[ChanhKien.org]
Tiếp theo, chúng ta nói một chút về khái niệm “thời không đa chiều” trong khoa học hiện đại. Năm 1955, Albert Einstein qua đời. Sau khi kế thừa “Lý thuyết thống nhất lớn”, và vì để giải thích một cách hợp lý bốn loại lực cơ bản trong vật lý học, năm 1957, tiến sĩ Hugh Everett của Đại học Princeton đã lần đầu tiên đề xuất “Thuyết đa thế giới” (Many Worlds Theory), hay còn gọi là “Thuyết thế giới song song” (Parallel Worlds Theory). Lý thuyết này sau đó được tiếp tục phát triển bởi tiến sĩ John Wheeler, một nhà vật lý vũ trụ nổi tiếng, cũng là một trong những người đứng đầu dự án Manhattan (dự án chế tạo bom nguyên tử) và dự án chế tạo bom hydro của Hoa Kỳ. Lý thuyết này cho rằng: trên thực tế có tồn tại vô số vũ trụ, mỗi một vũ trụ trong đó song song với vũ trụ này của chúng ta, hơn nữa tất cả mọi thứ, toàn bộ vật thể đều tồn tại trong mỗi vũ trụ đó. Có những vũ trụ mà kết cấu thời không hoặc quy luật vật lý có thể rất giống với vũ trụ hiện tại của chúng ta, nhưng cũng có những vũ trụ lại khác biệt hoàn toàn so với vũ trụ của chúng ta.
Căn cứ vào lý thuyết thời không đa chiều, các nhà khoa học sau đó đã đề xuất nhiều học thuyết về sự hình thành của vũ trụ, chẳng hạn như mọi người có thể đã quen thuộc với thuyết Vụ Nổ Lớn, cũng như thuyết Siêu dây, v.v. Gần đây nhất là một lý thuyết do giáo sư Arkani-Hamed thuộc Đại học Harvard đưa ra, gọi là Lý thuyết Thế giới Màng (Brane World Theory). Lý thuyết Thế giới Màng cho rằng thực tế tồn tại rất nhiều rất nhiều không gian, nó tồn tại trong nhiều lớp màng khác nhau; mỗi lớp màng là một không gian và tất cả các lớp màng này tồn tại trong một siêu không gian đa tầng, có những không gian có thể nhỏ hơn cả kích thước của nguyên tử, có những không gian lại có thể lớn vô hạn. Không gian mà con người chúng ta đang sống thực chất tồn tại dưới hình thức gấp nếp, như thế trong không gian này, nếu một tinh thể cách địa cầu của chúng ta rất xa thì nhìn từ một không gian khác có thể chỉ cách chúng ta một milimét.
Ngoài ra, nhà vật lý lượng tử nổi tiếng, Giáo sư David Deutsch thuộc Đại học Oxford đã đề xuất rằng: “Bản chất của cơ học lượng tử thực chất chính là một lý thuyết về đa thời không, không chỉ áp dụng được cho thế giới vi mô, mà còn có thể áp dụng cho mọi tầng diện của thế giới vĩ mô”. Điều này cho thấy các nghiên cứu vật lý cao năng lượng hiện đại tin rằng: không gian khác thực sự có tồn tại và không gian mà con người đang sống không chỉ đơn giản là không gian ba chiều, mà là một trong vô số các thời không; vũ trụ thực sự đồ sộ và phức tạp vượt ngoài sức tưởng tượng của con người chúng ta!
Từ góc độ của thời không đa chiều này, chúng ta hãy một lần nữa suy ngẫm về “hiện tượng dự ngôn”. Hãy bắt đầu từ Trung Quốc nơi có hệ thống dự ngôn hoàn chỉnh nhất, trong các triều đại lịch sử Trung Hoa đều có lưu truyền các lời dự ngôn, ngoài dự ngôn, các lĩnh vực truyền thống khác của Trung Quốc như Trung y, châm cứu, khí công, bói toán, phong thủy… liệu có phải chỉ là mê tín? Hay đó là khoa học? Vấn đề này đã khiến người Trung Quốc cận đại đau đầu suốt một thời gian dài. Tiến sĩ Joseph Needham (1900–1995), một học giả nổi tiếng người Anh chuyên nghiên cứu về lịch sử khoa học Trung Quốc, đã biên soạn bộ sách đồ sộ “Lịch sử Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc” gồm hàng chục tập. Ông là nhà khoa học phương Tây đầu tiên sử dụng các tài liệu lịch sử và bằng chứng đáng tin cậy, trình bày một cách toàn diện và có hệ thống rằng khoa học kỹ thuật Trung Quốc trong 4.000 năm trở lại đây đã có một lịch sử phát triển đáng tự hào.
Chúng ta không khó để phát hiện ra một hiện tượng rất lý thú: khoa học cổ đại Trung Quốc và khoa học hiện đại phương Tây là phát triển theo những con đường khác nhau, sử dụng những phương thức tư duy khác nhau, trong đó, điểm khác biệt then chốt nhất chính là khái niệm về không gian đa chiều. Như trên đã trình bày, khoa học phương Tây bắt đầu từ những thứ hữu hình như quả táo, dần dần phát triển đến thời hiện đại, mới hình thành khái niệm về không gian đa chiều. Trong khi đó Trung Quốc ở phương Đông lại ngay từ buổi đầu của nền văn minh đã tồn tại khái niệm về không gian đa tầng. Ví dụ như khái niệm “khí”, kinh lạc, huyệt vị… tất cả đều cho thấy rằng khái niệm về không gian đa chiều có lẽ đã ăn sâu vào tư duy của người Trung Hoa từ thời Hoàng Đế. Rất rõ ràng, những hiện tượng này đều không thuộc về không gian vật chất mà mắt thường của chúng ta có thể quan sát được. Cái gọi là “học thuyết Âm Dương Ngũ Hành” thực chất là nguyên lý biến hóa tương ứng giữa các không gian khác nhau và không gian vật chất này. Lý luận cơ bản này của Đạo gia hầu như đã được áp dụng phổ biến trong các ngành học, vì vậy sự phát triển của khoa học Trung Quốc rất tự nhiên đã mang đậm sắc thái tu luyện và công năng đặc dị, mang đến cho người hiện đại một số cảm giác thần bí; cũng bởi vì khác biệt với sự phát triển của khoa học hiện đại, nên khiến người ta cảm thấy có phần mang hơi hướng mê tín.
Có lẽ hình dung như thế này sẽ chuẩn xác hơn: “Khoa học của Trung Quốc cổ đại khác với khoa học hiện nay mà chúng ta học từ phương tây, nó đi theo một con đường khác, có thể đưa đến trạng thái khác” (Trích “Chuyển Pháp Luân”). Dù không có máy X-quang hay thuốc gây mê hiện đại, Hoa Đà vẫn có thể quan sát nội tạng con người, có thể thực hiện phẫu thuật. Dù không có vệ tinh quan trắc, Gia Cát Lượng trong trận Xích Bích đã mượn gió đông và dùng thuyền cỏ mượn tên, thể hiện khả năng dự báo thời tiết với độ chính xác cao. Ngoài Gia Cát Lượng, còn có rất nhiều nhà dự ngôn như Lưu Bá Ôn, Viên Thiên Cang, Lý Thuần Phong đều là những nhân vật thuộc Đạo gia, trong các lời dự ngôn của họ đã triển hiện ra khả năng dự đoán đối với tương lai trong thời gian dài, điều mà khoa học hiện đại hoàn toàn không thể làm được. Đạo gia giảng: “Thiên nhân hợp nhất”, xưa nay họ đều coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, họ cho rằng vũ trụ bên ngoài lớn bao nhiêu, thì vũ trụ bên trong lớn bấy nhiêu, giữa vũ trụ lớn và vũ trụ nhỏ này là có quan hệ đối ứng với nhau. Đây cũng đều là những khái niệm của không gian đa chiều hiện đại, đều là những quan sát đột phá và siêu việt không gian, cho nên những năng lực được thể hiện ra ấy không còn là nhận thức thông thường của không gian ba chiều nữa, và thường khiến người ta cảm thấy không thể nghĩ bàn.
Từ góc độ này mà xét, không phải là khoa học hiện đại không nhận thức được, mà là trong phương pháp nghiên cứu của khoa học hiện đại, đối với những vấn đề như liệu con người có linh hồn hay không thì rất khó tiến hành nghiên cứu. Linh hồn không cách nào chộp bắt được, cũng không có đơn vị đo lường, càng không thể thí nghiệm, nếu quan sát đo lường gián tiếp thì thông thường sẽ gặp khó khăn trong việc tái hiện kết quả hoặc hiện tượng, do đó những vấn đề liên quan đến việc đột phá không gian chỉ có thể được tiếp cận với thái độ hoài nghi. Khái niệm không gian đa chiều có thể được nhận thức trên lý luận, nhưng về mặt phương pháp nghiên cứu lại tồn tại những hạn chế rất lớn. Thế nhưng, những quan niệm này lại chính là những quan niệm cơ bản trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Người xưa tin rằng linh hồn bất tử, Đạo gia giảng về “nguyên thần bất diệt”, cũng như khái niệm luân hồi sinh mệnh luân hồi, những phương thức tư duy cơ bản này không hề có hạn chế như của quan niệm khoa học hiện đại. Không chỉ là Trung Quốc, mà người Hy Lạp cổ đại, Ai Cập, Ấn Độ, người da đỏ châu Mỹ và người Maya đều có khái niệm về linh hồn, ngay cả đối với người hiện đại, vẫn có rất nhiều người tin vào sự tồn tại của linh hồn. Khách quan mà nói, bởi vì khoa học hiện đại là không cách nào chứng minh được nên khi nói về linh hồn thì liền quy nó vào phạm trù tôn giáo và khoác lên nó tấm màn của mê tín. Càng lệ thuộc, càng tin tưởng vào kỹ thuật hiện đại thì con người lại càng sản sinh tâm lý bài xích đối với những hiện tượng mà khoa học hiện đại chưa thể chứng thực, đây đã không còn là tinh thần khoa học chân chính, mà cơ sở của sự tiến bộ trong khoa học hiện đại chính là quan sát các hiện tượng thực tế và khám phá những điều chưa biết!
Chúng ta có thể kể thêm một hiện tượng đặc biệt khác. Tiến sĩ George Rodonaia là một bác sĩ khoa tâm thần nổi tiếng của Đại học Moscow thuộc Liên Xô cũ, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Năm 1976 sau khi bị tông trong một vụ tai nạn giao thông thì ngay lập tức ông đã bị tuyên bố tử vong. Tuy nhiên ông đã trải qua lần “trải nghiệm cận tử lâm sàng” dài nhất từng được ghi nhận. Thi thể của ông được đặt trong nhà xác, cho đến ba ngày sau, có một bác sĩ pháp y trong lúc đang tiến hành khám nghiệm tử thi đã rạch một nhát dao vào bụng ông, ngay lúc đó ông bất ngờ tỉnh lại. Sau này, ông chuyển sang nghiên cứu lĩnh vực tâm linh và đã lấy bằng tiến sĩ thứ hai, Tiến sĩ Tâm lý học Tôn giáo. Hiện nay, ông là mục sư của nhà thờ Giáo hội Giám lý Liên hiệp Đầu tiên tại thành phố Nederland, bang Texas, Hoa Kỳ.
Trước khi xảy ra tai nạn, Tiến sĩ Rodonaia là một người kiên định vào thuyết vô thần. Tạm không thảo luận về những trải nghiệm và những điều mà “ý thức thể” của ông mắt thấy tai nghe trong thời gian nhục thể tử vong, theo lý luận y học, các tế bào não của con người sẽ chết sau khoảng ba đến sáu phút khi ở trạng thái thiếu oxy, cho dù được cứu sống cũng sẽ trở thành người thực vật, nếu thời gian thiếu oxy vượt quá mười phút, khả năng sống sót gần như bằng không. Nhưng chúng ta đã chứng kiến một trường hợp mà nhịp tim và hơi thở đều đã ngừng hơn 70 tiếng đồng hồ, các tế bào não của ông đã rơi vào trạng thái hoại tử, vậy mà trong chớp mắt ông có thể phục hồi thành công và trở lại là một người bình thường. Những ví dụ như vậy, trong lâm sàng và lịch sử đều có nhiều ghi chép, chứ không phải là trường hợp cá biệt, nhưng trong y học, chúng lại thường chỉ được xem là “kỳ tích”. Những hiện tượng này cho thấy có một luồng động lực sống vô hình, một dạng năng lượng sinh mệnh, khi ở trong tình huống đặc thù nó mới rời khỏi nhục thể, và chính nó mới là động lực thực sự điều khiển nhục thể. Mà luồng năng lượng này có thể khiến các tổ chức tế bào đã chết sống lại! Đây là lĩnh vực mà khoa học hiện đại vẫn chưa chính thức tiếp xúc đến, trong khi các nhà khoa học cổ đại Trung Quốc lại xem đó là một phần trong lý luận cơ bản của họ.
Hãy thử khai mở tư duy, để chúng ta suy ngẫm kỹ về bốn khái niệm: “sinh mệnh cấp cao (Thần)”, “thể năng lượng sinh mệnh (linh hồn)”, “khoa học hiện đại (khám phá những điều chưa biết)” và “dự ngôn”. Dường như “dự ngôn” chính là sự tổng hợp của ba khái niệm trước đó! Nếu thân thể của con người thực sự tồn tại một “thể năng lượng sinh mệnh” như vậy, thì theo logic khoa học, giả thiết rằng những hiện tượng sinh mệnh mà chúng ta thường nói tới , trong trạng thái khi thân thể và năng lượng thể kết hợp làm một, bao gồm tất cả những phát hiện và lý luận của y học hiện đại, thì cái gọi là “tử vong” chính là khi năng lượng thể vĩnh viễn rời khỏi nhục thể. Như vậy cái gọi là “trải nghiệm cận tử” lại cho thấy rằng năng lượng thể chỉ tạm thời rời khỏi nhục thể, chính là một dạng tồn tại sinh mệnh thuần túy dưới trạng thái năng lượng thể, là một dạng ánh sáng, trong không gian cao chiều hơn, nơi mà tốc độ, không gian và thời gian đều không còn là trạng thái trong không gian ba chiều thông thường của chúng ta. Phải chăng đó chính là một trạng thái sinh mệnh cao cấp hơn? Như thế, chẳng phải là cũng có khả năng tồn tại những sinh mệnh cao cấp hơn sao? Chủng năng lượng và năng lực ấy phải chăng là vượt xa trạng thái sinh mệnh này của nhân loại? Và nếu dùng từ “Thần” để hình dung hay đại diện cho sinh mệnh cao cấp ấy, thì không phải rất hợp lý sao? Các nhà dự ngôn trong quá khứ chẳng phải là họ có khả năng tiến nhập vào những trạng thái thời không khác thông qua những phương pháp đặc thù? Cái gọi là “dự ngôn” chẳng phải chính là việc quan sát và mô tả lại những cảnh tượng của tương lai mà được triển hiện khi họ tiến vào không gian cao chiều? Và hiện tượng dự ngôn đó, chẳng phải chính là lời chỉ dẫn để nhân loại suy ngẫm sâu sắc hơn về những điều chưa biết này hay sao?
Nếu như có thể biết trước được, vậy điều này phải chăng có nghĩa là, mọi thứ trong thời không này của nhân loại vốn đã được an bài ở kia một cách có trật tự từ trước rồi không? Tất cả chúng ta, bao gồm cả nhân loại quá khứ trong lịch sử, cũng đang tuân theo các quy luật một cách rất có trật tự, giống như đang diễn theo một kịch bản có sẵn trên sân khấu của lịch sử. Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ: Vậy thì cả cuộc đời của mỗi người, những phấn đấu cá nhân, chẳng phải cũng đều được sắp đặt sẵn rồi sao? Nếu đúng là như vậy, thì ý nghĩa và mục đích của sinh mệnh là gì? Trong các phần tiếp theo, chúng tôi sẽ giới thiệu một cách chi tiết về những lời dự ngôn khác nhau mà tổ tiên chúng ta đã để lại trong lịch sử, để quý độc giả vừa đọc vừa suy ngẫm.