Dù trong nghịch cảnh vẫn hoàn thành sứ mệnh



Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục thuật lại, đồng tu chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Trong ma nạn hướng nội tìm

Vào đầu năm ngoái, vì giảng chân tướng về Đại Pháp mà tôi bị những người không biết sự thật buộc tội oan. Tôi bị cảnh sát của tà đảng bắt cóc phi pháp và đưa đến một trại giam ở nơi nào đó để tiến hành bức hại.

Mặc dù trong thâm tâm tôi hiểu rằng đây là bức hại vô lý do cựu thế lựcTrung Cộng tà ác áp đặt lên chúng tôi, và chúng tôi tuyệt đối không thể thừa nhận và chịu đựng nó một cách thụ động, nhưng suy cho cùng, sự việc xuất hiện hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Nhất định trong tu luyện của bản thân đã xuất hiện những sơ hở nghiêm trọng, mới tạo điều kiện cho cựu thế lực gây rối loạn và phá hoại, khiến Pháp thân của Sư phụ và chư Thần hộ pháp lo lắng. Tôi cần bình tĩnh và đào sâu vào nội tâm để tìm ra nguồn gốc của vấn đề.

Sau khi thực sự đối chiếu với lý của Đại Pháp, tôi phát hiện ra rằng mình đã lệch rời nghiêm trọng khỏi các yêu cầu và quỹ đạo của Đại Pháp về nhiều mặt:

1. Tôi tất bật với công việc của người thường trong một thời gian dài. Mặc dù tôi có thể thường xuyên giảng chân tướng và phân phát tài liệu nhưng tôi không đảm bảo có đủ thời gian để tĩnh tâm học Pháp. Trong một thời gian dài, tôi hễ học Pháp là buồn ngủ, phát chính niệm liền đổ tay, luyện tĩnh công liền bị mê mờ. Rõ ràng là học Pháp mà không đắc Pháp, luyện công mà không tăng công, coi làm việc thành tu luyện, hình thành trạng thái sai lệch là người thường làm công việc của Đại Pháp.

2. Từ khi tu luyện đến nay, tôi chưa bao giờ xem xét lại bản thân mình. Trong tiềm ý thức của mình, tôi đang duy hộ và nuôi dưỡng sự tồn tại các loại tâm như: tâm sắc dục, tâm oán hận, tâm tật đố, tâm hiển thị, v.v., khiến những thứ bại hoại này tích tụ ngày càng nhiều trong trường không gian của tôi, hình thành một tầng nghiệp lực tư tưởng rất mạnh mẽ, thường xuyên kiểm soát chủ ý thức của tôi, can nhiễu và làm suy yếu chính niệm và chính tín của tôi.

3. Tôi tự cho mình là đúng, là thanh cao, luôn cho rằng mình hơn người khác, lâu dài hình thành chấp trước mạnh mẽ về việc thích nghe những lời xu nịnh và không muốn chấp nhận những lời phê bình góp ý.

4. Tôi luôn bị vây khốn, khổ sở trong sợi dây tình cảm, không chỉ lo lắng cha mẹ già mà còn vướng bận chuyện học hành, tương lai của con trai. Tôi chấp trước nhiều vào tình cảm vợ chồng, thậm chí luôn bị ám ảnh cả vào công việc, tình hình tài chính của các em trai, em gái, v.v. Tôi biết rõ như thế là không đúng, nhưng vẫn không thoát ra, không buông bỏ mà càng ngày càng nắm chặt hơn. Trong bài Người tu cần tránh” (Tinh Tấn Yếu Chỉ), Sư phụ đã giảng rằng:

“Chấp trước vào tình thân quyến, ắt sẽ vì thế mà lụy, mà dày vò, mà ma, tơ vương tình cảm mà nhiễu cả một đời, tuổi đời qua đi, thì hối hận đã muộn rồi”…

Càng tìm, tôi càng sợ, càng tìm càng sợ, càng tìm tôi càng sáng tỏ. Tất cả những điều này đều là những yếu tố chủ quan và là nguyên nhân sâu xa của cuộc bức hại này.

Lúc này, tôi nghĩ đến điều Sư phụ đã giảng:

“Nhất là những năm bức hại trở đi, trong những việc chứng thực Pháp mà chư vị làm, bất kể gặp sự việc cụ thể như thế nào, tôi từng bảo chư vị rằng, đó đều là việc tốt; vì chư vị tu luyện rồi mới xuất hiện [nó]. Bất kể chư vị nhận phải ma nạn lớn đến mấy, thống khổ lớn đến đâu, thì đều là việc tốt; vì chư vị tu luyện rồi mới xuất hiện [nó]. Trong ma nạn có thể thanh trừ nghiệp lực, trong ma nạn có thể trừ bỏ nhân tâm, trong ma nạn có thể khiến chư vị đề cao lên”. (“Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2008”, “Giảng Pháp ở các nơi VIII”).

Đồng thời, tôi cũng nhớ lại điều Sư phụ đã giảng:

“Tương kế tựu kế, chính là tương kế tựu kế. Những thứ căn bản thì chúng không động đến được, do đó đã là đệ tử Đại Pháp mà nói, chư vị chính là kiên định chính niệm của chư vị, làm tốt những việc của chư vị, chư vị quả thực làm rất là tốt ba phương diện, thì không ai dám động chư vị”. (“Giảng pháp tại Pháp hội Miền Tây Mỹ quốc 2015”, “Giảng Pháp tại các nơi XIII”).

Sau đó, tâm lo lắng của tôi bắt đầu bình tĩnh lại. Tôi thầm đưa ra quyết tâm nhất định phải tuân theo Pháp lý “tương kế tựu kế” của Sư phụ để phá trừ triệt để sự an bài tà ác của cựu thế lực, biến trường ma nạn này thành chuyện tốt để tiêu trừ nghiệp lực, tu bỏ nhân tâm, đề cao tầng thứ, chứng thực Đại Pháp và cứu độ những người hữu duyên.

Dùng thiện niệm và hành động tốt để chứng thực Đại Pháp, tạo ra hoàn cảnh giảng chân tướng

Khi mới vào trại tạm giam, tôi bị giam giữ phi pháp tại phòng giam A. Vì những tin đồn và lời dối trá do Trung Cộng tà ác lan truyền mà mọi người đã hiểu lầm sâu sắc về Pháp Luân Đại Pháp. Đề cập tới Pháp Luân Công, một số người liền nói đó là môn phái này, môn phái kia, một số người thậm chí không cho phép nhắc đến, nhắc đến thì biến sắc như nhìn thấy cọp dữ; có người vì tôi nói sự thật đã mắng nhiếc tôi, vì tôi phản đối lãnh đạo trại giam vu khống Đại Pháp nên bà ấy đã đẩy ngã tôi, khiến đầu tôi bị đập vào giường. Có một khoảng thời gian, tôi trở thành mục tiêu công kích ở đây và mọi người đối xử với tôi một cách thù địch.

Nhưng trong tâm tôi hiểu rằng, nguồn gốc sinh mệnh những người này phần nhiều là từ không gian cao tầng rớt xuống và đều đã từng là người thân của Sư phụ. Họ đã mất đi bản tính của mình trong lịch sử lâu dài và trong hồng trần vô minh cuồn cuộn. Đặc biệt là người dân Trung Quốc ngày nay đã bị tẩy não và nhồi nhét bởi chủ nghĩa vô thần, thuyết tiến hóa và các quan niệm tư tưởng hiện đại trong một thời gian dài, cùng với sự khống chế của tà linh cộng sản và sự độc hại của truyền thông dối trá của đảng cộng sản tà ác, họ đang phải đối mặt với những nguy hiểm thực sự mà không hề biết. Họ mới là những kẻ đáng thương và tội nghiệp nhất, đồng thời họ cũng là những sinh mệnh trân quý nhất. Tôi không thể khinh thường họ, oán giận, căm ghét hay bỏ rơi họ. Cứu họ là trách nhiệm và là sứ mệnh thiêng liêng của các đệ tử Đại Pháp, cũng là ước định và duyên phận giữa tôi với họ trước khi hạ xuống nơi này.

Đối mặt với hoàn cảnh khó khăn, khó nói ra lời như vậy, chỉ dựa vào mồm miệng và tài hùng biện cũng không ích gì, dù có nói nhiều hơn nữa, thậm chí lời lẽ đanh thép có căn cứ cũng sẽ phản tác dụng. Tôi nhớ đến câu nói nổi tiếng: “Im lặng là tuyệt đỉnh của âm thanh”. Tôi chỉ có thể dùng chính niệm của mình để thanh trừ tất cả các nhân tố tà ác của tà linh cộng sản cùng với đám hắc thủ, lạn quỷ ở các không gian khác đang thao túng tâm trí chúng sinh, đồng thời chiểu theo nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn của Đại Pháp để nghiêm khắc yêu cầu bản thân trong mọi suy nghĩ, lời nói và hành động. Tôi dùng những hình ảnh chính diện của các đệ tử Đại Pháp để chứng thực Đại Pháp, dùng từ bi, thiện niệm để cảm hóa thế nhân, khơi nguồn và đánh thức một chút thiện niệm tốt đẹp còn lại trong tâm hồn những con người đã bị mê lạc bởi sự dối trá.

Vì vậy, tôi bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường như: chủ động làm thêm công tác vệ sinh môi trường trong trại giam; chủ động chăm sóc cuộc sống hàng ngày của người già và người bệnh. Có một người khuyết tật khó đi vệ sinh, tôi và một đồng tu khác cùng phòng giam lần nào cũng giúp đỡ cô ấy. Chúng tôi lau chùi khu vực xung quanh bồn tiểu, đợi cô đi tiểu xong rồi đỡ cô trở lại giường. Cô ấy rất cảm động. Tôi nhiệt tình và chủ động chia sẻ lương thực và nhu yếu phẩm hàng ngày của mình với những người xung quanh, những người không có tiền gửi trong tài khoản cá nhân của họ. Những người khác có thể sử dụng đồ của tôi theo ý họ, nhưng tôi sẽ không chạm vào bất cứ thứ gì của người khác. Chẳng hạn như giấy vệ sinh của một người nọ có được là nhờ “đặc quyền”, người khác đôi khi cầu xin cô một cách công khai, thỉnh thoảng lại lén lút sử dụng nó sau lưng cô, nhưng tôi chưa bao giờ như thế. Một đêm nọ, vì quá gấp tôi đã sử dụng một ít giấy vệ sinh của cô ấy. Xong việc, tôi hoàn trả lại giấy vệ sinh. Ngày hôm sau khi thức dậy, cô ấy nhìn thấy giấy vệ sinh đã được trả lại liền hỏi chuyện. Tôi nói sự thật với cô ấy về những gì đã xảy ra, khiến cô ấy cảm nhận được sự khác biệt của tôi và những người khác và bắt đầu khen ngợi nhân phẩm của tôi.

Dần dần, mọi người đều nhìn thấy và ghi nhớ trong lòng những lời nói và việc làm của tôi. Theo thời gian, tảng băng trong lòng mọi người cuối cùng cũng tan chảy. Trong hoàn cảnh như thế, tôi có thể được mọi người công nhận và tôn trọng, có được quyền lên tiếng, đặt định cơ sở và mở ra cục diện giảng chân tướng cứu độ chúng sinh. Từ sâu thẳm tận đáy lòng tôi luôn cảm ân Sư phụ từ bi vĩ đại đã dạy cho đệ tử những Pháp lý tương quan để làm người tốt, vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã, đồng thời cũng đã chứng thực và triển hiện Pháp lý “tướng do tâm sinh”.

Sau đó, lãnh đạo trại giam thường khen ngợi tôi trước mặt mọi người: “Người này quả thật là người tốt, là người có tình có nghĩa, là người có phẩm vị cao…” Bà ấy còn thường bảo tôi nói vài lời với mọi người, tôi liền nắm bắt cơ hội kể cho họ nghe những câu chuyện về văn hóa truyền thống và triết lý làm người. Đồng thời, tôi nói thêm sự thật về cuộc bức hại Đại Pháp và các Pháp lý của Đại Pháp về việc làm người tốt một cách có lý trí và sáng suốt. Quan niệm tư tưởng của mọi người bắt đầu dần dần thay đổi. Trưởng phòng giam đi đầu trong việc phản đối các bài hát tẩy não ca ngợi tà đảng, yêu cầu các đồng tu và tôi hát các bài hát Đại Pháp cho mọi người. Như thế, mọi người trong phòng giam đều có nhận thức chính diện ở những mức độ khác nhau đối với Đại Pháp. Điều này đã đặt cơ sở cho sự cứu độ chính họ và chọn lựa một tương lai tươi sáng.

Dùng “bản tự biện hộ” làm tài liệu giảng chân tướng

Sau khi Viện Kiểm sát ra cáo trạng về tội vu khống tôi, tôi nhận ra rằng đây là cơ hội tốt để giảng rõ chân tướng và cứu độ những người liên quan, nhằm vào sự dàn xếp có chủ ý của Viện Kiểm sát đối với tôi. Tôi đã suy nghĩ cẩn thận và viết “bản tự biện hộ”, giải thích sự thật cơ bản của Đại Pháp ở một số phần:

1. Tà giáo là gì? (Liệt kê những đặc điểm, đặc trưng của tà giáo mà quốc tế công nhận hoàn toàn tương ứng với bản chất tà ác, hành vi tội phạm và vẻ bề ngoài hung ác của Trung Cộng; nó chứng minh đầy đủ rằng bản chất của giáo phái X là hoàn toàn trái ngược và không liên quan gì đến chân lý Chân – Thiện – Nhẫn được đề xướng bởi Pháp Luân Đại Pháp).

2. Pháp Luân Đại Pháp là gì? Trong đó bao gồm: Pháp Luân Đại Pháp có thể nâng cao đạo đức con người; có tác dụng thần kỳ trong việc chữa bệnh khỏe người; Pháp Luân Đại Pháp đã được phổ truyền khắp thế giới và là sự kiện to lớn vĩ đại chưa từng có; Pháp Luân Đại Pháp chỉ mang lại lợi ích và không gây hại cho đất nước và con người, cùng với những ví dụ cụ thể về lợi ích thể chất và tinh thần của tôi từ Pháp Luân Đại Pháp, v.v. Tất cả đều minh chứng rằng Pháp Luân Đại Pháp là chính Pháp.

3. Pháp Luân Đại Pháp và các đệ tử Đại Pháp đã bị bè lũ Giang Trạch Dân vu oan, tung tin bịa đặt vu khống và bức hại tàn khốc. Trong đó bao gồm những sự thật cơ bản nổi bật về những nghi ngờ và sơ hở lớn trong “vụ tự thiêu giả ở Thiên An Môn”.

4. Sử dụng luật pháp hiện hành của Trung Quốc để giải thích tính hợp pháp của Pháp Luân Đại Pháp, bao gồm việc Pháp Luân Công không nằm trong số mười bốn tà giáo được xác định trong Văn bản số 39 do Tổng Văn phòng Quốc vụ viện Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bộ Công an ban hành nhiều lần. Ngoài ra, tại các Điều 99 và Điều 100 trong Lệnh số 50 của Cục Quản lý Báo chí và Xuất bản đã bãi bỏ một cách rõ ràng lệnh cấm đối với ấn phẩm Pháp Luân Công. Trong hiến pháp có các quy định rõ ràng về quyền tự do tín ngưỡng. Luật hình sự cũng có các quy định rõ ràng rằng “sẽ không phạm tội nếu luật không được viết rõ ràng”, v.v. Tất cả đều cho thấy rằng không có cơ sở pháp lý cho việc đàn áp Pháp Luân Công, và các quan chức của Bộ Công an lẫn Viện Kiểm sát đang vi phạm pháp luật trong khi thi hành pháp luật. Những người gây ra các vụ án oan sai trong tương lai sẽ phải chịu trách nhiệm và bị pháp luật nghiêm khắc trừng trị.

5. Lấy những ví dụ cụ thể về việc kẻ làm ác bức hại Pháp Luân Đại Pháp phải chịu quả báo để minh họa quy luật sắt đá của tự nhiên rằng thiện ác hữu báo, thiện ác tất báo, để khuyên nhủ những nhân viên tham gia bức hại đệ tử Đại Pháp hãy coi đây là lời cảnh báo và đừng mắc phải những sai lầm tương tự, hãy đối xử tử tế với những người tu luyện Phật Pháp để có thể tích lũy công đức, nhận được sự bảo hộ và phước lành của Thiên thượng.

Tôi coi bản tự biện hộ này là tài liệu giảng chân tướng để cứu người trong trại giam. Tôi luôn mang theo nó bên mình, để mỗi người bị giam mà tôi tiếp xúc có thể xem nó. Hầu hết những người đọc bản tự biện hộ đều có thể hiểu sự thật ở mức độ sâu hơn. Nó đã phát huy tác dụng và hiệu quả rất tốt.

Sự an bài của Sư phụ là tốt nhất

Sư phụ đã nhìn thấy tấm lòng của tôi, thấy rằng cơ điểm của tôi là chính, rằng tôi đang đi đúng đường, và nhiệm vụ của tôi ở phòng giam A về cơ bản đã hoàn thành. Chẳng bao lâu sau, tôi được chuyển đến phòng giam B. Khi mọi người ở phòng giam B về cơ bản đã hiểu sự thật, tôi lại được chuyển đến phòng giam C. Trong thời gian bị giam giữ phi pháp, chưa đầy một năm mà tôi bị chuyển đến ba phòng giam. Tôi nhận ra rằng đây là sự an bài cẩn thận của Sư phụ, để đệ tử trong ma nạn, tương kế tựu kế, triệt để phá trừ sự an bài tà ác của cựu thế lực, đồng thời biến khổ nạn và bức hại thành thời cơ tuyệt vời để hoàn thiện bản thân, cứu độ chúng sinh và dựng lập uy đức. Đệ tử chỉ biết cảm ân Sư phụ, con không có lý do gì để chểnh mảng hay bỏ lỡ cơ duyên.

Một học viên Pháp Luân Công đi vào, một trăm học viên Pháp Luân Công đi ra

Bất kể lần đầu tiên đến phòng giam B hay phòng giam C, các điều kiện môi trường ban đầu không khác nhiều so với ở phòng giam A. Một số người tránh tôi như bệnh dịch và đối xử với tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, một số coi tôi như đối tượng để chế giễu và làm thú vui, là bao đấm cho kẻ bắt nạt. Chỉ cần tôi mở miệng nói thì sẽ nhận được những lời lẽ không hay, hơn nữa có khi còn bị xúc phạm nhân cách. Trong hoàn cảnh như vậy, không ai muốn hoặc dám đọc “bản tự biện hộ” mà tôi mang theo bên mình. Nhưng trong lòng tôi hiểu rằng mình không thể nóng vội được, lần trước tôi đã có trải nghiệm thành công và đã tính trước kỹ càng. Vì vậy, tôi thầm nghĩ đừng vội vàng hay nóng nảy, hãy luôn giữ tâm thái từ bi và nụ cười an hòa, niệm Pháp và thơ của Sư phụ trong tâm, để không ngừng gia tăng năng lượng cho bản thân, dùng trái tim trong sáng phát xuất ra những chính niệm mạnh mẽ, giải thể tất cả những nhân tố tà ác ở không gian khác đang kiểm soát chúng sinh, dần dần từng bước làm những việc tốt nên làm để mang lại lợi ích cho người khác. Đúng như bài “Pháp chính càn khôn” (Hồng Ngâm II) của Sư phụ:

“Từ bi năng dung thiên địa Xuân
Chính niệm khả cứu thế trung nhân”

Tương tự như vậy, cục diện hoàn cảnh đang phát sinh chuyển hóa về chất giống như chuyển tiếp từ mùa đông khắc nghiệt sang mùa xuân.

Cùng với dáng vẻ lạnh lùng và thù địch dần dần được dỡ bỏ, tôi có cơ hội giao tiếp với mọi người và quyền được lên tiếng. Tôi bắt đầu bằng cách kể những câu chuyện về văn hóa truyền thống, sau đó dần dần kể cho mọi người về một số thể nghiệm cá nhân mà tôi cảm ngộ được trong những Pháp lý của Đại Pháp, ví như nói về sự tồn tại của đức và nghiệp lực cũng như quá trình chuyển hóa tương hỗ giữa chúng. Khi tôi nói về yêu cầu của Sư phụ Đại Pháp chúng ta: các đệ tử Đại Pháp trước hết phải làm được đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu. Có người nói: “Vậy nếu học được điều này, chẳng phải sẽ trở thành kẻ yếu đuối sao?” Tôi nói: “Bạn hãy nhìn Đức Phật hay Bồ Tát đi. Nếu ai đó đánh Ông, Ông sẽ không đánh trả, ai đó mắng Ông, Ông cũng không lên tiếng, nhưng không có ai đánh Ông hay mắng Ông, mà chỉ ngưỡng mộ Ông”. Người lãnh đạo trại giam hiểu rõ được nội hàm trong đó, nói với vẻ cảm động sâu sắc: “Những lời nói ấy nghe rất có đạo lý, nếu như có một người tu luyện giống như một vị Thánh, thì sẽ không có ai bắt nạt người đó”. Sau này vị lãnh đạo trại giam đã nhiều lần nhận xét tôi trước mặt mọi người: “Đây là học viên Pháp Luân Công tốt nhất mà tôi từng gặp”. Tôi nói: “Cảm ơn lời khen của ông. Đây là kết quả mà Pháp Luân Đại Pháp và Sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi. Những gì tôi làm vẫn còn cách xa so với tiêu chuẩn Chân – Thiện – Nhẫn”.

Bằng cách này, “bản tự biện hộ” của tôi đã trở nên hữu ích. Sau khi đọc kỹ nó, nhận thức và quan điểm của mọi người về Đại pháp đã có chuyển biến rất cơ bản. Tại phòng giam B, tòa án của tà đảng đã đưa ra một bản án phi pháp chống lại tôi. Tôi lại viết một “bản kháng án” và mọi người trong phòng giam đều đọc nó. Có một lãnh đạo đơn vị bị bỏ tù vì tội nhận hối lộ, cô ấy nói với tôi: “Trước đây tôi đã từng rất chán ghét Pháp Luân Công, nhưng qua thời gian tiếp xúc này, tôi luôn quan sát thấy chị luôn giúp đỡ cho người khác mà không đòi hỏi báo đáp. Từ con người chị, tôi suy nghĩ lại, nhìn nhận trở lại Pháp Luân Công và nhận ra rằng, chúng tôi đã bị lừa dối”. Cô ấy đọc xong một lần bản kháng án tôi viết còn muốn đọc lại lần thứ hai. Đọc xong, cô xúc động nói: “Sự thật rất quan trọng đối với con người”.

Sau khi được chuyển đến phòng giam C, có một người Nhật gốc Hoa tự nhận là “hồng nhị đại”. Cha cô nguyên là Thứ trưởng Bộ Đường sắt. Cô kể về việc ăn tối với một lãnh đạo phòng 610 nào đó cũng là “hồng nhị đại” và đã bức hại Đại Pháp. Cô ấy cảm thấy mình hiểu rất sâu sắc và rõ ràng về Pháp Luân Công, nhưng kỳ thực chỉ bất quá là bị đầu độc sâu hơn bởi những lời vu khống và dối trá mà thôi, và vì thế cô ấy rất thù địch với Đại Pháp. Trước mặt mọi người trong phòng giam, cô ấy thường lặp lại một số lời lẽ tẩy não được lan truyền bởi truyền thông dối trá của tà đảng. Cô ấy tự cho mình là đúng và kiêu ngạo. Cô ấy đã ra sức cản trở và can nhiễu việc tôi giảng chân tướng và thuyết phục người khác làm điều tốt.

Tôi đã dùng chính niệm, từ bi và những hành động thực tế trong quá trình thực hành Pháp lý “Chân – Thiện – Nhẫn” của Đại Pháp. Mọi người ở đây cũng đã chứng kiến ​​và đích thân cảm nhận được lòng tốt và lý trí của các đệ tử Đại Pháp. Trường năng lượng thanh tịnh này đang dần dần lay động những quan niệm cố hữu vốn có của mọi người, và họ bắt đầu có cái nhìn khác về Đại Pháp và các đệ tử Đại Pháp. Lớp băng cứng trong lòng người Hoa kiều Nhật Bản cũng đang dần tan chảy. Vào ngày sinh nhật của cô ấy, tôi đã mua cho cô ấy một chiếc bánh để chúc mừng. Cô ấy rất cảm động.

Tôi vẫn nói với họ những triết lý về văn hóa truyền thống, về hành thiện tích đức, về thiện ác hữu báo, về luân hồi chuyển thế, nhân quả báo ứng. Tôi cũng nói thể ngộ của tôi về các nguyên lý của Đại Pháp. Thái độ bài xích, ác cảm và thù địch ban đầu của họ đã thay đổi thành thái độ ngày càng muốn gần tôi hơn và thích lắng nghe những câu chuyện và lý luận của tôi. Ngoài ra, họ đều đã đọc “bản tự biện hộ” và “bản kháng án” mà tôi đã viết, cũng càng ngày càng hiểu rõ hơn về sự vĩ đại kỳ diệu của Đại Pháp và sự thật về cuộc bức hại vô cớ đối với Đại Pháp. Họ đã có sự lựa chọn đúng đắn cho tương lai của mình. Trong phòng giam còn có một số sinh viên từ các trường đại học trọng điểm. Một sinh viên tốt nghiệp khóa 211 nói với vẻ xúc động: “Một học viên Pháp Luân Công bước vào, và mười học viên Pháp Luân Công đi ra”. Vị người Nhật gốc Hoa nói: “Tôi nói là một học viên Pháp Luân Công tiến vào, thì có 100 học viên Pháp Luân Công đi ra”. Họ thường chủ động niệm chín chữ chân ngôn “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân – Thiện – Nhẫn hảo”. Ngoài ra, vị người Nhật gốc Hoa thường xuyên kiểm tra và đôn đốc những người khác trong cùng phòng giam, hỏi “Cô đã niệm Pháp Luân Đại Pháp hảo chưa?”

Vào buổi sáng ngày mùng một Tết Nguyên đán, tất cả những người trong phòng giam nơi tôi ở đã chắp tay và cùng tôi hô to: “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Chân – Thiện – Nhẫn hảo! Chúc Sư phụ Lý Hồng Chí năm mới vui vẻ!” Thanh âm này phát ra từ sâu thẳm linh hồn của những con người thế gian đã thức tỉnh, âm thanh còn đọng lại, khiến tà ác khiếp sợ, gây chấn động cả bầu trời!

Vào buổi sáng khi tôi bước ra khỏi trại tạm giam với chính niệm dưới sự che chở của Sư phụ, một sinh viên tốt nghiệp khóa 985 đã nhắn tin từ biệt với tôi: “Chị đã dùng sức lôi cuốn của mình để chứng minh rằng Pháp Luân Đại Pháp là tốt và rằng chúng tôi thực sự đã được cứu độ về mặt tâm linh”.

Trên thực tế, tất cả những điều này đều đến từ Pháp Luân Đại Pháp, và tất cả đều là nhờ Sư phụ Lý Hồng Chí từ bi vĩ đại. Đây là Thánh ân tối cao của Sáng Thế Chủ dành cho tất cả chúng sinh!

Con chân thành cảm tạ sự chăm sóc cẩn thận và từ bi của Sư tôn; đồng thời, cũng rất vui vì tất cả chúng sinh đều đã lý giải và nhận thức được Đại Pháp sau khi thức tỉnh. Tất cả những chúng sinh minh chân tướng đã thức tỉnh được bản chất thực sự của sinh mệnh. Họ chắc chắn sẽ nhận được sự gia trì và bảo vệ của Đại Pháp, vượt qua kiếp nạn, nhận được ích lợi vô tận, không phụ thệ ước và trở về Thiên thượng.

Nhờ có ân sủng to lớn của Sư tôn vĩ đại, ánh sáng Đại Pháp đang chiếu sáng mọi ngõ ngách thế gian. Cho dù chúng ta có khó khăn thế nào, thì việc cứu độ tất cả chúng sinh là tâm nguyện lớn nhất của chúng ta!

Con xin cảm tạ Sư tôn!

Cảm ơn các bạn đồng tu!

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/292021



Ngày đăng: 27-12-2024

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.