Trang chủ Right arrow Tiên tri Right arrow Tây phương dự ngôn

Dự ngôn về ngày hôm nay (Phần 9): Dự ngôn là khoa học

28-10-2025

[ChanhKien.org]

3. Dự ngôn là khoa học

Trở lại với đề tài bi-a, hiện tại có lẽ chúng ta đã có thể nhìn nhận nó từ những góc độ khác nhau. Một người khi đã hiểu được cơ học Newton, thì họ có thể dựa vào nguyên lý của cơ học để dự đoán quá trình va chạm giữa các quả bóng. Nhưng, nếu như trong ví dụ đặc biệt được nêu ở phần trước, người ấy không chỉ dự đoán được diễn biến chính xác của trận đấu, mà còn tiên đoán đúng người thắng cuộc cuối cùng, thì chúng ta tất sẽ cảm thấy điều đó rất khó tin. Kỳ thực, từ góc độ khoa học hiện đại mà nhìn nhận, hiện tượng này vẫn có thể lý giải được, giả như người đó có thể tiến nhập vào tương lai, sau khi quan sát toàn bộ trận đấu từ đầu đến cuối, rồi quay trở về hiện tại, dựa vào ký ức của mình, người ấy chẳng phải có thể thực hiện cái gọi là “dự đoán”, có thể thấy trước được toàn bộ diễn biến của trận đấu, thậm chí cả chi tiết và kết quả đó sao? Cho nên, nếu vượt qua được giới hạn của thời gian để tiến vào không gian bốn chiều (bao hàm trục thời gian), thì các vấn đề trong không gian ba chiều dường như đã trở nên đơn giản hơn. Dự đoán như vậy, cả về phương thức lẫn độ chính xác, đã là một hình thức hoàn toàn khác, một khái niệm hoàn toàn khác. Nhưng chính như đã thảo luận ở phần trước, việc đột phá thời không để tiến hành dự đoán, theo lý thuyết hiện đại mà nói thì vốn không phải là vấn đề, mà vấn đề nằm ở chỗ: “Liệu cơ thể con người có thể đột phá được vận tốc di chuyển của ánh sáng, đột phá được giới hạn của thời gian hay không”?

Nói đến đây, vào năm 2001, có một báo cáo y học đáng để chúng ta suy ngẫm được đăng trên tạp chí y học danh tiếng nhất thế giới The Lancet, trong đó chuyên gia tim mạch người Hà Lan Pim Van Lommel đã công bố một báo cáo về “‘trải nghiệm cận tử” (Near Death Experience; NDE). Bác sĩ Lommel và các cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu theo dõi trải nghiệm cận tử kéo dài 8 năm đối với 334 bệnh nhân ở độ tuổi từ 26 đến 92 bị nhồi máu cơ tim cấp tính và đã được cấp cứu thành công trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 1992. Trong ấy có một trường hợp được ghi nhận của một bệnh nhân tim mạch 44 tuổi, trên đường được xe cứu thương đưa đến bệnh viện, người này đã không còn hô hấp, không có nhịp tim, không còn ý thức, và rơi vào trạng thái chết lâm sàng theo định nghĩa y học. Trong quá trình các nhân viên y tế hồi sức tim phổi để cứu sống bệnh nhân, một y tá đã tháo răng giả của bệnh nhân ra để thuận tiện cho việc cấp cứu. Sau đó, bệnh nhân này may mắn được cứu sống. Khi tỉnh lại, vừa nhìn thấy nữ y tá ấy, ông lập tức nhận ra cô, không những chỉ rõ vị trí nơi chiếc răng giả của mình được đặt sau khi bị tháo ra, mà ông còn kể lại một cách chi tiết những gì mình đã thấy khi ý thức thoát ly khỏi thân thể, bao gồm toàn bộ quá trình cấp cứu, thậm chí cả những cảnh tượng đặc biệt và siêu thường. Điều đó khiến chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi lý tính rằng: Làm sao một người trong trạng thái đã chết lâm sàng, vẫn có thể còn ý thức, còn trí nhớ, thậm chí còn có thể “nhìn thấy”?

Bài báo cáo y học trên kỳ thực không phải là nghiên cứu đầu tiên đề cập đến hiện tượng này. Trong lịch sử Trung Hoa và ngoại quốc đều có ghi chép về trải nghiệm cận tử, những nghiên cứu có hệ thống trong thời cận đại có lẽ bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, tuy nhiên đến thập niên 70 của thế kỷ trước mới bắt đầu nhận được sự chú ý và quan tâm rộng rãi, ngay cả Trung Quốc đại lục cũng từng tiến hành các khảo sát nghiên cứu liên quan sau trận đại địa chấn ở Đường Sơn. Đối với khái niệm về loại ý thức thể tồn tại độc lập ngoài đại não, hay còn gọi là linh hồn này, thì trong giới y học hiện đại vốn trường kỳ nghiên cứu sâu về thân thể người và đã hình thành quan niệm rằng “đại não là trung khu của tinh thần”, thì đây không phải là loại khái niệm dễ dàng tiếp nhận. Bởi vì điều này ngụ ý rằng, sự nhận thức hoàn chỉnh về thân thể người và những lý luận tưởng như hoàn mỹ mà y học hiện đại xây dựng được thông qua giải phẫu kỳ thực lại không hề hoàn chỉnh, nó đã chạm đến ‘điểm bế tắc’ của y học hiện đại khi các can thiệp y tế từ xưa đến nay vẫn luôn bị cuộc hạn ở thân xác thịt của con người.

Bài nghiên cứu về trải nghiệm cận tử được đăng trên The Lancet cho thấy rằng giới khoa học chính thống đang dần dần phá vỡ những quan niệm cũ, bắt đầu xem xét một cách thận trọng và nghiêm túc việc nghiên cứu về ý thức con người, hay còn gọi là “linh hồn”. Một cuộc khảo sát vào năm 1994 của công ty thống kê danh tiếng Hoa Kỳ – Gallup đã phát hiện rằng khoảng 13 triệu người trưởng thành tại Mỹ từng có trải nghiệm cận tử, con số này chưa bao gồm số trẻ em cũng từng có thể nghiệm tương tự. Nghiên cứu cho thấy có khoảng 35% số người vào lúc cận kề cái chết sẽ có trải nghiệm cận tử, điều này cũng chứng tỏ rằng trải nghiệm cận tử là một hiện tượng cực kỳ phổ biến. Không chỉ có trải nghiệm cận tử, trên thực tế rất nhiều người cũng từng trải qua các hình thức ý thức ly thể khác, có người thậm chí có năng lực khiến ý thức ly thể, xuyên qua không gian mà nhìn thấy cảnh tượng ở rất xa, ví dụ như ngồi trong phòng thí nghiệm kín được thiết kế chuyên biệt, người ta vẫn có thể như trực tiếp có mặt tại hiện trường mà quan sát được cảnh bày biện trong tủ kính của một cửa hàng tại khu vực náo nhiệt của một thành phố nào đó ở rất xa diễn ra trong cùng ngày.

Hiện tượng này xưa nay đều có ghi chép trong lịch sử phương Đông lẫn phương Tây. Trong văn hóa phương Đông, người ta tin rằng con người không chỉ có linh hồn, mà họ còn cho rằng linh hồn là bất tử và sinh mệnh là một quá trình luân hồi chuyển thế, con người là có kiếp trước. Kết quả nghiên cứu từ các thí nghiệm thôi miên khiến giới khoa học không thể không thừa nhận rằng nhân loại xác thực tồn tại nhiều ký ức không liên quan gì đến việc học hỏi hay trải nghiệm trong kiếp sống hiện tại. Những nghiên cứu và ghi chép thuộc loại này kỳ thực đều đang được khoa học hiện đại phát hiện lại mới và chúng đều là những hiện tượng có thật.

Những phát hiện này kỳ thực cũng khiến cho các “dự ngôn” mang ý nghĩa khoa học hơn. Căn cứ vào lý luận của khoa học hiện đại, nếu như muốn đột phá không gian và thời gian, không bị ức chế bởi thời gian, thì đầu tiên cần phải vượt qua tốc độ ánh sáng. Nếu như các nhà tiên tri trong quá khứ chỉ là đưa ý thức thể tới thời không của tương lai, trong khi cơ thể vật chất vẫn ở tại thời không ban đầu, thì ý thức thể ấy, hay còn gọi là linh hồn, chính là tồn tại trong không gian của chúng ta dưới trạng thái “‘năng lượng”. Từ góc độ vật lý, năng lượng chính là một dạng sóng dao động, như sóng điện từ, cũng chính là các loại ánh sáng với tần số khác nhau, mà mắt thường của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy ánh sáng khả kiến, cho nên hơn 99% các dạng ánh sáng là chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt thịt này. Trong trải nghiệm cận tử, rất nhiều người đã nhìn thấy những hiện tượng đặc biệt, điển hình như: “nhìn thấy những ‘sinh mệnh ánh sáng’ và cảm nhận được nguồn năng lượng mạnh mẽ đầy thiện lương”, “trong nháy mắt nhìn thấy toàn bộ cuộc đời mình”, “các giác quan trở nên nhạy bén và mãnh liệt hơn”, “không còn cảm giác về sự tồn tại của cơ thể” hay “nhìn thấy người khác đang cố gắng cứu sống thân xác của mình”… Rõ ràng, đây không còn là những thời không đơn lẻ, cũng không phải là cảnh tượng trong không gian ba chiều thông thường mà chúng ta đang sinh tồn, đây đều là những cảnh tượng vượt qua giới hạn của thời gian, tiến vào một không gian đa chiều hơn. Khi trục thời gian trở thành một trục tương đối, giống như một hành lang có thể tiến về trước cũng có thể lùi về sau, đó chính là lúc đã tiến nhập vào thế giới của không gian đa chiều, chúng ta có thể tưởng tượng rằng, chỉ chênh lệch một chiều không gian thôi, thì nhận thức về thế giới đã có thể khác biệt một trời một vực, hoàn toàn không giống nhau.

Chúng ta có thể lấy một ví dụ để mở rộng trí tưởng tượng cho mọi người: chẳng hạn, tầm nhìn của loài kiến là một mặt phẳng, chính là khái niệm không gian hai chiều, cho nên nếu cho một con kiến thưởng thức một bức danh họa, thì có lẽ đó sẽ là một việc vô cùng khó khăn. Con kiến ấy phải chia bức tranh ra thành vô số hàng hoặc cột theo một trật tự nhất định, rồi sau đó “đọc” hình ảnh của từng hàng từng hàng hoặc từng cột từng cột một, như một máy quét ảnh (scanner) của máy tính. Sau khi “đọc” xong toàn bộ, nó sẽ cần đến một trí nhớ và trí tưởng tượng cực kỳ phong phú để tổ hợp lại tất cả những gì nó đã đọc được và sắp xếp một cách có trật tự trong não của nó để dựng lại thành một bức tranh, tạm chưa bàn đến việc bức tranh tái hiện trong tâm trí nó có giống nguyên bản hay không, mà chính trục khoảng cách đã khiến cho tầm nhìn và năng lực của con kiến bị hạn chế rồi. Nhưng đối với con người sống trong không gian ba chiều, thì việc thưởng thức một bức tranh lại là điều vô cùng dễ dàng, chỉ cần liếc mắt một cái là có thể thấy toàn cảnh. Với những bức tranh lớn hơn một chút như các bức bích họa tượng Phật khổng lồ tại hang đá Đôn Hoàng, ta chỉ cần điều chỉnh khoảng cách, đứng xa một chút là có thể nhìn thấy toàn bộ, tương tự vậy ta cũng có thể rút ngắn khoảng cách, tiến lại gần bức họa để chiêm ngưỡng nét vẽ tinh xảo của người họa sĩ. Nhưng tình huống này đối với loài kiến mà nói thì có thể là việc cả đời nó cũng không làm nổi.

Cùng đạo lý đó, khi một sinh mệnh tiến nhập vào trạng thái không gian bốn chiều, nhìn thấy toàn bộ cuộc đời một con người từ lúc sinh ra đến khi chết đi, chỉ cần nhìn một cái, trong nháy mắt là có thể thấy toàn bộ, giống như người sống trong không gian ba chiều nhìn một bức tranh trong không gian hai chiều vậy. Đương nhiên cũng có thể lựa chọn một đoạn thời không nhất định để quan sát tỉ mỉ từng chi tiết trong quá trình, ví dụ như trong không gian bốn chiều mà quan sát quá trình thân xác đang được cấp cứu, điều này chẳng phải cũng giống như trong không gian ba chiều, ta điều chỉnh trục khoảng cách để quan sát rõ từng chi tiết của một bức bích họa sao? Thậm chí, còn có thể giao tiếp với những sinh mệnh khác cũng đang tồn tại trong không gian cao chiều, đây không phải là điều tự nhiên sao? Cùng nguyên lý đó, lúc này sinh mệnh ở không gian bốn chiều khi nhìn vào cảnh tượng trong không gian ba chiều tuy là liên tục và lập thể, nhưng vẫn chỉ là hình ảnh, họ không thể trực tiếp giao tiếp với những nhân vật trong hình ảnh đó, bởi vì lúc này, bản thân họ đã đã ở trong trạng thái giống như những “sinh mệnh ánh sáng”, không còn mang nhục thể cố định trong không gian ba chiều, sự khác biệt về tốc độ và thời không là quá lớn, quá cách biệt. Cho nên trên lý thuyết, sinh mệnh khi bước vào không gian bốn chiều sẽ không có khả năng làm biến đổi lịch sử, nhưng để xem trọn một đời người, và nếu như người đó sống bảy mươi tuổi, thì cũng không cần bảy mươi năm, mà chỉ là việc trong nháy mắt. Từ lý này có thể thấy, chỉ cần sai biệt một chiều khái niệm không gian thì trạng thái sinh mệnh và năng lực đều sẽ xuất hiện những hình thái hoàn toàn khác nhau.

Từ quan điểm này mà xét, phải chăng các nhà dự ngôn trong quá khứ đã thông qua hình thức đặc biệt nào đó khiến thể năng lượng ý thức (linh hồn) của họ tiến nhập vào một thời không rộng lớn hơn, từ đó nhìn thấy quá trình biến đổi trong các hoạt động xã hội của nhân loại trong phạm vi không gian lớn hơn và thời gian dài hơn? Liệu có phải họ đã tiến vào không gian bốn chiều, sau đó quay trở lại không gian hiện tại của mình, và dựa vào ký ức, đem những sự tình họ nhìn thấy ghi chép lại bằng phương pháp ẩn dụ hoặc ám dụ? Đó có phải chính là cái gọi là “dự ngôn” chăng? Nếu đúng như vậy, thì chúng ta cũng không khó lý giải vì sao trong lịch sử, các lời dự ngôn cả trong và ngoài Trung Quốc bao giờ cũng lấy phương thức ẩn dụ, gián tiếp để diễn đạt. Rõ ràng, các nhà tiên tri không phải là muốn thay đổi lịch sử vì họ hiểu được những hàm nghĩa sâu xa hơn, điều họ muốn chủ yếu là truyền tải nội hàm này đến với thế nhân! Có lẽ dùng một phép so sánh sẽ càng dễ hiểu hơn: Nếu như con kiến trong ví dụ trước có được đôi mắt của con người, và hiểu được ý nghĩa nội hàm của bức tranh, thì nó sẽ cố gắng mang tất cả những gì nó nhìn thấy được truyền tải cho các con kiến khác vốn chỉ có nhận thức trong không gian hai chiều để chúng liễu giải được. Bởi vì sự khác biệt về quan niệm tư tưởng và trạng thái sinh mệnh là quá lớn. Điều này cũng có thể giải thích một cách hợp lý vì sao những lời dự ngôn chân chính lại có độ chính xác cao đến như vậy, bởi vì nó căn bản không thuộc về khái niệm của không gian ba chiều, nên người bình thường cũng khó có thể nhận thức được.

Hiện tượng này hoàn toàn có thể được giải thích một cách hợp lý bằng khoa học hiện đại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn xem nó giống như một phần của khoa học viễn tưởng hay giống những tình tiết trong tiểu thuyết điện ảnh, lý do chủ yếu là vì trong quan niệm chúng ta vẫn nhận định một cách trực giác rằng: để một thể vật chất lớn như thân thể con người di chuyển cùng tốc độ ánh sáng là điều gần như không thể! Nhưng nếu cơ thể người tồn tại một thể ý thức, hay còn gọi là linh hồn, thì hết thảy đều trở nên khả thi, hơn nữa còn vô cùng khả thi! Đây chính là lý do vì sao chúng ta cho rằng “dự ngôn” là khoa học, một loại khoa học liên quan đến không gian và thời gian đa chiều.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/62622

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài