Trang chủ Right arrow Tiên tri

Dự ngôn về ngày hôm nay (Phần 13): Mã tiền khóa - Khóa 1 đến Khóa 3

20-12-2025

[ChanhKien.org]

Chương 4: Mã Tiền Khóa

Trong chương đầu tiên, chúng tôi đã giới thiệu về Gia Cát Lượng và “Mã Tiền Khóa”. “Mã Tiền Khóa” là một tác phẩm ngắn gọn và xúc tích phi thường, chỉ có 14 khóa, mỗi khóa tiên đoán về một thời đại lịch sử, hơn nữa mỗi khóa lại tuân theo một trật tự sắp xếp. Sau khi mỗi một thời đại lịch sử trôi qua, người ta quay đầu nhìn lại sẽ nhận ra rằng những lời tiên đoán của Gia Cát Lượng chuẩn xác đến kinh ngạc, trong đó, 10 bài đầu tiên của “Mã Tiền Khóa” đã ứng nghiệm.

Khóa 1

“Vô lực hồi thiên
Cúc cung tận tụy
Âm cư dương phất
Bát thiên nữ quỷ”.

Khóa đầu tiên này là dự ngôn của Gia Cát Lượng về chính ông. Gia Cát Lượng sớm biết rằng vận mệnh của triều Hán đã hết, tất cả mọi nỗ lực đều là “vô lực hồi thiên” không thể cứu vãn, nhưng ông vẫn quyết tâm dùng hết sức mình để phò trợ nhà Thục Hán, không phụ cái tình ba lần ghé thăm và cái nghĩa gửi gắm con côi của Lưu Bị, từ đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Gia Cát Lượng đã tiến hành tổng cộng năm cuộc Bắc phạt Tào Ngụy vào các năm Tây lịch 227, 228, 229, 231 và 234, nhằm nỗ lực khôi phục Trung Nguyên, tái hưng giang sơn Đại Hán. Kết quả là trong cuộc Bắc phạt thứ năm, Gia Cát Lượng qua đời vì bệnh tại gò Ngũ Trượng, bờ Nam sông Vị Thủy, thuộc tỉnh Thiểm Tây, đúng như ông đã viết trong tác phẩm “Xuất Sư Biểu” rằng vì muốn tái hưng nhà Hán mà ông đã hao tận tâm lực “cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”.

Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, hoạn quan Hoàng Hạo nắm quyền lực lớn bên cạnh hậu chủ Lưu Thiện, khiến việc nước ngày càng rối loạn, kẻ tiểu nhân lộng quyền, đó chính là “Âm cư dương phất”, đại tướng Khương Duy cũng chỉ có thể duy trì thế tàn cuộc mà thôi.

Vào năm 263, đại tướng Chung Hội của Tào Ngụy phát động cuộc tấn công lớn vào phương Nam, Khương Duy cố thủ tại Kiếm Môn Quan (phía Bắc Kiếm Các, Tứ Xuyên), chiến sự giằng co. Một đại tướng khác của Tào Ngụy là Đặng Ngải lại từ Âm Bình (huyện Văn, tỉnh Cam Túc) tiến quân tấn công thẳng vào trọng trấn Giang Du (tỉnh Tứ Xuyên), tiến vào đồng bằng Thành Đô. Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin quân địch đã gần Thành Đô, hoàn toàn không nghĩ đến việc kháng cự, cũng chẳng màng tới đại quân của Khương Duy vẫn còn trấn thủ vững chắc ở phía trước, ngay lập tức đầu hàng Tào Ngụy, nhà Thục Hán từ đó chính thức kết thúc. “Bát thiên nữ quỷ” (八千女鬼) hợp lại, chính là một chữ “Ngụy” (魏).

Khóa 2

“Hỏa thượng hữu hỏa
Quang chúc Trung thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông hữu hổ”.

Khóa này tiên đoán về triều đại nhà Tấn. Gia tộc Tư Mã nắm quyền lớn trong triều Tào Ngụy, tể tướng Tư Mã Chiêu đã trở thành người cai trị thực sự. Vào năm 265, tể tướng Tư Mã Chiêu qua đời, con trai của ông là Tư Mã Viêm lập tức hạ lệnh cho Hoàng đế cuối cùng của Tào Ngụy là Ngụy Nguyên đế Tào Hoán nhường ngôi. Từ đó, Tư Mã Viêm thành lập triều Tấn, lấy Lạc Dương làm kinh đô. “Hỏa thượng hữu hỏa”, trên hỏa (火) lại có hỏa (火) chính là chữ “炎” (viêm), ám chỉ Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm.

Vào năm 280, quân đội triều Tấn đã công chiếm Kiến Nghiệp (kinh đô nhà Đông Ngô, nay là Nam Kinh, Giang Tô, vào cuối triều Tây Tấn đổi tên thành Kiến Khang), bắt được Tôn Hạo – vị Hoàng đế cuối cùng của Đông Ngô. Triều Tấn thống nhất thiên hạ, có thể nói là “Quang chúc Trung thổ”. Bởi vì triều Tấn của Tư Mã Viêm trên thực chất là do soán ngôi của nhà Tào Ngụy mà thành, nên mới gọi là “xưng danh bất chính”.

Năm 291, “loạn bát vương” bắt đầu (“loạn bát vương” là loạn do tám vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra), Trung Nguyên bị các dân tộc thiểu số chiếm đóng. Năm 317, thân vương Tư Mã Duệ, người đang trấn thủ thành Kiến Khang, tuyên bố kế vị và xưng đế, đồng thời xây dựng kinh đô tại Kiến Khang, sử gọi là nhà “Đông Tấn”. Kiến Khang thuộc Giang Đông, vì vậy mới viết là “Giang Đông hữu hổ”.

Khóa 3

“Nhiễu nhiễu Trung Nguyên
Sơn hà vô chủ
Nhị tam kỳ vị
Dương chung mã thủy”.

Khóa này tiên đoán về “loạn bát vương”, thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam – Bắc triều, thời gian kéo dài 289 năm (từ năm 291 đến năm 589).

Năm 290, Tư Mã Viêm qua đời, con trai của ông là Tư Mã Trung lên ngôi kế vị, xưng là Huệ Đế. Huệ Đế là một vị Hoàng đế rất nhu nhược và kém cỏi. Khi nghe các quan viên báo cáo về nạn mất mùa đói kém ở dân gian, có người vì không có cơm ăn mà chết đói, ông thậm chí còn thắc mắc: “Tại sao họ không ăn thịt?” Câu hỏi này cho thấy sự vô năng và vô tri của ông.

Huệ Đế kế vị đến năm thứ hai thì xảy ra “loạn bát vương”. Loạn bát vương là cuộc chiến giữa tám vị thân vương thuộc gia tộc Tư Mã, vì quyền lực và ngai vàng mà tàn sát lẫn nhau, khiến Trung Nguyên từ đó rơi vào hỗn loạn lớn. Khởi đầu từ năm 291, khi vị thân vương thứ nhất Tư Mã Lượng bị giết, đến năm 311, khi vị thân vương thứ tám Tư Mã Việt qua đời, chiến tranh kéo dài suốt 21 năm, kết thúc cục diện thống nhất mà triều đại nhà Tấn vừa mới kiến lập.

Năm 304, khi “loạn bát vương” đang ở giai đoạn cao trào thì thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc (còn gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa) cũng bắt đầu. “Hồ” là tên gọi mà người Hán cổ đại dùng để chỉ các dân tộc không thuộc người Hán, đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở phương Bắc. Ngũ Hồ, vào thời điểm đó, chỉ năm dân tộc: Hung Nô, Tiên Ti, Yết, Đê và Khương. Trong suốt thời kỳ Ngũ Hồ loạn Hoa, ngoại trừ Đông Tấn ra, còn có các chính quyền khác được liệt kê theo thứ tự thời gian thành lập như sau (thời gian diệt vong được ghi lại trong ngoặc): Năm 304, Lý Hùng, người tộc Đê, tại Thành Đô tuyên bố thành lập Thành Hán (diệt vong vào năm 347); cùng năm, một người Hung Nô là Lưu Uyên thành lập Hán Triệu, đóng đô tại Bình Dương (Lâm Phần, tỉnh Sơn Tây) (diệt vong vào năm 329).

Năm 319, Thạch Lặc, người tộc Yết, thành lập Hậu Triệu (diệt vong vào năm 351).

Năm 320, một người Hán là Trương Mậu xưng vương tại Lương Châu (Vũ Uy, tỉnh Cam Túc) và thành lập Tiền Lương (diệt vong vào năm 376).

Năm 337, Mộ Dung, người Tiên Ti, đã kiến lập Tiền Yên tại Cức Thành, Liêu Ninh (diệt vong vào năm 370).

Năm 350, Nhiễm Mẫn, người Hán, thành lập Nhiễm Ngụy (diệt vong vào năm 352).

Năm 351, Phù Kiên, người dân tộc Đê, thành lập Tiền Tần, đóng đô tại Trường An (diệt vong vào năm 394).

Năm 384, Mộ Dung Thùy, người Tiên Ti, thành lập Hậu Yên (diệt vong vào năm 407); một người Tiên Ti khác là Mộ Dung Hoằng thành lập Tây Yên (diệt vong vào năm 394). Diêu Trường, người tộc Khương, thành lập Hậu Tần (diệt vong vào năm 417).

Năm 385, Khất Phục Quốc Nhân, người tộc Tiên Ti, tại Dũng Sĩ Bảo (Du Trung, tỉnh Cam Túc) thành lập Tây Tần (diệt vong vào năm 400).

Năm 386, Lữ Quang người tộc Đê, thành lập Hậu Lương (diệt vong vào năm 403); cùng năm, Thác Bạt Khuê, người Tiên Ti, thành lập Bắc Ngụy, đóng đô tại Thịnh Lạc, Hòa Lâm Cách Nhĩ, Nội Mông (diệt vong vào năm 534).

Năm 397, tộc Tiên Ti thành lập Nam Lương (diệt vong vào năm 414); cùng năm, người Hung Nô thành lập Bắc Lương (diệt vong vào năm 439).

Năm 398, Mộ Dung Đức, người Tiên Ti, thành lập Nam Yên tại Hoạt Đài, tỉnh Hà Nam (diệt vong vào năm 410).

Năm 400, Tây Lương được thành lập (diệt vong vào năm 421), kinh đô đặt tại Đôn Hoàng (tỉnh Cam Túc).

Năm 405, binh biến nổ ra ở Ích Châu (Tứ Xuyên) thuộc Đông Tấn, Tiều Túng thành lập vương quốc Tây Thục (diệt vong vào năm 413).

Năm 407, Hách Liên Bột Bột, người Hung Nô, thành lập Hồ Hạ tại khu vực Sóc Phương, Hà Sáo (diệt vong vào năm 431); cùng năm, Cao Vân, người Cao Câu Ly, thành lập Bắc Yên (diệt vong vào năm 436).

Năm 409, Tây Tần phục quốc (diệt vong vào năm 431).

Về thời kỳ Nam – Bắc Triều, các triều đại được sắp xếp theo thứ tự từ Nam đến Bắc như sau:

Năm 420, đại tướng quân Đông Tấn phế truất Hoàng đế Tư Mã Đức Văn. Lưu Dụ lên làm Hoàng đế, sáng lập triều Lưu Tống. Năm 439, Bắc Ngụy thống nhất miền Bắc Trung Quốc, mở ra thời kỳ Nam – Bắc triều.

Tại miền Nam Trung Quốc, năm 479, Tiêu Đạo Thành soán ngôi nhà Lưu Tống, sáng lập triều Nam Tề. Năm 502, Tiêu Diễn ra lệnh cướp ngôi nhà Nam Tề, sáng lập Nam Lương. Năm 557, Trần Bá Tiên, đại tướng Nam Lương, cướp ngôi và sáng lập triều Nam Trần.

Tại miền Bắc Trung Quốc, Bắc Ngụy vào năm 534 chia thành hai triều là Đông Ngụy và Tây Ngụy. Năm 550, Đông Ngụy bị Cao Dương cướp ngôi, sáng lập triều Bắc Tề. Năm 557, Tây Ngụy bị Vũ Văn Giác cướp ngôi, sáng lập triều Bắc Chu. Năm 577, Bắc Tề bị Bắc Chu thôn tính. Năm 581, Bắc Chu bị quốc cữu Dương Kiên cướp ngôi, đổi tên thành triều Tùy. Năm 589, nhà Tùy diệt Nam Trần. Thời kỳ Nam – Bắc triều kết thúc.

Từ sự sắp xếp trên, có thể thấy rằng trong suốt 298 năm này, dù là thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc hay là Nam – Bắc triều, các triều đại và quốc gia đều có vận mệnh ngắn ngủi, dài thì vài chục năm, ngắn thì chỉ vài năm (“nhị tam kỳ vị”). Chỉ có Bắc Ngụy có vận nước lâu dài hơn, nhưng cũng chỉ kéo dài 148 năm, quả thật ứng nghiệm với câu:

“Nhiễu nhiễu Trung Nguyên
Sơn hà vô chủ
Nhị tam kỳ vị”.

Còn “mã thủy” là ám chỉ thiên hạ đại loạn bắt đầu từ triều đại nhà Tấn của gia tộc Tư Mã, còn “羊” (dương) trong “羊終” (dương chung) là đồng âm với chữ “楊” (dương), ám chỉ sự kết thúc của đại loạn dưới triều Tùy do Dương Kiên sáng lập.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/62622

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài