“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (4)
Tác giả: Lăng Ngộ
[ChanhKien.org]
(Mười sáu)
Thầy trò Đường Tăng ngồi trên chiếc thuyền pháp hồ lô, vượt qua dòng sông Lưu Sa rộng tám trăm dặm, tượng trưng cho dòng nước ác của thế gian. Trên thực tế, họ đã đạt đến cảnh giới siêu phàm thoát tục, thoát thai hoán cốt, tiến nhập vào con đường tu luyện xuất thế gian. Điều này được thể hiện cụ thể qua việc họ đã đến Ngũ Trang Quán trên núi Vạn Thọ Sơn. Đến được núi Vạn Thọ Sơn nghĩa là họ đã thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử của lục đạo, đạt được sự trường sinh. Còn Ngũ Trang Quán cũng chính là nhìn vào bên trong chính mình, quan sát ngũ tạng trong cơ thể. Nói về chủ nhân của Ngũ Trang Quán là Trấn Nguyên Tử, hay còn gọi là Chân Nguyên Tử. Trong quán của ông có một cây đại thụ kỳ dị, kết ra loại quả nhân sâm có hình dạng giống như đứa trẻ ba ngày tuổi, “Người hữu duyên chỉ cần ngửi một lần cũng có thể sống đến 360 năm, còn nếu ăn một quả thì sẽ sống thọ đến 47.000 năm. Chỉ là loại quả này lại kỵ ngũ hành”. Có thể nói, ăn được quả nhân sâm chứng tỏ người đó đã tu xuất ra nguyên anh trong cơ thể, cũng tức là thể kim cang bất hoại mà Phật gia giảng. Mà kỵ ngũ hành có nghĩa là nó không thể sang không gian này của chúng ta, nhưng nó xác thực tồn tại thực sự. Đạo gia giảng về tính mệnh song tu, có thể tu xuất ra nguyên anh. Tương tự, trong nhiều phương pháp tu luyện cao cấp của Phật gia, cũng nhấn mạnh cần phải có bản thể, tu xuất ra thể kim cang, tức là thân thể Phật. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Hòa Thượng, với vai trò là phó nguyên thần hộ pháp, họ đều hiểu được đạo lý này nên mỗi người đã lén ăn một quả nhân sâm để chứng minh điểm này. Mà Đường Tăng bởi vì vẫn là một người thai phàm mắt thịt, chính là chủ ý thức tu luyện. Có lẽ vì trong tiềm thức, ông giữ nguyên tắc “bất nhị pháp môn” nên không dám tùy tiện ăn quả nhân sâm. Hai đạo đồng cầm trong tay “kim kích tử” (gậy vàng) và “đan bàn” (đĩa đan), trên đĩa đặt quả nhân sâm, chẳng phải chính là thể hiện việc nguyên anh sinh ra từ đan điền trong cơ thể con người hay sao? Còn hai đạo đồng Thanh Phong và Minh Nguyệt cũng chính là sự thể hiện của một tấm lòng sáng tỏ khi đạt đến cảnh giới này. Tuy nhiên, vì cử chỉ không đúng đắn của huynh đệ Tôn Ngộ Không, đã chọc giận hai vị đạo đồng. Trong cơn phẫn nộ, Tôn Ngộ Không đã đánh đổ cây nhân sâm đại thụ, cắt đứt linh căn. Khi Trấn Nguyên Đại Tiên trở về, ông đã dùng roi trừng phạt bốn thầy trò Đường Tăng. Kỳ thực trong chuyện này cũng chứa đựng bài học về chữ nhẫn của người tu luyện. Ngay từ phần mở đầu hồi thứ 26 đã có bài thơ minh chứng điều này:
Sống ở đời phải giữ lòng nhẫn nại,
Tu dưỡng thân cần ghi nhớ cận kề.
Thường nói chữ “nhẫn” là sinh ý,
Nhưng cần ba lần suy nghĩ, tránh giận dữ.
Thượng sỹ không tranh từ cổ chí kim,
Thánh nhân ôm đức nối tiếp thời nay.
Mạnh mẽ lại gặp người mạnh mẽ hơn,
Cuối cùng cũng hóa hư không mà thôi.
Người tu luyện trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần phải làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”. Huống hồ, sai lầm lại xuất phát từ chính bản thân mình.
Kỳ thực việc Đường Tăng đến Ngũ Trang Quán và ăn quả nhân sâm chính là thể hiện của việc tu luyện đến cảnh giới cao tầng. Mà Tôn Hành Giả quật ngã cây nhân sâm, cắt đứt linh căn, kỳ thực cũng là cắt đứt cội rễ chân thật của bản thân mình. Muốn tu luyện lại từ đầu, cần phải tự kiểm điểm, tự sửa chữa và bù đắp lỗi lầm mới được. Vì vậy, anh ta đã đi khắp mười châu ba đảo để tìm Tam Lão, Cửu Lão, hy vọng có được phương thuốc diệu kỳ giúp cây nhân sâm cải tử hồi sinh. Tuy nhiên, những Tiên nhân này chỉ có khả năng xử lý những việc ở trong thế gian, còn chuyện vượt ngoài thế gian thì chỉ có bậc thượng sư là Quan Âm Bồ Tát mới có thể giải quyết. Đây thực chất lại là quá trình một lần nữa Tôn Ngộ Không hướng nội tìm, sửa đổi và làm lại sau khi học Pháp tốt, dựng lập lại chính tín, kiên định chính niệm. Cuối cùng, khi Đường Tăng hiểu rõ căn nguyên sự việc, ông đã vui vẻ ăn một quả nhân sâm. Đây cũng chính là sự chứng nghiệm sở đắc trong quá trình ngộ Đạo và đắc Đạo của bản thân ông.
(Mười bảy)
Khi thầy trò Đường Tăng đi đến Bạch Hổ Lĩnh, họ gặp phải một yêu tinh nữ, nó là một con cương thi tà ác mang linh khí, gọi là Bạch Cốt Phu nhân. Yêu nữ này ba lần hóa thành người, tìm cách lừa Đường Tăng để ăn thịt ông. Khi ấy Đường Tăng và Trư Bát Giới còn hồ đồ, may nhờ có đôi mắt hỏa nhãn kim tinh của Tôn Ngộ Không mà nhận ra quỷ kế của yêu tinh, trước sau dùng ba gậy mới đánh chết linh hồn của nó, khiến nó lập tức hóa thành một đống xương trắng. “Thi ma ba lần trêu chọc Đường Tam Tạng”, thực chất thi ma này chính là “tam độc” mà Phật giáo thường giảng: tham, sân, si. Thế gian có tam độc này sẽ không bao giờ có được ngày bình yên. Tâm tham dục khiến con người trụy lạc, liều lĩnh làm bậy. Tâm sân hận khiến con người chìm trong ngọn lửa oán hận, dễ dàng dấn thân vào nguy hiểm. Tâm si mê khiến tâm trí của con người vô minh, si tâm vọng tưởng, trở thành nguồn gốc của mọi khổ nạn. Đây cũng chính là điểm yếu chí mạng của Đường Tăng và Trư Bát Giới. Vì vậy, khi nghe theo lời xúi giục của Trư Bát Giới, Đường Tăng đã đuổi Tôn Ngộ Không về nhà cũ là Hoa Quả Sơn, từ đó Đường Tăng đánh mất đi bản tâm kiên định không mê, không còn giữ vững chính niệm, làm cho con đường tu hành càng thêm trắc trở.
Tôn Ngộ Không trở về Hoa Quả Sơn, nhưng trên núi giờ chỉ còn lại hơn một nghìn hai trăm con khỉ nhỏ sống sót. Điều này cũng chứng tỏ rằng, trên con đường tu luyện, anh ta đã trừ bỏ được rất nhiều chấp trước và phiền não. Nhưng sau khi Tôn Ngộ Không rời đi, Đường Tăng liền trở nên lục thần vô chủ, hồn không có chỗ tá túc, lâm vào nạn, cuối cùng đi lạc đến động Ba Nguyệt, Uyển Tử Sơn, nơi yêu quái Hoàng Bào cư ngụ, và không may bị trói chặt vào cột định hồn. Yêu quái Hoàng Bào vốn là nhị thập bát tú Khuê Mộc Lang hạ phàm, hắn đã bắt cóc Công chúa Bách Hoa Tu, tam công chúa của Quốc vương Bảo Tượng Quốc. Công chúa vốn là một ngọc nữ hầu hương trong điện Phi Hương trên thiên giới, nhưng vì có tư tình với Khuê Mộc Lang nên đã xuống hạ giới, cùng hắn kết thành vợ chồng suốt mười ba năm. Đây đúng là câu chuyện anh hùng yêu mỹ nhân, mỹ nhân mến anh hùng. Có thể nói, hồi này thực chất là một câu chuyện làm thế nào để vượt qua quan ải của “danh”. Như trong truyện có viết: “Một người vì danh tiếng, sao có thể bỏ qua? Một người vì sư phụ, tuyệt nhiên chẳng sợ hãi”. Danh tiếng, cũng chính là sự theo đuổi công danh. Ai cũng biết rằng, con người sống trên đời không ngoài danh, lợi, tình. Mà cái danh hão huyền lại thường đứng đầu, và “hoàng bào khoác thân” (chỉ việc đạt được danh vọng) là điều khó tránh khỏi, trong đó có cả thành phần tự tâng bốc bản thân. Đối với người tu luyện, nếu không ở trong Pháp mà tu sửa bản thân, thì rất dễ sinh tâm ma, tùy tâm nhi hóa, làm ra những việc bản thân không lường trước, bị hủy chỉ trong một sớm. Không chứng thực Pháp mà là chứng thực bản thân, dù vô tình hay hữu ý cũng sẽ mắc sai lầm. Đặc biệt, khi tu luyện một thời gian nhất định, bản thân đã có một số biến hóa rõ rệt trên thân thể, thiên mục và thần thông cũng được khai mở, thì càng phải cảnh giác, cẩn trọng trong từng hành động.
Bảo Tượng Quốc chính là danh từ đại biểu cho bảo tướng trang nghiêm. Khi thầy trò Đường Tăng tiến vào Bảo Tượng Quốc, điều đó thể hiện rằng, là người tu luyện, dù xét từ nội tâm hay bề ngoài, họ đều khác biệt so với người thường, phi phàm thoát tục. Điều này cho dù là bản thân hay người khác đều có thể nhìn thấy và cảm nhận được. Tuy nhiên, do thiền tâm và bản niệm của Đường Tăng bị mê lạc, bản tâm Tôn Ngộ Không rời khỏi vị trí, bản tính Sa Tăng bị yêu ma giam cầm, bản năng Trư Bát Giới trở nên buông thả, bản ý Bạch Long Mã thì có lòng nhưng sức không đủ, chỉ còn biết gắng gượng chịu đựng. Đúng như bài thơ đã viết:
“Ý mã tâm viên đều tán loạn,
Kim công mộc mẫu tận suy tàn.
Hoàng bà thương tổn chia ly hết,
Đạo nghĩa phai mờ làm sao thành!”
Đây chính là sự trói buộc của danh vọng, ngược lại bị ma lừa dối tâm. Khi đến Bảo Tượng Quốc, Hoàng Bào Quái thậm chí còn biến một Đường Tăng nghiêm trang thành một con hổ, bị hắn hóa thành yêu ma một hồi. Tâm tính xuất hiện vấn đề thì phải dùng tâm để trị. Khi Trư Bát Giới đến Hoa Quả Sơn cầu xin Tôn Ngộ Không cứu sư phụ, Ngộ Không nói: “Lão Tôn thân trở về Thủy Liêm Động, nhưng lòng vẫn hướng về người thỉnh kinh”, và thốt lên một câu danh ngôn: “Một ngày là thầy, cả đời là cha”. Khi Tôn Ngộ Không thu tâm, xuống biển gột sạch thân mình, trừ bỏ khí yêu tinh, điều đó chứng minh rằng nước là cội nguồn của Pháp, người tu luyện nhất định không được rời xa. Chỉ khi giữ vững từng tư từng niệm của bản thân, mới có thể một lòng hợp thể chiến thắng ma tâm, từ đó đắc được văn điệp thông quan, tiếp tục bước lên con đường chính đạo đi về Tây Thiên.
(Mười tám)
Bốn thầy trò Đường Tăng đi qua từng ngọn núi một, từng kiếp nạn một. Đôi khi, chỉ cần có ai đó nói rằng trong núi có yêu quái, Đường Tăng liền sợ hãi, tâm trí rối loạn, mất hết phương hướng. Những lúc như vậy, Tôn Ngộ Không luôn kịp thời an ủi: “Sư phụ đừng suy nghĩ lung tung, chỉ cần giữ vững định lực và tập trung tinh thần, tự nhiên sẽ không có chuyện gì xảy ra”. “Tâm không chướng ngại, tự khắc không sợ”, đúng vậy, nếu không có nhân tố gây sợ hãi, thì tâm sợ hãi đó tự nhiên cũng không tồn tại. Thế nhưng ngay sau đó, Đường Tăng lại thở dài than rằng: “Bao giờ ta mới có thể được an nhàn?” Sau một thời gian tu luyện, khi đạt đến một cảnh giới nhất định, tâm cầu an dật, tâm cầu thanh tịnh này sẽ nổi lên. Tu luyện Phật Pháp đòi hỏi dũng mãnh tinh tấn. Một khi tâm này khởi lên, tất sẽ dẫn đến sự quấy nhiễu của tà ma. Quả nhiên, khi họ đi đến động Liên Hoa trên núi Bình Đỉnh, liền gặp phải hai tên ma đầu Kim Giác Đại Vương và Ngân Giác Đại Vương. Họ vốn là hai đồng tử trông coi lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, hai người họ ăn trộm năm món bảo bối của Lão Quân, hạ phàm với ý đồ luyện đan thành tiên. Thế nhưng, khi họ nghe nói: “Đường Tăng chính là Kim Thiền Trưởng lão giáng phàm, là người đã tu luyện qua mười kiếp, chưa từng thất thoát một chút nguyên dương. Ai ăn được thịt của ông ta sẽ được trường sinh bất lão”. Chúng liền tà ngộ, nhất thời sinh lòng độc ác. Người tu Đạo giảng cần phải thanh tĩnh vô vi, mà động của chúng có tên Liên Hoa, đúng với ý nghĩa này. Nhưng vì tâm niệm bất thuần, mục tiêu thấp kém, chỉ mong cầu trường sinh, nên chúng mới có duyên ở nơi gọi là Bình Đỉnh Sơn. Kỳ thực dù con đường tu luyện của Phật gia và Đạo gia có khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng đều giống nhau, đó là khai công khai ngộ, thành Phật thành Đạo, tu thành Giác Giả hoặc Chân Nhân. Do đó nói, tu luyện hai gia Phật và Đạo, đều có thầy dạy riêng, phương pháp và cơ chế riêng, căn bản không thể trộn lẫn mà tu. Một khi pha tạp, nhất định sẽ rối loạn, thậm chí ngay cả ý niệm của bản thân cũng phải chuyên nhất, giữ vững một pháp môn mà tu, đến khi khai công khai ngộ. Do đó nói rằng, thuật luyện đan của Kim Giác và Ngân Giác cần sự trợ giúp của năm món bảo bối, mà con đường tu luyện của Đường Tăng lại là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, tức là: “Ngộ tức sát-na thành chính quả”. Nếu nhìn từ góc độ tu luyện của thầy trò Đường Tăng, thì việc gặp phải hai tên yêu quái này chính là do tâm sợ hãi, tâm cầu an dật của Đường Tăng cùng với tính lười biếng, ham ăn, ham ngủ của Trư Bát Giới mà tạo thành. Nếu một người tu luyện chỉ mãn nguyện với sự an nhàn, cho rằng mình đã tu luyện khá tốt mà sinh tâm tự mãn, không thể vượt ra khỏi chính mình, thì họ sẽ mãi mắc kẹt ở tầng trời này. Đây chính là “Bình Đỉnh Sơn” (một đỉnh bằng phẳng), nghĩa là tu luyện sẽ mãi dừng lại ở đây không lên được. Nếu thế thì con đường thỉnh kinh đến Tây Thiên bao giờ mới hoàn thành được? Tu luyện chính là như vậy, không tiến ắt sẽ lùi, không có con đường trung gian. May mà bản tâm chân thật Tôn Ngộ Không nhìn được rõ ràng, không bị đánh lừa, bị mê hoặc. Chính nhờ sự dũng mãnh tinh tấn trên con đường tu luyện, “thì thì cần phất thức, mạc sứ hữu trần ai” (luôn luôn lau chùi, chớ để bụi bám), mà cuối cùng đã chiến thắng được hai ma chướng trên con đường tu luyện. Nói cho cùng, đây cũng là một kiếp nạn do Quan Âm Bồ Tát sắp đặt, nhằm khảo nghiệm xem thầy trò Đường Tăng có thật tâm hướng về Tây hay không. Tuy nói là sự an bài tinh tế của thượng sư, nhưng là một đệ tử tu luyện, nếu bản thân không có nạn này, thì sư phụ cũng sẽ không áp đặt lên. Gặp việc gì đều phải hướng nội tìm, tất cả đều có nguyên nhân. Từ chính lý mà giảng, sư đồ họ gặp phải cái “động Liên Hoa” này chính là thể hiện của đan điền trong thân thể họ, đến lúc này, trên đan điền đã sinh ra một đài sen, và nguyên anh trước đó đã hình thành, lúc này cũng đang ngồi trên tòa sen ấy rồi.
(Mười chín)
Khi thầy trò Đường Tăng đến chùa Bảo Lâm xin tá túc, các vị tăng quan trong chùa từ chối lời thỉnh cầu của Đường Tăng vì trước đó đã có một số tăng lữ vân du ở lại chùa và làm ra những hành vi xấu. Điều này cho thấy người tu luyện trong các vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống, chẳng hạn như vay tiền, mượn đồ, lưu trú, ăn uống và giao tiếp, … cần phải chú ý đến hình ảnh của bản thân và phải có hành vi chuẩn mực mới là đúng. Sau đó khi tạm trú trong chùa, Đường Tăng nhìn vầng trăng sáng trên không trung và ngâm một bài thơ cổ. Tôn Ngộ Không nhân đó giảng cho ông về đạo lý “ôn dưỡng nhị bát, cửu cửu thành công”. Sa Tăng cũng đọc một bài thơ:
“Nước lửa hòa hợp vốn có duyên,
Toàn nhờ Thổ Mẫu phối hợp nên.
Ba nhà hợp nhất không tranh chấp,
Nước ở Trường Giang, trăng trên trời”.
Trong ngũ hành, sự phối hợp của các hành chủ yếu dựa vào hành Thổ. Từ góc độ làm người xét về ngũ thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, thì Tín là gốc rễ. Nếu không có Tín, bốn đức tính còn lại cũng không tồn tại. Mà Tín thuộc hành Thổ, có thể nói ý niệm của con người vô cùng quan trọng, từng tư từng niệm đều phải quy chính.
Lại nói về quốc vương nước Ô Kê, ba năm trước, bị một Đạo sỹ Toàn Chân từ núi Chung Nam đẩy xuống giếng Lưu Ly Bát Giác, chết đuối. Tên Đạo sỹ Toàn Chân đó lắc thân biến thành quốc vương giả. Đến khi thời hạn ba năm đã hết, hồn quốc vương hiện về trong mộng của Đường Tăng, thỉnh cầu ông trừ yêu báo oán. Nhờ thái tử điều tra rõ ràng, hỏi cho ra lẽ, khiến chân tướng được phơi bày. Tôn Hành Giả và các huynh đệ đã có thể hợp tình hợp lý, nhanh chóng hàng phục yêu quái. Hóa ra, tên đạo sỹ giả mạo chính là con sư tử lông xanh thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát. Năm đó quốc vương từng xúc phạm Bồ Tát, nên Phật Như Lai giáng chỉ khiến ông chịu nghiệp báo này. Câu chuyện bề mặt có thể kể như vậy, nhưng nếu giải thích ở tầng sâu hơn, ý nghĩa biểu tượng rất rõ ràng và đồng thời cũng mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Đầu tiên, quốc vương gặp phải nạn này, đều là do ác niệm nhất thời của bản thân tạo thành. Mà trong mệnh có thể làm đế vương, đều là nhờ vào ân điển mà Thần Phật ban cho. Hành Giả nói “lập đế hóa” cũng là ý chỉ như vậy. Kỳ thực, nơi quốc vương gặp nạn là giếng Lưu Ly Bát Giác, “Bát Giác” có ý chỉ sự mưu mô tranh đấu của lòng người. Bán tín bán nghi, nghi tâm nặng chính là điều cấm đại kỵ của người tu luyện. Đặc biệt là trong tay quốc vương thật còn cầm bạch ngọc khuê, thể hiện rằng thân thể của ông đã được tịnh hóa giống như bạch ngọc, tức là Phật thể rồi. Lúc này người tu luyện cho dù là từ tâm thái, cảnh giới hay tư tưởng đều đã ở trong trạng thái ổn định rồi. Nếu không phải như vậy thì vị quốc vương thật này, cũng tức là chủ tể của bản thân, Pháp Vương của bản thân cũng sẽ chết rồi, bị quốc vương giả thay thế. Còn nữa, thái tử có thể xem như là nguyên anh tu xuất ra của người tu luyện, cũng tức là Phật thể. Nếu vậy lúc này anh ta vẫn còn ra ngoài săn bắn, ham muốn ăn uống chưa dứt bỏ, thì thử hỏi tâm từ bi tu xuất ra ở đâu rồi? Lại nói, nước Ô Kê – chữ “Ô” mang nghĩa là “đen”, trong khi đó, kim kê (gà vàng) báo sáng, chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng khắp thiên hạ. Điều này chứng minh rằng con đường tu luyện và đi Tây Thiên thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng đã bắt đầu thấy ánh sáng hy vọng. Khi loại bỏ được tên yêu quái đã giả mạo quốc vương, con gà đen sẽ được thay thế bằng con gà vàng. Kịp thời quét sạch những ma chướng trên con đường tu luyện, bản tính chân thật của bản thân sẽ càng thêm thanh tịnh và thuần khiết, trí huệ sáng suốt hơn, thần thông pháp lực cũng ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, khi Đường Tăng đặt chân lên Tây Ngưu Hạ Châu, đặc biệt là khi đến chùa Bảo Lâm, nhìn thấy những bức tượng Thần Phật và Bồ Tát được tạc rất lớn trong chùa, ông xúc động vô cùng, lòng thành kính tự nhiên trào dâng, liền cúi đầu lạy Phật, “gặp Phật lạy Phật, gặp tháp quét tháp”. Nhưng vấn đề cũng có thể nằm ở đây. Lại nói về ngày nay có bao nhiêu người thực sự chân thành bái Phật và mong cầu đắc chính quả? Anh bái, tôi bái, mọi người đều tới bái, rất dễ tạo ra những vị Phật giả, Bồ Tát giả. Đây đều là ác quả do tâm hữu cầu của con người tạo thành. Một khi người tu luyện cũng tới bái, thì tính nghiêm trọng của vấn đề sẽ khá lớn. Đây cũng là lý do tại sao Thanh Mao Sư lại có thể làm yêu quái. Chữ “sư” trong “sư tử” cũng có nghĩa là “thầy”, nhưng lại không phải con đường chính Đạo. Đồng thời, cũng vì thế mà yêu quái có thể biến ra một Đường Tăng giả, khiến thầy trò không nhận ra nhau, thật giả khó phân biệt, chính pháp và tà pháp lẫn lộn. Bởi vậy, không thể để giả ngã và giả tượng chi phối, mà phải để chân ngã làm chủ. Nói một cách nghiêm khắc, Đường Tăng là sư phụ nhưng cũng là một người tu luyện. Bản thân ông cũng phải chiểu theo tiêu chuẩn của Phật Pháp mới có thể từng bước từng bước mà tu lên, cho đến khi công thành viên mãn. Do đó nói, ai mới là Phật chân chính, sư phụ chân chính, đâu mới là chân Pháp, chính Pháp, điều này đã được nói rõ ràng trong bài thơ mở đầu hồi thứ ba mươi tám:
“Gặp ngài chỉ nói duyên thọ sinh,
Liền thành Như Lai tại hội người.
Một niệm tĩnh quan Phật cõi trần,
Mười phương đều thấy Thần giáng uy.
Muốn biết chân minh chủ hôm nay,
Hãy hỏi người mẹ ruột năm xưa.
Ngoài ra thế gian chưa từng thấy,
Mỗi bước đi nở một đóa hoa”.
“Phật cõi trần” chính là những người tu luyện trong thế gian. Nguồn gốc của bạn không phải là những thứ bạn thấy trên bề mặt, có lẽ chỉ thông qua chân tu mới có thể biết được nguyên lai và bối cảnh của bạn. Tóm lại, thật hay giả quan trọng ở ngộ. Nếu không ngộ, thì sẽ chẳng thể đắc được điều gì.
(Hai mươi)
Phàm là công pháp tính mệnh song tu, đều có thể tu luyện xuất ra nguyên anh. Nhưng nếu không giữ vững tâm tính, một niệm không chính, dù tu luyện trong chính Pháp cũng có thể lệch sang tà pháp. Thánh Anh Đại Vương Hồng Hài Nhi chính là thuộc về loại này. Ngoài ra, nếu chỉ chăm chăm làm việc thiện hữu vi, bị vướng mắc vào tình cảm con người, thì sẽ dễ rơi vào làm các việc không thể tự thoát ra, rơi vào bẫy của kẻ ác. Việc Đường Tăng không phân biệt thật giả, ra tay cứu giúp Hồng Hài Nhi chính là trường hợp như vậy. Nhưng tính chất của chúng lại là tương đồng, kỳ thực chính là lạc sang tà đạo. Bài thơ trong hồi thứ 40 đã nói rất rõ:
“Đạo đức cao thâm ma chướng cao,
Thiền cơ vốn tĩnh tĩnh sinh yêu.
Tâm ngay chính trực hành trung đạo,
Mộc mẫu si mê miệng ngoài miệng.
Ý mã không lời lòng ái dục,
Hoàng bà không nói tự âu sầu.
Khách tà đắc chí không hoan hỷ,
Rốt cuộc vẫn từ chính trừ tà”.
Chính bởi vì Đường Tăng dụng tâm không đúng, nên bản năng Trư Bát Giới cũng dễ thiếu sáng suốt mà phạm sai lầm, cũng bị Hồng Hài Nhi bắt đi. Hồng Hài Nhi cư ngụ tại Hào Sơn, trong động Thủy Vân dưới khe Khô Tùng. Vì nơi ở có hỏa khí vượng, lại tu luyện ra “Tam muội chân hỏa”, người phàm không thể đến gần, lại còn có ý đồ ăn thịt Đường Tăng để được trường sinh tự tại. Đây chính là kết quả của tâm tính bất chính, không tu luyện theo chính Đạo tạo thành, đồng thời cũng thể hiện phản ánh ngoại hóa của tâm ma trong Đường Tăng, nên mới gặp phải kiếp nạn này. “Tam muội chân hỏa” vốn là đại định tam muội, nhưng cách tu luyện ngày xưa thường chỉ tu luyện phó nguyên thần, phó ý thức của con người. Nếu chỉ ngồi thiền định công như vậy, có thể chân ngã thực sự vẫn chưa tu luyện, cũng tức là nói bản thân dễ bị mê hoặc bởi giả tượng mà làm điều xấu. Mỗi khi Hồng Hài Nhi xuất chiến, đều đẩy ra năm cỗ xe để biểu thị sự vận hành của ngũ hành. Điều này cho thấy cậu ta quá mức tin tưởng vào phương pháp tu luyện của bản thân mà không thể tự thoát ra, cuối cùng vẫn không vượt khỏi tu luyện thế gian Pháp. Sáu kiện tướng là: Vân Lý Vụ, Vụ Lý Vân (hai tên này có nghĩa là không lý trí), Cấp Như Hỏa (nghĩa là vội vàng hấp tấp), Khoái Như Phong (nghĩa là tính tình bột phát), Hưng Hồng Hiên, Hiên Hồng Hưng (nghĩa là tính nóng nảy) chính là sự thể hiện và tổng kết ngoại tại của loại tính cách này. Hơn nữa, Hồng Hài Nhi còn biến thành hình tượng của Quan Âm Bồ Tát để lừa Trư Bát Giới. Đây có thể nói là tội đại nghịch thiên, là sự báng bổ trực tiếp đối với Phật Pháp. Còn đóa sen mà Bồ Tát biến hóa ra cho cậu ta chỉ là một ảo tưởng, một cái bẫy hư huyễn. Nhưng với lòng đại từ đại bi, Bồ Tát đã thu phục Hồng Hài Nhi và đặt Kim Cô trên đầu, thể hiện thời thời quản thúc cậu ta. Như Lai đã ban cho Quan Âm Bồ Tát ba chiếc vòng: “Kim, Khẩn và Cấm”. Khẩn Cô Nhi được đội lên đầu Tôn Ngộ Không biểu thị thời thời quản chặt tâm; Cấm Cô được giao cho Hùng Sơn Quân – vị Thần giữ núi, để quản thúc tham vọng và ý chí hoang dã. Kỳ thực, ba chiếc vòng này có ý nghĩa vô cùng sâu xa trong việc hàng phục và loại bỏ tâm ma trong bản thân, đặc biệt là điều mà người tu luyện cần chú ý. Điều đáng lưu tâm là, Tôn Ngộ Không và cả Sa Tăng với bản tâm chân thật chưa từng bị mê hoặc, luôn giữ ý thức thanh tỉnh, thề quyết chiến với Hồng Hài Nhi đến cùng, suýt nữa còn mất mạng. May thay, Tôn Ngộ Không biết hướng nội tìm, tìm đến Quan Âm Bồ Tát, tức là quá trình tìm chân Pháp và học Pháp. Nhờ giữ vững tâm niệm thuần chính, một đường chính tín, mới có thể triệt để khắc phục tâm ma này, thực là không dễ dàng, thầy trò họ đã đi một chặng đường dài, không hề có ý thoái lui, dốc lòng dốc sức, con đường phía trước rộng mở. Nhưng con đường tu luyện họ đã đi qua, vẫn còn cách điểm đến mục tiêu cuối cùng là Linh Sơn rất xa.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56628
Ngày đăng: 15-03-2025
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.