Vén bức màn văn minh tiền sử (Phần 4): Hoạt động trên không của người xưa
[ChanhKien.org]
I-3 Hoạt động trên không của người xưa
Lịch sử đã kể với chúng ta, hơn 300 năm trước một người Ý là Galileo đã phát minh ra kính viễn vọng, mở ra những bước đầu tiên cho việc quan sát thiên thể của nhân loại. Thế nhưng, hình người được khắc trên một tảng đá được cất giữ trong viện bảo tàng Peru ICA, ước tính ít nhất sống vào 500 năm trước, trên tay người này lại cầm kính viễn vọng quan sát bầu trời, đồng thời có hình đuôi sao chổi đang quét ngang qua đầu anh ta. Đó là thời đại nào, tại sao người này cũng từng phát minh ra kính viễn vọng?
Viện bảo tàng tư nhân Dr. Javier Cabrera tại Peru đã thu thập được một khối đá, cho thấy trước cả khi Galileo phát minh ra kính viễn vọng, con người đã dùng kính viễn vọng để quan sát thiên thể. (Ảnh: Do labyrinthina.com cung cấp)
Liên quan đến niên đại chế tác khối đá ấy có nhiều quan điểm khác nhau. Viện bảo tàng Dr. Javier Cabrera tại Peru đã thu thập được nhiều khối đá giống như vậy, chủ đề được miêu tả trên bề mặt các khối đá ngoài những hình ảnh quan sát thiên văn, còn có hình ảnh về cấy ghép nội tạng, truyền máu, cùng những người săn đuổi khủng long, v.v. Trong biên niên sử của Tây Ban Nha từng ghi nhận phát hiện được một khối đá loại này trong ngôi mộ cổ của người Inca, do vậy các nhà khoa học ước đoán nó có ít nhất là khoảng 500 năm lịch sử. Thế nhưng từ cảnh tượng con người và khủng long cùng sinh sống với nhau mà xét, có lẽ nó đến từ những thời kỳ còn xa xưa hơn.
Cùng xem khối đá mà viện bảo tàng ICA thu thập được, có lẽ chúng ta không khó để hiểu bộ lạc Dogon vì sao lại có tri thức thiên văn phát triển đến thế.
Người Dogon sinh sống bên khúc ngoặt của con sông Nigeria ở phía Nam dãy Himalaya, họ sống bằng trồng trọt và chăn nuôi, họ không có văn tự, chỉ truyền đạt tri thức bằng miệng. Trong những giáo lý tôn giáo được truyền miệng suốt hơn 400 năm của bộ lạc này đã có những miêu tả cực kỳ chính xác về thiên thể mà các nhà khoa học gọi là Thiên Lang tinh B (bên cạnh chòm Thiên Lang), phát hiện này khiến các nhà khoa học vô cùng kinh ngạc.
Vì ngôi sao này vô cùng mờ nhạt, không thể dùng mắt thường quan sát được. Các nhà thiên văn học phải dùng những thiết bị thiên văn kỹ thuật cao để quan sát trong thời gian dài, mãi đến tận thế kỷ 19 mới lần đầu thấy nó. Không có thiết bị thiên văn, nhưng những lời truyền miệng đời này nối đời khác đã nói cho người Dogon biết Thiên Lang tinh là tổ hợp gồm một ngôi sao lớn và một ngôi sao nhỏ, thể tích của ngôi sao nhỏ tuy nhỏ nhưng trọng lượng lại rất nặng, quay quanh ngôi sao lớn theo quỹ đạo elip. Hơn nữa những người già Dogon dùng cây gậy trong tay vẽ đường vận động của hai ngôi sao trên mặt đất, rất giống với hình ảnh miêu tả sự vận động của hai ngôi sao do các nhà thiên văn vẽ ra. Ví dụ về người Dogon đã nói rõ rằng tổ tiên của họ từ rất sớm đã nắm vững được tri thức về thiên văn ở trình độ khá cao.
Hình người tại Peru và tri thức thiên văn của người Dogon đã tiết lộ những tri thức và kỹ thuật của người xưa trong việc khám phá không gian, rất có khả năng không hề kém cạnh so với chúng ta. Chúng ta hãy cùng xem tiếp những vận dụng của người xưa về kỹ thuật bay.
Bay lên không trung
Trong sách cổ Trung Quốc có ghi chép về chuyện người xưa từng chế tạo công cụ bay, người này chính là người được hậu nhân tôn xưng là thủy tổ nghề thủ công, đó là Lỗ Ban thời Xuân Thu chiến quốc. Trong “Mặc Tử – Lỗ Vấn” có ghi chép: “Công Thâu Tử đẽo miếng trúc như chim thước, ba ngày không rơi”. Có ý rằng chiếc máy bay có hình dáng như chim thước ấy có thể giúp nó ở trên không bay lượn suốt ba ngày. Hơn nữa vì để hoàn thành nhiệm vụ trinh sát trong chiến tranh, Lỗ Ban cũng từng chế tạo một con diều hâu lớn bằng gỗ, theo ghi chép trong “Hồng Thư”: “Công Thâu làm diều hâu gỗ, nhìn lén vào kinh thành nhà Tống”. Ngoài cỗ máy thám thính, Lỗ Ban còn chế tạo máy bay chở khách. Trong “Dậu Dương Tạp Trở” thời Đường ghi chép rằng Lỗ Ban rời xa quê hương kiếm sống, vì nhớ thê tử ở nhà, thế nên đã chế tạo một con diều hâu gỗ, chỉ cần cưỡi trên cỗ máy này, diều hâu gỗ sẽ bay thẳng lên trời, ông đã ngồi trên con diều hâu này bay về nhà gặp vợ, hôm sau lại trở về làm việc.
Liên quan đến những ghi chép về chim gỗ, ở phương Tây cũng có một câu chuyện thú vị. Năm 1898, trong ngôi mộ Ai Cập cổ đại tại Saqqara, nhà khảo cổ học người Pháp Lauret đã phát hiện một sản phẩm thủ công chim gỗ, trắc định thời gian chế tạo vào khoảng 200 năm trước công nguyên. Vì nhân loại vào năm 1898 vẫn chưa biết mùi vị ngồi máy bay bay lên trời là thế nào, vậy nên nó bị khoác lên một từ chim gỗ, rồi lặng lẽ nằm tại viện bảo tàng Cairo suốt hơn 70 năm, không ai ngó ngàng. Cho đến tận năm 1969, Khalil Messiha một bác sỹ người Ai Cập nổi tiếng trong việc chế tạo mô hình đã phát hiện ra nó, sản phẩm chim gỗ này khiến ông nhớ lại kinh nghiệm chế tạo mô hình máy bay của mình. Ông nghĩ đây không đơn thuần chỉ là một chú chim. Nó khác với những con chim khác, không có chân, cũng không có lông vũ, lại không có lông đuôi ngang. Hơn nữa, lông đuôi phía cuối của nó lại dựng đứng, còn mặt cắt ngang của cánh bên hông (airfoil cross-section), lại phù hợp với điều kiện chế tạo máy bay. Sau này ông căn cứ theo kích thước ấy chế tạo ra một con chim khác y hệt, tuy không biết người Ai Cập đã dùng nguồn lực nào để khiến nó bay lên, nhưng vị bác sỹ này sau khi dùng tay phóng nó lên, phát hiện nó thật sự có thể bay lên.
Viện bảo tàng Cairo trưng bày một con chim gỗ được tìm thấy trong một lăng mộ Ai Cập cổ đại, theo nghiên cứu thực tế, nó không chỉ bay được mà còn có tỉ lệ khá giống với tàu lượn ngày nay. (Ảnh: cung cấp bởi Dawoud Khalil Messiha)
Sau này các nhà khoa học phát hiện rằng mô hình này có tỉ lệ khá giống với loại tàu lượn có động cơ ngày nay. Loại tàu lượn này có thể dựa vào chính nó để tiếp tục bay lượn trên không trung, thậm chí gắn thêm một động cơ nhỏ có thể giúp nó đạt được tốc độ từ 45 đến 65 dặm (72 đến 105km) mỗi ngày, hơn nữa có thể chở được những đồ vật rất nặng. Căn cứ theo thói quen thường làm mô hình trước khi chế tác của các thợ thủ công Ai Cập mà xét, con chim gỗ này rất có khả năng giống với con diều hâu gỗ của Lỗ Ban, là một công cụ vận chuyển của người Ai Cập cổ.
Những nghiên cứu của con người hiện đại về bay lượn mới phát triển khoảng 200 năm, vào năm 1903 hai anh em nhà Wright đã hoàn thành lần bay lượn tự do đầu tiên của con người, thực sự thiết lập nền tảng lý luận cho việc chế tạo máy bay. Còn Lỗ Ban và người Ai Cập cổ dường như sớm đã nắm vững những lý luận ấy rồi, những phát hiện này đã nhắc nhở chúng ta rằng liệu có nên cân nhắc việc nghiên cứu lại từ đầu những suy đoán về sự phát triển của văn minh nhân loại, tri thức của người xưa thực sự đã vượt khỏi mức độ hiểu biết của chúng ta. Phát hiện tiếp sau đây lại càng khiến con người kinh ngạc, nó tiết lộ hoạt động của người xưa có lẽ đã vượt khỏi phạm vi bầu trời, thậm chí vượt xa đến ngoài tầng không gian.
Bản đồ không gian
Năm 1959, Mỹ đã thành công dùng vệ tinh nhân tạo chụp được bức ảnh đầu tiên về Trái Đất nhìn từ vũ trụ. Tuy chất lượng của bức ảnh này không tốt lắm, nhưng đây là lần đầu tiên con người dùng phương pháp khoa học quan sát địa cầu mà chúng ta đang sinh sống từ khoảng cách 17 nghìn dặm trên không trung. Sau đó, có rất nhiều nghiên cứu khoa học cũng bắt đầu sử dụng kỹ thuật chụp vệ tinh, trong đó trong một lần quan sát người ta đã phát hiện một điều đáng kinh ngạc.
Các nhà khoa học gắn máy ảnh lên con tàu không gian bay trên bầu trời Cairo, chụp ảnh từ trên cao xuống. Khi ảnh được rửa ra, họ liền thấy được một hình ảnh như sau: vì ống kính máy ảnh nhắm thẳng vào khu vực này, lấy Cairo làm trung tâm, trong bán kính 5.000 dặm, tất cả sự vật đều được diễn tả rõ trên màn ảnh. Thế nhưng, từ điểm trung tâm đưa mắt nhìn ra bốn phía, cảnh tượng lục địa và bình nguyên đã trở nên mơ hồ không rõ. Đây là vì Trái Đất hình cầu, cách điểm trung tâm càng xa thì những cảnh tượng này sẽ càng bị lệch xuống phía dưới. Ví như địa hình của Nam Mỹ sẽ trở nên vô cùng kỳ lạ, hẹp và dài. Những cảnh tượng tương đồng cũng sẽ xuất hiện trên các bức ảnh được các phi hành gia chụp từ Mặt Trăng. Thế nhưng khi các nhà khoa học đem so sánh những bức ảnh được chụp từ vệ tinh với những tấm bản đồ cổ của Thổ Nhĩ Kỳ, họ lại phát hiện những nội dung được vẽ trong bản đồ và ảnh chụp từ vệ tinh gần như giống hệt nhau. Các ngọn núi tại Nam Cực bị băng tuyết phủ kín hàng trăm năm nay, năm 1952 các nhà khoa học hiện đại dưới sự hỗ trợ của máy dò sóng mới phát hiện được vị trí địa lý hoàn chỉnh của nó, nhưng trên tấm bản đồ cổ này đã được mô tả cực kỳ rõ ràng. Ngoài ra, đường biên và kinh – vĩ độ cũng khá chuẩn xác. Thế nhưng, tấm bản đồ cổ này lại do một vị chỉ huy hải quân Thổ Nhĩ Kỳ Reis gom góp chế tác từ nhiều tấm bản đồ viễn cổ khác nhau vào đầu thế kỷ 16.
Vào thế kỷ 16, Chỉ huy Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ Reis gom góp chế tác từ nhiều tấm bản đồ viễn cổ thành một bản khá giống với hình ảnh chụp được từ vệ tinh.
Tấm bản đồ mô phỏng Reis lấy Cairo làm trung tâm. (Ảnh: cung cấp bởi Adventures Unlimited Press)
Phát hiện kinh ngạc này đã khiến các nhà khoa học cực kỳ hứng khởi, sau khi nghiên cứu thêm họ kết luận như sau: 1. Tấm bản đồ này là do sáu tấm bản đồ nguyên thủy được lưu truyền lại từ thời viễn cổ tạo thành. 2. Kỹ thuật vẽ của những bức bản đồ nguyên thủy này có lẽ cũng khá giống với kỹ thuật vẽ hình học phẳng mà chúng ta biết ngày nay. 3. Kỹ thuật vẽ của những bức bản đồ nguyên thủy có lẽ lấy Cairo, Ai Cập làm trung tâm cho sự phát triển. Từ những phát hiện này chúng ta không khó để thấy được rằng những tấm bản đồ nguyên thủy của Reis cần phải có kỹ thuật vẽ tiến bộ như chúng ta ngày nay thì mới có thể làm được. Nhưng nhân loại vào trước thế kỷ 16 chỉ có kỹ thuật hàng hải, còn về kỹ thuật vẽ từ trên không thì không cách nào tưởng tượng được. Rốt cuộc tổ tiên của chúng ta đã sử dụng kỹ thuật gì để hoàn thành những tấm bản đồ chuẩn xác ấy? Hay họ đã từng du hành trên vũ trụ chăng?
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/20904
Ngày đăng: 08-03-2025
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.