Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (4): Quy luật thịnh thế



Tác giả: Lưu Hương Liên

[ChanhKien.org]

Tiếp theo phần 3

VII. Công đức vô lượng, quy luật thịnh thế

Văn Cảnh chi trị, Quang Vũ trung hưng, Khai Hoàng thịnh thế, Trinh Quán chi trị, Khai Nguyên thịnh thế, Cảnh Thánh trung hưng (nhà Liêu), Hàm Bình chi trị, Hồng Vũ chi trị, Vĩnh Lạc thịnh thế, Nhân Tuyên chi trị, Khang Càn thịnh thế… Những thời thịnh thế huy hoàng này của Trung Hoa thời xưa, khiến người đời nghìn năm ca tụng. Đó không chỉ là hồi ức tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa, rất nhiều sử sách ở nước ngoài cũng đều ca ngợi những triều đại đó, coi đây trung tâm văn minh của thế giới.

Trăm nghìn năm nay, giới học thuật đều đang nghiên cứu nguồn gốc của những “Thịnh thế thiên triều” này, tìm hiểu nghiên cứu nguyên do khiến cho đất nước đi đến hưng thịnh. Những thành quả học thuật đều là những tổng kết tinh hoa của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, những thứ đó đều là những nguyên nhân bề mặt, nhưng lại không phải là căn nguyên ở tầng thâm sâu hơn. Ở đây tuyệt không phải là có ý khinh thường, phủ định đối với những giả thuyết trước đây, chỉ là muốn thảo luận về nguyên do ở tầng sâu hơn.

Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về những căn nguyên đồng nhất của những thiên triều thịnh thế đó, từ đó mà lý giải về thời thịnh thế Trung Hoa – “giấc mộng Trung Hoa” được “Thôi Bối Đồ” nói đến cần thực hiện như thế nào.

1.“Thiên triều thịnh thế” của Trung Quốc thời xưa (phần đầu)

a.Văn Cảnh chi trị thời Tây Hán

Những năm đầu kiến lập nhà Tây Hán, trăm nghề tàn lụi, đất nước tan hoang, dân tình thống khổ. Xe ngựa của hoàng đế còn tìm không được bốn con ngựa có cùng màu sắc, các quan viên thượng triều, có người ngồi xe trâu, nỗi khổ người dân càng không cần phải nói đến.

“Thực Hóa chí” trong Hán thư ghi lại rằng: Đến giai đoạn sau của Cảnh Đế, tiền trong quốc khố của vương triều nhà Hán nhiều đến nỗi chất cao như núi, sợi dây xâu tiền đều mục đứt cả, tiền lẻ nhiều đến mức không cách nào thống kê; kho lương các quận trong nước chất đầy lương thực, lương thực trong kho dự trữ cũng vì tồn trữ lâu ngày, cứ thế mục nát không thể ăn được nữa.

Bấy giờ mọi người cho rằng: là bởi Vô Vi nhi trị (lấy đạo vô vi trị nước) của những năm đầu triều Hán, giảm nhẹ lao dịch, nhẹ nhàng sưu thuế, nghỉ ngơi dưỡng sức, đặc biệt là ảnh hưởng của Hán Văn Đế cần cù tiết kiệm, dùng đạo đức cảm hóa muôn dân…

Những tổng kết này đều rất đúng, nhưng chỉ là nguyên nhân trực tiếp bề mặt, còn có nguyên nhân ở tầng sâu hơn: Dùng Đạo trị quốc, hợp với đạo trời.

Thời bấy giờ, tư tưởng và văn hóa Nho gia còn chưa có trở thành dòng chính của quốc gia, trị quốc vẫn là lấy tư tưởng Vô Vi chi trị của Đạo gia, bấy giờ gọi là “Triết học Hoàng Lão”. Vào thời đại dân phong thuần phác, Hán Văn Đế cơ bản đã làm được: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta ưa tĩnh mà dân tự chính. Ta không làm mà dân tự giàu. Ta không có dục vọng mà dân tự động trở nên chất phác” trong Đạo Đức Kinh.

Bởi vì Đạo gia cũng là chân chính giữa trời đất, bản thân Đạo Đức Kinh cũng giảng về quy luật của đạo Trời, thân tu đạo đức, hợp với đạo Trời, trị quốc hợp với đạo Trời, đương nhiên trời đất ban phúc, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Lấy đức dạy dân, dân phong thành thật chất phác, thiên hạ thái bình.

Hán Văn Đế còn nổi tiếng bởi sự hiếu thảo, được liệt vào một trong Nhị thập tứ hiếu nổi tiếng trong văn hóa Trung Quốc. Chuyện kể rằng, vào một lần mẹ ông Bạc Cơ bị ốm, Văn Đế cứ hễ có thời gian là đều đến thăm mẹ. Ông đã tự mình nếm thử tất cả mọi loại thức ăn và thuốc dâng lên cho Bạc Cơ.

b.“Quang Vũ trung hưng” thời Đông Hán

Quang Vũ Đế Lưu Tú là vị hoàng đế khai quốc nhà Đông Hán, dùng “Nhu Đạo” cai trị thiên hạ, đã áp dụng một loạt các biện pháp, để dân nghỉ ngơi, khôi phục sản xuất, giảm sưu thuế giảm hình phạt, đồng thời tự thân chuyên cần tu dưỡng đạo đức. Từ đó mà khiến nhà Đông Hán mau chóng khôi phục từ trong đau thương và suy tàn của chiến loạn, xã hội trở nên an định, nhân khẩu tăng trưởng, kinh tế đi đến phồn vinh, sử sách gọi là “Quang Vũ trung hưng“.

Tuy sự phục hưng này còn có chỗ thua kém so với “Đại trị thịnh thế”, nhưng cũng là một xã hội phồn vinh ổn định, sức sống tràn trề. Nguyên nhân Lưu Tú trị nước thành công, vẫn là “dĩ Đạo trị quốc“, thân tu đạo đức, hợp với đạo trời.

c.Hiếu Văn Đế trung hưng thời Bắc Ngụy

Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hồng nhà Bắc Ngụy, sau khi lên ngôi năm 24 tuổi đã ra sức thúc đẩy văn hóa dân tộc Hán, thay đổi phong tục, đã khai sáng cục diện “Bắc Ngụy trung hưng”. Tuy không được phồn vinh như các triều đại huy hoàng thịnh thế, nhưng đó lại là thời kỳ hưng thịnh huy hoàng của dân tộc Tiên Ty, cũng là một thời đại thái bình lưu danh sử sách.

Thời đại bình yên thu được quả lớn, căn nguyên gieo trồng nó chính là nằm ở việc “lập lại trật tự”, phục hưng Phật Pháp của ông nội Thái Bạt Hồng – Văn Thành Đế Thác Bạt Tuấn.

Phần trước đó đã từng nói qua, Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào – vị hoàng đế đầu tiên diệt Phật của Trung Quốc thời xưa đã gây nên tội lỗi to lớn, vài năm sau bị hoạn quan giết chết, hai người con trai (thái tử và cung tông) cũng lần lượt chết dưới tay của hoạn quan.

Văn Thành Đế ban đầu lên ngôi, đã bù đắp lại sai lầm của ông nội, phục hưng Phật Pháp. Hang đá Vân Cương – thánh địa Phật giáo nổi tiếng lưu truyền cho đến ngày hôm nay, chính là do ông hạ chiếu xây dựng. Khôi phục Phật Pháp là gây dựng công đức vô cùng to lớn, phúc phận trời ban, mấy năm liên tiếp mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Tuy có trải qua mấy lần mưu phản, nhưng đế vị của ông cũng là ổn định như núi Thái Sơn, không hề bị lung lay.

Đời trước trồng cây, đời sau hóng mát. Công đức to lớn khôi phục Phật giáo của Văn Thành Đế đã khai sáng nên thời đại hưng thịnh của Hiếu Văn Đế – cháu nội của ông. Dưới thời trị vì của Hiếu Văn Đế, chính sách thỏa đáng, dưới trướng nhân tài vô số, mưa thuận gió hòa, được mùa liên tiếp, lại là nhân quả của công đức mà ông nội gieo trồng.

d.“Khai hoàng chi trị” nhà Tùy

“Xưa nay bàn luận về quốc kế giàu sang, thì không triều đại nào có thể sánh được với nhà Tùy”. Mã Đoan Lâm – nhà sử học nổi tiếng giữa triều Tống Nguyên đã nói như vậy trong bộ sách Văn Hiến Thông Khảo của mình.

Sự giàu có của Đại Tùy là vượt xa cả triều Hán và Đại Đường. Tùy Văn Đế khai sáng “Khai Hoàng chi trị”, dân giàu nước mạnh, của cải dồi dào. Tùy Dạng Đế Dương Quảng cực kỳ xa hoa lãng phí, ông ta sử dụng đến mấy triệu dân công mở Đại Vận Hà (sông đào lớn), sau đó ngồi thuyền rồng xuống Dương Châu, những chiếc thuyền lớn lần lượt nối tiếp nhau, quanh co hơn 200 dặm.

Xa hoa lãng phí như vậy mà quốc khố vẫn đủ dùng. Sau 10 năm Tùy Dạng Đế xuống Dương Châu, trong làn sóng những cuộc khởi nghĩa to lớn đã lật đổ nhà Tùy, nhưng số lương thực còn lại trong kho lương nhà Tùy đủ để cho Đại Đường ăn đến mấy chục năm, đến những năm Trinh Quán vẫn chưa ăn hết.

Giàu có đến mức như vậy, nguyên do là ở đâu?

Tùy Văn Đế cũng dùng đạo trị nước, có anh tài phò trợ, nhưng đây cũng chỉ là nguyên nhân bề mặt. Căn nguyên thật sự nằm ở chỗ: Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung của triều đại trước cùng lúc hủy diệt Phật giáo và Đạo giáo, tạo thành tội nghiệp quá to lớn; bảy năm sau Dương Kiên phế bỏ Bắc Chu lập nên nhà Tùy, khôi phục Phật giáo. Có công đức to lớn như vậy, thêm vào đó bản thân Dương Kiên một lòng tin theo Phật Pháp, lại hoằng dương Phật Pháp, vậy nên có được công đức to lớn, hiện thế hiện báo, đăng cơ mười mấy năm, đã khai sáng cục diện “Khai hoàng thịnh thế”.

2.Công đức to lớn trong việc đại hưng Phật Pháp, Đạo Pháp

Khiến lòng người hướng thiện, xã hội an định

Nếu như lòng người không còn chất phác, thói đời sa sút, coi trọng vật chất, chạy theo bạc tiền, tham ô hủ bại, dối gạt lần nhau; quan hệ giữa người với người trở nên căng thẳng; lòng người thấp thỏm không yên. Dưới hoàn cảnh xã hội như vậy, dẫu cho có minh quân hiền thần, cũng không thể gây dựng nên một thời đại hưng thịnh; thể chế luật pháp dẫu có kiện toàn hơn nữa, tỷ lệ phạm tội cũng sẽ tăng cao chứ không thuyên giảm.

Nếu như con người không tin vào Thần Phật, thì sẽ không tin thiện ác hữu báo, phía mặt ác của nhân tính sẽ phình to lên, chỉ quan tâm đến những thứ trước mắt, một mực làm ác, dù có giảng đạo đức trước mặt, cũng sẽ làm chuyện xấu sau lưng. Hơn nữa những kẻ nhân tâm bại hoại sẽ gắng sức len lỏi vào kẽ hở của luật pháp, khiến cho xã hội đại loạn, lòng người hỗn loạn, phạm tội không ngừng.

Phật Pháp hưng thịnh nơi cõi người, khiến cho lòng người hướng thiện, mọi người có thể tự ước thúc bản thân ngay từ trong tâm, biết làm chuyện xấu sẽ có báo ứng, phía mặt ác của nhân tính bị khắc chế hết sức, bớt phóng túng, ít làm chuyện xấu, làm nhiều việc thiện, làm việc biết tiến lùi, người dân có thể chủ động tuân thủ luật pháp. Phần sau chúng ta có thể thấy được, thời kỳ “Trinh Quán chi trị” thời nhà Đường, quan lại trong sạch, tỷ lệ phạm tội rất thấp, thời kỳ thịnh thế của nước Liêu, không ít nơi nhà tù trống không, nguyên nhân căn bản đều nằm ở chỗ Phật Pháp đại hưng.

Mưa thuận gió hòa, sinh thái tự nhiên tốt đẹp

Nếu như không có mưa thuận gió hòa, mà thiên tai liên miên, thì dẫu có văn trị võ công cũng vô dụng. Còn Phật Pháp hưng thịnh, phúc phận mang đến là tổng thể hoàn cảnh sinh thái tự nhiên tốt đẹp, đây là điều đảm bảo chắc chắn.

Quân thần hòa hợp, trời ban nhân tài

Văn trị võ công, không thể tách rời khỏi danh tướng hiền thần. Mà những anh tài này, không phải là sau khi đại hưng Phật Pháp mới giáng sinh, mà từ sớm đã xuất hiện và thành thục cả rồi, chính là xem đế vương có làm đại công đức thúc đẩy Phật Pháp hay không. Nếu làm, thì sẽ thành tựu tướng hiền tài, còn nếu không làm, thì sẽ vua và bề tôi bất hòa, anh tài khó dùng.

3.Thịnh thế Trung Quốc cổ đại (Phần cuối)

a.“Trinh Quán chi trị” thời nhà Đường

Trinh Quán chi trị thời Đường Thái Tông Lý Thế Dân là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc, tuy không được giàu có như thời “Khai Nguyên thịnh thế”, nhưng lại là thời kỳ đạo đức cao nhất, dân phong tốt nhất, là thời kỳ đại trị cực kì hưng thịnh của Trung Quốc thời xưa, thời đại quốc lực (thực lực quốc gia) cường thịnh nhất, khiến cho mỗi một người Trung Quốc đều không khỏi tự hào, hồi tưởng.

“Oán nữ tam thiên phóng xuất cung, tử tù tứ bách lai quy ngục” (Tạm dịch: Cung nữ ba nghìn cho xuất cung, tử tù bốn trăm trở về ngục). Đây là hai bức phác họa Trinh Quán được miêu tả trong bài thơ tự sự “Thất Đức Vũ “ của đại thi hào Bạch Cư Dị. Một cảnh là Đường Thái Tông để cho 3.000 cung nữ xuất cung trở về quê nhà lập gia đình, một mặt khác là trong suốt sáu năm Trinh Quán, cả nước chỉ có 390 tử tù, Thái Tông cho họ nghỉ định kỳ trở về nhà, đoàn tụ với người nhà, lệnh cho họ mùa thu năm sau tự mình trở về chịu xét xử. Kết quả 390 người năm sau đều đến đúng hẹn, Thái Tông cảm động, đã miễn xá cho toàn bộ.

Thời kỳ đạo đức cao thượng nhất, mới là điều mà mọi người mong mỏi nhất. Trinh Quán thịnh Đường chính là đỉnh cao của giá trị tinh thần như vậy. Đường Thái Tông lấy đức trị thiên hạ, quan lại trong sạch, dân phong thuần phác, xã hội công bằng an định, ngoài đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, người dân giàu có, hết thảy người dân đều cảm thấy hạnh phúc yên vui.

Nguyên nhân thịnh thế giàu mạnh, không thể tách rời khỏi minh quân hiền thần, nhưng mà, đó vẫn chỉ là nguyên nhân bề mặt.

Thế thì nguồn gốc thịnh thế của Đại Đường là nằm ở đâu đây? Lý Thế Dân thuận theo đạo trời hợp với lòng người, sau khi đăng cơ đã ban ra thánh chỉ phế bỏ “diệt Phật diệt Đạo” của Lý Uyên, phò trợ Đạo Pháp, Phật Pháp đại hưng, công đức to lớn như vậy, không những là cội nguồn phúc báo hiện thế trong đời này, mà còn là cội nguồn phúc đức của thời đại “Trinh Quán chi trị” mà trời ban cho, soi sáng cho muôn vàn đời sau.

b.“Khai Nguyên thịnh thế” nhà Đường

Khai Nguyên thịnh thế là thời đại càng giàu có hơn cả thời “Trinh Quán chi trị”, cũng chính là giàu có và đông đúc giống như thời kỳ khai hoàng của Tùy Văn Đế, giai đoạn trước nghiệp lớn của Tùy Dạng Đế.

Đời trước trồng cây, đời sau hóng mát. Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông đều là những người trồng cây phúc đức cho con cháu hưởng dùng. Nhưng, người vô đức, không giữ được của cải trong nhà, quân vương vô đức, không giữ được thiên triều thịnh thế. Đường Huyền Tông cũng giống như Tùy Dạng Đế, đời trước không tệ, đời sau thất đức, quốc gia mau chóng suy bại, lâu đài sụp đổ.

Nguyên nhân Đường Huyền Tông bại quốc, những gì mà người hiện đại giảng nói cũng chỉ là bề mặt, không có đụng đến căn nguyên. Căn nguyên này, nằm ở chỗ Đường Huyền Tông tự cậy tài hoa, giải thích kinh Phật, Đạo Đức Kinh, còn cưỡng ép chúng tăng ni học tập Hiếu kinh của Nho gia, đây là sự phá hoại to lớn đối với Phật Pháp, Đạo Pháp, là phá hoại, loạn Pháp ngay từ bên trong, tội lỗi này còn to lớn hơn cả đàn áp diệt Phật từ bên ngoài, phúc phận của Đại Đường đoạn đứt từ đây, Đường Huyền Tông mê muội dâm loạn, thiên tai nhân họa liên tục ập đến.

Trong 9 năm “An Sử chi loạn”, chiến tranh liên miên, hàng triệu sinh linh rơi vào cảnh khốn khổ lầm than. Đại Đường từ đỉnh cao hưng thịnh trong nháy mắt đã rơi xuống vực thẳm suy bại, giàu có phồn hoa như mộng ảo đã tan biến trong chốc lát, thiên tử chạy trốn, người dân chạy nạn, Đại Đường rơi vào cục diện cát cứ phân tranh. Đường Huyền Tông làm loạn Phật Pháp, Đạo Pháp là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến loạn An Sử.

c.“Đại Trung chi trị” nhà Đường

“Đại Trung chi trị” là thời kỳ hưng thịnh trong khoảng thời gian Đường Tuyên Tông Lý Thầm tại vị. Sau khi Đường Tuyên Tông lên ngôi, đã noi gương Thái Tông, chăm lo việc nước, cần kiệm trị quốc, quan tâm người dân, giảm nhẹ sưu thuế. Đã cải thiện những tệ hại trong triều từ thời nhà Đường đến nay, bên trong giải quyết tranh chấp giữa các phe cánh, ức chế quan lại hoàng tộc; về mặt đối ngoại, Đường Tuyên Tông không ngừng đánh bại Thổ Phiên, Hồi Hột, Đảng Hạng, Khê Nhân, thu hồi lại một lượng lớn lãnh thổ bị Thổ Phiên chiếm lĩnh từ sau loạn An Sử; quốc thế Đại Dường đã có những bước khởi sắc, người dân ngày càng giàu có, khiến cho quốc gia vốn đã suy bại trình hiện ra cục diện “trung hưng”.

Sử sách đánh giá Đường Tuyên Tông rất cao, cho rằng ông là đấng minh quân giống như Hán Văn Đế mở ra “Văn Cảnh chi trị” và Đường Thái Tông mở ra “Trinh Quán chi trị”, gọi ông là “Tiểu Thái Tông”, gọi thời kỳ ông trị quốc là “Đại Trung chi trị”.

Phúc phận của “Đại Trung chi trị”, cũng là đến từ trời. Vị đế vương trước Đường Tuyên Tông là Đường Vũ Tông, chính là hoàng đế Đường Vũ Tông, vị hoàng đế nhà Đường đã thực thi diệt Phật được giảng trước đó. Diệt Phật tạo nên tội lỗi to lớn, khiến cho Đường Vũ Tông chết bất đắc kỳ tử ở tuổi tráng niên, quốc gia sụp đổ, quân phiệt cát cứ, còn căn nguyên phúc phận của Đường Tuyên Tông là ở chỗ lập lại trật tự, khôi phục Phật giáo, trời ban phúc phận, thành tựu Đại Trung trung hưng nhà Đường.

d.“Cảnh Tông trung hưng” và thịnh thế nhà Liêu

“Cảnh Tông trung hưng”  là thời kỳ hưng thịnh của đế vương Liêu quốc Liêu Cảnh Tông Gia Luật Hiền. Cảnh Tông là một vị đế vương vô cùng có thành tựu của nước Liêu. Ông đã tiến hành một loạt cải cách đối với nhà Liêu, bắt đầu trọng dụng quan viên người Hán, cải cách lại trị (tác phong và uy tín của quan lại), thúc đẩy nước Liêu từ dân tộc du mục tiến nhập vào chế độ phong kiến. Cảnh Tông chăm lo việc nước, tiếp nhận ý kiến hay, thưởng phạt rõ ràng, dùng người thỏa đáng, về mặt quân sự so với Bắc Tống cũng chiếm thượng phong, khiến nước Liêu sau khi trải qua Mục Tông loạn chính, đã nghênh đón cục diện phục hưng, đặt định cơ sở vững chắc cho thời kỳ toàn thịnh của con trai ông là Liêu Thánh Tông.

Đương nhiên hết thảy thành quả này có quan hệ trực tiếp với hoàng hậu Tiêu Xước của Cảnh Tông, chính là vị Tiêu Thái hậu trong “bình thư diễn nghĩa” (một loại văn học nghệ thuật). Cảnh Tông sức khỏe cứ mãi không được tốt, Tiêu Xước liên tục trợ giúp chuyện triều chính. Sau khi Cảnh Tông qua đời, con trai của Tiêu Xước là Gia Luật Long Tự (Liêu Thánh Tông) lên ngôi, nhưng đại quyền quân sự chính trị quốc gia vẫn nằm trong tay Tiêu Thái hậu.

Tiêu Xước từ nhỏ tín phụng Phật Pháp, đẩy mạnh Phật Pháp đại hưng ở nước Liêu, công đức to lớn này, là cội nguồn phúc phận thịnh thế của nhà Liêu.

e.“Hàm Bình chi trị” thời Bắc Tống

Thời kỳ Chân Tông Bắc Tống, xã hội lại tiến nhập vào một đỉnh cao phồn vinh hưng thịnh.

Sự giàu có của thời Bắc Tống, thật khiến người ta trợn tròn con mắt! Trong thời kỳ Chân Tông nhà Bắc Tống, thu thuế đã đạt đến chóp đỉnh của lịch sử, cao nhất đạt đến 1,58 mân (1 mân tổng bằng 1 lượng bạc trắng), vượt rất xa so với triều đại nhà Đường trước đó, cao gấp 10 lần so với thời kỳ giàu có nhất của triều Minh, gấp 2,4 lần của thời kỳ hưng thịnh nhất giữa những năm Càn Long đời nhà Thanh.

Thời đại giàu có này, đồng dạng là “đời trước trồng cây công đức, đời sau hưởng bóng mát phúc lành”. Đó là sau khi hoàng đế Sài Vinh nhà Hậu Chu của triều đại trước đó diệt Phật, Triệu Khuông Dẫn vị hoàng đế khai quốc của nhà Bắc Tống đã lập lại trật tự, hồng phúc to lớn trong việc phục hưng Phật giáo và người kế nhiệm Tống Thái Tông đại hưng Phật Pháp tạo nên.

Tiếp nhận bài học của “Tam Vũ diệt Phật” (ba hoàng đế Trung Quốc là Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Chu Vũ Đế, Đường Vũ Tông diệt Phật), tận mắt chứng kiến ác báo diệt Phật của Sài Vinh, Triệu Khuông Dẫn ngay từ khi mới đăng cơ đã phế bỏ chính sách diệt Phật của Sài Vinh, không ngừng xây dựng chùa chiền, tượng Phật.

Trong ngôi miếu cổ ở Trấn châu nơi mà năm xưa Sài Vinh đã đích tay chém tượng Phật, năm 971, Triệu Khuông Dẫn hạ chiếu mở rộng chùa Long Hưng, và đúc tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm còn cao lớn hơn cả ban đầu (tổng cộng 42 tay, cao 22 mét), đây chính là nguồn gốc của Đại Phật trong chùa Đại Phật, huyện Chánh Định ngày nay.

Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa kế nhiệm sau đó càng thêm tôn sùng Phật Pháp. Thuận theo Phật Pháp phục hưng, kinh tế triều Tống cũng đi đến phồn vinh hơn bao giờ hết. Đến khi con trai của Tống Thái Tông là Tống Chân Tông lên ngôi, quốc lực đã đạt đến cường thịnh đỉnh cao.

f.“Hồng Vũ chi trị” thời nhà Minh

Những năm đầu triều đại nhà Minh đã mau chóng khôi phục sức sống sau những cuộc chiến loạn cuối triều Nguyên. Giai đoạn sau Hồng Vũ dưới sự trị vì của Tống Thái Tổ Chu Nguyên Chương, ruộng đất thu thuế của quốc gia lên đến hơn 8 triệu hecta, cao hơn 1/3 so với “Khang Càn thịnh thế” triều đại nhà Thanh. Thời đại Hồng Vũ Đại Minh, người dân sung túc, quốc khố dồi dào, quốc lực cường thịnh, sử sách gọi là “Hồng Vũ chi trị“.

Phúc phận thái bình từ trời đến, cũng là công đức to lớn nơi cõi người. Công đức này, bắt nguồn từ việc hồng dương Phật Pháp của Chu Nguyên Chương xuất thân là hòa thượng.

Sau khi trải qua các cuộc khởi nghĩa nông dân vào cuối triều Nguyên, nội bộ tăng đoàn Phật giáo trong thời kỳ đầu nhà Minh đã rất hỗn loạn, rất nhiều người không còn thật tâm tu hành, những hiện tượng loạn bậy bên trong Phật giáo xuất hiện nhiều. Sau khi Chu Nguyên Chương đăng cơ, một mặt đẩy mạnh việc hoằng dương Phật Pháp, một mặt quy chính lại chế độ, làm trong sạch tăng ni, phát chứng từ quốc gia cho hòa thượng, còn gọi là độ điệp (thẻ đi tu). Hơn nữa 3 năm khảo thí một lần, những ai không đọc thuộc lòng kinh Phật thì bị sàng lọc, từ đó mà đã ngăn chặn những hiện tượng rối loạn bên trong Phật giáo, gieo trồng công đức hưng thịnh Phật Pháp.

g.“Vĩnh Lạc thịnh thế” triều Minh

“Vĩnh Lạc thịnh thế” được khai sáng bởi Minh Thành Tổ Chu Đệ. Chu Đệ văn trị võ công, dốc lòng xây dựng đất nước.

Trên phương diện văn trị, giảm nhẹ sưu thế, trùng tu thủy lợi, khơi thông kênh đào, đẩy mạnh nông nghiệp, khiến kinh tế phát triển mạnh mẽ; ra sức đề xướng văn hóa giáo dục, biên soạn “Vĩnh Lạc đại điển“, bao gồm tất cả kinh điển từ trước triều đại nhà Tần trở về sau, giúp cho rất nhiều cổ tịch đã được bảo lưu.

Trên phương diện võ công, Chu Đệ cử binh chinh phạt An Nam, còn năm lần thân chinh Mạc Bắc, đánh bại sự quấy nhiễu phá hoại của quân Mông Nguyên còn sót lại, bảo đảm sự bình yên của các dân tộc vùng biên cương.

Chu Đệ thiết lập hành chính cấp tỉnh ở Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, thiết lập Ha Mi vệ ở Tây Vực (vệ: đồn binh thời Minh có số lính đông hơn sở), thiết lập quan bố chính ở Quý Châu. Đồng thời đẩy mạnh ngoại giao với các nước mạnh, sai Trần Thành đi sứ Tây Vực, cử Trịnh Hòa đi đến các nước phương Tây, khai sáng cục diện thịnh thế, muôn nước đến thăm.

Đương nhiên, trị quốc có Đạo là điều kiện không thể thiếu của thời hoàng kim, ở tầng sâu hơn, chúng ta biết “đời trước trồng cây, đời sau hóng mát”. Chu Đệ là được thừa hưởng phúc phận to lớn của công đức Chu Nguyên Chương trong việc hồng truyền Phật Pháp, hơn nửa bản thân Chu Đệ cũng là một “người trồng cây”, ông ra sức đẩy mạnh, truyền rộng văn hóa Đạo gia, cũng đã kiến lập được công đức to lớn như vậy.

Chu Đệ sai người đi tìm kiếm Chân Nhân Đạo gia Trương Tam Phong trên khắp cả nước, đã tu sửa hàng loạt cung điện Chân Vũ Đại Đế trên núi Võ Đang – nơi mà Trương Tam Phong truyền Đạo thu nhận đồ đệ. Kiến trúc dựa theo lời dạy của Thần trong Chân Vũ kinh để thiết kế, ỷ sơn thuận thủy (dựa vào vách núi, thuận theo dòng nước), bố cục tự nhiên, đã thể hiện phép tắc “Đạo Pháp Tự Nhiên” trong Đạo Đức Kinh. Tượng Thần, Pháp khí, v.v… trong cung quán được chế tạo dựa theo yêu cầu của hoàng gia, đã xây dựng núi Võ Đang giống như tiên cảnh nơi nhân gian, trở thành Thánh địa của Đạo gia. Văn hóa Đạo gia dưới sự ủng hộ hết mình của Chu Đệ, đã được truyền bá rộng rãi khắp nhân gian một cách mau chóng.

Đạo gia cũng là chính Pháp, hồng truyền văn hóa Đạo gia cũng là công đức to lớn tạo phúc đương thời, công đức mãi đến đời sau.

h.“Nhân Tuyên chi trị” triều Minh

“Nhân Tuyên chi trị” là thời đại hoàng kim dưới sự trị vì con trai của Chu Đệ là Minh Nhân Tông và cháu trai Minh Tuyên Tông.

Minh Nhân Tông lên ngôi năm 47 tuổi, không lâu sau thì bệnh mất, nhưng các chính sách nghỉ ngơi dưỡng sức, lợi nước lợi dân của ông được Minh Tuyên Tông kế thừa. Sau khi Tuyên Tông lên ngôi đã mau chóng bình định cuộc nổi loạn của Hán vương Chu Cao Húc, sau đó cứu trợ thiên tai, chăm lo đời sống của nhân dân, pháp kỷ nghiêm minh, trừng trị tham quan, nên rất được lòng dân, khiến cho thiên hạ an định, quốc khố tràn đầy, kinh tế mau chóng đi đến phồn vinh. Đó là thời kỳ quốc lực mạnh nhất, chính trị trong sạch nhất của triều Minh.

Đương nhiên, căn nguyên của điều này, là công đức to lớn được Chu Đệ gây dựng trong việc đẩy mạnh văn hóa Đạo gia, hưng thịnh Đạo Pháp. Đời sau cùng gọi “Nhân Tuyên chi trị” và“Vĩnh Lạc thịnh thế” của Chu Đệ là “Vĩnh Tuyên thịnh thế”.

i.“Khang Càn thịnh thế” triều Thanh

Hiện nay có rất nhiều những bộ phim truyền hình điện ảnh nói về triều đại nhà Thanh, mọi người cũng đều đã rất quen thuộc với “Khang Càn thịnh thế” – triều đại hưng thịnh dưới thời Khang Hy, Càn Long. Ở đây không miêu tả nhiều nữa, chỉ phân tích rõ căn nguyên của thịnh thế này: Thời đại Khang Hy, Phật Pháp đại hưng. Bản thân Khang Hy tuy không phải là tín đồ thành kính, nhưng ông đã ủng hộ và đẩy mạnh việc hoằng dương Phật Pháp.

Năm Khang Hy thứ 6 (năm 1667), cả nước có 6.730 ngôi chùa lớn, 6.490 ngôi chùa nhỏ do hoàng thất các triều đại hạ chỉ xây dựng; ngoài ra còn có 8.458 ngôi chùa lớn, 58.682 ngôi chùa nhỏ tự các cá nhân xây dựng. Có thể thấy vào thời đại Khang Hy, Phật Pháp rất hưng thịnh, chùa miếu còn nhiều hơn rất nhiều so với các thời kỳ Đường, Tống, Nguyên, Minh. Vua Khang Hy ra ngoài dạo chơi, thích nhất là đi tham quan chùa miếu, bởi vậy chùa miếu các nơi trong kinh đô đều đã lưu lại dấu chân của ông.

“Khang Càn thịnh thế” này, giống như là sự lặp lại của lịch sử – Đời trước trồng cây, đời sau hưởng quả. Khang Hy đại đế đã gieo trồng căn nguyên phúc lành của thời kỳ hoàng kim, kéo dài đến thời kỳ Càn Long vẫn còn thừa hưởng phúc phận của thời đại hưng thịnh ấy.

4.Hoàng đế Constantinus – Đế vương có công đức lớn nhất ở phương Tây

Bức tượng hoàng đế Constantinus ở quảng trường của giáo đường York Minster, nước Anh.

Các bậc đế vương có thành tựu nhất trong lịch sử phương Tây, người đầu tiên phải nói đến Constantinus Đại đế. Ông đã rửa oan cho Cơ Đốc giáo bị Đế quốc La Mã bức hại gần 300 năm, công đức to lớn, ảnh hưởng to lớn đối với thế giới như vậy, trong xã hội phương Tây thật sự là xưa nay hiếm thấy.

Những tư liệu lịch sử tuy có những chỗ không trùng khớp, nhưng đều nhất trí chỉ ra rằng: Trong khi hoàng đế La Mã Diocletianus phỉ báng Cơ Đốc giáo là tà giáo, điên cuồng bức hại, tùy tiện giết hại, thì Constantinus lại có thể nhận rõ Cơ Đốc giáo là chân lý chính nghĩa. Trong khi đế quốc La Mã chia rẽ, ông có thể bộc lộ tài năng của mình trong hỗn chiến, tranh đoạt đế vị của 8 vị hoàng đế, không ngừng giành được thắng lợi, thống nhất La Mã, gây dựng lại đại đế quốc kéo dài đến tận ba châu lục lớn là châu Á, châu Âu, châu Phi. Đây là kết quả Constantinus tín ngưỡng Cơ Đốc giáo, và có được khải thị của Thần.

Tuy “sắc lệnh Milan” rửa oan cho Cơ Đốc giáo là do Constantinus Đại đế và Licinius – một hoàng đế khác của đế quốc La Mã cùng ban bố, nhưng Licinius lành trước dữ sau, về sau đã trở mặt đi trên con đường cũ bội giáo, quay lại bức hại Cơ Đốc giáo, cuối cùng đã thất bại dưới tay Hoàng đế Constantinus.

Đế quốc La Mã chia năm xẻ bảy, dưới kiếm của hoàng đế Constantinus đã được thống nhất trở lại, đế quốc to lớn tiến đến thời đại hưng thịnh. Vinh diệu to lớn này, chính là nhờ công đức to lớn trong việc ông đã rửa oan cho Cơ Đốc giáo, phục hưng Cơ Đốc giáo. Có công đức to lớn như vậy, mới có thể đưa đến vinh diệu huy hoàng và phúc phận to lớn của quốc gia. Đây chính là quy luật của những thời đại hưng thịnh.

Xem tiếp Phần 5

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/08/03/153981.《推背图》中的2016-17、圣人、“中国梦”四.html



Ngày đăng: 19-09-2016

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.