ông đã ra một chiếu thư, trong đó Quốc vương cấm tất cả mọi người trong Vương quốc tin vào Phật giáo, bắt tất cả mọi người cải sang Bà La Môn giáo, và yêu cầu người dân hiến tế trinh nữ trong những nghi lễ tạ thần Bà La Môn. Bất cứ ai dám vi phạm sắc lệnh đều bị chém đầu ngay lập tức. Những lời kêu oán vang khắp đất nước sau khi sắc lệnh được ban ra. Hầu hết những người tin theo Phật giáo đều đã cải đạo. Chỉ có Ái Liên Hoa và vài chục vị hòa thượng khác là từ chối nghe theo sắc lệnh. Họ vẫn kiên định tin vào Pháp của đức Thích Ca. Vì những người này trái lệnh, nên đích thân người cận thần kia cùng vài thuộc hạ đã tới để giết Ái Liên Hoa cùng những người khác. Ái Liên Hoa không hề sợ hãi trước cường quyền bạo ngược, nó vẫn từ bi khuyên nhủ họ không nên hủy hoại Phật Pháp. Nó nói với họ rằng nếu họ tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa, họ sẽ bị rớt xuống A Tỳ Địa ngục. Họ không hề nghe lời Ái Liên Hoa. Ái Liên Hoa đã đưa bàn tay ra cho họ. Họ đã cắt đi cả mười ngón tay của Ái Liên Hoa, sau đó là chặt đầu và chặt đứt tay chân nó. Khi họ làm xong, họ có dáng vẻ rất nghênh ngang. Tuy nhiên không lâu sau những phần cơ thể của Ái Liên Hoa xuất hiện trở lại và nó đang ngồi trên một tấm nệm. Phần cơ thể mà đã bị phanh thây bởi những kẻ độc ác kia chỉ là “thân giả” do nó diễn hóa ra. Điều kỳ diệu này làm xáo động những người dân làng gần xa, và ngày càng nhiều người hơn tin vào Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca.

Khi tin tức đến tai của những kẻ độc ác, chúng vô cùng giận dữ. Vào một đêm trăng sáng và trời lác đác sao, chúng đột nhập vào phòng của Ái Liên Hoa. Khi ấy, Ái Liên Hoa đang ngồi trong định và nó không hề có một tạp niệm nào trong tâm trí. Nó biết rằng chúng đã vào trong nhưng nó không hề chú ý đến chúng. Thay vào đó, nó thấy Phật đang hiện ra phía trước mặt và nghiêm túc nhìn nó, và điều này đã làm nó tăng thêm tín tâm trong tu luyện. Do đó nó vẫn tiếp tục thiền định. Những kẻ tà ác này nghĩ rằng thật là một cơ hội tốt. Chúng đã mang vũ khí vào và bước tới đằng sau nó. Chúng đã cắt đi tay chân của Ái Liên Hoa. Ngay khi chúng đang ăn mừng thắng lợi, chúng khám phá ra rằng cơ thể của chúng đã nhanh chóng bị hạ xuống A Tỳ Địa ngục. Nhiều người trong số họ vẫn còn ở nơi đó cho đến tận hôm nay. Mặc dù vài người trong số họ đã được đầu thai trở lại, họ vẫn làm nhiều điều xấu nhằm phá hoại Đại Pháp trong đời này. Họ đã bị hình thần toàn diệt. Tuy nhiên, kiếp số của họ vẫn chưa hết vì Chính Pháp vẫn chưa kết thúc, nên họ vẫn chưa bị tiêu hủy.

Trong khi đối mặt với khảo nghiệm sinh tử, Ái Liên Hoa đã chọn đức tin chân chính và kiên định, cho nên nó đã bước lên một đài sen, bay ra khỏi Tam Giới, và tới miền đất tịnh độ của Phật quốc!

Đúng là:

Đô thuyết tu luyện khổ hựu nan
Nhân tâm tư niệm trọng trọng lan
Khảo nghiệm diện tiền sinh tử đoạn
Túc thừa liên hoa phi cửu thiên!

Diễn nghĩa:

Tất cả đều nói tu luyện vừa khó khăn vừa gian khổ
Tâm người thường và ý niệm ích kỷ chắn hết đường
Khảo nghiệm xem có xả bỏ được [chấp trước] sinh tử hay không
Bước lên đài sen và bay lên chín tầng trời!

Lời kết: Mục đích của bài viết này không phải là để tuyên dương điều gì cả, mà là để kể lại việc chúng ta đã kiên định trong chính tín với Phật Pháp như thế nào khi chúng ta tu luyện ở những đời trước trong lịch sử.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/10/15/34224.html
http://www.pureinsight.org/node/3459

The post Luân hồi ký sự: Thầy tu trên sông Hằng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-thay-tu-tren-song-hang.html/feed0
Luân hồi ký sự: Số phận của một Hoàng tử Minoanhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-so-phan-cua-mot-hoang-tu-minoan.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-so-phan-cua-mot-hoang-tu-minoan.html#respondWed, 05 Aug 2009 21:47:55 +0000https://chanhkien.org/?p=2391Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Trong kiếp sống hiện tại, tôi có một chấp trước rất xấu – Tôi đôi khi cảm thấy tự ti và muốn bỏ rơi chính mình. Nó dường như là một quan niệm đã được hình thành từ khi tôi sinh ra. Sau khi tôi bắt đầu […]

The post Luân hồi ký sự: Số phận của một Hoàng tử Minoan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời mở đầu: Trong kiếp sống hiện tại, tôi có một chấp trước rất xấu – Tôi đôi khi cảm thấy tự ti và muốn bỏ rơi chính mình. Nó dường như là một quan niệm đã được hình thành từ khi tôi sinh ra. Sau khi tôi bắt đầu tu luyện, tôi đã có thể loại bỏ được nó khá nhiều. Nhưng nó vẫn còn trỗi dậy hết lần này đến lần khác. Khi chính niệm của tôi không đủ mạnh, nó có thể khống chế tôi tới mức tôi gần như phát điên. Đây dường như là nhân tố biến dị lớn nhất nằm trong tôi. Không phải mới đây tôi mới nhận ra được nguồn gốc của chấp trước biến dị nhất này. Thực ra tôi biết rằng tôi không nên mang theo tâm thái này khi viết về nền văn minh Hy Lạp cổ đại trong lần đầu tiên. Nó thật không thích hợp. Nhưng tôi thấy không còn cách nào khác. Tôi đã quyết định viết ra kinh nghiệm của mình, với hy vọng rằng điều này sẽ thực sự loại bỏ nhân tố rất xấu này trong tôi. Nó không phải là một điều nên làm. Tôi hy vọng rằng, các bạn đọc, các bạn có thể tha thứ cho tôi.

Nền văn minh cổ Hy Lạp là một chương sáng trong lịch sử văn minh nhân loại chu kỳ này. Đảo Crete (Κρήτη) ở vùng biển Aegean được coi là nơi phát xuất nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Đế chế Minoan được tìm thấy trên hòn đảo này tồn tại trước hay vào khoảng năm 1.800 trước công nguyên. Người ta vẫn nhận thấy sự huy hoàng của những Cung điện Hoàng gia từ những tàn tích. Từ đó, người ta có thể có một cái nhìn tổng quan về sự thịnh vượng của nền văn minh này vào thời kỳ cực thịnh của nó.

Khoảng năm 1.700 trước công nguyên, Hoàng tử của Đế chế Minoan có tên là Tuyên Ân [Chú thích: Tất cả tên nhân vật trong câu chuyện này đều được phiên sang tiếng Hán Việt]. Anh là một người rất tốt bụng và lạc quan. Anh có một trái tim nhân hậu và một tấm lòng khoan dung độ lượng. Lúc ấy, Đế chế Minoan rất hùng mạnh. Những tiểu quốc quanh đó phải triều cống cho Đế chế hàng năm. Tuyên Ân có một người chú tên là Diệc Hãn, người già hơn anh 10 tuổi. Diệc Hãn có bề ngoài rất hiền lành và tốt bụng, nhưng thực ra ôngta rất độc ác và vô cùng nham hiểm.

Một lần, nhà Vua cùng với tướng sĩ đi tới phía Bắc Hy Lạp để đánh dẹp một cuộc nổi dậy. Diệc Hãn cố gắng sai người ám sát nhà Vua nhưng không thành công. Sáu tháng sau, nhà Vua an toàn trở về. Lúc ấy, Tuyên Ân, vị Hoàng tử, đang trên đường du ngoạn nơi bờ biển Aegean và gặp một thiếu nữ có tên là Ngải Luân. Cô là con gái của một người chài cá. Cô xinh đẹp mỹ lệ như một thiên thần. Tuyên Ân lập tức phải lòng cô. Họ đã ở bên nhau và cảm thấy rất tâm đầu ý hợp. Diệc Hãn trở nên ganh tỵ. Ông ta bắt đầu âm mưu chiếm đoạt Ngai vàng và chia rẽ Tuyên Ân cùng với Ngải Luân.

Một ngày, Tuyên Ân và Ngải Luân dạo chơi trên biển với một chiếc du thuyền. Họ gặp phải một cơn bão, và kết cục là bị lềnh đềnh vài ngày trên biển. Diệc Hãn nhân cơ hội này để tâu lên nhà Vua rằng Tuyên Ân và Ngải Luân đã bị bắt bởi kẻ thù của Vương quốc trên biển cả. Nhà Vua quả nhiên trúng kế và ông đã tự mình dẫn vài tùy tùng ra biển để tìm cứu Tuyên Ân cùng Ngải Luân. Trong khi nhà Vua đi vắng, Diệc Hãn chiếm lấy Ngai vàng và hành quyết tất cả những triều thần trung thành với nhà Vua. Ông ta cũng vô cùng tàn bạo và độc ác với người dân trong Vương quốc, và người dân đã phải chịu đựng rất nhiều. Nhà Vua và Tuyên Ân không biết được điều gì đang xảy ra ở nhà. Khi họ trở về đảo, họ mới biết được điều gì đã xảy ra, nhưng đã quá trễ. Họ ngay lập tức bị tay chân của Diệc Hãn bắt giữ. Nhà Vua bị sát hại ngay lập tức. Tuyên Ân bị nhốt vào một cái chuồng. Diệc Hãn bắt Ngải Luân đi. Ông ta cũng lung lạc trước vẻ đẹp kiều diễm của Ngải Luân. Ông ta vừa đe dọa Ngải Luân vừa lấy quyền lợi để dụ dỗ cô. Ông ta nói rằng ông ta sẽ cho cô làm Hoàng hậu nếu cô chịu lấy ông ta, hoặc là cô sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Ngải Luân là một cô gái ham thích hư danh và ham muốn một cuộc sống xa hoa. Vì vậy trước tình thế ấy, cô đã đồng ý trở thành Hoàng hậu của Diệc Hãn. Cô đã đem sự trong trắng của mình trao cho Diệc Hãn ngay đêm hôm đó. Diệc Hãn muốn Tuyên Ân phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa. Những người theo ông ta đã đề nghị rằng Tuyên Ân nên bị đày ra đảo hoang và cho lính gác canh chừng anh, để anh phải chịu đau đớn nơi hoang vu. Diệc Hãn nghĩ rằng đó quả là một ý kiến hay. Cho nên ông ta đã ra lệnh lính gác mang Tuyên Ân đày ra một hòn đảo hoang mà ngày nay là đảo Malta (nó có một tên khác vào thời điểm đó). Lúc đó, Tuyên Ân đã ở bên bờ vực của sự sụp đổ về tinh thần. Chú ruột của anh đã giết hại cha anh, và đã trói anh bằng dây thừng. Anh sẽ bị đày ra hoang đảo. Vị hôn thê tương lai của anh đã bỏ rơi anh vào thời điểm then chốt. Anh không thể nào chấp nhận được sự thật nghiệt ngã này. Anh đã tích tụ một lòng căm thù đối với người chú và với Ngải Luân. Nhưng anh còn chán ghét chính bản thân mình hơn. Anh chán ghét lòng tốt và tính cả tin của bản thân mình. Anh trở nên đầy thù hận và cuồng loạn.

Anh đã bị đưa lên một chiếc thuyền đi ra đảo Malta dưới sự giám sát của lính canh. Trên thuyền, anh gần như phát điên. Anh cố gắng tự sát vài lần nhưng đã không thành công. Sau khi anh đến Malta, anh cảm thấy thậm chí đời sống của quỷ vẫn còn khá hơn thế này. Anh luôn tự lẩm nhẩm một mình như thể đang trò chuyện với người khác. Đôi khi anh ngồi lên một phiến đá và nói chuyện với đỉnh đồi có hình người ở trước mặt. Một ngày, do quá chán nản vì không có tiếng trả lời, anh trở nên giận dữ. Anh gần như phát điên và muốn tự kết liễu đời mình. Anh chạy lên đỉnh đồi và cố gắng đâm đầu mình vào một phiến đá. Nhưng không hiểu vì anh định hướng không đúng hay do mắt anh đánh lừa anh, anh đã không chết mà còn trở nên tỉnh táo hơn. Anh đã dần dần lấy lại lý trí của mình. Anh tự nói với chính mình: “Ta không còn gì cả. Ta sẽ không bao giờ thoát khỏi hòn đảo hoang vu này trong phần đời còn lại của ta. Thay vì cứ u mê mãi ở đây, ta nên cố gắng tìm thú vui và ý nghĩa của cuộc sống.” Rồi anh nhận ra rằng có quá nhiều lính gác ở quanh anh và anh phải không cho chúng thấy đầu óc anh đã trở lại bình thường. Vì vậy anh vẫn hành xử như một người điên ở trước mặt những tên lính. Không lâu sau, những tên lính cảm thấy anh đã thực sự phát điên và không cần phải trông chừng anh nữa. Chúng xin phép Diệc Hãn cho chúng để Tuyên Ân lại một mình trên hoang đảo. Lúc bấy giờ, Diệc Hãn và Ngải Luân đã có với nhau ba đứa con. Diệc Hãn đã cho phép những tên lính trở về Hy Lạp nhưng yêu cầu chúng phải nói cho Tuyên Ân biết về cuộc sống hạnh phúc tại Vương quốc giữa anh ta với Ngải Luân.

Sau khi Tuyên Ân nghe được tin này, anh thực sự đã trải quả một sự sụp đổ tinh thần. Anh đã thực sự muốn kết liễu chính mình. Không lâu sau khi những tên lính rời đi, vào một đêm trời đổ mưa, anh đã quyết định tự nhấn chìm mình xuống đáy đại dương. Trước khi chết, anh nghe thấy một giọng nói vang vọng từ bên trên: “Con đã phải chịu đựng thật nhiều nơi thế gian. Con có muốn tìm kiếm một nơi thanh tĩnh siêu thoát khỏi thế giới này?” Tuyên Ân trả lời trong nước mắt: “Trong cuộc đời này con không còn lối thoát nào khác ngoài cái chết. Nếu một nơi thanh tĩnh siêu thoát khỏi thế giới này thực sự tồn tại thì phải đợi đến đời sau của con.” Và rồi anh chìm xuống đáy đại dương.

Lời kết: Sau khi chết, nguyên thần của Tuyên Ân được luân hồi và chuyển sinh qua rất nhiều kiếp sống tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Anh đã thực hành tu luyện trong nhiều kiếp. Nhưng do anh đã phải chịu đựng rất nhiều trong kiếp sống nói trên, xu hướng tự kỷ vẫn còn đeo đuổi anh trong suốt những kiếp sống sau đó. Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vẫn còn khuynh hướng này. Nó rất mạnh mẽ. Đây không chỉ là một nhân tố xấu, mà nó còn được tích lũy qua nhiều kiếp sống khác nhau của tôi. Hôm nay, tôi viết ra bài chia sẻ những trải nghiệm trong quá khứ này để phơi bày căn nguyên chấp trước của tôi, để từ đó tôi có thể loại bỏ nó. Cùng lúc đó, tôi cũng muốn chia sẻ với độc giả một sự thật rằng mọi chấp trước của chúng ta trong kiếp sống hiện tại đều có nguồn gốc lịch sử sâu xa của nó. Tôi nói như vậy là đủ rồi. Tôi xin kết thúc bài viết tại đây.

Diệc Hãn vẫn là một quyến thuộc của tôi trong đời này. Anh ta vẫn là một người độc ác và đã gây ra rất nhiều đau khổ cho gia đình tôi. Ngải Luân và tôi có cùng họ với nhau và chúng tôi có thể là họ hàng xa trong đời này. Không ai trong số hai người họ đã đắc Pháp. Thời gian tới đây khi có cơ hội, tôi sẽ vẫn tiếp tục làm sáng tỏ sự thật với họ. Sau cùng, bất kể là điều gì đã xảy ra, việc ba chúng tôi gặp lại nhau trong đời này đã cho thấy rằng chúng tôi vẫn còn quan hệ tiền duyên.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2005/10/6/34119.html
http://www.pureinsight.org/node/3447

The post Luân hồi ký sự: Số phận của một Hoàng tử Minoan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/luan-hoi-ky-su-so-phan-cua-mot-hoang-tu-minoan.html/feed0
Luân hồi ký sự: Sự ảnh hưởng của phương Tây với Trung Quốchttps://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-su-anh-huong-cua-phuong-tay-voi-trung-quoc.htmlhttps://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-su-anh-huong-cua-phuong-tay-voi-trung-quoc.html#respondSun, 26 Jul 2009 22:23:51 +0000https://chanhkien.org/?p=2265Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Tiêu đề của bài viết chỉ ra rằng nền văn hóa phương Tây đã được đưa vào Trung Quốc từng chút một. Các nhà sử học tin rằng nền văn hóa phương Tây đã không được truyền nhập vào Trung Quốc cho tới giữa triều Minh. Bằng […]

The post Luân hồi ký sự: Sự ảnh hưởng của phương Tây với Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời mở đầu:

Tiêu đề của bài viết chỉ ra rằng nền văn hóa phương Tây đã được đưa vào Trung Quốc từng chút một. Các nhà sử học tin rằng nền văn hóa phương Tây đã không được truyền nhập vào Trung Quốc cho tới giữa triều Minh. Bằng việc chia sẻ câu chuyện này, tôi muốn chứng minh rằng trong một tiền kiếp tại La Mã cổ đại, tôi đã từng du hành từ Đế chế La Mã sang phương Đông và hòa mình vào nền văn minh của dân tộc Trung Hoa. Tôi cũng muốn cho các bạn biết rằng người dân trên khắp thế giới đã từng coi Trung Quốc cổ đại như một thiên đường. Trên thực tế, Thần phải kiến tạo nền văn minh Trung Hoa để người dân Trung Quốc và xã hội Trung Quốc sẵn sàng đón nhận sự phổ truyền của Pháp Luân Phật Pháp.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Trước công nguyên, có một hòn đảo mà ngày nay là đảo Sicily thuộc I-ta-li-a. Đó là một nơi dân cư thưa thớt và kém phát triển. Người dân trên đảo đều là ngư dân, và họ sống trong một ngôi làng có tên là Klein. Ở bờ biển phía Tây của ngôi làng, có một cặp vợ chồng trẻ sở hữu một con bò. Anh Duxi và vợ của anh, Laiya là những người lương thiện và họ sống một cuộc sống thật hòa thuận, tự do và nhàn tản.

Vào một ngày trời mưa to, anh Duxi đang đi làm vài việc lặt vặt ở bên ngoài còn Laiya ở nhà một mình. Cô đột nhiên nhớ rằng cô đã để lương thực ở ngoài trời mưa. Cô bèn đi ra sân để mang lương thực vào. Ngạc nhiên thay, sau một vài tiếng sấm, một con rồng nhỏ trông rất dễ thương rơi xuống từ bầu trời. Thân mình nó toàn màu vàng kim và nó có một cái vòng trông như một cái bớt [của trẻ sơ sinh] ở trên đỉnh đầu của nó. Nó trong suốt và trông như bị thương, có máu ở trên đuôi của nó. Laiya đứng sững sờ vì cô không biết được đây là loài sinh vật gì. Rồi cô bình tĩnh trở lại và tự lầm bầm: “Ngươi là ai? Tại sao ngươi lại rớt xuống từ bầu trời?” Kỳ lạ thay, con rồng nhỏ trả lời một cách chậm rãi: “Đừng sợ. Ta là một con rồng vàng đến từ phương Đông. Ta đã chiến đầu với một tà thần ngày hôm nay và không may bị nó đả thương. Đó là tại sao ta đã rơi xuống từ bầu trời. Xin hãy đắp vết thương trên đuôi ta bằng lá cây và cho ta vào một cái ao.

Không lâu sau ta sẽ có thể bay trở về thiên thượng.” Laiya hơi sợ, nhưng cô đã làm những gì con rồng vàng bảo với cô. Ngay khi Laiya vừa cho nó vào trong cái ao, lương thực mà cô để trong sân hoàn toàn bị ướt.

Khi chồng cô trở về nhà, anh trông thấy thức ăn đã bị hư ở trong sân. Anh phàn nàn: “Nhìn xem. Sao mình không mang lương thực vào bên trong? Giờ nó nhão nhoét rồi. Chúng ta lại phải đợi hôm nào trời nắng để phơi nó. Sẽ thêm công việc đây.” Laiya nói với một nụ cười: “Đoán xem em vừa mới nhìn thấy gì nào?” Anh Duxi cười tươi rồi nói: “Điều gì vừa mới xảy ra với người vợ yêu của tôi vậy?” (Họ là một đôi vợ chồng mới cưới). Laiya nói với chồng cô về điều đã xảy ra. Anh Duxi bị sốc và đứng lặng đi trong một lúc. Anh lầm bầm: “Đây là một giấc mơ phải không? Phương Đông? Một con rồng vàng đến từ phương Đông?”

Không lâu sau Laiya mang thai. Mười tháng sau cô sinh được một quý tử. Một điều đặc biệt về đứa bé là nó có một cái vòng tròn trên đỉnh đầu giống hệt như của con rồng vàng. Vì vậy, người ta gọi đứa bé là Viên Đông (Tên được phiên âm theo tiếng Hán Việt, nghĩa là ‘phương Đông tròn đầy.’) Khi Viên Đông đến tuổi đi học, Duxi gửi nó đến ở với một người bà con tại Rome. Anh hy vọng rằng Quan Đông có thể học tập và học võ thuật tại đó.

Người La Mã cổ đại gọi Trung Quốc là “đất nước của tơ lụa.” Lái buôn từ vùng Trung Á và Nam Âu vận chuyển lụa từ Trung Quốc về La Mã và bán nó với giá còn cao hơn vàng. Người La Mã cổ đại nghĩ rằng những dải lụa mượt mà này là mọc ở trên cây tại Trung Quốc. Theo trí tưởng tượng của họ, phương Đông giống như một thiên đường, bởi vì họ đã nghe nói rằng có một nền văn minh rất tiến bộ tại đó mà biết cách sử dụng các công nghệ. Viên Đông lớn lên khi nghe rất nhiều câu chuyện về phương Đông, và cậu bé thường mơ mộng về phương Đông.

Khi lên 18 tuổi, Viên Đông gia nhập quân đội La Mã. Không lâu sau, một hoàng tử La Mã tuyển anh làm vệ sĩ. Sau khi lập chiến công nơi chiến trường, anh được thăng lên làm Phó Tướng trong Ban Nguyên Soái. Vào năm 53 sau trước công nguyên, Đế chế La Mã tiến sang phương Đông. Họ đã không giành thắng lợi trong trận chiến tại Syria. Vị Nguyên Soái đã chết tại nơi chiến trường. Người con trai cả của Nguyên soái và Viên Đông đã lên kế hoạch đào thoát đêm hôm đó. Viên Đông nói với anh ta rằng: “Hãy đi về phương Đông!” Sau đó người con trai cả của Nguyên Soái đã dẫn gần 10.000 lính đi tới Trung Quốc. Họ đã băng qua vùng sa mạc Ả Rập, cao nguyên Iran, Pamirs, dãy Thiên Sơn và Biển Chết. Cuối cùng họ đã tới hành lang Hà Tây mà ngày nay thuộc huyện Vĩnh Xương, tỉnh Cam Túc. Mặc dù họ đã phải chịu rất nhiều cực khổ, họ đã vượt qua tất cả như thể là Thần đang trợ giúp họ. Khi họ tới huyện Vĩnh Xương, họ chỉ còn lại khoảng 1000 lính.

Sau khi nhận thấy rằng Vĩnh Xương là nơi sản xuất tơ lụa, họ đã quyết định định cư tại đây. Có rất nhiều hoạt động mậu dịch nơi biên giới ở gần hành lang Hà Tây vào thời điểm đó. Các tiểu quốc xung quanh đều có mối giao thương mật thiết với Trung Quốc. Đây thực sự là một trung tâm thương mại quốc tế. Người ta thường xuyên nghe thấy tiếng chuông kêu leng keng trên cổ lạc đà từ các đoàn lái buôn hay âm nhạc từ nhạc cụ của các bộ tộc. Người ta có thể thấy sự thịnh vượng kinh tế tại đây.

Sau khi họ đã khám phá đường đi quanh thị trấn, họ thu thập tài sản và quyết định đi sang phương Đông. Họ đã truyền bá nền văn hóa La Mã cổ xưa cho người dân Trung Quốc tại Vĩnh Xương. Người dân Trung Quốc đã nhận ra rằng ở Đế chế La Mã, một nơi vạn dặm xa xôi cách trở, người La Mã rất say mê nền văn hóa và sản phẩm đến từ Trung Quốc. Viên Đông và binh lính đã xây cất những lâu đài và nhà cửa theo kiểu La Mã cổ đại tại vùng đất mà ngày nay là Cao Xương. Thậm chí cho tới ngày nay, người ta có thể tìm thấy di tích của những kiến trúc này.

Viên Đông không bao giờ thành hôn. Trong thời gian rỗi, anh luôn luôn cảm thấy một duyên phận to lớn với phương Đông. Khi lên 40 tuổi, ông đã có một cuộc thị sát tại khu vực phụ cận Đôn Hoàng. Từ xa, ông đã để ý thấy một tăng nhân Phật Giáo với một chiếc bát cầm ở tay phải. Ông ngay lập tức bước tới vị tăng nhân. Vị tăng nhân nhìn ông và đọc một bài thơ:

Lực tận gian tân tưởng tự tại,
Kim triêu ngẫu ngộ lão tăng lai,
Chỉ điểm mê tân vĩnh khai hoài!”

Diễn nghĩa:

Trải qua bao gian nan để được tự tại,
Ngày hôm nay tình cờ gặp lão tăng,
Chỉ cho cách tìm kiếm hạnh phúc vĩnh hằng!”

Sau khi nghe xong bài thơ, Viên Đông hiểu ra rằng mình vừa gặp được một cao nhân. Ông muốn bái vị tăng nhân làm thầy với ước muốn tìm kiếm sự thanh tĩnh tự tại! Nếu may mắn, ông có thể đạt viên mãn và thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử! Ông quỳ xuống và nói: “Sư phụ, Ngài đã biết được lý do con sang phương Đông, vậy hãy thu nạp người dị bang [1] này làm đệ tử!”

“Được rồi. Có điều, ta đang nắm giữ một phương pháp tu luyện mà sẽ không còn hiệu lực khi đến thời kỳ Mạt pháp. Khi ấy sẽ có một cao nhân đại đức đến dạy nhà ngươi phương pháp giải thoát chân chính!”

Từ đó Viên Đông trở thành để tử dị bang của vị lão tăng. Viên Đông đã tu luyện gần 20 năm với vị lão tăng này. Vì ông có căn cơ rất tốt và không có nhiều chấp trước, Viên Đông cuối cùng đã tu thành Chính Quả. Vào thời điểm mà ông khai ngộ, Viên Đông thấy rằng ông đã thực sự chuyển sinh từ con rồng vàng nhỏ bé kia, đồng thời hiểu được đạo lý luân hồi cũng như nhớ lại những chuyện thần tiên trên thiên thượng trong quá khứ…

Lời kết:

Tôi sẽ kết thúc câu chuyện tại đây. Nếu thời gian cho phép, tôi sẽ chia sẻ thêm về những câu chuyện của tôi trên thiên thượng cũng như dưới nhân gian. Dù tôi có kể bao nhiêu câu chuyện đi nữa, tôi chia sẻ chúng chỉ với một mục đích. Lịch sử các kiếp luân hồi của chúng ta cho thấy rằng thật là một duyên phận hiếm thấy, một ‘vạn kiếp kỳ duyên’ [2] khi chúng ta được nghe Pháp giảng bởi đấng Chuyển Luân Thánh Vương nơi cõi người! Hỡi quý đồng bào và đồng tu, xin hãy trân quý duyên phận này! Chúng ta đã phải trải qua vô số khổ nạn chỉ để đắc Pháp trong đời này! Nếu chúng ta để lỡ khoảng thời gian này, chúng ta sẽ hối tiếc mãi mãi!

Chú thích của người dịch:

[1] ‘Dị bang’: Người nước ngoài, người ngoại quốc.
[2] ‘Vạn kiếp kỳ duyên’: Duyên phận khó gặp trong hàng vạn kiếp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/10/4/34084.html
http://www.pureinsight.org/node/3431

The post Luân hồi ký sự: Sự ảnh hưởng của phương Tây với Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-su-anh-huong-cua-phuong-tay-voi-trung-quoc.html/feed0
Luân hồi ký sự: Một tâm hồn trung nghĩa trên đại mạchttps://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-mot-tam-hon-trung-nghia-tren-dai-mac.htmlhttps://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-mot-tam-hon-trung-nghia-tren-dai-mac.html#respondSun, 26 Jul 2009 22:13:04 +0000https://chanhkien.org/?p=2259Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Từ khi còn nhỏ, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất Trung Hoa. Tại lớp học, khi tôi được học lịch sử về một chuỗi dài những điều ước bất bình đẳng mà nhà Thanh hủ bại đã bị buộc phải ký với Sa Hoàng, và […]

The post Luân hồi ký sự: Một tâm hồn trung nghĩa trên đại mạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Từ khi còn nhỏ, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất Trung Hoa. Tại lớp học, khi tôi được học lịch sử về một chuỗi dài những điều ước bất bình đẳng mà nhà Thanh hủ bại đã bị buộc phải ký với Sa Hoàng, và khi biết được một khu vực rộng lớn ở miền Đông Bắc và Tây Bắc Trung Quốc đã nhượng cho nước Nga, trái tim tôi đầy sự buồn bã và dày vò! Đó không phải là một phản ứng theo bản năng của một công dân Trung Quốc hay một người yêu nước thông thường. Đó là nỗi buồn thực sự từ tận đáy lòng tôi, điều mà đã dày vò tôi trong hàng chục năm. Chỉ khi tôi tập luyện Pháp Luân Công, tôi mới dần dần hiểu được nguyên nhân cốt lõi trong cảm xúc của tôi. Bây giờ tôi muốn chia sẻ một sự thực với mọi người và nhân cơ hội này để giải tỏa nỗi khúc mắc trong lòng tôi. Ngoài ra, tôi cũng nhân cơ hội này để minh họa bằng cách nào mà Thần đã tạo ra lịch sử nền văn minh của nhân loại.

Lý do khiến tôi gắn bó với mảnh đất này

Sau khi Hoàng Đế Khang Hy (1661-1722 sau công nguyên) bình định ba cuộc nổi loạn, thu phục Đài Loan và thống nhất thiên hạ, nhân dân Trung Quốc dần dần sống trong cảnh thái bình. Nhà Thanh đã đạt tới sự thịnh vượng dưới thời trị vì đầy nhân từ của Hoàng Đế Khang Hy. Tuy nhiên, người Nga bắt đầu xâm lăng từ phương Bắc, và đã có chiến tranh với nhà Thanh tại vùng thung lũng Amur. Hoàng Đế Khang Hy đã cho quân chống trả lại hai lần vào năm 1665 để lấy lại vùng Yaksa. Sau một chuỗi các trận chiến và đàm phán, Nga và nhà Thanh đã ký hiệp ước Nerchinsk vào ngày 07-09-1689, được coi là một hiệp ước công bằng với Trung Quốc. Hầu như mỗi người dân Trung Quốc đều rất quen thuộc với giai đoạn lịch sử Trung Quốc này.

Sau khi ký kết hiệp ước, tôi (trong kiếp luân hồi đó) đã được bổ nhiệm làm một viên tuần sử biên giới ở vùng biên cương phía Bắc gần thung lũng Amur. Cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn còn nhớ được cảnh tượng rừng cây, núi non ở vùng sông Argun, cũng như là những tài nguyên thiên nhiên tại địa phương đó. Trong những ngày tháng tưởng như dài vô tận đó, tôi đã dẫn những viên tướng và binh lính đi tuần tra và canh gác khắp vùng biên cương, và không để cho Nga có bất cứ cơ hội nào xâm nhập Trung Quốc! Tôi đã về hưu và chết ở vùng đó. Trong kiếp luân hồi đó, tôi đã không có cơ hội để tận hưởng bất cứ thứ gì. Tôi chỉ đề cập đến phần này trong lịch sử để giải thích tại sao tôi lại gắn bó với mảnh đất này trong kiếp sống hiện tại của tôi. Nhưng đây lại không phải là trọng tâm của bài viết, mà trọng điểm lại là một kiếp luân hồi khác của tôi mà xảy ra vào thời trị vì của Hoàng Đế Càn Long (thời trị vì của ông kéo dài từ năm 1735 tới năm 1796 sau công nguyên).

Một con cá chép vàng đã báo ân Triệu viên ngoại bằng cách cho ông một quý tử

Tôi sẽ không bình luận gì về thời trị vì của Hoàng Đế Càn Long dưới thời nhà Thanh. Tôi sẽ chỉ nói về kiếp luân hồi của tôi trong triều đại đó. Vào thời điểm đó, có một sơn trang nổi tiếng ở Thừa Đức. Gần đó có một thôn trang của một vị Vương gia họ Hạ. Kết quả là, cả làng đều đổi họ của họ thành họ Hạ để mong muốn được may mắn và cát tường. Chỉ một vài gia đình trong số 70 gia đình trong làng là không mang họ Hạ.

Trong ngôi làng, có một gia đình nhà họ Triệu. Đó là một gia đình giàu có, với nhiều người hầu, nhiều lừa và ngựa. Triệu viên ngoại là một người rất thông minh và tài giỏi. Triệu phu nhân (thời con gái bà có họ là Chu) cũng rất tháo vát trong việc quản lý gia đình và giữ cho gia đình luôn thịnh vượng. Tuy nhiên họ lại có một điều đáng tiếc đó là không thể có con.

Một ngày nọ, Triệu viên ngoại bỗng nhiên cảm thấy thích đi săn. Khi ông đi qua một cái ao trong vùng hoang dã, ông nhớ rằng Triệu phu nhân rất thèm ăn canh cá. Do đó ông đã quyết định mang vài con cá về để làm vừa lòng Triệu phu nhân. Ông lấy một cành cây để làm cần câu cá và tìm một vài con sâu đất để làm mồi nhử. Ông trông thấy rất nhiều cá ở trong ao, nhưng không có con nào cắn câu. Đến khi mặt trời lặn, Triệu viên ngoại nghĩ: “Bây giờ phải trở về nhà rồi. Nếu không, phu nhân sẽ lo lắng cho ta.” Khi ông sắp sửa kéo cần câu lên, thì thình lình một con cá cắn câu. Ông rất mừng rỡ! Ông kéo cần câu lên và trông thấy một con cá chép trong ánh sáng mờ ảo của buổi hoàng hôn. Đây không phải là một con cá chép bình thường. Nó trong suốt và có ánh màu vàng. Triệu viên ngoại có thể nhìn thấy được nội tạng của nó từ bên ngoài. Đây là một con cá chép lớn mà nặng cỡ 5 đến 6 cân. Triệu viên ngoại rất hạnh phúc. Ngay lập tức ông mang con cá chép vàng về nhà.

Ngay khi ông bước vào nhà, ông đã gọi Triệu phu nhân: “Mình ơi, xem tôi mang về cái gì này.” Triệu phu nhân đang may vá khi ông gọi. Khi bà bước ra và trông thấy con cá vàng, mặt bà tái xanh và bà hỏi: “Mình kiếm được con cá chép này ở đâu thế?”

Triệu viên ngoại đáp: “Mới đây mình nói là mình thèm ăn canh cá. Tôi đã đi săn ngày hôm nay nhưng không được gì cả. Đến gần cuối ngày tôi đi câu cá ở trong ao. Khi tôi định đi về thì con cá chép vàng này cắn câu. Đây là một chuyến đi câu cá! Nhanh lên và làm một bát canh. Chắc nó phải bổ dưỡng lắm đây.” Và rồi ông đi vào bếp với con cá chép vàng.

“Khoan đã!” Triệu phu nhân hét lên.

“Chuyện gì vậy mình? Có ai đó làm mình bực bội ngày hôm nay à?” Triệu viên ngoại nói với một nụ cười trên khuôn mặt.

“Mình không nhận thấy đây không phải là một con cá chép bình thường à? Nó là một con cá chép vàng!”

“Thì sao nào?”

Triệu phu nhân đã nhận ra rằng chồng bà không hiểu được sự nghiêm trọng của vấn đề, nên bà bắt đầu kiên nhẫn giải thích cho Triệu viên ngoại: “Nhìn xem. Nó trong suốt và có sắc vàng. Điều đó có nghĩa nó là Ngư vương (Vua cá). Mình có hiểu Ngư vương là gì không?”

Triệu viên ngoại đáp lại bằng một thái độ hoài nghi: “Có Vua và thần dân ở giữa con người với nhau. Hôm nay thì lại là Ngư vương. Thật là mới mẻ!”

Triệu phu nhân tiếp tục giải thích: “Mình đã nghe về Long Vương (Vua rồng), phải không? Mình đã nghe về Hổ vương, phải vậy không? Mình cũng đã nghe về Sư tử vương, phải vậy không?”

Triệu viên ngoại đáp: “Tôi đã từng gặp Sư tử vương. Một lần tôi gặp phải một đám sư tử trong lúc đi săn. Một trong số chúng gầm lên và những con khác nghe lời điều khiển của nó và tiến tới tôi. May mắn thay, tôi đã trèo lên được một cái cây và chuyển từ cây này sang cây khác rồi chuồn đi.”

Triệu phu nhân hỏi: “Cũng như vậy đây phải là một Ngư vương.”

Triệu viên ngoại nói: “Chà…” Và rồi ông nhìn vào con cá chép vàng. Nước mắt đang chảy dài trên mắt nó, và trông như nó đang cầu xin Triệu viên ngoại tha mạng. Triệu viên ngoại mềm lòng và hỏi Triệu phu nhân: “Mình ơi, chúng ta làm sao bây giờ?”

Phu nhân trả lời ngay: “Thả con cá đi. Thả ngay đi. Càng sớm càng tốt.”

Triệu viên ngoại nhìn lên bầu trời đêm và ông đáp lại với một giọng khó diễn tả: “Giờ đang là buổi đêm. Tại sao chúng ta không giữ nó trong nước cho đến ngày mai? Tôi sẽ thả nó về chiếc ao kia vào sáng mai.”

Triệu phu nhân nói: “Nếu vậy, hãy lấy nước cho con cá ngay thôi!” Và rồi bà đi vào phòng trong.

Triệu viên ngoại tìm một chậu nước lớn và ông đổ rất nhiều nước vào chậu. Rồi ông thả con cá vào trong chậu. Ông cũng vơ một nắm cỏ trong sân vườn và đặt nó vào trong chậu. Con cá chép vàng trông thật hạnh phúc. Nó bơi một cách hăng hái ở trong chậu.

Đêm hôm đó, Triệu phu nhân có một giấc mơ, trong đó bà nghe được rằng có ai đó sẽ tới để báo ân lại hành động tốt mà họ đã làm. Sáng hôm sau, họ khám phá ra rằng con cá chép vàng đã biến mất. Họ cảm thấy rất lo lắng. Họ đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không thấy con cá ở đâu. Cuối cùng họ đành cầu khấn cho sự an toàn của con cá chép vàng.

Ba tháng sau, Triệu phu nhân thấy mình có mang. Triệu viên ngoại và Triệu phu nhân đều rất đỗi vui mừng. Tất cả hàng xóm và dân làng đều tới thăm hỏi họ sau khi Triệu phu nhân có mang sau bao nhiêu lâu chờ đợi.

Theo như bình thường, một đứa trẻ sẽ ra đời sau 10 tháng mang thai, nhưng đứa trẻ này lại ra đời sau 22 tháng mang thai. Nó có một đôi mắt rất sáng và một gương mặt rất khôi ngô tuấn tú. Nó có một cơ thể mang sắc vàng và trong suốt. Vì vậy, mọi người gọi nó là Trung Ngọc (trong suốt như ngọc). Sinh trưởng trong một gia đình chuyên săn bắn, Trung Ngọc bắt đầu học võ thuật từ khi còn nhỏ. Khi lớn lên, Trung Ngọc học võ dưới sự giám hộ của một thầy giáo dạy võ rất nổi tiếng.

Trung Ngọc cứu Hoàng Đế Càn Long khỏi bị nguy hiểm

Khi Trung Ngọc 16 tuổi, Hoàng Đế Càn Long thường đi tới khu vực sơn trang ở Thừa Đức để săn bắn. Trong một chuyến đi săn, ngựa của Hoàng Đế bị hổ dọa cho sợ nên bắt đầu chạy một cách điên loạn. Con ngựa cuối cùng phi ra ngoài khu sơn trang.

Trung Ngọc trẻ tuổi và bạn của nó đã có một phen đua ngựa đáng nhớ khi con ngựa của Hoàng Đế tới chỗ của nó. Trung Ngọc trẻ tuổi nhanh chóng nắm lấy dây cương của con ngựa và cố gắng ghìm nó lại bằng hêt sức mạnh. Cuối cùng nhờ sức mạnh của Trung Ngọc, con ngựa đã bị giữ lại.

Sau khi bình tĩnh trở lại, Hoàng Đế Càn Long nói: “À! Nhà ngươi đã cứu sống quả nhân. Tại sao nhà ngươi không quỳ xuống và lĩnh thưởng?!”

Đúng lúc đó đoàn tùy tùng của Hoàng Đế cũng vừa đến. Họ nói với Trung Ngọc và bạn của nó rằng: “Tại sao các ngươi không khấu đầu trước Hoàng thượng?!”

Trung Ngọc trẻ tuổi và bạn của nó quỳ xuống rồi nói: “Thảo dân bái kiến Hoàng thượng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!” Trung Ngọc đã học được câu này từ một người kể chuyện trong làng cho nên nó áp dụng rất thành thạo.

Vị Hoàng Đế nhìn Trung Ngọc và ngay lập tức cảm thấy thích cậu bé. Vị Hoàng Đế nói: “Tên ngươi là gì? Ngươi sẽ theo ta về kinh thành chứ? Ta sẽ để ngươi ở dưới sự giám hộ của những lão sư giỏi nhất. Nhà ngươi nghĩ sao”

“Thảo dân tên là Triệu Trung Ngọc. Thảo dân phải về nhà xin phép phụ mẫu trước khi chấp thuận.”

Tùy tùng của Hoàng Đế nói: “Mau cảm tạ long ân của Hoàng thượng. Lời của Hoàng thượng là thánh chỉ, nhà ngươi tất phải theo. Hơn nữa, từ nay nhà ngươi sẽ được tận hưởng vinh hoa phú quý.”

Trung Ngọc đáp lại: “Lời của Hoàng thượng là thánh chỉ, nhưng thảo dân vẫn phải về nói với phụ mẫu. Đây là một lễ nghi. Bất cứ ai cũng phải theo các lễ nghi.”

Vị Hoàng Đế bật cười và nói: “Thật là một cậu bé kỳ lạ! Nhà ngươi có thể trở về nhà. Sau khi nhà ngươi thương lượng với phụ mẫu xong, hãy trở lại sơn trang này. Ta sẽ đợi nhà ngươi ở đó.” Và rồi vị Hoàng Đế và đoàn tùy tùng trở lại sơn trang.

Thành tựu sự nghiệp tại kinh thành

Triệu Trung Ngọc từ biệt đám bạn rồi trở về nhà. Nó nói với Triệu viên ngoại và Triệu phu nhân về điều vừa xảy ra. Họ khó mà tin vào tai của mình. Họ đã lặp đi lặp lại: “Đây đúng là một đại phúc phận cho gia đình ta! Hài tử, hãy về Kinh thành. Cổ nhân có câu: ‘Hãy học hỏi võ nghệ và rồi sẽ trở thành vương gia.’ Một đấng nam nhi phải thành tựu sự nghiệp, nhưng con phải nhớ lấy điều này: Đừng bao giờ đàn áp bách tính [1], phải lấy thiện đối xử với mọi người và chớ bao giờ trợ Trụ vi ngược [2].” Kể từ đó Triệu Trung Ngọc trở thành thuộc hạ trong triều đình.

Vị Hoàng Đế đã làm trọn lời hứa của mình. Ông đã tìm những lão sư tốt nhất để dạy văn và võ cho Trung Ngọc. Trung Ngọc là một đứa trẻ hết sức thông tuệ và tài năng, nhưng nó không hề yêu thích danh vọng hay tiền tài và vô cùng trầm lặng ít nói. Nó luôn đứng ngoài những mưu đồ chính trị hiểm ác. Khi lên 29 tuổi, Trung Ngọc được bổ nhiệm làm Thống đốc quân tỉnh Cam Túc. Anh đã đạt được rất nhiều chiến công trong việc dàn xếp các vấn đề biên cương và giải quyết xung đột giữa các nhóm sắc tộc. Khi gần 50 tuổi, Trung Ngọc được thăng lên làm Phó thống soái. Trung Ngọc có rất nhiều con và cháu nối dõi.

Khoảng ba năm sau, vợ của Trung Ngọc, người mà thời con gái mang họ Trần, muốn đến thăm bạn ở Y Lê, tỉnh Tân Cương. Trung Ngọc không còn cách nào khác ngoài việc thuận theo ý của phu nhân và tháp tùng phu nhân tới Y Lê. Khi họ sắp tới Y Lê, họ bất ngờ nghe được tin rằng quân đội của Sa Hoàng vừa mới xâm lấn vùng hồ Balkhash. Hoàng Đế đã ra một chiếu thư hỏa tốc yêu cầu Trung Ngọc lãnh đạo 100.000 quân chiến đấu chống lại quân xâm lược ngay lập tức. Trung Ngọc không còn cách nào khác ngoài việc tuân mệnh.

Trận tử chiến với quân đội Sa Hoàng

Trong khi Trung Ngọc dẫn dắt 100.000 quân tới vùng A Lạp Mộc (Almaty), quân đội của Sa Hoàng đã vượt qua biên giới Trung-Nga và xâm lược Trung Quốc. [Chú thích: A Lạp Mộc là vùng mà ngày nay thuộc Kazakhstan, nằm ở phía Đông Nam nước này giáp với biên giới Kyrgyzstan. Được thành lập vào năm 1850 như một pháo đài và địa điểm buôn bán của Nga, thành phố là thủ đô của Kazakhstan từ năm 1929 tới năm 1997, và là trung tâm thương mại và văn hóa của đất nước.]

Phía Nga có hơn 300.000 quân, nhiều gấp ba lần so với số quân của Trung Ngọc. Khi quân đội của Trung Ngọc dựng trại, ông đã họp bàn với các tướng lĩnh để lên kế sách đánh bại quân xâm lược. Một trong số họ đề xuất: “Chúng ta nên cố gắng dụ quan Nga vào sa mạc. Không có nguồn cấp nước, chúng sẽ sợ hãi và đánh lẫn nhau. Khi đó chúng ta có thể thừa thế tấn công và quét sạch quân Nga!” Trung Ngọc đã chấp thuận chiến lược này, và ông đã nghĩ ra một mưu kế để lùa 300.000 quân Nga vào vùng hoang mạc. Và rồi Trung Ngọc đợi cho đến khi quân Nga cạn kiệt nước trước khi ra lệnh tấn công.

Cho tới tận ngày nay, tôi vẫn còn nhớ trận tử chiến đó. Cát vàng bay khắp bầu trời. Trên mặt đất, binh lính hò hét và ngựa hí vang. Tiếng đao kiếm va chạm nhau và tiếng trống vang rền. Những mũi tên bay trong không khí giống như một trận dịch châu chấu. Xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi. Máu chảy thành sông. Quân đội của tôi [Trung Ngọc trong kiếp đó] đã tận dụng địa hình và núp sau những đụn cát. Chúng tôi đã quét sạch gần như toàn bộ quân Nga.

Chúng tôi đã chiến đấu từ rạng sáng cho tới tận lúc chạng vạng tối. Mặc dù chúng tôi đã thắng trong trận chiến và đã ngăn chặn được sự xâm lấn của quân Nga, nhưng chúng tôi cũng phải trả một cái giá rất đắt. Chúng tôi lúc ban đầu có 100.000 binh lính, nhưng đến khi kết thúc thì chỉ còn sót lại vài chục người, trong đó có tôi! Các bạn có thể tưởng tượng được mức độ khốc liệt của trận đánh!!! Toàn sa mạc dường như được nhuộm đỏ bởi máu tươi! Nhìn mặt đất phủ đầy máu và xác chết, Trung Ngọc cảm thấy ruột đau như cắt. Ông đã nghĩ về một bài thơ được viết bởi Tào Tùng đời Đường:

Trạch quốc giang sơn nhập chiêm đồ,
Sinh dân hà kế nhạc tiều tô?
Bằng quân mạc thoại phong hầu sự,
Nhất tướng công thành vạn cốt khô!”

Diễn nghĩa:

Vùng Giang Nam chuyển thành bãi chiến trường,
Dân tình phải đốn củi và cắt cỏ để sinh sống?
Đừng nói đến chuyện phong tước hầu,
Một vị tướng công thành trên hàng vạn bộ xương khô!”

Nước mắt chảy dài trên má của Trung Ngọc.

Sau khi Trung Ngọc trở về triều đình, Hoàng Đế muốn phong tước hầu cho ông, nhưng ông đã kiên quyết chối từ và muốn cáo lão về quê. Ban đầu Hoàng Đế không đồng ý, nhưng sau khi nhận thấy Trung Ngọc vô cùng kiên quyết, ông đành chấp nhận nguyện vọng của Trung Ngọc. Sau đó Trung Ngọc đã đưa gia đình trở lại thôn trang của họ Hạ, và dành nốt phần đời còn lại của ông vui thú điền viên.

Lời kết:

Con người tuy đều có sinh có tử, nhưng phần lịch sử này trong các kiếp luân hồi của tôi vẫn để lại một ấn tượng sâu đậm trong trí óc tôi. Cho tới hôm nay, tôi vẫn phải vượt qua những cảm xúc phức tạp mỗi khi tôi nghĩ về vùng hồ Balkhash, về những trận gió dữ nơi hoang mạc và nghề làm ngọc bích ở Hòa Điền, tỉnh Tân Cương! Là một người tu luyện, sẽ là một chấp trước nếu nghĩ quá nhiều về một điều gì đó. Bằng cách viết về hai kiếp luân hồi của tôi trong đời nhà Thanh, tôi muốn từ bỏ chấp trước vào phần này trong lịch sử [các kiếp luân hồi] của tôi. Tôi cũng muốn nhắc nhở các bạn đồng tu và thế nhân rằng toàn bộ nền văn minh của nhân loại thực ra đã được khai sáng bởi các học viên Pháp Luân Công dưới sự dẫn dắt của Sư Phụ chúng tôi! Hãy trân quý cơ duyên của chúng ta đối với Pháp! Hãy bước đi thật tốt đoạn đường còn lại và đừng uổng phí bao nhiêu kiếp luân hồi của chúng ta trong cõi người!

Chú thích của người dịch:

[1] ‘Bách tính’: Toàn dân trăm họ.
[2] ‘Trợ Trụ vi ngược’: Giúp vua Trụ [nhà Thương] làm điều bạo ngược.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/9/7/33769.html
http://www.pureinsight.org/node/3373

The post Luân hồi ký sự: Một tâm hồn trung nghĩa trên đại mạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-mot-tam-hon-trung-nghia-tren-dai-mac.html/feed0
Luân hồi ký sự: Cao sơn lưu thủyhttps://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-cao-son-luu-thuy.htmlhttps://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-cao-son-luu-thuy.html#respondMon, 20 Jul 2009 07:47:24 +0000https://chanhkien.org/?p=2205Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Một trong số những kiếp luân hồi của tôi rất lãng mạn và thi vị. Kiếp luân hồi này có liên quan đến hai đồng tu Pháp Luân Công, những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong sự tu luyện của tôi trong đời này. Qua […]

The post Luân hồi ký sự: Cao sơn lưu thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Lời mở đầu: Một trong số những kiếp luân hồi của tôi rất lãng mạn và thi vị. Kiếp luân hồi này có liên quan đến hai đồng tu Pháp Luân Công, những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong sự tu luyện của tôi trong đời này. Qua việc chia sẻ một phần lịch sử [các kiếp sống] của tôi, tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ biết trân quý mối tiền duyên quý giá mà chúng ta đã có với những đồng tu bên cạnh chúng ta!

*  *  *  *  *

Kiếp luân hồi này xảy ra trong thời nhà Tấn (265-420 sau công nguyên) và thời Nam Bắc Triều (420–589 sau công nguyên). Vào thời điểm đó, những nhân vật anh hùng và lịch sử bi tráng của thời Tam Quốc trước đó đã bị lãng quên từ lâu và chỉ còn lại những ký ức mờ nhạt. “Trúc Lâm Thất Hiền” là ở trong thời kỳ lịch sử này. Họ đã có một tác động khá lớn đến nền văn minh của dân tộc Trung Hoa. Vì sự thay đổi đột ngột trong quyền lực chính trị, nhiều học giả uyên bác đã phải vào nơi thâm sơn cùng cốc để sống một cuộc đời ẩn dật.

Tôi là một trong những học giả đó. Lúc đó tôi ở vào khoàng 24 tuổi. Nhằm trốn tránh sự tranh giành quyền lực chính trị, tôi đã một mình đi chu du ở khắp vùng Tam Hiệp, với một cây sáo trúc trên tay. Tôi đã dành rất nhiều thời gian ở vùng Tam Hiệp này vì nơi đây quả thật hiểm trở, hùng vĩ và phong cảnh đầy cảm hứng. Một lần, khi tôi đi ngang qua thành Bạch Đế trên một chiếc thuyền, tôi đã nhìn ngắm dòng sông nước chảy và cảm thấy u sầu. Sau này trong đời Đường, Lý Bạch đã viết một bài thơ nổi tiếng “Tảo phát Bạch Đế thành” (Rời thành Bạch Đế vào buổi sớm) chính tại nơi đây:

Tảo phát Bạch Đế thành

“Triêu từ Bạch Đế thải vân gian,
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn,
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ,
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.”

Diễn nghĩa:

Rời thành Bạch Đế

“Rời thành Bạch Đế vào buổi [sáng] sớm dưới đám mây ngũ sắc,
Xuôi thuyền ngàn dặm tới Giang Lăng chỉ trong một ngày,
Ở hai bên bờ [sông] vượn kêu ríu rít không ngớt,
Thuyền nhẹ lướt qua ngàn vạn vách đá cheo leo.”

Cảm khái trước sự phù du của thời gian, tôi chợt liên tưởng tới câu chuyện “Bạch Đế thác cô” của Lưu Bị, một trong ba vị vua thời Tam Quốc (Tại thành Bạch Đế, Lưu Bị đã dặn dò vị quân sư Gia Cát Lượng của ông, một trong những nhân vật thông minh và tài năng nhất trong lịch sử Trung Quốc, về việc trông nom đứa con trai A Đẩu của ông). Trong trí óc tôi, lịch sử và thực tế như hòa quyện vào nhau, và làm tôi choáng ngợp. Dường như lúc đó tôi khó có thể chịu đựng được nỗi u sầu này. Thương cảm bản thân phải trốn tránh trước tình trạng thiên hạ loạn lạc, tôi không ngăn được những giọt nước mắt tuôn trào.

Rồi tôi leo lên một ngọn núi ở gần đó để ngao du và thưởng ngoạn phong cảnh thần kỳ tại nơi đây. Mỗi khi tôi không tìm thấy đường, tôi lại may mắn gặp được một lão nhân hay một tiểu hài tử chỉ đường giúp cho tôi. Khi tôi bị lạc đường trong đêm tối, tôi cảm thấy mê man rồi ngủ thiếp đi. Đến khi tỉnh lại vào buổi sớm hôm sau, tôi chợt thấy mình đã ở trên một con đường rộng lớn. Đôi lúc tôi chơi sáo một mình để tự giải sầu. Mỗi khi tôi đắm chìm trong âm nhạc, chim chóc và những đàn bướm xinh đẹp bay lượn vòng quanh tôi. Đôi khi cả hươu nai, linh dương hay lừa hoang cũng tới và lắng nghe tôi thổi sáo. Dựa vào đôi mắt của chúng, tôi thấy rằng dường như chúng cũng hiểu được tiếng sáo của tôi.

Một lần nọ vào lúc quá trưa, khi tôi đang du ngoạn ở Tây Lăng hiệp gần đó thì trời đột nhiên đổ mưa. Trên đường đi tìm nơi trú mưa, tôi đi ngang qua một túp lều tranh mà đã được một ẩn sĩ bỏ lại. Tôi nhanh chóng chạy vào trong để trú mưa. Sau đó trời chuyển sang mưa phùn. Tôi nghĩ rằng thật chẳng mấy khi có cơ hội để ngắm nhìn cảnh sắc mưa rơi trên núi hoang như thế này. Cơn mưa phùn nhẹ làm cho núi non, cây cối và cả bầu trời chìm trong một màn sương. Tôi ngắm nhìn phong cảnh lãng mạn và thi vị ấy, và cảm thấy con người thật quá nhỏ bé trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.

Sau đó không lâu, trời bắt đầu sẩm tối và gió cũng nhẹ bớt đi. Vào lúc đó, tôi đột nhiên nghe thấy một tiếng đàn tam thập lục vang vọng tới. Tiếng đàn này thật siêu phàm thoát tục và thật sự làm rung động tận đáy tâm hồn tôi. Điệu nhạc ấy khi thì du dương uyển chuyển, lúc thì than nhẹ khổ xướng, như rũ sạch đi hết nỗi u sầu trong lòng tôi. Khi nghe xong điệu nhạc, tôi có cảm tưởng mình có thể quên đi hết đi những nỗi sầu khổ trong nhân gian. Tôi nghĩ rằng âm nhạc này chắc hẳn phải đến từ thiên đường.

Tôi thầm nghĩ: “Chẳng lẽ thần tiên trên thiên thượng đã chơi thứ âm nhạc này bởi vì họ thấy ta thật quá cô đơn?” Nghĩ vậy, tôi bèn đặt chiếc sáo lên môi rồi thổi tiếng sáo hòa điệu theo điệu nhạc đẹp đẽ kia. Một lúc sau, tiếng đàn tuyệt diệu kia dường như đã cảm thấy sự hiện diện của tiếng sáo của tôi. Vì vậy, tiếng đàn nghe càng du dương hơn. Tôi cũng không chút yếu thế, cố gắng chơi thứ âm nhạc đẹp đẽ và tinh khiết nhất mà tôi có thể trình diễn. Lúc này đôi chân tôi đã dẫn tôi đến một túp lều, mặc dù trời vẫn còn đang mưa. Tôi chẳng hề bận tâm đến điều đó và vẫn tiếp tục chơi hết mình. Một lúc sau, điệu nhạc kia ngưng lại. Tôi cảm thấy mình thật lạc lõng và buồn bã. Khi tôi chuẩn bị bước ra khỏi túp lều, tôi nghe được giọng nói của ai đó: “Tiểu muội, về nhà xem này! Không có ai ở ngoài kia. Chắc hẳn phải là một vị thần tiên đang chơi sáo.” Tôi nghĩ: “Hóa ra có người sống ở trên núi này. Vị nam tử vừa nói kia chắc hẳn là người vừa mới chơi nhạc. Ta phải vào gặp họ.” Tôi nhanh chân bước ra khỏi túp lều và nghe thấy tiếng một cô gái trẻ đang ngâm bài thơ:

“Thâm sơn ẩn cư nhàn phủ cầm,
Cầm thanh miễu viễn mịch tri âm,
Kim triêu ngẫu ngộ địch thanh lâm,
Hà năng kiến quân biểu tri tâm!”

Diễn nghĩa:

“Ẩn cư nơi núi sâu và chơi đàn lúc rảnh rỗi,
Tiếng đàn vang đi xa để tìm người tri âm,
Hôm nay vô tình gặp được tiếng sáo trúc,
Có thể gặp mặt người tri kỷ hay chăng!”

Sau khi nghe xong bài thơ này, tôi cũng ứng khẩu bằng một bài thơ:

“Vân du ngộ vũ tị mao ốc,
Hốt văn cầm thanh vũ trung xuất,
Nã khởi đoản địch lai ứng hòa,
Thiên nhai tri kỷ cộng thưởng thù”

Diễn nghĩa:

“Đi vân du gặp mưa trú nhờ tại túp lều tranh,
Vô tình được nghe tiếng đàn trong cơn mưa,
[Bèn] cầm lấy cây sáo ngắn hòa tấu theo điệu nhạc,
Người tri kỷ ở nơi xa muốn cùng chia sẻ bản nhạc thần tiên.”

“Thánh hiền phương nào ghé thăm tệ xá vậy? Tiểu muội, hãy cùng ta ra nghênh đón vị thiên nhai tri kỷ này!” Tôi bước tới và trông thấy một ngôi nhà rất đẹp với một cái sân lớn. Trước hàng rào tre là một người nam và một người nữ. Vị nam nhân chừng 30 tuổi và vị nữ nhân chừng 28 tuổi. Dựa vào y phục mà họ mặc, tôi đoán họ có một cuộc sống khá sung túc. Tôi ôm quyền chắp tay [thể hiện sự tôn kính] rồi nói: “Chẳng biết huynh đài ở đây, vừa rồi tại hạ có điều mạo phạm, mong huynh đài thứ lỗi!” “Đừng khách sáo như vậy. Mời vào. Mời vào!” Sau khi vào phòng và phân chia ngôi chủ khách ngồi chơi, chúng tôi đã chia sẻ với nhau câu chuyện của mình.

Nguyên hai vị này chính là con trai và con gái của Thái thú quận Hà Đông. Phụ mẫu của họ đã bị hại vì những chính biến không ngừng trong triều đình. Họ đã gói ghém một ít đồ đạc có giá trị và đi phiêu bạt nhiều nơi trước khi họ định cư trên ngọn núi này. Họ chơi nhạc tiêu khiển mỗi ngày. Họ chưa bao giờ hy vọng sẽ gặp được một người yêu thích âm nhạc giống như tôi.

Trong khi trò chuyện, người em gái bỗng nhiên nói: “Ca ca của ta thường xuyên đánh ta khi ta còn nhỏ.” Anh ta đáp lại: “Đó là bởi vì tiểu muội rất tinh nghịch hồi còn nhỏ. Sao tiểu muội lại than phiền trước mặt người bằng hữu? Huynh ấy có thể nghĩ là ta đã bắt nạt tiểu muội. Tiểu muội của ta rất tinh nghịch khi còn nhỏ. Nhưng khi lớn lên tiểu muội rất ít nói. Khi cha ta còn sống và làm Thái thú quận Hà Đông, nhiều người đã đến cầu hôn nhưng tiểu muội đều không đồng ý. Tiểu muội của ta thật sự là khác biệt. Thế gian trần tục không có gì là vui vẻ cả. Không có gì ngoài sự tranh đấu và những mưu đồ hiểm ác. Sự lãng mạn hay tình yêu đều là phù du. Một khi nó đã qua đi rồi, nó chẳng còn là gì cả. Chẳng phải là tốt hơn nếu ta dành cả ngày chơi đàn và viết thơ phú? Chẳng phải sẽ tự do và nhàn tản hơn khi dành trọn cả cuộc đời ta ở nơi ẩn dật? Giờ đây chúng tôi đã gặp được người huynh đệ, và chúng tôi sẽ không cảm thấy cô đơn nữa. Người huynh đệ, hãy lưu lại với chúng tôi để tận hưởng cảnh đẹp nhân gian và âm nhạc thần tiên này.” “Xin hãy lưu lại với chúng tôi,” vị tiểu muội nói. Kể từ đó, tôi sống với họ trên ngọn núi gần kề bên dòng sông Dương Tử nước cuồn cuộn chảy và sống một cuộc sống thần tiên ở một nơi đầy mây bay và thác nước.

Lời kết: Năm câu chuyện luân hồi này đã có một tác động rất lớn đến cuộc sống hiện tại của tôi. Chúng có liên quan đến mối cơ duyên tiền định của tôi đối với Pháp, cũng như là tính cách và các chấp trước của tôi trong kiếp sống hiện tại. Bởi vì tất cả năm câu chuyện này đều là các kinh nghiệm cá nhân của tôi, [cho nên] khi tôi viết những bài viết này, nước mắt đã chảy dài trên khuôn mặt tôi. Tôi đã viết những bài viết này với toàn bộ trái tim mình.

Ghi chú của người dịch:

(*) Cao sơn lưu thủy: Chỉ nơi phong cảnh hữu tình, có núi cao, nước chảy, gắn với sự tích Bá Nha, Tử Kỳ. Bá Nha có tài gảy đàn, Tử Kỳ có tài thưởng thức. Khi Bá Nha gảy đến đoạn miêu tả núi cao, nước chảy thì Tử Kỳ thốt lên: “Tuyệt! Tuyệt! Cao như Thái Sơn, dài như Trường Giang!”

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/9/19/33896.html
http://www.pureinsight.org/node/3372

The post Luân hồi ký sự: Cao sơn lưu thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/07/luan-hoi-ky-su-cao-son-luu-thuy.html/feed0
Luân hồi ký sự: Một tháng làm việchttps://chanhkien.org/2009/05/luan-hoi-ky-su-mot-thang-lam-viec.htmlhttps://chanhkien.org/2009/05/luan-hoi-ky-su-mot-thang-lam-viec.html#respondThu, 07 May 2009 10:47:56 +0000https://chanhkien.org/?p=1723Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Vài tháng trước, vợ tôi và tôi mới kết hôn và chúng tôi đã chuyển đến một tỉnh khác. Chúng tôi rất thiếu tiền, do vậy chúng tôi đã làm việc tại một xưởng sản xuất pha lê trong vòng một tháng. Tôi cảm thấy bối rối bởi một vài […]

The post Luân hồi ký sự: Một tháng làm việc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Vài tháng trước, vợ tôi và tôi mới kết hôn và chúng tôi đã chuyển đến một tỉnh khác. Chúng tôi rất thiếu tiền, do vậy chúng tôi đã làm việc tại một xưởng sản xuất pha lê trong vòng một tháng.

Tôi cảm thấy bối rối bởi một vài sự việc trong nhà máy. Ví dụ, những người xung quanh chúng tôi đều biết rằng nhà máy đang gặp khó khăn về tài chính và có rắc rối trong việc trả lương, nhưng vẫn có nhiều người tới làm việc ở đó, bất chấp việc họ có cơ hội làm việc ở những nơi khác gần đó. Một điều kỳ lạ khác đó là những người lao động ở đó dường như có rất nhiều xích mích với những người đến từ tỉnh Hà Bắc, không chỉ là sự khác biệt về văn hóa; nó dường như là họ đã có ân oán với nhau trong hàng trăm năm rồi. Cuối cùng là, giám đốc nhà máy luôn luôn nhận được sự giúp đỡ mỗi khi nhà máy rơi vào tình trạng tuyệt vọng về mặt tài chính. Theo như họ nói, người giám đốc này thật là may mắn!

Nói một cách công bằng, giám đốc nhà máy đối xử khá tốt với tôi và vợ tôi. Mặc dù ông ấy không thể ngay lập tức trả lương cho chúng tôi, ông ấy trả chúng dần dần theo nguyện vọng của chúng tôi. Nhưng ông ấy tỏ ra rất buồn khi chúng tôi quyết định ra đi.

Mới đây, khi tôi đang nói về những chuyện này với một người, tôi đã thấy một vài hình ảnh và tất cả mọi thắc mắc của tôi đã có câu trả lời.

Ngày nay, giữa cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, rất nhiều đơn vị sản xuất đã rơi vào tình trạng khó khăn, và tất yếu sẽ phát sinh một số tình huống. Vì vậy, tôi mong muốn chia sẻ câu chuyện của tôi cho mọi người với hy vọng rằng nó sẽ đem lại cho mọi người cảm hứng.

Trở lại thời kỳ nhà Nguyên (năm 1271-1368 sau Công Nguyên), trên một ngọn núi nằm tại vùng mà ngày nay là giao giới giữa tỉnh Liêu Ninh và khu tự trị Nội Mông Cổ, có sào huyệt của một băng cướp mà trại chủ là một kẻ to béo tên là Nghê (và là giám đốc nhà máy trong đời này). Người thủ lĩnh này tính tình cũng không đến nỗi tệ. Hắn ta đã từng là một viên ngoại giàu có, nhưng do bị bức bách bởi các quan lại địa phương nên phải bỏ trang viên lên sống ở núi cao, mang theo những người đầy tớ. Hắn ta chiêu mộ những thanh niên trẻ và cuối cùng hình thành nên một nhóm thổ phỉ.

Là một nhóm thổ phỉ, để có đường sống sót họ đã nhiều lần phải sát nhân và làm những điều xấu. Mặc dù thông thường họ chỉ tìm những người xấu mà giết chết, đôi khi họ cũng giết nhầm cả những người tốt. Ví dụ, một ngày nọ họ tới cướp tại nhà một viên quan, nơi mà thời điểm đó có khá nhiều thân nhân nghèo khổ của của viên quan này đến thăm. Tất cả những thân nhân này đều là những người trung thực, tuy nhiên nhóm thổ phỉ này cũng giết cả họ.

Tất nhiên, nhóm thổ phỉ này cũng đã từng giúp đỡ rất nhiều người nghèo khổ.

Tôi là một thư sinh {học trò} vào thời đó, khi đó tôi vào quãng 30 tuổi. Khi tôi và đứa em gái khoảng 16 tuổi của tôi đang tìm một nơi để trú chân thì chúng tôi vô tình đối mặt với nhóm thổ phỉ. Điều này xảy ra khi bọn chúng đang cần ai đó có thể viết chữ, nên bọn chúng đã đưa chúng tôi lên núi. Tên thủ lĩnh coi trọng nhân tài này đã đối xử rất tốt với tôi, nhưng tôi vẫn không muốn định cư lâu dài ở đó, vì xét cho cùng, đó vẫn là hang ổ của thổ phỉ! Tôi muốn rời đi, nhưng bọn chúng canh gác rất gắt gao, nên tôi đã phải ở đó trong vòng 20 năm, cho tới khi có một tăng nhân đi ngang qua. Tôi muốn xuất gia tu hành ngay khi tôi gặp vị tăng nhân này. Vị tăng nhân này đã xin trại chủ giùm tôi, và tên thủ lĩnh này cũng thấy rằng tôi đã rất quyết tâm, cho nên hắn bất đắc dĩ phải để tôi và em gái tôi xuống núi.

Chúng tôi sau khi xuống núi đã theo vị tăng nhân tới một hang động và thực hành tu luyện tại đó. Cuối cùng, phó nguyên thần của chúng tôi đã tu luyện thành công, nhưng chủ nguyên thần của chúng tôi vẫn còn tiếp tục phải chịu luân hồi. Tôi sẽ không bàn sâu về việc đó ở đây.

Do vậy, trong đời này, những người công nhân mà sẵn sàng làm việc cho nhà máy bất chấp việc họ có thể không được giám đốc trả lương, và những người mà đã giúp vị giám đốc này trong những thời khắc then chốt, chính là những người đã được hưởng ân huệ từ ông trong kiếp trước. Mâu thuẫn giữa những công nhân địa phương với những người đến từ tỉnh Hà Bắc có lẽ là liên quan đến việc sát nhân trong kiếp trước. Còn việc người giám đốc buồn rầu khi chúng tôi quyết định ra đi có nguyên nhân bởi nhân duyên từ kiếp trước giữa chúng tôi.

Tất cả những sự việc đang xảy ra ở thế giới con người là có nguyên nhân của chúng chứ không phải vô duyên vô cớ. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ sống trong sự thanh tỉnh hơn nữa giữa cõi mê này.

Tôi xin kết thúc một vài chia sẻ của mình tại đây.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/3/20/58461.html
http://www.pureinsight.org/node/5712

The post Luân hồi ký sự: Một tháng làm việc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/05/luan-hoi-ky-su-mot-thang-lam-viec.html/feed0
Luân hồi ký sự: Thiện duyên thiện giảihttps://chanhkien.org/2008/11/luan-hoi-ky-su-thien-duyen-thien-giai.htmlhttps://chanhkien.org/2008/11/luan-hoi-ky-su-thien-duyen-thien-giai.html#respondFri, 07 Nov 2008 12:57:31 +0000https://chanhkien.org/?p=899Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Cách đây vài ngày, một bé gái trầm lặng đã trải qua một tình huống rất “éo le”. Cô là một em bé rất dễ thương, khoảng 10 tuổi, đeo kính. Theo lời cha mẹ cô, cô rất yêu mến một người giáo viên ở trường và hình ảnh người […]

The post Luân hồi ký sự: Thiện duyên thiện giải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Cách đây vài ngày, một bé gái trầm lặng đã trải qua một tình huống rất “éo le”.

Cô là một em bé rất dễ thương, khoảng 10 tuổi, đeo kính. Theo lời cha mẹ cô, cô rất yêu mến một người giáo viên ở trường và hình ảnh người giáo viên này luôn trong tâm trí cô. Điều này đã ảnh hưởng trong đời sống và việc học tập hàng ngày của cô. Mặc dù đã có vài tiến bộ sau khi tiếp tục học Pháp, nhưng ảnh hưởng này vẫn tồn tại.

Lúc tôi nghe chuyện này, tôi đã có vài việc khác phải làm, vì thế tôi bảo với cô bé rằng cháu đã có mối quan hệ nhân duyên với người giáo viên này trong những đời trước và tình cảm này đã để lại một ấn tượng sâu đậm.

Bởi vì cô bé tu luyện trong đời này, những chất dơ bẩn đó liên tục làm tăng cái tình này, làm cho cô bé cảm thấy như vậy. Không biết chuyện gì đã xảy ra trước đây, những thứ này đều ở trong quá khứ, và chúng ta không nên chấp trước vào nó, nếu không nó sẽ trở thành thứ can nhiễu! Nếu tu luyện tốt, tất cả mọi điều xảy ra trong quá khứ có thể được giải quyết một cách nhân từ. Nếu không thể tu luyện tốt, dù cho mối quan hệ nhân duyên có tốt đẹp và thiêng liêng đến mấy nó vẫn là quá khứ!

Sau đó, khi chúng tôi nghe rằng hoa Ưu Đàm Bà La đã nở ở trong vùng của cô bé, chúng tôi bèn trở lại đó lần nữa. Trước khi chúng tôi rời đi, tôi hứa với họ rằng tôi sẽ viết một bài về mối quan hệ nhân duyên giữa cô bé này và cô giáo của cô ấy. Câu chuyện của mối quan hệ này như sau.

Vào cuối triều đại nhà Tùy và khởi đầu triều đại nhà Tấn, lúc đó nước Turpan là một quốc gia nhỏ. Vua của nước đó có 3 cô con gái và một con trai. Người con gái lớn nhất đã chuyển sinh thành cô giáo của cô bé này, và cậu em trai đã chuyển sinh thành cô bé đó trong đời này. Họ cách nhau 15 tuổi, vì thế người chị lớn này chăm sóc cậu em trai nhỏ rất nhiều, và cô đã làm theo mọi điều mà cậu em muốn. Cậu bé lớn lên trong sự yêu thương. Cha cậu là một hoàng đế rất tử tế ngài đối đãi người dân và thuộc hạ của mình rất tốt. Hoàng gia này đã sống một cuộc sống nhẹ nhàng và êm đềm. Khi cậu con trai lên 6 tuổi, người chị lớn đã đi lấy chồng, kết hôn với nhà vua của một nước láng giềng. Lúc đầu cậu rất giận dữ, nhưng sau khi chị cậu hứa rằng chị có thể trở lại viếng thăm cậu ta, cậu ta trở nên đỡ hơn. Cho tới khi lên 15 tuổi, những người chị khác cũng đi lấy chồng, vì vậy cậu đã đến viếng thăm người chị lớn thường xuyên hơn. Họ đi lên núi, cưỡi ngựa, và đã có thời gian rất vui vẻ bên nhau.

Sau đó, người anh rể của cậu ta tức nhà vua nước láng giềng nói trên, đã có quan hệ với những người phụ nữ đẹp và quyến rũ, nên đã đối xử lạnh nhạt với chị của cậu ta tức hoàng hậu.

Một hôm, nhà vua nước láng giềng này mời một người có yêu thuật đến. Người này bảo nhà vua rằng ông ta có thể đoán được tương lai của quốc gia cũng như những sự may mắn và xui xẻo của nước này. Ông nói nhà vua sẽ gặp một sự đau khổ: hoàng hậu sẽ chiếm đoạt ngai vàng và sẽ để cho em trai của bà ta làm vua. Nhà vua không tin lời ấy. Nhưng rồi người này lại nói thêm: “Khuôn mặt của Ngài trông rất xám, điều này có nghĩa ngài sẽ gặp chuyện xui xẻo. Hôm qua, một cái sao chổi đã quét qua vùng này, cho thấy rằng sẽ có một thảm họa ở đất nước này. Đó phải chăng là điềm báo?”

Tới đây, nhà vua đã không còn tự xác định quan điểm của mình rõ ràng. Sau khi nghe điều này, nhà vua đã hỏi trong hoang mang, “Làm sao chúng ta có thể tránh khỏi việc này?” Người này bèn nói, “Điều này khá dễ dàng thôi. Ngài chỉ cần đày hoàng hậu đi, để cho bà ta làm việc ở miền thôn dã, và tìm một hoàng hậu mới.” Rồi nhà vua đã thật sự đày hoàng hậu lên núi, ra lệnh hoàng hậu không được nói cho bất kì ai về điều này, và cũng không cho phép ai viếng thăm bà ta, đặc biệt là em trai của bà.

Cậu em trai đã chẳng biết chuyện gì xảy ra. Khi cậu đến thăm chị của mình, anh rể cậu ta nói dối rằng chị của cậu bị bệnh và bảo cậu ta quay về. Vì vậy, cậu thui thủi trở về.

Một năm sau, phụ hoàng của cậu ta trừng phạt người con trai của hoàng thúc (người chú của cậu ta) một cách nghiêm khắc vì một lỗi lầm. Hoàng thúc (chú của cậu ta) rất căm phẩn nên đã giết nhà vua cùng với những người tướng khác rồi chiếm đoạt ngai vàng. Cậu bé phải trốn thoát với vài người bảo vệ, nhưng sau đó, những người bảo vệ đã bị giết chết bởi các quân lính đuổi theo truy sát. Cậu đã bị thương rất nặng nhờ con ngựa đã mang cậu chạy mãi miết.

Ngẫu nhiên thay, con ngựa đã lạc lối mang cậu băng qua biên giới và đi vào nước của người anh rể. Người, ngựa đã đến một con suối cuối đường. Con ngựa vì mệt mỏi quá sức đã ngã quỵ. Cậu bé thì đang trong tình trạng hôn mê.

Khi cậu tỉnh dậy, cậu đã thấy mình đang nằm trên giường của một người nông dân (chiếc giường này được làm bằng đá và phủ bởi lá cây và cỏ khô). Một người phụ nữ đang khóc lóc. Cậu nhìn kĩ bà ta và phát hiện rằng đó chính là chị lớn của mình. Cậu ta kêu lớn tên của chị mình, đồng thời rơi vào hôn mê trở lại. Để không quấy rầy cậu, chị của cậu đã giao cho người láng giềng chăm sóc, người láng giềng bảo với cậu rằng người mà cậu nhìn thấy không phải là chị của cậu.

Họ đã không biết ai đã tiết lộ nơi ở cậu ta, nên quân lính đến để vây bắt cậu ta. Dân địa phương đã cảm thấy tội nghiệp và đã che chở bèn đem giấu họ vào một cái hang. Khi cậu ta nguôi dần đi, chị cậu đã kể cho cậu chuyện gì đã xảy ra. Cậu rất giận dữ, nhưng cũng rất vui mừng. Cậu cảm thấy giận dữ cho những gì mà chị cậu đã phải chịu đau khổ. Cậu cảm thấy vui mừng bởi vì cậu đã có thể gặp lại chị của mình bất cứ lúc nào mà cậu muốn. Họ đã không màng đến danh vị hoàng hậu và vua. Dưới sự chăm sóc kĩ càng của người chị, sau 10 tháng, cậu đã bình phục, nhưng chị của cậu đã trở bệnh sau thời gian dài làm việc vất vả.

Sau đó, người mà đã tự xưng mình nhà yêu thuật đã âm mưu chiếm ngôi vua. Đầu tiên ông ta làm cho nhà vua tin tưởng, và rồi dẫn dụ nhà vua trở nên nghiện rượu và tình dục. Rồi ông đã tìm vài người đồng lõa để giết nhà vua và đã trở thành vua của nước đó.

Khi cậu con trai nghe tin này, cậu đã mang chị mình đi khỏi đó. Lúc đầu, họ không biết đi đâu, sau đó ông đã nhớ rằng có một nước cạnh núi Tian, nơi một người bạn của cậu đang sinh sống. Họ đã đi bộ theo hướng đó. Bởi vì chị của cậu đang đau ốm, nên họ phải đi rất chậm. Trải qua năm, sáu ngày đường, nước uống trong túi đựng đã cạn hết. Cậu bèn đi tìm nước uống, khi quay trở lại thấy chị mình đã chết. Cậu đã khóc thật thảm thiết.

Lúc đó, thình lình một cơn bão cát rất lớn ập đến và đã chôn họ dưới cát.

Vào lúc khởi đầu của triều đại nhà Thanh, họ đã gặp lại nhau tại Quảng Châu.

Trong triều đại nhà Minh, gia đình cậu làm nghề chuyên chở và bán muối. Cậu rất thân thiết với một người con gái láng giềng (mà là cô giáo của bé gái trong đời này). Sau đó, họ lấy nhau. Họ rất yêu thương nhau và hàng xóm đã rất hâm mộ họ.

Lúc đó, vì sự không thừa nhận Mãn Thanh, đã có nhiều cuộc nổi dậy. Cậu đã kêu gọi tất cả thương nhân tại thành phố Quảng Châu chống lại Mãn Thanh. Sau đó, tất cả thành viên của gia đình đã bị giết. Đó là vào mùa xuân và trời mưa phùn khi cậu bị giết. Cậu đã khóc và bảo vợ mình rằng cô đã bị liên lụy bởi vì cậu, tuy nhiên đó là cái chết thật xứng đáng bởi vì cậu đã làm việc chính trực.

Do hạn chế, tôi không thể miêu tả tất cả mọi thứ trong cuộc đời này một cách chi tiết.

Tôi hy vọng cô bé này có thể vượt qua cái tình cảm này.

Mọi việc đều có quá khứ và nhân quả của nó. Luân hồi tuyệt nhiên rất đúng.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/9/48231.html

The post Luân hồi ký sự: Thiện duyên thiện giải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2008/11/luan-hoi-ky-su-thien-duyen-thien-giai.html/feed0
Luân hồi ký sự: Vì Pháp mà đếnhttps://chanhkien.org/2008/11/ghi-chep-ve-luan-hoi-den-the-gian-vi-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2008/11/ghi-chep-ve-luan-hoi-den-the-gian-vi-phap.html#respondFri, 07 Nov 2008 12:38:20 +0000https://chanhkien.org/?p=897Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Có bao nhiêu người trong thế tục này có thể nghĩ về việc tại sao họ ở chốn này, đặc biệt là vào thời điểm nguy kịch này? Tại sao hoa Ưu Đàm Bà La, một loại hoa chỉ nở mỗi 3 nghìn năm, lại nở vào lúc này? Tại […]

The post Luân hồi ký sự: Vì Pháp mà đến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Có bao nhiêu người trong thế tục này có thể nghĩ về việc tại sao họ ở chốn này, đặc biệt là vào thời điểm nguy kịch này? Tại sao hoa Ưu Đàm Bà La, một loại hoa chỉ nở mỗi 3 nghìn năm, lại nở vào lúc này? Tại sao có những kí tự “Đảng Cộng sản Trung Quốc vong” tự nhiên hiện ra trên tảng đá [cổ] to ở Trung Quốc? Tại sao có quá nhiều thiên tai tự nhiên và do loài người làm ra? Tại sao cuộc sống lại quá mỏng manh? Tại sao?…

Bài báo sau đây có thể hiểu được bởi phần biết của mỗi người. Tuy nhiên, sau quá nhiều năm luân hồi, phần chân ngã của con người dần dần đã lạc mất và họ nhận những chỗ mê và những điều dơ bẩn trong thế giới con người như là những mục tiêu theo đuổi của họ.

Trong vũ trụ này, có vô số không gian ngoài nhận thức của chúng ta. Trong những không gian tầng thứ cao, tiêu chuẩn sống là cao hơn trong không gian con người chúng ta. Ngoài Tam giới, các sinh mệnh giữ được thân người và không cần phải luân hồi, và họ được hưởng hạnh phúc ở các tầng thứ đó mãi mãi. Tất nhiên, các sinh mệnh không thể làm những điều mà không được phép theo nguyên lý ở tầng thứ đó nếu không họ sẽ bị trừng phạt và rơi xuống tầng thứ thấp hơn.

Ở một tầng thứ cao trong vũ trụ này, có một vị Thần đã quản các sinh mệnh ở tầng thứ của ông. Khi Sư phụ đi xuống từ một tầng cao hơn để cứu độ chúng sinh và đi ngang qua tầng thứ này, vị Thần này đã muốn đi cùng Sư phụ. Ở tầng thứ đó, vị Thần ấy có một hình ảnh của một vị Đạo với râu tóc dài. Vì ngài ở tầng thứ rất cao, ông đã học được sự tôn trọng các sinh mệnh ở tầng thứ thấp hơn.

Một lần, khi ông đang làm một việc quan trọng cho chúng sinh tại tầng thứ của ông, có một sự kiện quan trọng hơn đã xảy ra: các vị Thần đã ký kết với vị Phật Chủ, vị mà sẽ đến thế giới con người để phổ truyền Pháp.

Sự kiện này rất vĩ đại và cũng rất trang nghiêm.

Bởi vì vũ trụ này đã lệch khỏi Pháp, đem lại việc phát sinh nhiều vật chất hư hại, sự ích kỷ, sự thoái hóa đạo đức và sự thoái hóa của môi trường chúng ta, điều này làm cho kết quả trở nên không thể tưởng tượng được. Với lòng từ bi vĩ đại, vị Phật Chủ trân quý hết tất cả mọi chúng sinh. Vì thế, Ngài thỉnh những ai muốn đến thế giới con người cùng với Ngài, rất nhiều Thần (những người chúng ta) đã quỳ gối và thể hiện sự quyết tâm của họ đi xuống cùng Phật Chủ để cứu độ chúng sinh. Vô số những Thần [khác] đã cảm động rơi lệ. Với những thần mà đi xuống thế giới con người, có nghĩa là phải hạ thấp tầng thứ của họ. Đôi khi, nó có nghĩa là họ có thể sẽ không bao giờ có cơ hội quay trở lại tầng thứ nguyên thủy của họ và điều này là tồi tệ nhất trong mắt các vị Thần. Tuy nhiên, để cứu độ chúng sinh, với sự dũng cảm thần thánh và đối mặt với nguy cơ có thể lạc mất bản năng thần thánh siêu thường và tất cả, họ đã ký kết với vị Phật Chủ để xuống đến thế giới này.

Vào lúc ấy, vị Phật Chủ đã giảng Pháp một thời gian rất lâu và sắp xếp mọi thứ chi tiết. Khi vị Phật Chủ nói rằng tất cả các sắp xếp sắp được thiết lập, vị thần cao tầng đó đã quay trở lại. Ông hiểu rằng những gì đang xảy ra và quỳ gối xuống để xin phép đi xuống thế giới con người. Những chi tiết của Chính Pháp đã được sắp xếp và rất khó thay đổi những điều đó. Nhưng vị Thần này rất quan trọng, vì thế vị Phật Chủ sau đó nhìn tôi và những vị Thần khác và gật đầu từ bi. Tôi dường như hiểu ý nghĩa đó. Vị Thần ở tầng thứ cao này đã thật sự rất hạnh phúc cuối cùng đã nhận được sự cho phép.

Với sự dũng cảm thần thánh, rất nhiều Thần đã từ bỏ những huy hoàng và đi xuống thế giới con người. Khi họ vào đến Tam giới, họ đã chịu nhận sự bức hại của những sinh mệnh ở tầng thứ thấp. Lúc đó, họ quên mất bản chân ngã của họ và đã làm nhiều điều sai trái và tạo rất nhiều nghiệp lực. Điều đáng tiếc hơn là một số họ đã làm những điều sai lầm khủng khiếp và đã bị hủy diệt.

Trong thế giới con người, dưới sự dẫn dẳt của vị Phật Chủ, những vị Thần này đã tạo nên văn hóa loài người và đặt nền móng cho việc phổ truyền Pháp. Lấy tôi làm ví dụ, tôi đã chuyển sinh thành rất nhiều những nhân vật lịch sử nổi tiếng (không phải tất cả họ đều chuyển sinh từ chủ nguyên thần của tôi, và điều này là nguyên nhân của việc hai ngay nhiều người là thường cùng một lúc trong một đời, nghĩa là vì sự tồn tại của cả chủ nguyên thần và phó nguyên thần). Tôi cũng có những quan hệ trực tiếp và gián tiếp với một vài những nhân vật nổi tiếng (quan hệ trực tiếp nghĩa là chủ nguyên thần là chính người đó, và gián tiếp là chủ nguyên thần của tôi là phó nguyên thần của người đó hoặc là phó nguyên thần của tôi là chủ nguyên thần của người đó).

Ví dụ, Việt Vương Câu Tiễn đã ngủ trên củi và ăn thức ăn chỉ cho người nông dân, cũng như tự mình phải nếm mật. Hạng Trang múa kiếm trong triều Tần Hán. Suốt thời kỳ Tam quốc, Triệu Vân hy sinh bản thân để cứu thầy. Trong triều Tấn, Tổ Địch thức dậy vào buổi sáng nghe tiếng gà gáy của gà trống và tập kiếm. Tôi cũng từng là Tần Quỳnh trong thời Tùy Đường, Hoàng đế Đại Tông, người chị em thứ 8 của Dương Gia Tướng suốt triều đại Tống, Nhạc Vân của quân đội nhà Nhạc, nguyên soái Từ Đạt trong các triều nhà Nguyên và Minh, họa sỹ Đường Bá Hổ và Thạch Đạt Khai trong suốt cuối triều Thanh. Tôi cũng chuyển sinh thành một chàng trai phục vụ Tô Đông Pha trong chuyến thăm đến Xích Bích và chứng kiến ông viết bài thơ Xích Bích Phú”.

Tôi đã từng là bộ trưởng bộ lạc ở Kenya, Phi Châu, một người đánh cá ở mũi Hảo Vọng, Nam Phi, một người Eskimo ở Nam Cực và trợ tá của George Washington thời Chiến tranh độc lập Hoa Kỳ. Đó là tại sao tôi khá quen thuộc với Hoa Kỳ. Thật sự, tôi cũng chuyển sinh thành những nhân vật nổi tiếng khác cả ở Trung Quốc và nước ngoài, nhưng tôi sẽ không liệt kê tất cả họ ra đây vì không gian giới hạn ở đây.

Vị Đạo đó (sinh mệnh tầng thứ cao đó) đã trải qua nhiều thống khổ. Sau đó, ông ta chuyển sinh đến những nước khác nhau sau khi tạo những quan hệ nhân duyên với vị Phật Chủ ở Trung Quốc. Nhiều lần, ông chuyển sinh ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Ví dụ, trong một đời trước cuộc đời này, ông ta chuyển sinh thành một người sáng lập ra một kiểu thương mại lương thực. Trong bài báo “Mối nhân duyên của Ba Hải”, tôi đã mô tả quan hệ nhân duyên với Ngài [Phật Chủ].

Thực tế, mỗi sinh mệnh trong thế giới này đến đây là vì Pháp. Vào lúc đầu, họ tin rằng Pháp này có thể cứu độ chính họ và nhiều sinh mệnh khác ở tầng thứ họ và rằng Pháp này có thể tiêu trừ những sự ô ế. Đó là nguyên nhân mà Sư phụ của Pháp Luân Công đã bảo các đệ tử của Ngài rằng chúng ta phải giảng sự thật. Đó là nguyên nhân mà các đệ tử Đại Pháp muốn sử dụng cả tiền bạc và thời gian của họ để giảng sự thật cho các bạn một cách từ bi, để cho các bạn biết được Pháp Luân Đại Pháp là tốt và giúp các bạn thoái Đảng Cộng sản Trung Quốc tà ác và những tổ chức liên quan. Họ đang làm tất cả để cứu mạng các bạn.

Để giúp các bạn nhớ lại lời thề (đến thế gian để đồng hóa với Pháp) mà các bạn đã thực hiện, và để đánh thức phần tâm can của các bạn, những học viên Pháp Luân Công đang cố gắng hết sức mình (bao gồm chuỗi những bài báo tôi đang viết). Mục đích của họ là giúp bạn phân biệt sự thật và sự giả dối và chọn một tương lai tươi sáng cho chính các bạn, là điều mong ước của các bạn khi các bạn đến đây.

Cuối cùng tôi muốn chia sẻ bài thơ tôi viết năm 2003:

Bay về vũ trụ

Bay lên cùng mây may mắn,
Chúng sinh mong chờ bạn trở về.
Bao nhiêu hạnh phúc khổ đau,
Tất cả trở thành từ bi vô hạn.

Tôi hy vọng mỗi người có thể biết sự thật và lựa chọn hợp lý cho chính mình.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/11/28/49596.html
http://www.pureinsight.org/node/5556

The post Luân hồi ký sự: Vì Pháp mà đến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2008/11/ghi-chep-ve-luan-hoi-den-the-gian-vi-phap.html/feed0
Luân hồi ký sự: Mối quan hệ tiền duyên cách đây hai đờihttps://chanhkien.org/2007/06/luan-hoi-ky-su-moi-quan-he-tien-duyen-cach-day-hai-doi.htmlhttps://chanhkien.org/2007/06/luan-hoi-ky-su-moi-quan-he-tien-duyen-cach-day-hai-doi.html#respondWed, 27 Jun 2007 19:40:00 +0000Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Trong suốt triều đại nhà Thanh, có một người đàn ông sống sung túc ở một vùng ngoại ô của Bắc Kinh. Ông là một nhà buôn vải và đã có một cậu con trai, chừng hai mươi mấy tuổi. Người con trai trẻ luôn luôn nghĩ làm thế nào […]

The post Luân hồi ký sự: Mối quan hệ tiền duyên cách đây hai đời first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Trong suốt triều đại nhà Thanh, có một người đàn ông sống sung túc ở một vùng ngoại ô của Bắc Kinh. Ông là một nhà buôn vải và đã có một cậu con trai, chừng hai mươi mấy tuổi. Người con trai trẻ luôn luôn nghĩ làm thế nào để thông thạo kỹ năng buôn bán của cha và không nghĩ đến điều gì khác. Nhiều người mai mối đến nhà để hy vọng tìm cho anh ta một người vợ, nhưng người con trai luôn sử dụng công việc bận rộn để cáo lỗi. Sau đó, người cha đã giữ anh ta ở nhà và đã chọn một phụ nữ trẻ từ một gia đình giàu có. Người vợ tương lai chỉ mới 16 tuổi. Một năm sau, gia đình trang hoàng căn nhà, tổ chức lễ cưới, và đã rước cô dâu về gia đình. Cặp vợ chồng trẻ đã sống rất hạnh phúc. Bạch Cư Dị, một nhà thơ nổi tiếng thời Đường, một lần đã viết trong thơ của mình, “Nhà buôn tìm lợi nhuận coi sự chia sẻ với gia đình nhẹ nhàng.” Người đàn ông trẻ không nghĩ nhiều về tình yêu, và đã không có hành vi đúng đắn đối với tiền tài. Nói rõ hơn, sự yêu thích nghề nghiệp của anh ta vượt xa hơn tình cảm cho vợ và cha. Anh ta đã có những suy nghĩ mâu thuẫn trong đầu về trách nhiệm của mình đối với vợ, cha, và tiền tài. 3 năm sau, anh đã đi đến miền Giang Nam (miền Nam của sông Dương Tử) vì công việc làm ăn.

Không lâu sau anh được tin cha chết. Khi trở về, thì thấy cha mình vẫn khỏe. Anh ta nghĩ bụng cha mình có lẽ chỉ muốn mình về nhà, vì trước đây khi ra khỏi nhà thì ông ấy thường viện cớ. Tuy nhiên, đã có nhiều việc cần phải giải quyết. Vì thế, anh ta đã trở lại thêm vài ngày đợi cho đến khi mọi việc đâu vào đó. Anh ta mới trở về nhà thì cha mình đã qua đời. Người cha đã mãi gọi tên anh ta và để lại lời nhắn cho anh ta: Sau khi cha chết, hãy chăm sóc người con dâu tốt của ta và đừng đi xa khỏi nhà thường xuyên. Sau khi cha anh ta được chôn cất, anh ta đã thật sự rất tốt và kề cận bên vợ anh ấy. Anh đã có người khác để chăm sóc việc thương mại. Sau đó việc thương mại trở nên thịnh vượng và anh ta đã rất bận rộn. Anh đã đi nhiều nơi để lo về chuyện làm ăn. Khi anh ta khoảng 50 tuổi, vợ anh ta đã có thai. Trong khoảng thời gian đứa bé gần sinh, một vụ làm ăn rất quan trọng cần sự quan tâm của anh ta, vì thế anh đã bảo vợ trước khi đi rằng anh ta sẽ trở về trong vài ngày. Tuy nhiên, sau 8 ngày, anh vẫn chưa trở lại, vợ anh ta rất lo lắng. “Nếu anh ta mà ở nhà thì thật tốt biết mấy!” người vợ đã nghĩ thế trong lúc sinh đẻ khó khăn. Đứa con đã sinh ra sau khi người vợ phải chịu đau khôn cùng. Tuy nhiên, người vợ đã chết mà ngay cả không nhìn thấy đứa con gái sơ sinh.

Sau khi người vợ chết, nguyên thần của cô ta đã rời khỏi cơ thể và đã rất giận dữ với chồng cô. Cô ta rất bảo vệ đứa con gái của mình, và đã thề rằng cô ta sẽ tìm cách đầu thai thành con người để cô có thể chăm sóc con gái của mình trong những lúc khó khăn.

Khi trở về nhà, anh ta đã nghe tin đau buồn về vợ mình, anh đã khóc 3 ngày. Chỉ khi người khác nhắc nhở anh ấy rằng anh ta cần phải chăm sóc đứa con gái, thì anh ta dần dần ra khỏi sự đau buồn.

Sau đó, trong lúc xã hội hỗn loạn, anh đã thấy rằng mình và con gái nương tựa vào nhau. Khi đứa con gái 6 tuổi, họ đã bị chia cách trong chiến tranh. Kết cục, mối quan hệ tiền duyên của họ đã kết thúc trong đời đó.

Hiện giờ, trong đời này, khi cô con gái gặp khó khăn về tài chính, người cha đã xuất hiện. Điều đó thật hợp với lo-gic, và anh ta đã hành động như là một người cha với cô ấy. Sau đó anh ta đã mang đứa con gái này cùng với anh ta. Bởi vì cô ta là một học viên Pháp Luân Công, vừa mới di chuyển đến thành phố mới, cô gặp nhiều việc không thuận lợi. Anh ta đã giới thiệu cô ấy với một bạn đồng nghiệp cũ người mà anh ta đã không gặp sau 27 năm. Anh ta nói rằng người bạn đồng nghiệp này đã muốn anh ta lấy con gái cô ta làm vợ, nhưng anh ta đã từ chối. Và đó là nguyên nhân tại sao anh ta đã không gặp cô trong những năm qua. Nhưng anh ta đã cảm thấy cần đến viếng thăm họ, và anh ta đã tìm thấy cả gia đình cô ta đều luyện tập Pháp Luân Công, và người con gái của người bạn đồng nghiệp thật ra là mẹ của cô con gái này từ 2 kiếp trước.

Những sự kiện sau đó còn thú vị hơn: dần dần, người con gái của người bạn đồng nghiệp đã bắt đầu rất lo lắng về cô gái này, đối xử với cô gái như là một đứa con gái của cô ta. Vì thế, cả hai họ đều chăm sóc cô ta. Khi anh ta biết người mẹ đến, anh ta lập tức bỏ đi. Khi người mẹ biết anh ta đến, cô lập tức bỏ đi. Họ đã chơi trò trốn tìm. Mặc dù, họ không phải là vợ chồng trong đời này, họ đang hoàn thành những lời ước hẹn nhưng là cha mẹ của cô ấy từ cách đây 2 năm.

Từ câu chuyện này, chúng ta biết rằng mối quan hệ tiền duyên được sắp định trước một cách có mục đích bởi thiên đình, và không ai có thể thay đổi.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2007/4/27/43544.html
http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4632

The post Luân hồi ký sự: Mối quan hệ tiền duyên cách đây hai đời first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/06/luan-hoi-ky-su-moi-quan-he-tien-duyen-cach-day-hai-doi.html/feed0
Luân hồi ký sự: Bồ Tát từ bihttps://chanhkien.org/2007/04/luan-hoi-ky-su-bo-tat-tu-bi.htmlhttps://chanhkien.org/2007/04/luan-hoi-ky-su-bo-tat-tu-bi.html#respondTue, 24 Apr 2007 18:01:00 +0000Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời nói đầu: đây là một câu chuyện của một vị Bồ Tát và một cậu bé. Chúng ta có thể thấy được lòng từ bi và sự hiển hiện của Bồ Tát. Trong suốt triều nhà Tùy, một đệ tử Phật gia đã tu luyện siêng năng với sư […]

The post Luân hồi ký sự: Bồ Tát từ bi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

[Chanhkien.org] Lời nói đầu: đây là một câu chuyện của một vị Bồ Tát và một cậu bé. Chúng ta có thể thấy được lòng từ bi và sự hiển hiện của Bồ Tát.

Trong suốt triều nhà Tùy, một đệ tử Phật gia đã tu luyện siêng năng với sư phụ của anh ta ở trên núi. Một lần nọ anh đã làm rớt giày của mình xuống một con suối mà không hay biết. Sau đó 3 hoặc 4 ngày, một cậu bé chừng 18 , 19 tuổi đi đến hang động nơi họ thường thiền định. Cậu bé đã có đôi giày mà cậu đệ tử Phật gia đã đánh mất.

Cậu bé nói, “Có phải đôi giày nầy của ông không? Tôi đã thấy đôi giày này, khi tôi chăn gia súc trên bãi cỏ ngày hôm kia. Ông của tôi bảo rằng đó là của 2 người đàn ông đang tu Phật trên núi. Có lẽ chúng là của ông. ”

Người đệ tử Phật gia thấy sự tử tế của cậu bé. Ông ta nói: “Ngươi có một tấm lòng tử tế. Trong tương lai, khi ta thành chính quả, ta sẽ mang ngươi với ta lên thiên đàn. Được không?”

Người đệ tử Phật gia thật sự đạt thành chính quả và trở thành một vị Bồ Tát nổi tiếng. Vị Bồ Tát và cậu bé đã có được cuộc sống của họ trên thiên đàng. Tuy nhiên, sau cùng, cậu bé đã không trải qua sự tu luyện. Cậu đã không để những dụng cụ của vị Bồ Tát đúng chỗ. Vì việc này, cậu đã bị rớt xuống trần gian.

Vị Bồ Tát này rất từ bi. Ông đã xuống trần gian bằng người để giúp đỡ cậu bé trả nghiệp và sớm trở lại thiên đình.

Tại trần gian, vị Bồ Tát có khi đầu thai là mẹ của cậu bé. Khi thì đầu thai là anh của cậu bé để chăm sóc cho cậu ta.

Sau nhiều lần đầu thai, cậu bé không tin vào tu luyện, Thần hay Phật. Trong đời này, vị Bồ Tát sinh ra trong một gia đình chức trọng quyền cao và đã bị giáo dục bởi sự truyền bá của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tuy nhiên, thiên nhãn được mở, và cô ta thường nhìn thấy các không gian khác.

Cậu bé là con trai lớn của cô trong đời này. Anh ta khá tử tế và đối xử với mẹ anh ấy rất tốt. Tuy nhiên, anh ta không tin vào thần. Bất kỳ khi nào người mẹ già của anh ta nói về Thần và Phật, anh ta nói rằng nó chỉ có trong ảo tưởng của bà.

Một ngày nọ, vợ tôi và tôi đã viếng thăm gia đình. Khi mới vào nhà, tôi đã biết cơ duyên của người mẹ và đứa con trai này. Sau đó người mẹ và tôi đã có một cuộc trò chuyện. Người phụ nữ lớn tuổi bắt đầu kể cho chúng tôi rằng đứa con trai của bà thường cho bà là “mê tín”. Tôi đã nói với bà về mối tiền duyên của họ. Người mẹ rất cảm động và sẵn sàng thoái ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó.

Thật sự gia đình này khá tốt trong xã hội. Tuy nhiên, mục đích cho một chúng sinh hiện nay là để biết sự thật của Đai Pháp và từ bỏ ĐCSTQ tà ác. Mặc khác, không cần biết trên bề mặt lý do gì đã dẫn họ đến thế gian này, có phải họ đến là vì Đại Pháp?

Hãy quí báu thời gian này. Đừng bỏ lỡ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/3/18/42808.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4487

The post Luân hồi ký sự: Bồ Tát từ bi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/04/luan-hoi-ky-su-bo-tat-tu-bi.html/feed0
Luân hồi ký sự: Vừa chân thực vừa huyền ảohttps://chanhkien.org/2006/10/luan-hoi-ky-su-vua-chan-thuc-vua-huyen-ao.htmlhttps://chanhkien.org/2006/10/luan-hoi-ky-su-vua-chan-thuc-vua-huyen-ao.html#respondSat, 28 Oct 2006 11:40:00 +0000Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Vài ngày trước đây, cô bạn gái tôi muốn tôi kể chuyện cho cô nghe. Tôi ngồi thế hoa sen và thiền định trong giây lát, sau đó tôi kể chuyện kỳ lạ cho cô nghe. Vào thời Nguyên Thái Tổ Hốt Tất Liệt (1206-1367 SCN), có một thương gia […]

The post Luân hồi ký sự: Vừa chân thực vừa huyền ảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Vài ngày trước đây, cô bạn gái tôi muốn tôi kể chuyện cho cô nghe. Tôi ngồi thế hoa sen và thiền định trong giây lát, sau đó tôi kể chuyện kỳ lạ cho cô nghe.

Vào thời Nguyên Thái Tổ Hốt Tất Liệt (1206-1367 SCN), có một thương gia về dược thảo mang các loại dược thảo quý báu từ núi Trường Bạch ở vùng đông bắc Trung Quốc đến phía nam của sông Dương Tử để bán. Mặc dù ông không phải người hoàn toàn nhưng tính tình thành thật và từ thiện.  Cung cách ông ấy giống như người nhà quê tốt. Ngày xưa một lần nọ ông bị dân điạ phương lường gạt khi mua vật liệu dược thảo và bị lỗ̉ lớn,  ông ta rất giận về việc này. Lúc bấy giờ ông nghĩ, “Nếu mọi việc êm xuôi tôi sẽ đi viếng vùng Giang Tô và Chiết Giang, đặc biệt là vùng Tây Hồ là nơi mà các văn nhân mô tả là tiên giới. Đó là một niềm vui lớn trong cuộc đời nếu tôi được du lịch nơi nầy. ” Ông đến phía nam sông Dương Tử  êm xuôi.

Ông bán tất cả cho tiệm buôn bán dược thảo. Người chủ tiệm thiết đãi ông một màn biểu diễn nhảy múa. Ông không nhớ gì nhiều về nhảy múa nhưng ông ghi vào tâm thức về cây đàn năm dây do cô gái chơi đàn. Khi những ngón tay của cô lướt trên phím đàn, âm thanhtuyệt diệu phát ra liên tục để cho ông thưởng thức.

Hai ngày sau, ông mượn thuyền đi du ngoạn một mình ở Tây Hồ. Nhưng ông không biết người chèo thuyền là kẻ cướp. Trong khi ông đang vui thú thì tên chèo thuyền làm thuyền lắc lư và ông bị rớt xuống nước. Ông không thể lội và bị ngất trong lúc đó. Tên cướp kéo ông lên trói ông lại và chèo thuyền vào bờ. Ông không có mang theo tiền. Tất cả tiền đều là chi phiếu mà ông đã may dấu trong quần áo. Tên cướp muốn đem ông vào bờ để lục soát quần áo ông thật kỹ. Trong khi chiếc thuyền di chuyển về bờ, một đám mây lớn từ xa đến thình lình bao lấy chiếc thuyền. Khi tên cướp xoay mặt lại nhìn thì người thương buôn đã biến mất. Tên cướp nghĩ không ra tại sao người thương buôn lại biến mất. Hắn nhận lấy sự xui xẻo buồn nản trở về nhà để nghe vợ mắng.

Người thương buôn này đã đi đâu? Khi ông tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên bục trong một ngôi đình. Lúc đó trời sắp tối nên ông không thể thấy rõ những gì chung quanh. Ông ngồi tại đó suy nghĩ một lát và nhớ lại mới biết có người đã cứu mình. Ông đứng lên và đi nhiều vòng của ngôi đình để tìm ân nhân đó,  nhưng ông chẳng thấy ai cả. Ông chỉ thấy một bức chân dungđức Phật ở trên cột trụ, màu sắc rất sống động và hình như mắt của ngài đang chuyển động. Nơi đó cũng có một ảnh con rồng đang há mồm và đang vươn móng vuốt ở trên một cột trụ khác cũng có màu sắc. Ở phía tây bắc của ngôi đình có cây đàn năm dây. Ông nghĩ “có lẽ chủ ngôi đình đi vắng chỉ có một mình thôi sao không đánh đàn để đỡ cô đơn. ”Kế đó ông tự nghĩ, “Tôi sợ là ý nghĩ không được tốt. Tôi không nên đụng đến vật gì khi chủ nhân vắng nhà. ” Ông lại nghĩ, “Nhưng mà chủ nhân để tôi bên cạnh cây đàn, tôi sẽ giải thích khi chủ nhân về”. Rồi ông ngồi xuống cạnh cây đàn. Ông không biết chơi đàn, nhưng khi nhìn kỹ thuật các ngón tay của cô gái lúc biểu diễn nhảy muá, ông bắt chước cô gái và bắt đầu đánh đàn.

Ông không biết cây đàn đó không phải là cây đàn tầm thường, đó là nhạc khí Pháp của các vị Thần. Cây đàn có sự thông minh và có thể đọc được tư tưởng của người đánh đàn. Ông bắt đầu đánh đàn mặc dù ông không biết phải đánh đàn như thế nào. Trong khi đánh đàn, ông nghĩ về quá khứ của ông, những đau khổ và các niềm vui. Khi ông buồn, tiếng đàn trở nên nặng nề; khi ông vui sướng tiếng đàn trở nên vang rền. Sau khi đánh đàn được một lúc, ông nhận thấy tâm trạng thay đổi, và đã trở nên trong sạch, dể chịu, nhẹ nhàng và vô tư. Kế đó ông nghĩ, “Tôi tưởng chừng giống như là thần. Nếu tôi có thể là Thần thìtuyệt diệu biết bao. “Ông ngẩng nhìn lên thấy bầu trời đầy các vì tinh tú, nhưng cây đàn trở nên trong suốt, sáng chói và trông rất ngoạn mục? Ông tự nghĩ, “Thật sự tôi đã gặp Thần?” Ông không nghĩ thêm nữa và tiếp tục đánh đàn, và tâm trạng càng thanh khiết hơn. Ông cũng tin vào tu luyện nhiều hơn. Mặc dù bề ngoài ông không giống như người đạo đức cao trong kiếp này, căn cơ ông đã tốt tột bậc từ trước. Mặc dù ông không trực tiếp biết tu luyện là gì, thông qua đánh đàn, tâm tính ông được nâng cao, đó là trong tiến trình tu luyện.

Ông không biết ông đã đánh đàn được bao lâu và rốt cuộc ông cảm thấy hơi mệt. Ông nhìn mấy cột trụ và thấy mấy cột trụ cũng chói sáng và trong suốt. Cả con rồng hình như cũng sống lại và bắt đầu di chuyển chậm chạp. Bức tranh đức Phật từ từ bay lên trời. Ông có một ý nghĩ từ đáy lòng, “Nếu tôi cũng được bay lên như họ!” Trong giây phút ngắn ngủi ấy, một tia ánh sáng lớn bằng ngón tay chiếu xuống từ trên trời, và đức Phật đang mĩm cười và từ trên cao vẫy tay đến ông. Ngoài bản năng, ông đã không còn có tư tưởng của loài người, và chỉ muốn hoà hợp với đức Phật để trở về Thiên đàng. Kế đó ông đưa tay ra nắm lấy tia sáng và từ từ bay lên cao.

Sau cùng ông đã thành công tu luyện theo phương pháp này. Bây giờ ông ở trên Thiên đàng chú ý đến mọi việc xảy ra ở thế giới loài người.

Tái bút: Thật ra người thương gia là một trong những người phó nguyên thần lúc ban đầu trong quá khứ của tôi. Thành công tu luyện khi dùng phương pháp âm nhạc thật là khó tin.

Thử nghĩ, nếu ông không kiên định trong sự tu luyện hoặc tính chất giác ngộ của ông không được tốt trong lúc quan trọng, thì làm sao ông có thể thành công trong sự tu luyện? Nói đến việc nầy, tôi muốn có lời với các bạn tôi đã chưa đến ngưỡng cửa tu luyện: Trong thời kỳ của đức Phật Thích Ca, có một câu chuyện về cô công chúa của một Long vương huyền năng của cô được khai mở ngay sau khi cô nghe Chân lý của Phật. Trong hoàn cảnh này thì thí dụ nầy xuất hiện cũng không ngạc nhiên.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4247
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/9/6/39853.html

The post Luân hồi ký sự: Vừa chân thực vừa huyền ảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/10/luan-hoi-ky-su-vua-chan-thuc-vua-huyen-ao.html/feed0