Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Dương Diên Chiêu, Dương Văn Quảng trong chính sử

21-08-2025

Tác giả: Ngưỡng Nhạc

[ChanhKien.org]

“Dương gia tướng” kể lại câu chuyện lịch sử trung liệt về năm đời bảo vệ quốc gia của gia tộc anh hùng Dương Nghiệp nổi danh thời Bắc Tống. Câu chuyện này đã lưu truyền ở Trung Quốc mấy trăm năm, có thể nói là người người đều biết. Số lượng các tác phẩm bình thư, hý kịch, tiểu thuyết dựa trên câu chuyện này lên tới hàng trăm, các địa danh, di tích lịch sử liên quan tới Dương gia tướng cũng nhiều không đếm nổi. Vậy thì, trong chính sử có những sự tích xúc động lòng người nào về Dương gia tướng đây? Kỳ này sẽ mở ra những trang sử oanh liệt lưu danh sử xanh của hai cha con Dương Diên Chiêu và Dương Văn Quảng.

Dương Diên Chiêu túc trí đa mưu, kiêu dũng thiện chiến

Dương Diên Chiêu (958 – 1014) là con của Dương Nghiệp, vốn tên là Diên Lãng, sau này vì trùng tên với thánh tổ nên đổi thành Diên Chiêu, người đời gọi ông là Dương Lục Lang. Lúc nhỏ ông trầm lặng ít nói, chỉ thích chơi trò bài binh bố trận. Dương Nghiệp từng nói: “Đứa con này giống ta”. Mỗi lần ra trận đều mang ông theo để cùng tác chiến. Diên Chiêu trong lúc tấn công hai châu Ứng, Sóc đã đảm nhiệm vị trí tiên phong. Lúc chiến đấu dưới chân thành Sóc Châu, bị một mũi tên lạc bắn trúng cánh tay, nhưng ông không hề đổi sắc mặt, chiến đấu lại càng dũng cảm hơn.

Sau khi Dương Nghiệp ra đi, triều đình phong cho con cháu của ông làm quan ở Trung Thư tỉnh và Môn Hạ tỉnh (vị trí thân cận nhất với Hoàng đế khi yết triều), Diên Chiêu là phó sử Sùng Nghi. Diên Chiêu một đời kế thừa chí nguyện của cha mình, thời gian dài đồn trú ở Hà Bắc, Nhạn Môn Quan một dải biên giới Tống – Liêu để tấn công và phòng thủ Khiết Đan (nước Liêu trong khoảng từ năm 983 – 1066 đổi tên thành Khiết Đan), liên tục lập công.

Nhạn Môn Quan là cửa ải quan trọng nhất của Trường Thành, cũng là địa điểm quan trọng trong sự nghiệp hết lòng bảo vệ quốc gia của Dương gia tướng. (Shutterstock)

Năm đầu Hàm Bình, vùng Giang Hoài xảy ra nạn đói lớn, Diên Chiêu nhận lệnh đến Giang, Hoài Nam làm đô tuần kiểm sử, vỗ về dân chúng địa phương, năm sau lại tới biên quan chỉ huy quân lính bảo vệ biên ải (chỉ huy Định Viễn quân, sau chuyển làm đô tuần kiểm sứ ở Bảo Châu gần biên giới). Tống Chân Tông ở tại Đại Danh Phủ (nay là huyện Đại Danh, thành phố Hàm Đan, tỉnh Hà Bắc), từng vài lần triệu Diên Chiêu vào trong doanh để hỏi về những chuyện quan trọng trong phòng thủ biên giới. Những câu trả lời nhắm đúng chỗ của Diên Chiêu khiến Chân Tông rất ấn tượng. Chân Tông nói với các hoàng tử rằng: “Cha của Diên Chiêu, Dương Nghiệp là danh tướng tiền triều, Diên Chiêu thừa hưởng năng lực chỉ huy quân đội và bảo vệ biên ải từ cha mình, thật là tốt lắm”.

Tháng Chín, mùa thu năm Hàm Bình thứ hai (999), Khiết Đan quấy nhiễu biên giới. Tháng Mười, tranh thủ Toại Thành là thành nhỏ quân ít, Khiết Đan nóng ruột tấn công thành trong mấy ngày, Thái hậu Thừa Thiên tự thân chỉ huy trận chiến, lòng người trong thành hoảng hốt. Diên Chiêu đứng trên tường Toại Thành phát khí giáp trang bị thủ thành cho tất cả tráng đinh (thanh niên trai tráng) trong thành. Có một hôm, đầu mùa đông mà tiết trời đột nhiên chuyển rét căm căm, Diên Chiêu trong lòng nghĩ ra một kế lạ, lệnh cho tráng đinh dẫn nước lên tường thành. Sáng sớm hôm sau tường thành đều đông lại thành băng, rắn chắc không thể nào leo được. Khiết Đan vì thế thất bại phải rời đi. Diên Chiêu chém giết rồi thu được rất nhiều khôi giáp và binh khí của Khiết Đan, nhân chiến công đó mà ông được phong làm thứ sử Mạc Châu. Năm Hàm Bình thứ ba (1000), Khiết Đan lại xuống phía Nam, Dương Diên Chiêu dụ quân địch tiến sâu vào Dương Sơn rồi mai phục, chém tướng Khiết Đan, thu được toàn thắng.

Năm đầu Cảnh Đức (1004), quân Khiết Đan lại lần nữa tràn xuống phía Nam. Diên Chiêu dâng tấu viết: “Quân Khiết Đan đóng tại Thiền Uyên, cách biên giới xa cả nghìn dặm. Vì di chuyển đường xa, chắc chắn người mệt ngựa mỏi, quân số tuy nhiều, thực ra rất dễ bị đánh cho tan vỡ. Quân Khiết Đan giỏi cướp bóc, phần nhiều dựa vào kỵ binh cưỡi ngựa. Thần cho rằng ta nên lệnh cho quân đội trấn giữ các tuyến đường quan trọng, như thế có thể một đòn tiêu diệt bọn chúng. Tới lúc ấy, U Châu, Dịch Châu mấy nơi ấy, có thể thuận thế thu hồi”. Nhưng đề xuất ấy chưa được Hoàng thượng đồng ý. Thời cơ cấp bách, Dương Diên Chiêu liền dẫn quân băng thẳng tới chỗ quân địch, tấn công Cổ Thành (này là Tây Nam Quảng Linh, Sơn Tây), bắt giữ rất nhiều quân địch. Nhưng cuối cùng triều đình lại ký minh ước với nước Liêu, đại nghiệp Bắc Phạt vì thế mà lỡ dở.

Sau trận chiến ấy, Dương Diên Chiêu nhậm chức tri châu Bảo Châu kiêm đô tuần kiểm sứ vùng biên giới. Năm sau, ông tiếp tục được Hoàng thượng ban thưởng, thăng lên làm phòng ngự sử Bản Châu, không lâu sau thì làm phó đô Bộ Thự Cao Dung Quan. Chín năm cuối đời ông chủ yếu sống ở nơi đóng quân. Tháng Giêng năm Đại Trung Tường Phù thứ bảy, Dương Diên Chiêu tạ thế khi đang làm phòng ngự sử Anh Châu, thọ 57 tuổi. Để biểu dương sự trung thành và công trạng của ông, triều đình cho ba đời con cháu làm quan.

Khiết Đan khiếp sợ – tướng sĩ ủng hộ

Dương Diên Chiêu túc trí đa mưu, kiêu dũng thiện chiến, phàm là bổng lộc được ban trong quân thì ông đều đem phân hết lại cho các tướng sĩ, không tích trữ riêng trong nhà. Ông quân lệnh nghiêm minh, đồng cam cộng khổ với sĩ tốt, không mặc áo lông khi trời lạnh, không che dù khi trời nắng; gặp địch thì xông lên trước quân sĩ, chiến thắng thì đẩy công lao cho thuộc hạ, cho nên người nào cũng vì ông mà cống hiến. Ông phòng thủ ở biên ải hơn 20 năm, uy chấn ngoại bang. Người Khiết Đan rất sợ ông, xem ông là tướng tinh Lục Lang (Thiên Lang tinh) hạ phàm, kính trọng gọi ông là “Dương Lục Lang”, đủ thấy uy danh của ông vang xa, khiến quân địch phải khiếp sợ. Diên Chiêu tạ thế, Tống Chân Tông than thở đau buồn, còn đặc biệt lệnh cho Trung Sử hộ tống linh cữu đi an táng. Người dân ở dọc sông Hoàng Hà, đất Sóc, khi xe chở linh cữu đi qua, đều nhìn quan tài mà khóc.

Người con thứ ba của Dương Diên Chiêu là Dương Văn Quảng (? – 1074), tự là Trọng Dung. Nhờ công của cha mình mà được triều đình phong cho làm quan, lập công trong chiến dịch tiêu diệt đạo tặc Trương Hải, được trao cho chức Điện Trực. Sau này, Phạm Trọng Yêm đi phủ dụ vùng Thiểm Tây, gặp mặt nói chuyện với Văn Quảng, liền khen ông là bậc kỳ tài, lưu lại dưới trướng.

Văn Quảng từng theo vị tướng nổi danh là Địch Thanh đi Nam chinh, sau này phụ trách Đức Thuận quân (ở thành Lung Can, phía Đông Bắc của huyện Long Đức, Ninh Hạ ngày nay), đảm nhiệm chức kiềm hạt Quảng Tây (phụ trách quân đội Quảng Nam Tây Lộ), quản lý các vấn đề huấn luyện, đào tạo, thưởng phạt (xem “Tống sử chức quan chí”); tiếp theo làm tri châu của Nghi Châu, Ung Châu, con đường quan lộ tiếp tục đi lên, cho đến khi làm tả tàng khố sử và đại ngự khí giới trong quân. Vua Anh Tông có ấn tượng rất sâu với Văn Quảng. Trong những năm Trì Bình, triều đình thảo luận việc tuyển chọn tướng phụ trách Túc Vệ, Anh Tông đích thân ra quyết định: “Văn Quảng là con cháu của bậc danh tướng, lại có chiến công”. Thăng chức cho Văn Quảng thành đoàn luyện sử Thành Châu, Long Thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ. Ông sau đó chuyển tới Hưng Châu làm phòng ngự sử. Ông cũng thăng tiến ổn định trong quân đội.

Trong những năm Tống Thần Tông trị vì, tình hình biên phòng ở Tây Bắc rất căng thẳng. Lúc ấy quân Tây Hạ thường xuyên cướp bóc vùng Tần Phượng Lộ, Tống Thần Tông đặc phái danh tướng Hàn Kỳ chỉ huy Vĩnh Hưng quân, phụ trách tình hình biên phòng chung. Hàn Kỳ chấp thuận đề xuất của Mã Trọng Phủ ở Tần Châu, quyết định xây thành Tất Lật (Cam Cốc Bảo), cùng với thành Cổ Vị hình thành nên phòng tuyến góc cạnh, cắt đứt tuyến đường qua lại của kỵ mã quân địch, lệnh cho Dương Văn Quảng làm quan tổng giám. Văn Quảng cố ý để lộ ra tin tức, nói thành này sẽ “phun châu”, dẫn quân sĩ ngày đêm hành quân cấp tốc, đến hiện trường trước khi trời tối rồi làm một số chuẩn bị. Sáng sớm hôm sau, kỵ binh quân địch áp sát, nhưng thấy quân Tống đã canh phòng nghiêm ngặt, biết rằng không thể tấn công, liền rút quân. Trước khi rời đi, quân địch còn uy hiếp: “Ta sẽ bẩm báo quốc chủ, đem cả vạn kỵ binh tới đánh đuổi ngươi!” Văn Quảng không hề e sợ, lập tức lệnh cho tướng sĩ xuất kích, giành được thắng lớn.

Sau khi kết thúc trận chiến, có người hỏi ông nguyên nhân, Văn Quảng nói: “Tổ tiên của ta đánh trận trước hết là đánh khí thế của địch. Nếu quân địch chiếm được vị trí chiến lược thế này, ta sẽ rất khó chiếm lại được”. Hoàng đế đặc biệt ban chiếu khen thưởng, ban cho ông y phục rực rỡ, đai ngọc và ngựa quý. Sau này, Văn Quảng lại được thăng chức, địa vị càng cao. Lúc Liêu – Tống tranh giành đất đai ở vùng biên giới Đại Châu, Văn Quảng trình lên Hoàng thượng bản đồ tác chiến và kế sách đoạt lại đất U Yến, nhưng chưa nhận được câu trả lời thì đã không may qua đời. Triều đình truy tặng cho ông làm quan sát sử Đồng Châu, cũng khen ngợi trung dũng cả đời.

Tư liệu tham khảo:

“Tống Sử – Liệt truyện đệ tam thập nhất”.

“Long Bình Tập” – Tống Tằng Củng.

“Dương gia tướng cố sự khảo tín lục” – Dư Gia Tích, xuất bản năm 1945.

“Dương gia phủ thế đại trung dũng thông tục diễn nghĩa” – Tác giả ẩn danh thời nhà Minh, Tần Hoài mặc khách duyệt lại.

“Lưỡng Tống chí truyện” – Hùng Đại Mộc thời nhà Minh, Tần Hoài mặc khách duyệt lại.

“Dương gia tướng Mục Quế Anh truyền thuyết” – Nhà xuất bản Mỹ thuật Nhiếp ảnh Bắc Kinh – Xuất bản năm 2015 – Cao Tuyết Tùng chỉnh lý.

“Dương gia tướng ngoại truyện” – Nhà xuất bản Thiếu niên Nhi đồng Hà Bắc – Xuất bản năm 1986 – Triệu Vân Nhạn sưu tập chỉnh lý.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/297945

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài