[ChanhKien.org]
Phần III-6: Bí mật của nền văn minh Maya
Rất nhiều người đã từng nghe nói đến truyền thuyết về nền văn minh “Maya”, ấn tượng của hầu hết chúng ta về người Maya luôn gắn liền với những khu rừng rậm rạp ở châu Mỹ. Nhắc đến người Maya, trong đầu não nhiều người sẽ hiện lên hình ảnh một nhóm người Indian với những bộ trang phục lông vũ rực rỡ, nắm tay thành vòng tròn thực hiện các nghi lễ huyền bí dưới ánh trăng, đứng ở giữa là vị pháp sư với pháp thuật cao cường. Đúng thế, nơi cư ngụ của người Maya nằm ngay tại khu vực Trung Mỹ ngày nay, những di tích bí ẩn ấy vẫn nằm trong khu rừng tĩnh lặng, nhưng chỉ vài người biết rằng, người Maya lại có quan hệ mật thiết với những tộc người ở rất xa phía bên kia Trái Đất – người Trung Quốc và người Mông Cổ. Những di tích bằng đá khổng lồ cùng các tác phẩm nghệ thuật tuyệt đỉnh mà họ để lại đã vượt xa khoa học kỹ thuật của chúng ta ngày nay. Tại đây, chúng ta hãy cùng gác lại những quan niệm cũ để một lần nữa khám phá sâu hơn về vùng đất tổ tiên của người Maya, cùng hiểu hơn về dân tộc và văn minh của họ.
Quá trình phát hiện
Vào thế kỉ XVI, người Tây Ban Nha đã đặt chân đến châu Nam Mỹ, họ đã xâm lược và chiếm lĩnh lục địa hoàn toàn mới này. Khi ấy những cư dân ở vùng Trung Nam Mỹ vẫn còn đang sống một cuộc sống nông nghiệp nguyên thủy, đương nhiên họ hoàn toàn không có năng lực phản kháng trước những chiến hạm kiên cố và khẩu đại bác đầy uy lực của người Tây Ban Nha. Chẳng bao lâu sau, người Tây Ban Nha đã truyền bá tín ngưỡng của mình đến vùng đất này, có hai nhà truyền giáo khi thấy người dân địa phương tin vào vu thuật và các tập tục mê tín, liền dùng một mồi lửa đốt sạch toàn bộ những thư tịch cổ xưa được người Maya cất giữ. Nhưng có ai ngờ rằng, những thư tịch ấy lại chính là kho tàng trí thức quý báu của người Maya cổ vốn tưởng đã bị thất truyền, bên trong có ghi chép chi tiết về những thành tựu khoa học và văn hóa huy hoàng của họ vào thời đó. Đó có lẽ cũng là Thiên ý, các học giả nghiên cứu về văn minh Maya thời nay chỉ có thể chắp vá lại những mảnh giấy rời rạc để ghép lại bức tranh thịnh vượng của người Maya xưa.
Di tích đá khổng lồ trong rừng sâu
Kim tự tháp của người Maya có thể nói là công trình kim tự tháp nổi tiếng chỉ sau Kim tự tháp Ai Cập. Các kim tự tháp này không giống nhau lắm, Kim tự tháp Ai Cập có hình chóp tứ giác, màu vàng kim, qua hàng ngàn năm mưa gió đã bị hư hỏng đôi chút. Kim tự tháp Maya thấp hơn, cũng được xây bằng những khối đá lớn, là loại đá trắng xám, thế nên cả tòa kim tự tháp đều có màu trắng xám, nó không hẳn là có hình chóp, trên đỉnh kim tự tháp có một ngôi đền tế Thần. Bốn phía của Kim tự tháp Maya đều có bốn cầu thang, mỗi cầu thang gồm 91 bậc, bốn cầu thang cộng thêm tầng trên cùng tổng cộng là 365 bậc (91×4+1=365), vừa đúng bằng số ngày trong một năm.
Người Maya vô cùng coi trọng các con số thiên văn học, trong các công trình của họ nơi nào cũng chứa đựng những con số có liên quan đến quy luật vận hành của thiên thể. Ngoài số bậc thang ra, bốn mặt của kim tự tháp mỗi mặt đều có 52 bức phù điêu hình tứ giác, tượng trưng cho chu kỳ 52 năm trong một thế kỷ của văn minh Maya.
Đài thiên văn của người Maya cũng là công trình kiến trúc vô cùng đặc sắc. Nếu nhìn dưới góc độ hiện nay, từ cấu trúc bên ngoài đến chức năng của đài thiên văn của người Maya đều không khác gì đài thiên văn hiện đại. Ví như Trạm quan trắc Thiên văn Caracol, một đài quan sát được xây dựng khá lớn và tinh xảo, có những bậc thang nhỏ dẫn lên đài quan sát lớn. Nó cũng có kiến trúc hình trụ tròn tại tầng trệt giống như những đài thiên văn hiện nay, có thiết kế nắp vòm hình bán cầu đặt bên trên, nắp vòm này trong thiết kế đài thiên văn ngày nay chính là nơi đặt kính viễn vọng. Bốn cửa của đài thiên văn đều ứng với bốn hướng một cách chính xác, cửa sổ và hành lang cửa tạo thành sáu đường thẳng nối liền, trong đó có ít nhất ba đường có liên quan đến thiên văn. Một đường có liên quan đến tiết xuân (thu) phân, hai đường còn lại có liên quan đến các chuyển động của Mặt Trăng.
Tòa tháp quan trắc thiên văn Caracol là tháp quan trắc lớn nhất trong các di tích, các di tích khác cũng có kiến trúc tương tự. Về vị trí, tất cả đều thẳng hàng với Mặt Trời và Mặt Trăng, những năm gần đây các nhà khảo cổ cho rằng các nhà thiên văn học Maya cổ đại đã xây dựng được một mạng lưới quan sát thiên văn tại khu vực.
Những công trình này đủ để khiến con người hiện đại phải thán phục. Lấy Kim tự tháp Maya làm ví dụ, việc đẽo gọt các tảng đá khổng lồ, rồi vận chuyển chúng vào sâu trong rừng, lại chất từng tảng đá nặng mười mấy tấn lên thành chồng cao 70m là một nhiệm vụ rất khó làm nổi nếu như không dùng những phương tiện giao thông tiên tiến hay các thiết bị nâng hạ hiện đại. Hơn nữa, một dân tộc sinh sống trong rừng sâu tại sao phải tốn công sức lớn như thế, xây dựng một mạng lưới quan trắc thiên văn? Theo ghi chép trong lịch sử, kính viễn vọng được Galileo phát minh vào thế kỷ thứ XVI, tiếp đó mới có sự xuất hiện của các đài thiên văn khổng lồ, còn quan niệm về mạng lưới quan trắc thiên văn tới thời cận mới xuất hiện, vậy quan niệm về mạng lưới quan trắc thiên văn của người Maya có thể nói là khá tiên tiến. Qua đó có thể khẳng định rằng, khoa học của người Maya thời đó không hề thua kém khoa học ngày nay.
Lịch pháp và các chữ số thiên văn đã thất truyền từ lâu
Chắc chắn mọi người đều cảm thấy những con số Ả Rập mà chúng ta học từ thời tiểu học rất bình thường, chẳng qua chỉ là trình tự 10 chữ số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 0. Có lẽ nhiều người không biết rằng, quan niệm về số 0 được người Ai Cập mang từ Ấn Độ đến châu Âu, người châu Âu cổ đại không có khái niệm về chữ số tưởng như đơn giản này. Người Hy Lạp tuy giỏi phát minh, nhưng họ buộc phải viết con số bằng ký tự chữ cái; người La Mã tuy biết sử dụng số, nhưng cũng chỉ có thể dùng hình ảnh để biểu thị cho bốn con số mang tính đại biểu.
Người Maya dùng một chấm, một gạch ngang và một ký hiệu hình vỏ sò biểu thị số 0 để biểu đạt con số.
Khi các nhà khảo cổ nghiên cứu về hệ thống chữ số của người Maya, họ đã phát hiện rằng cách biểu đạt con số của người Maya có sự tương đồng kỳ diệu với cách dùng hạt tính của bàn tính. Họ sử dụng ba ký hiệu: một chấm, một gạch ngang và một ký hiệu hình vỏ sò biểu thị số 0 là có thể ghi lại mọi con số. Hệ nhị phân của máy tính ngày nay cũng ứng dụng nguyên lý tương tự.
Phương pháp tính số này có thể được sử dụng để ghi lại các chữ số thiên văn, trên những cột đá điêu khắc gọi là “bia đá” được phát hiện ở Quirigua, Guatemala, có ghi lại những con số lên tới 90 triệu năm, 400 triệu năm.
Lịch pháp thời Maya vô cùng phức tạp, lịch Tzolk’in với chu kỳ 260 ngày, lịch thái âm có chu kỳ sáu tháng, lịch thái âm nguyệt theo chu kỳ 29 và 30 ngày, lịch thái dương với chu kỳ 365 ngày, những chu kỳ khác nhau có các loại lịch pháp khác nhau. Ngày nay nhờ các thiết bị quan sát thiên văn hiện đại, chúng ta biết một năm dài 365,2422 ngày, trong khi người Maya đã đo được một năm dài 365,2420 ngày.
Người Maya đã tính toán ra công thức Sao Kim nổi tiếng:
(Mặt Trăng) 20×13=260 260x2x73=37,960
(Mặt Trời) 8×13=104 104x5x73=37,960
(Sao Kim) 5×13=65 65x8x73=37,960
Công thức này có nghĩa là: các chu kỳ khác nhau sau 37,960 ngày sẽ hội tụ trên cùng một đường thẳng, mà theo truyền thuyết của người Maya, lúc ấy “Thần Chỉ” (phúc Thần ban) sẽ đến một nơi thanh tịnh nghỉ ngơi. Năm sao Kim là chỉ khoảng thời gian sao Kim quay một vòng quanh Mặt Trời, người Maya đã mất 384 năm quan sát để tính ra một năm sao Kim dài 584 ngày (họ phát hiện rằng trong tám năm theo thời gian Trái Đất, sao Kim vừa đúng đi được năm vòng quanh Mặt Trời, sau đó chu kỳ này lại lặp lại. Họ lấy số ngày của tám năm Trái Đất (2.920 ngày) chia cho năm vòng quay để ra 584 ngày cho một năm sao Kim. Ngày nay, các phép tính hiện đại cho kết quả là 583,92 ngày, sai số mỗi ngày chưa tới 12 giây, tức là mỗi tháng chỉ chênh khoảng sáu phút. Việc tính toán ra được năm sao Kim với độ chính xác cao như vậy quả là một điều khó tin.
Đơn vị tính ngày của người Maya lớn đến mức kinh ngạc, và các giá trị mà các nhà khảo cổ đã biết được là:
20 ngày = 1 Vinal
18 Vinal = 1 Tun = 360 ngày
20 Tun = 1 Katun = 7.200 ngày
20 Katun = 1 Baktun = 144.000 ngày
20 Baktun = 1 Piktun = 2.880.000 ngày
20 Piktun = 1 Kalabtun = 57.600.000 ngày
20 Kalabtun = 1 K’inchiltun = 1.152.000.000 ngày
20 K’inchiltun = 1 Alautun = 23.040.000.000 ngày
Tại sao cần biểu đạt những con số khổng lồ đến vậy? Con số khổng lồ đến thế thì đến cả người hiện đại cũng chưa dùng đến. Dưới góc nhìn của khoa học hiện đại, có lẽ chỉ có một ngành khoa học duy nhất mới cần phải dùng đến con số lớn đến thế, ấy là thiên văn học. Các nhà thiên văn học thường phải dùng những đơn vị số rất lớn để biểu thị khoảng cách giữa các thiên hà, chỉ có “những con số thiên văn” trong thiên văn học mới có thể lớn đến vậy.
Lời tiên tri của người Maya trong lịch pháp Maya
Trong lịch pháp Maya, có một loại lịch tên là “Tzolk’in”, loại lịch pháp này một năm có chu kỳ 260 ngày, nhưng điều kỳ lạ là, trong hệ Mặt Trời lại không có hành tinh nào phù hợp để áp dụng loại lịch pháp này. Dựa vào lịch Tzolk’in, hành tinh này có lẽ đã từng nằm giữa sao Kim và Trái Đất.
Ký hiệu trong lịch Tzolk’in biểu đạt những miêu tả của người Maya về trung tâm hệ Ngân Hà, rất giống với đồ hình Âm Dương Thái Cực mà chúng ta vốn rất quen thuộc.
Có học giả về văn minh Maya cho rằng, lịch pháp “Tzolk’in” đã ghi chép lại quy luật vận hành của “chu kỳ thiên văn của chính hệ Ngân Hà”, mà theo lịch “Tzolk’in”: Trái Đất của chúng ta hiện nay đang ở giai đoạn gọi là “Chu kỳ thứ 5 của Mặt Trời”, và là chu kỳ Mặt Trời cuối cùng. Trong chu kỳ của Ngân Hà này, hệ Mặt Trời của chúng ta đang trải qua một “Đại chu kỳ” kéo dài hơn 5100 năm, từ năm 3113 TCN đến năm 2012 SCN. Trong đại chu kỳ này, sự vận động của Trái Đất và cả hệ Mặt Trời đều đang đi qua một chùm tia phát ra từ tâm của dải Ngân Hà. Chùm tia này có đường kính mặt cắt ngang tương đương với 5.125 năm Trái Đất. Nói cách khác, Trái Đất cần 5.125 năm để đi qua hết chùm tia này.
Người Maya chia “Đại chu kỳ” này làm 13 giai đoạn, diễn biến của mỗi từng giai đoạn được ghi chép vô cùng chi tiết. Mỗi giai đoạn trong 13 giai đoạn kia lại được phân thành 20 thời kỳ, mỗi thời kỳ kéo dài khoảng 20 năm.
Một chu kỳ lịch pháp như vậy rất giống với “Thiên can”, “Địa chi” của Trung Quốc, lịch pháp vận hành theo chu kỳ tuần hoàn, chứ không phải giống như Dương lịch, kéo dài theo một đường thẳng vô tận. Họ cho rằng, kể từ khi khai thiên lập địa đến nay, Trái Đất đã trải qua bốn kỷ nguyên Mặt Trời.
Sau khi các thiên thể trong hệ Mặt Trời trải qua “Đại chu kỳ” dưới tác động của chùm tia Ngân Hà này, sẽ xảy ra một sự biến đổi căn bản, người Maya gọi đó là “Đồng hóa hệ Ngân Hà”.
Theo lời tiên tri của người Maya về thời gian của “Đại chu kỳ”, thì đến nay, thời khắc ấy đã gần chạm đến giai đoạn cuối cùng. Trong 20 năm từ năm 1992-2012, Trái Đất của chúng ta đã bước vào thời kỳ cuối của giai đoạn cuối cùng trong “Đại chu kỳ”. Người Maya cho rằng đây là một thời kỳ vô cùng quan trọng trước khi xảy ra “Đồng hóa hệ Ngân Hà”. Họ gọi đó là “Thời kỳ canh tân địa cầu”. Trong thời kỳ ấy, Trái Đất sẽ được tịnh hóa hoàn toàn. Sau khi đi qua “Thời kỳ canh tân địa cầu”, Trái Đất sẽ bước ra ngoài chùm tia Ngân Hà để bước vào giai đoạn mới “Đồng hóa hệ Ngân Hà”.
Nếu lịch pháp của người Maya chuẩn xác đến vậy, thì dự ngôn của họ ắt hẳn có cơ sở nào đó. Ngày nay khi môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, thiên tai nhân họa không ngừng xuất hiện, chúng ta hãy suy nghĩ xem, lời dự ngôn của người Maya rốt cuộc đang nhắc nhở chúng ta điều gì?
Người Maya và người Trung Quốc
Chúng ta có thể nhìn ra những manh mối trong quan hệ giữa người Maya và người Trung Quốc từ những góc độ sau:
Văn tự: Người Maya sử dụng chữ tượng hình với trình độ phát triển gần tương đương với chữ tượng hình của Trung Quốc, nhưng tổ hợp ký hiệu của nó lại phức tạp hơn nhiều so với Hán tự, cho đến nay vẫn chưa có ai có thể giải mã hoàn toàn được văn tự Maya.
Nghệ thuật: Lấy chiếc vò gốm có chân hình quai túi làm ví dụ: phần uốn cong như hình nhũ hoa cùng gam màu rực rỡ, kết hợp với những hoa văn hình học đỏ – đen đầy tương phản, tạo nên một hiệu quả thị giác vô cùng nổi bật. Hiện nay các nhà khảo cổ phát hiện, chân quai hình nhũ là một mẫu hình đặc sắc nhất của đồ gốm thời Trung Quốc tiền sử, nhưng nó lại được tìm thấy trong các mẫu đồ gốm của tộc người da đỏ ở châu Mỹ.
Đồ ngọc: Phần lớn các văn vật thời Maya là các vật dụng bằng ngọc, trên thế giới chỉ có hai dân tộc là người Maya tại Châu Mỹ và người Trung Quốc yêu thích ngọc thạch và sở hữu kỹ nghệ chạm khắc ngọc tinh xảo. Điều trùng hợp hơn nữa là cả hai dân tộc này đều có tín ngưỡng về sự gắn kết giữa ngọc với sinh mệnh, sự phồn thịnh, một số đồ ngọc của người Maya lại có sự tương đồng đáng kinh ngạc với trang sức ngọc của văn hóa Lương Chử – nền văn hóa tiền sử ở vùng Giang Nam.
Tín ngưỡng: Hình tượng Thần Rắn với đôi cánh (Thần Kukulkan) trong văn hóa Maya khá giống với hình tượng rồng cưỡi mây đạp gió của Trung Quốc. Hình tượng phần đầu Thần Rắn trên các bức bích họa của Maya, và hình ảnh chạm khắc đầu rắn trên cây gậy hai đầu của thầy tế Maya, đều có tạo hình gần giống với đầu rồng. Ngoài ra, việc tế bái Thần Rắn của người Maya và việc người Trung Quốc tế bái rồng đều có liên quan tới cầu mưa.
Nhân chủng: Xét từ góc độ nhân chủng học, người Maya và người Trung Quốc đều có những đặc trưng riêng biệt, rõ rệt của chủng tộc Mông Cổ. Hơn nữa, nghiên cứu còn chứng minh được đường chỉ tay của người Maya và người Trung Quốc vô cùng giống nhau.
Đồ hình Thái Cực: Trong đống tàn tích của văn minh Maya, người ta lại phát hiện đồ hình Thái Cực giống hệt của người Trung Quốc, cũng chính là “cá Âm Dương” mà chúng ta vẫn quen thuộc.
Những văn vật bí ẩn
Phù điêu tên lửa
Qua bao nhiêu năm tìm kiếm trong những di tích của nền văn minh Maya đầy bí ẩn, các nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều văn vật, trong đó có rất nhiều đồ vật ẩn chứa những nội hàm khó lý giải. Nhưng điều làm người ta kinh ngạc nhất là, trong số đó có một vài đồ vật được nhận diện khá tương đồng với kỹ thuật đỉnh cao hiện nay.
Từ năm 1948-1952, trong khi khai quật tại Ngôi đền Inscriptions thuộc quần thể Đền thờ Palenque, Giáo sư khảo cổ người Mexico, Alberto Ruz Lhuillier đã phát hiện trên bức tường của một gian thạch thất khổng lồ có khắc hình chín vị tư tế trong y phục trang trọng, cùng phù điêu một chàng trai trẻ đội chiếc mũ kỳ diệu. Sau khi quan sát kỹ lưỡng, ông phát hiện bức phù điêu này rất giống với tàu vũ trụ hiện nay! Hình ảnh trong phù điêu là một chàng trai đang điều khiển một cỗ máy, với phần đầu có dạng thuôn nhọn, trông rất tinh vi và phức tạp, còn có thứ như đồng hồ đo. Chàng trai đầu đội mũ bảo hộ, trên mũ có gắn hai ống dẫn nối. Anh cúi người và đầu gối, hai tay đang nắm các cần điều khiển, một tay nâng lên đang điều chỉnh một thứ giống như tay cầm, bốn ngón ở tay kia đặt thấp hơn, thì đang điều khiển một bộ phận như tay lái xe máy. Hai mắt nhìn thẳng về phía trước, gót chân trái đặt trên một bàn đạp có nhiều rãnh khía, phía sau người điều khiển có thứ như thiết bị của động cơ đốt trong, đằng sau buồng động cơ đốt trong có thể thấy có tia lửa phun ra.
Trong các phù điêu được khắc trong các bia đá đặt trong điện Thần của người Maya, có khắc hình một chàng trai đội mũ bảo hộ, đang điều khiển cỗ máy giống tàu vũ trụ.
Bức phù điêu mà Giáo sư Lhuillier phát hiện tại quần thể Đền Palenque có quan hệ mật thiết với các văn tự được khắc trên bia đá của người Maya. Trong các tấm bia được giải mã, có đoạn mô tả như sau: “Đứa con của Mặt Trời màu trắng, mô phỏng theo Thần Sấm, dùng hai tay phóng lửa…” Người không tin sẽ nói rằng, đoạn này có lẽ là cảnh tượng người Maya tưởng tượng ra, xuất phát từ sự sùng kính đối với Mặt Trời. Nhưng từ những điêu khắc đá mà Giáo sư Lhuillier tìm được, cũng như đoạn được ghi chép trong bia ký, thì đó hoàn toàn là “sự thật”.
Nếu ngẫm nghĩ kỹ hơn, hình ảnh trên phù điêu này thật sự có vài phần giống với tàu đổ bộ lên Mặt Trăng. Nếu hình ảnh này đúng là đã vẽ lại những cỗ máy mà người Maya đã chế tạo trước đây, vậy thì vào thời ấy họ đã có khả năng thám hiểm không gian. Có lẽ những lịch pháp tinh vi kia chính là công cụ cần thiết để người Maya du hành vũ trụ.
Hộp sọ pha lê
Năm 1927, tại di tích Maya ở Belize, một chiếc hộp sọ được chế tác từ pha lê được phát hiện lại càng khiến con người ngỡ ngàng vì sự tinh mỹ. Chiếc hộp sọ này hoàn toàn được chế tác và mài bóng từ thạch anh, kích cỡ tương tự như sọ người thật, cao 12,7cm, nặng 5,2kg, được chế tác dựa theo hộp sọ của một người phụ nữ.
Người Maya đã dựa vào hộp sọ người thật để chạm khắc thành hộp sọ pha lê, thể hiện được sự trưởng thành của giải phẫu học và kỹ thuật quang học. Hơn nữa, còn nắm được kỹ thuật chạm khắc mà ngay cả công nghệ hiện nay vẫn chưa nắm được. (Nguồn ảnh: trích từ “Bí ẩn hộp sọ pha lê” của Chris Morton & Ceri Louise, bản tiếng Trung do Shanghai Bertelsmann Culture Industry xuất bản, bản giản thể do Current Affairs Publishing House xuất bản)
Từ bức ảnh có thể thấy chiếc hộp sọ này không chỉ có bề ngoài hết sức sinh động, mà kết cấu xương sọ bên trong cũng hoàn toàn khớp với cấu trúc xương sọ của con người. Trình độ công nghệ chế tác của nó rất cao, các lăng kính ẩn trong phần đáy và thấu kính mài thủ công trong hốc mắt kết hợp lại sẽ phát ra ánh sáng chói lóa.
Chúng ta đều biết rằng, kỹ thuật quang học hiện đại được ra đời từ thế kỷ XVII, mà việc nhân loại có những nhận thức chính xác về kết cấu xương cũng phải từ sau thế kỷ XVIII, sau khi ngành giải phẫu phát triển hưng khởi. Hộp sọ pha lê này lại được chế tác dựa trên hiểu biết sâu sắc về cấu trúc xương người và các nguyên lý quang học, người Maya làm cách nào có thể nắm vững được những kiến thức về quang học và giải phẫu cao siêu như vậy?
Hơn nữa, pha lê chính là tinh thể thạch anh, với độ cứng rất cao, chỉ đứng sau kim cương (còn gọi là đá kim cương) và đá hoa cương, dùng công cụ làm từ đồng, sắt hoặc đá đều không thể gia công được chiếc hộp sọ này. Ngay cả người hiện đại, để điêu khắc những sản phẩm pha lê như thế, cũng chỉ có thể sử dụng những công cụ hiện đại như đá kim cương để đẽo gọt. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hộp sọ pha lê này được điêu khắc bằng một loại lực va chạm nào đó, nhưng khoa học hiện đại vẫn chưa phát triển được kỹ thuật này.
Từ hộp sọ pha lê kỳ lạ này, ta có thể thấy người Maya nắm giữ trình độ kỹ thuật cực cao. Các công nghệ kỹ thuật mà con người hiện đại tự hào cũng không thể sánh với chiếc hộp sọ này.
Xét về tốc độ phát triển kỹ thuật và lý luận khoa học hiện đại, e rằng chúng ta phải mất ít nhất 50 đến hơn 100 năm mới theo kịp trình độ công nghệ của người Maya.
Phần cuối
Các di tích văn minh cổ đại đa dạng khắp nơi chính là những bảo tàng lưu giữ chứng tích lịch sử nhân loại tuyệt mỹ nhất. Những di tích có từ hàng ngàn vạn năm ấy, khiến người ta không thể lý giải nổi rốt cuộc hà cớ gì chúng vẫn cứ đứng đó, dù qua bao bể dâu vẫn không bị chôn vùi cùng những nền văn minh đương thời? Không chỉ vậy, các di tích tại khắp nơi ấy rõ ràng đã được xây dựng bởi các thời kỳ khác nhau, các dân tộc khác nhau, vậy tại sao lại có nhiều nền văn minh khác nhau đến vậy?
Lấy kim tự tháp làm ví dụ, như Kim tự tháp Ai Cập, Kim tự tháp Maya hay kim tự tháp chìm sâu dưới đáy biển vùng Tam giác Bermuda, tuy đều cùng là kim tự tháp, nhưng những kim tự tháp này không chỉ có kích cỡ khác nhau, mà ngoại hình và công dụng cũng không giống nhau. Dựa theo niên đại khảo sát được, người ta đã phát hiện thời gian chúng được xây dựng cách nhau rất xa.
Nổi tiếng nhất là di tích của nền văn minh Maya, tương tự, di tích của người Inca ở Nam Mỹ, di tích Tiwanaku ở Trung Mỹ — tuy đều là những công trình xây bằng đá, nhưng phong cách, chủng loại, phương thức xây dựng của chúng đều có khác biệt vô cùng lớn, từ kiến trúc của chúng, ta có thể thấy những người đã xây nên các di tích này có phương thức sinh sống khác biệt cực kỳ lớn, khảo cứu được thời gian xây dựng của chúng cũng cách nhau rất xa. Vậy thì là ai, trong suốt quá trình lịch sử văn minh đằng đẵng của nhân loại, đã lần lượt dựng lập nên những huy hoàng của mình?
Biết bao năm qua, con người luôn ngước nhìn vầng trăng sáng trên trời, nhưng có mấy ai biết rằng Mặt Trăng là do người xưa tạo nên? Văn minh thời đó còn phát triển hơn cả ngày nay, vậy thì giờ đây nó đang ở đâu?
Văn minh nhân loại liệu có phải là cứ một giai đoạn tiếp nối một giai đoạn mới, tuần hoàn không nghỉ? Mỗi lần đều bắt đầu bằng “thời kỳ nguyên thủy”, con người dựa vào sức lao động cùng các công cụ chân tay, cứ thế sống cuộc sống trồng trọt chăn nuôi đơn giản mà chất phác. Sau đó con người dần dần phát minh ra một vài công cụ, có thể làm được nhiều việc hơn với ít sức lực hơn. Khi này cuộc sống của con người cũng dần an nhàn hơn, bắt đầu chú trọng hưởng thụ cuộc sống, cũng dần xem nhẹ quy phạm đạo đức (tiêu chuẩn làm người), vì ham hưởng lạc nhất thời mà phá hoại môi trường một cách nghiêm trọng, tài nguyên cạn kiệt, cuối cùng xuất hiện đại tai nạn hủy diệt văn minh nhân loại trong nháy mắt. Con người lại lần nữa quay trở về thời kỳ nguyên thủy…
Chương tiếp theo chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn về vấn đề này. Một nền văn minh phát triển vượt bậc đã biến mất như thế nào?
Tài liệu tham khảo
1. Phát hiện đền thờ và kim tự tháp dưới đáy biển phía Bắc Yilan (Đài Loan) (http: //big5.zhengjian.org/articles/2001/1/5/6933.html )
2. Kim tự tháp dưới đáy biển Nhật Bản (http://big5.zhengjian.org/articles/2001/1/5/5579.html )
3. Phát hiện thành phố biển vạn năm ở Bành Hồ, Đài Loan — nền văn minh thất lạc. (http://www.epochtimes.com/b5/1/8/27/n123301.htm)
4. Kim tự tháp dưới đáy biển Bermuda (http://big5.zhengjian.org/articles/2001/8/3/10836.html )
5. Nhân loại từng bị huỷ diệt: Nguồn gốc của Mặt Trăng (http://big5.zhengjian.org/articles/2000/12/22/6156.html)
6. Sự thật lịch sử (Phần 7) – Mặt Trăng là thiên thể do con người tạo nên (http: //big5.zhengjian.org/articles/2001/1/29/7727.html)
7. Tổng quan về bí ẩn nền văn minh Maya cổ (http://www.epochtimes.com/b5/1/8/31/n124607.htm )
8. Ai là người xây nên Kim tự tháp Giza và tượng Nhân sư ở Ai Cập? (http: //big5.zhengjian.org/articles/2002/2/20/13876.html)
9. Graham Hancock, Dấu vân tay của Thượng Đế (Đài Bắc: Nhà xuất bản Tiên Trí Đài Loan, năm Dân Quốc 87 [1998])
10. Bức tranh khổng lồ thời tiền sử ở Nam Mỹ (http://big5.zhengjian.org/articles/2000/12/17/5869.html )
11. Hình khủng long trên đá Ica, Peru (http://www.omniology.com/IcaPeruDinoArt.htm )
12. Thuở ấy có người khổng lồ trên Trái Đất (http://www.omniology.com/Joe+GiantLeg.html)
13. Di tích dưới đáy biển (http: //www.bihou.com/iseki/top/hom.htm)
Dịch từ:


