[ChanhKien.org]
Khóa 4
“Thập bát nam nhi
Khởi vu Thái Nguyên
Động tắc đắc giải
Nhật nguyệt lệ thiên”.
Khóa này là lời dự ngôn rằng những năm cuối của nhà Tùy, thì nhà Lý Đường khởi lên ở Thái Nguyên. Năm 604, Dương Quảng giết cha để kế vị, xưng là Tùy Dượng Đế. Dương Quảng tàn bạo vô đức, từ năm 611, thiên hạ bắt đầu loạn. Các thế lực phản vương nổi dậy, khói bụi chiến tranh khắp nơi, thiên hạ đại loạn, quần hùng cùng nổi dậy.
Năm 617, quan trấn thủ Thái Nguyên là Lý Uyên thấy thiên hạ đại loạn, vận nước nhà Tùy sắp tận, liền quyết định khởi binh để bình định thiên hạ. “Thập bát nam nhi” chính là chữ Lý (李) – “thập bát” (十八) hợp lại thành chữ mộc (木), “nam nhi” tức là chữ tử (子), mộc và tử hợp lại thành chữ Lý (李). “Khởi vu Thái Nguyên” ý chỉ Lý Uyên đang giữ chức quan Lưu Thủ ở Thái Nguyên, và việc ông khởi binh để bình thiên hạ cũng bắt đầu từ Thái Nguyên.
Vì là anh em họ với Tùy Dượng Đế, cho nên ban đầu Lý Uyên không muốn khởi binh. Khi đó có lời đồn đại rằng: họ “Lý” sẽ thay thế họ “Dương” để thống trị thiên hạ, khiến Dương Quảng rất kiêng kỵ Lý Uyên. Hơn nữa, Thái Nguyên lại là nơi binh gia tất tranh (nơi quân sự trọng yếu, ai cũng muốn chiếm giữ), nếu Lý Uyên lúc bấy giờ không khởi binh, thì rất có thể sẽ bị các thế lực phản vương như Lý Mật hay Đỗ Phục Uy tiêu diệt; khởi binh thì sống, không khởi binh ắt sẽ chết, tình thế mà Lý Uyên đối mặt lúc đó thực sự có thể nói là: “Động tắc đắc giải” (tạm dịch: chỉ hành động mới có cơ hội giải thoát). Cho nên, Lý Uyên bất đắc dĩ phải mạo hiểm khởi binh, tìm đường sống trong cái chết.
Con trai thứ hai của Lý Uyên – Lý Thế Dân là anh hùng của thời đại đó, ông đã lần lượt đánh bại các thế lực phản vương như Tiết Nhân Cảo, Lưu Vũ Chu, Đậu Kiến Đức, Vương Thế Sung, lập nên giang sơn Đại Đường. Năm 626, Lý Uyên truyền ngôi cho Lý Thế Dân, tự mình lui về làm Thái Thượng Hoàng. Sau khi Lý Thế Dân kế vị, ông đã trọng dụng các hiền thần như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng, nhờ đó chính trị liêm khiết, mưa thuận gió hòa, nông nghiệp năm nào cũng được mùa lớn, xã hội an định mà phồn vinh. Năm 632, toàn quốc có 390 tù nhân bị tuyên án tử hình, cuối năm đó, Lý Thế Dân cho phép họ trở về nhà để lo liệu hậu sự, hẹn mùa thu năm sau quay lại thụ hình (thời cổ đại thường hành hình vào mùa thu). Đến tháng 09 năm 633, toàn bộ 390 người đều trở lại nhà ngục, không một ai bỏ trốn. Trật tự xã hội ổn định đến mức ban đêm không cần đóng cửa, thiên hạ đại trị, có thể gọi là “nhật nguyệt lệ thiên” (tạm dịch: Mặt Trời và Mặt Trăng rực rỡ trên bầu trời). Giai đoạn lịch sử này được gọi là “Trinh Quán chi trị”.
Tuy nhiên, “nhật nguyệt lệ thiên” cũng có thể được lý giải là chỉ thời kỳ Võ Tắc Thiên chấp chính, bởi vì Võ Tắc Thiên đã tự tạo ra một chữ mới gọi là “chiếu” (曌) đặt làm tên của mình. Chữ này có nửa trên là chữ “minh” (明), tức là “nhật nguyệt” (日 月), nửa dưới là chữ “không” (空), tức là chữ “thiên”, hàm ý là “nhật nguyệt đương không” (nhật nguyệt giữa trời).
Khóa 5
“Ngũ thập niên trung
Kỳ số hữu bát
Tiểu nhân đạo trường
Sinh linh đồ độc”.
Ở khóa này là lời dự ngôn về những năm cuối của Đại Đường, khi các “phiên trấn cát cứ” phát triển thành đại loạn “Ngũ Đại”.
Năm 907, tông thất nhà Đường, hoạn quan, và các sĩ đại phu đương triều đều bị sát hại gần hết trong cuộc chiến ác liệt giữa Lý Khắc Dụng và thuộc hạ cũ của Hoàng Sào là Chu Ôn (người sau này đầu hàng nhà Đường, được phong làm tiết độ sứ Tuyên Vũ, và được ban tên là Toàn Trung). Ai Đế trở thành người sống sót cuối cùng của hoàng thất nhà Đường. Vào năm Thiên Hựu thứ tư (năm 907), ông đã hạ chiếu “thiện vị” ( truyền lại ngôi vị) cho Chu Ôn, từ đó nhà Đường chính thức diệt vong. Sau khi Chu Ôn đổi quốc hiệu thì trở thành Lương Thái Tổ, lịch sử thời Ngũ Đại bắt đầu từ đây. Từ khi Chu Ôn soán ngôi nhà Đường đến khi Triệu Khuông Dận “khoác áo hoàng bào” lập ra Đại Tống (năm 960) thì đã trải qua khoảng năm mươi năm, cho nên gọi là “ngũ thập niên trung”.
Trong “năm mươi năm đó”, khu vực Trung Nguyên đã lần lượt xuất hiện năm triều đại ngắn ngủi gồm: Hậu Lương do Chu Ôn thành lập (năm 907–923), Hậu Đường do Lý Tồn Úc thành lập (năm 923–936), Hậu Tấn do Thạch Kính Đường thành lập (năm 936–946), Hậu Hán do Lưu Tri Viễn thành lập (năm 946–979, sau năm 950 chỉ còn giới hạn ở khu vực Thái Nguyên), Hậu Chu do Quách Uy thành lập (năm 951–960), do đó gọi là “Ngũ Đại”.
“Ngũ Đại” có tổng cộng tám họ (gia tộc) từng lên ngôi Hoàng đế: Hoàng đế Hậu Lương mang họ Chu; Hậu Đường thì phức tạp hơn: Lý Tồn Úc là con trai của đại tướng nhà Đường Lý Khắc Dụng, Lý Khắc Dụng còn có một người con nuôi là Lý Tự Nguyên, sau khi Lý Tồn Úc chết trong binh biến thì cả gia tộc bị tàn sát, Lý Tự Nguyên liền lên ngôi Hoàng đế. Sau khi Lý Tự Nguyên mất, con trai ông là Lý Tùng Hậu kế thừa hoàng vị. Không lâu sau, nghĩa huynh của Lý Tùng Hậu là Lý Tùng Kha khởi binh, giết chết Lý Tùng Hậu và tự lên ngôi Hoàng đế. Như vậy, Lý Tồn Úc, Lý Tự Nguyên, và Lý Tùng Kha tuy đều mang họ Lý, nhưng trên thực tế không hề có chút quan hệ huyết thống nào, tính ra Hậu Đường đã có ba gia tộc họ Lý làm Hoàng đế; tiếp theo là Hoàng đế Hậu Tấn họ Thạch; Hoàng đế Hậu Hán họ Lưu; Hậu Chu cũng rất phức tạp, toàn bộ gia đình của Quách Uy – vị Hoàng đế khai quốc Hậu Chu, đều bị Hoàng đế Hậu Hán sát hại, Quách Uy buộc phải nhận Sài Vinh làm nghĩa tử, và đổi họ Sài thành họ Quách. Cho nên Hậu Chu trên thực tế là do hai họ Quách và Sài hợp thành. Điều này cũng vừa ứng với câu “kỳ số hữu bát”. Như vậy, tổng cộng có tám họ từng làm Hoàng đế trong thời Ngũ Đại ứng với câu “kỳ số hữu bát”.
Ngũ Đại đều là những vương triều đoản mệnh, năm triều đại cộng lại chỉ vỏn vẹn 54 năm (từ năm 907 đến năm 960), rất nhiều đại thần đều là hôm nay trung thành với vị Hoàng đế này, ngày mai lại quy phục vị Hoàng đế khác. Tấm lòng trung nghĩa thời xưa, kiểu đại thần một lòng một dạ, “nhất triều thiên tử, nhất triều thần” đã không còn được người đời tôn sùng nữa.
Ví như thời Hậu Đường, có một đại thần tên là Phùng Đạo, có thể xem là nguyên lão khai quốc của Hậu Đường. Khi Thạch Kính Đường tiêu diệt Hậu Đường, Phùng Đạo đã không hề sợ hãi, ông gói ghém hành lý rồi đầu hàng Hậu Tấn. Không lâu sau, đại quân Khiết Đan áp sát, tấn công vào Khai Phong, bắt giữ Hoàng đế Hậu Tấn, Phùng Đạo lại đi quy phục Khiết Đan. Khi Lưu Tri Viễn lập nên Hậu Hán, Phùng Đạo lại quy thuận Hậu Hán, về sau lại tiếp tục quy thuận Hậu Chu. Ông không lấy đó làm nhục nhã, ngược lại còn xem là vinh dự.
Các Hoàng đế thời Ngũ Đại hầu như đều là hôn quân, cho nên vận mệnh quốc gia của họ cũng không dài. Đặc biệt là Thạch Kính Đường, để được xưng đế, ông ta đã cắt nhượng mười sáu châu Yên Vân cho nước Khiết Đan (nước Liêu) làm lễ vật, còn gọi Hoàng đế Khiết Đan là “phụ” (cha), tự xưng mình là “nhi” (con), nên bị người đời gọi là “Nhi Hoàng đế”. Hoàng đế Hậu Hán cũng phải dựa vào Khiết Đan, xưng là “Điệt Hoàng đế” (tức “cháu” gọi Hoàng đế Khiết Đan là “bác”), cho nên gọi là “tiểu nhân đạo trường” (ý là thời đại kẻ tiểu nhân lại được trọng dụng). Loạn thế Ngũ Đại, binh đao liên miên, tai họa không dứt, kết quả tự nhiên sẽ là “sinh linh đồ độc” (tạm dịch: sinh linh bị tàn hại trong cảnh lầm than).
Khóa 6
“Duy thiên sinh thủy
Thuận thiên ứng nhân
Cương trung nhu ngoại
Thổ nãi sinh kim”.
Khóa này là lời dự ngôn về triều đại nhà Tống. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận khoác hoàng bào xưng đế vào năm 960, kết thúc thời kỳ Ngũ Đại, sáng lập nên Đại Tống. Triệu Quang Nghĩa thống nhất thiên hạ vào năm 979. Năm 961, Triệu Khuông Dận “bôi tửu thích binh quyền”, đã diệt trừ tận gốc nguy cơ binh biến. Từ khi Đại Tống thành lập, thì đều không tiến hành giết chóc đối với các Hoàng đế và đại thần của những triều đại và quốc gia trước đây. Đối với bách tính thường dân thì thực thi chính sách nhân từ, khuyến khích tu thân dưỡng tức, lấy nhu hòa để an định thiên hạ. Từ đó, một thiên hạ thái bình mà bách tính thường dân vẫn khao khát đã trở thành hiện thực. Cổ nhân từng nói: “Thượng thiên hữu hảo sinh chi đức” (Trời cao có đức hiếu sinh), “thủy tính chí nhu” (đặc tính của nước là rất mềm mại, khiêm nhu). Do đó, câu mở đầu của khóa này là: “Duy thiên sinh thủy, thuận thiên ứng nhân” (tạm dịch: chỉ có trời sinh ra nước, thuận theo ý trời ứng hợp lòng người).
Nhưng đến cuối thời Bắc Tống, quân chủ bất tài, sưu thuế đối với người dân ngày càng nặng, cảnh thái bình lúc ban sơ thời nhà Tống đã không còn nữa. Tống Huy Tông thường xuất cung vi hành, ban đêm ngủ lại kỹ viện, trong cung còn lập ra các khu chợ nhỏ, để cung nữ cải trang làm thương nhân bán rượu, bán trà, bản thân Huy Tông thì giả làm hành khất đến từng nhà đi xin ăn, lấy đó làm trò tiêu khiển mua vui. Trong lòng vị hôn quân này sớm đã không còn tồn tại 200 năm nước nhà, mấy nghìn dặm gấm vóc sơn hà của Đại Tống. Thời Huy Tông rầm rộ nào là “Hoa Thạch cương”, “Sinh Thần cương”, v.v., đủ loại “cương” này, “cương” kia (chữ “cương” (綱) ở đây là chỉ những tài vật mà dân gian tiến cống cho Hoàng đế), khiến cho dân chúng lầm than, nổi dậy phản kháng khắp nơi. Như trong tiểu thuyết “Thủy Hử truyện”, các hảo hán Lương Sơn “đã mưu trí giành được Sinh Thần cương”, thay trời hành đạo, đây chính là một ví dụ về việc tiểu thuyết phản ánh hiện thực dân gian. Lúc bấy giờ, dân gian đã xuất hiện khởi nghĩa Phương Lạp, cũng bởi vì bách tính không thể chịu nổi việc cướp bóc vơ vét của Hoa Thạch cương, tuy nhiên Huy Tông đã không dùng chính sách nhu hòa mềm mỏng, thay vào đó lại ra lệnh cho quân đội trấn áp tàn khốc. Có thể nói ông đã dùng “cương” (cứng rắn) để đối nội, chữ “cương” này kỳ thực có hai hàm ý (“cương” (剛) trong câu “cương trung nhu ngoại” ý chỉ sự cứng rắn tàn bạo, lại đồng âm với chữ “cương” (綱) trong “Hoa Thạch cương”, “Sinh Thần cương”, v.v.).
Về mặt quân sự, triều Tống từ khi thành lập đã luôn yếu kém về lực lượng. Quan văn đảm nhiệm chức thống soái quân đội, còn các tướng lĩnh phụ trách chiến đấu thực tế thì chỉ được bổ nhiệm tạm thời; binh lính không biết tướng, tướng cũng không hiểu binh lính của chính mình. Năm 1004, nước Liêu tiến quân xuống phương Nam, Liêu và Tống đã ký kết hòa ước “Thiền Uyên chi minh”, từ đó triều Tống lại phải hàng năm tiến cống cho Liêu quốc 100.000 lạng bạc trắng và 240.000 tấm lụa. Năm 1038, một người Đảng Hạng là Lý Nguyên Hạo đã thành lập nước Tây Hạ. Nhà Tống đánh với Tây Hạ gần như là đánh trận nào thua trận đó, đành phải mỗi năm cống nộp cho Tây Hạ 130.000 tấm lụa, 50.000 lạng bạc trắng, và 20.000 cân trà. Có thể nói, nhà Tống đã dùng nhu (mềm mỏng) để đối ngoại. Chính sách đối nội và đối ngoại của triều Tống có thể dùng câu “cương trung nhu ngoại” để hình dung.
Câu đầu của khóa này là “Duy thiên sinh thủy”, dùng “thủy” để ám chỉ triều Tống. Theo học thuyết Ngũ Hành thì “thổ khắc thủy”, cho nên triều Kim, được tượng trưng bởi “kim” do thổ sinh ra, chính là khắc tinh của nhà Tống. Bởi vậy mới nói: “Thổ nãi sinh kim”.
Năm 1120, nhà Kim và nhà Tống ký kết mật ước tấn công nhà Liêu từ hai phía. Dưới thế gọng kìm của Kim – Tống, Liêu quốc diệt vong. Đến năm 1125, sau khi diệt Liêu, Kim lại xoay mũi giáo đánh Tống. Năm 1126, Bắc Tống bị diệt vong, quân Kim bắt Tống Huy Tông, Tống Khâm Tông cùng toàn thể hoàng tộc hơn ba ngàn người áp giải về Kim, sự kiện này được gọi là “Tĩnh Khang chi sỉ” (nỗi nhục Tĩnh Khang), và trong lịch sử được xem là điều vô cùng nhục nhã của dân tộc Hán. Người duy nhất trong hoàng tộc thoát khỏi vòng vây là Khang Vương Triệu Cấu, ông đã chạy thoát đến Lâm An (nay là Hàng Châu, Chiết Giang), và sau đó lập nên triều Nam Tống.
Khóa 7
“Nhất nguyên phục thủy
Dĩ cang xử trung
Ngũ ngũ tương truyền
Nhĩ Tây ngã Đông”.
Khóa dự ngôn này nói về triều Nguyên. “Nhất nguyên phục thủy” ám chỉ quốc hiệu triều Nguyên. Người Mông Cổ cai trị người Hán một cách rất hà khắc. Họ xếp người Hán vào tầng lớp công dân hạng ba và hạng tư (công dân hạng nhất là người Mông Cổ, hạng hai là người Sắc Mục – tức người Trung Á). Triều Nguyên quy định cứ hai mươi nhà thì phân thành một “Giáp”, người đứng đầu gọi là “Giáp chủ”, do người Mông Cổ đảm nhiệm. Triều đình còn đặt ra những quy định nghiêm khắc: cấm người Hán săn bắn, cấm người Hán học võ, cấm người Hán sở hữu vũ khí, cấm người Hán tụ tập cúng bái thần linh, cấm người Hán tham gia họp chợ buôn bán, và cấm người Hán đi lại vào ban đêm, cho nên nói là “dĩ cương xử trung” (tạm dịch: lấy cứng để trị trung, “trung” ở đây ám chỉ Trung Nguyên).
“Ngũ ngũ tương truyền” ý chỉ triều Nguyên, bắt đầu từ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đến Nguyên Thuận Đế Thoát Hoan Thiết Mộc Nhi, tổng cộng có mười vị Hoàng đế; năm cộng năm là mười.
Người Mông Cổ bắt đầu từ Thành Cát Tư Hãn, đã thảo phạt khắp Đông Tây, lập nên một đế quốc Mông Cổ rộng lớn chưa từng có, với diện tích lên tới 30 triệu km², trải dài khắp lục địa Á-Âu, và được chia thành nhiều Hãn quốc, do Đại Hãn Mông Cổ thống lĩnh. Đại Hãn Hốt Tất Liệt đã dời kinh đô của đế quốc Mông Cổ về Trung Quốc và lập quốc hiệu là “Nguyên”, xưng là Hoàng đế Trung Hoa. Sau khi nhà Nguyên diệt vong, các Hãn quốc cũng tan rã, không lâu sau đều lần lượt tiêu vong, cho nên nói là “nhĩ Tây ngã Đông”.