Tác giả: Sở Nhược Vi
[ChanhKien.org]
Độc giả của danh tác “Tây Du Ký” đều vô cùng quen thuộc với nạn mà thầy trò Đường Tăng đã trải qua tại sông Thông Thiên: Thầy trò Đường Tăng “ngày đi đêm nghỉ, khát uống đói ăn, chẳng hay xuân hết hạ tàn, trời lại đến tiết thu”. Trăng đội trên đầu, sao khoác trên vai, ăn gió nằm sương đi đường gấp rút, không nghĩ sẽ bị sông Thông Thiên tám trăm dặm “ngàn lớp nước chảy xiết, vạn đợt sóng trào dâng” chặn ngang.
Trời đã về chiều, thầy trò Đường Tăng ngủ nhờ Trần gia trang, mới hay sông Thông Thiên có một Linh Cảm Đại Vương, tuy là “oai linh muôn dặm giúp lê dân, tháng tháng trên làng ban cam lộ, năm năm trong xóm hưởng cát tường”, nhưng lại yêu cầu các hộ dân trong làng mỗi năm phải dâng cống đồng nam đồng nữ, vì vậy mà Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới biến giả thành đồng nam đồng nữ, đánh cho Linh Cảm Đại Vương bỏ chạy. Linh Cảm Đại Vương đó vốn là con cá vàng được nuôi trong ao sen ở chỗ Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, “mỗi ngày ngóc đầu nghe kinh, tu thành bản lĩnh”. “Không rõ là ngày nào, thủy triều dâng cao, trốn đến nơi này”, đoạt lấy thủy phủ của lão rùa.
Nói tiếp về con cá vàng thành tinh đó, sau khi chạy thoát trở về, vì để bắt được Đường Tăng, ăn thịt Đường Tăng để được trường sinh bất tử, mà suốt đêm đó chân đạp trời rộng, thổi gió làm băng, dùng phép kết rét ngưng đông thành băng tuyết, “thổi một trận gió lạnh, mưa một đợt tuyết dày, sông Thông Thiên cả dòng đông kết”. “Chỉ thấy: Thời độ đang thu, cảnh như tháng Chạp. Tùng xanh kết ngọc nhụy, liễu rủ treo ngân hoa. Dưới thềm ngọc rêu chồng phấn vụn, trước song xanh trúc trổ mầm ngà”. Yêu quái đó đã “dẫn bọn yêu tinh rình dưới băng, chờ đợi đã lâu, vừa nghe được tiếng vó ngựa, hắn ngay dưới đó liền triển thần thông, ầm ầm xé tung băng đông”, bắt giữ Đường Tăng đang cố vượt sông Thông Thiên đã đóng băng mà tiếp tục lên đường.
Nói tới chỗ này không thể không hỏi: Yêu quái vẫn chưa bắt được, tại sao thầy trò Đường Tăng vẫn cứ ra đi? Yêu quái đó quay về lại đến ăn thịt đồng nam đồng nữ thì biết làm sao? Chẳng qua vì Đường Tăng trong lòng lo lắng, từ sau khi từ biệt vua Đường, “nay đã bảy tám năm, vẫn chưa thấy mặt Phật”. Vì thánh niệm đi lấy kinh này, mà ông thiếu mất đi cái niệm giải cứu mạng người Trần gia trang. Nói ra thì vẫn còn hữu lậu vậy. Con đường đi lấy kinh ấy vì sao không thể cưỡi mây đạp gió bay qua đó, mà phải từng bước từng bước vượt qua? Thực ra chính là cần từ trong ma nạn mà từng li từng tí tu xuất ra con đường ấy. Lấy kinh đâu phải đơn giản là loại nhiệm vụ vận chuyển của thế gian, nếu trong tu luyện không đạt được đề cao cảnh giới sau khi từng bước tu bỏ đi suy nghĩ người thường và các chấp trước, cũng chính là thuần tịnh và thuần chính tâm niệm, thế thì khó lòng vượt qua Bến Lăng Vân ngăn cách người tiên kẻ tục nơi Linh Sơn.
Sau khi Đường Tăng bị bắt xuống sông, bởi vì Tôn Ngộ Không không giỏi các công phu dưới nước, nên để cho Trư Bát Giới và Sa Tăng xuống nước khiêu chiến, dụ yêu quái ra khỏi nước. “Tôn Đại Thánh ở trên bờ sông phía đông, mắt đăm đăm nhìn thế nước dưới mặt sông, đột nhiên thấy sóng nước sôi sục, vang tiếng la hét kêu gào, Bát Giới nhảy lên bờ trước, nói: ‘Nó đến rồi! Nó đến rồi!’ Sa Tăng cũng lên bờ, nói: ‘Nó đến rồi! Nó đến rồi!’ Yêu quái đuổi theo sau, hét: ‘Chạy đâu cho thoát!’ Vừa ló đầu ra, bị Hành Giả quát: ‘Xem gậy đây!’ Yêu quái nghiêng mình tránh được, giơ chùy đồng đánh đỡ. Một đằng dưới sông nổi sóng, một đằng trên bờ ra oai. Đánh nhau chưa được ba hiệp, yêu quái đỡ không nổi, đánh ùm một cái, lại lặn xuống nước, theo đó gió yên sóng lặng”. Yêu quái biết được sự lợi hại của Tôn Ngộ Không, từ đó đóng chặt cửa nhà, không ra đánh nữa. Qua đây thấy rằng, lời mà Tôn Ngộ Không nói với yêu quái chính là một kiểu giải quyết vấn đề bằng cách dùng ngoại lực: “Xem gậy đây!” Nhất loạt đánh giết. Đây cũng là ở cảnh giới này thì phải làm như thế, trừ yêu là chính xác “tuyệt đối” mà, nhưng tại cảnh giới cao hơn thì cần xử lý thế nào?
Trong hồi 49 của Tây Du Ký “Chìm đáy sông Tam Tạng gặp tai, hiện giỏ cá Quan Âm cứu nạn” đã kể về quá trình Tôn Ngộ Không đến Nam Hải cầu Quan Âm Bồ Tát cứu trợ: “Đại Thánh vội vàng phóng ra ánh sáng lành, rời chỗ cửa sông, thẳng tới Nam Hải. Đâu đó mất nửa canh giờ, trên cao sớm thấy núi Lạc Già không còn xa, bèn hạ mây xuống, thẳng tới sườn núi Phổ Đà…… Hành Giả không kiên nhẫn chờ ở đó, nóng nảy phóng người chạy liền vào trong…… rảo bước vào rừng sâu, giương mắt trộm nhìn. Xa trông Cứu Khổ Tôn, lót tre thừa đả tọa. Không buồn đến điểm trang, dung nhan rất thanh tú. Buông thả vấn bối tơ, chưa hề đeo chuỗi ngọc. Chẳng mặc áo tơ lam, sát thân quàng áo ngắn. Quần gấm buộc qua lưng, một đôi chân để trần. Áo thêu vai chẳng khoác, hai cánh tay trắng ngần. Tay ngọc cầm dao sắt, đương róc tre tước cật”. Ngộ Không từ rừng quay trở ra, trong lòng nghi hoặc: “Hôm nay Bồ Tát lại sắp xếp việc trong nhà, sao mà không ngồi trên đài sen, không trang điểm, không vui vẻ, ở trong rừng tước cật tre để làm gì?” Đợi không bao lâu thì thấy Bồ Tát tay cầm cái giỏ đan bằng tre tím ra khỏi rừng, nói: “Ngộ Không, ta và ngươi đi cứu Đường Tăng”.
Tôn Ngộ Không theo sau, Quan Âm Bồ Tát phóng ra mây ngũ sắc trên không mà bay đi, chỉ chốc lát đã đến chỗ sông Thông Thiên. “Bồ Tát liền tháo một sợi dây tơ buộc áo, buộc chặt vào giỏ tre, cầm sợi dây tơ, ở lưng chừng mây, ném giỏ xuống sông, kéo hướng về đầu thượng lưu, miệng đọc bài tụng rằng: ‘Chết thì đi, sống thì ở, chết thì đi, sống thì ở!’ Niệm hết bảy lần, nhấc giỏ cá lên, chỉ thấy trong giỏ có một con cá vàng sáng rực rỡ, mắt còn chao vảy còn động”. Sau khi bắt được cá vàng tinh, “Bát Giới và Sa Tăng rẽ nước lấy đường, thẳng đến thủy phủ để tìm Sư phụ. Hóa ra thủy quái ngư tinh ở đó đều đã chết thối rữa hết cả”.
Vì để thu phục cá vàng tinh, Quan Âm Bồ Tát không màng trang điểm, dụng thần công đan một cái giỏ bằng tre tím, như vậy là vì sao? Quan Âm Bồ Tát không ngồi trên tòa sen với quý tướng trang nghiêm khiến Tôn Ngộ Không hoàn toàn không thể liễu giải. Tới đây nhớ lại trong văn hóa truyền thống có một câu chuyện như thế này: Tháo trâm đợi tội.
Theo “Liệt Nữ Truyện (quyển 2)” của Lưu Hướng thời Tây Hán có ghi lại: Hoàng hậu Tuyên Khương là con gái của Tề Hầu. Bà hiền tài đức hạnh, những lời không hợp với lễ nghĩa thì không nói, những việc không hợp với lễ nghĩa thì không làm. Tuyên Vương từng ngủ sớm dậy muộn, Khương hậu vì vậy mà không rời khỏi phòng. Khương hậu tháo trâm cài và khuyên tai xuống, đợi tội ở Vĩnh Hạng. Bà sai Phó mẫu đến nói với Chu Tuyên Vương rằng: “Thiếp bất tài, dâm tâm của thiếp đã rõ lắm thay, đến mức khiến cho quân vương mất hết lễ tiết mà muộn thượng triều, có thể thấy quân vương đã vui thú sắc đẹp mà quên lễ nghĩa rồi. Đàn ông nếu vui thú sắc đẹp, tất sẽ ham thích phung phí thỏa mãn dục vọng, loạn từ đó mà ra. Loạn nổi lên là bắt nguồn từ tiện thiếp. Xin hãy trách tội của tiện thiếp”. Chu Tuyên Vương nói: “Quả nhân thiếu đức, tự mình tạo ra, không phải tội của Hoàng hậu”. Từ đó ông nghe theo Khương hậu mà siêng năng việc triều chính, thượng triều sớm, bãi triều muộn, chăm lo bách tính, khiến đất nước hưng thịnh, vì vậy mà thành danh Tuyên Vương trung hưng.
Cũng như vậy, xét từ góc độ tu luyện, cá vàng thành tinh trốn khỏi ao sen chính là biểu hiện ra ngoài của chỗ hữu lậu trong tâm tính (tâm sinh tướng). Cá vàng tinh gây họa làm loạn nơi thế gian chín năm, không biết đã ăn thịt bao nhiêu đồng nam đồng nữ, ai hữu lậu đây? Thu phục cá vàng tinh chỉ là biểu hiện bề ngoài, còn từ phương diện tâm tính mà tu vượt lên được mới là điều quan trọng hơn cả, đó mới là thật sự đề cao, cũng là triệt để diệt trừ gốc rễ của cái biểu hiện ra ngoài kia. Cái tướng ấy xuất hiện chính vì để phản ánh chỗ hữu lậu nơi tâm tính vậy.
Ngoài ra, Quan Âm Bồ Tát còn tụng bảy lần: “Chết thì đi, sống thì ở!” Tất cả thủy quái ngư tinh đều chết hết; nhưng cá vàng bị bắt vào trong giỏ vẫn còn sống. Đó là vì con cá vàng này đã nghe kinh Phật, đã đắc được linh khí, sau khi bỏ đi phần yêu quái thì phần đã đắc Pháp sáng rực rỡ ấy được đưa trở về. Đây cũng là lý do vì sao mà Kim Cô Bổng của Tôn Ngộ Không không thể đánh chết nó. Giỏ tre tím là một pháp khí tạo ra hai không gian, phần có thể sống tiếp mới có thể vào trong giỏ. Tuyển chọn và phân biệt cái nào nên sống cái nào nên chết là dùng Pháp đo lường, chứ không phải từ góc độ của nguyện vọng cá nhân mà đánh chết hoặc làm thế nào đó.
Vào lúc cuối cùng trong thời mạt hậu của thời kỳ Chính Pháp vũ trụ, khi mà cổng trời rộng lớn từ ngàn xưa đã lần đầu tiên khai mở, chẳng phải cũng là như thế sao? Mọi lúc mọi nơi đều là khảo nghiệm tâm tính đối với người tu luyện, đồng thời tâm tính của người tu luyện lại cũng ảnh hưởng đến nắng mưa mây gió chốn nhân gian. Là người tu luyện thấu tỏ đạo lý, biết rằng trời đất là quán trọ, nên có thể thấu hiểu nỗi bi thương của cát bụi ngàn đời. Trong quá trình tu luyện từng bước đề cao tâm tính, khi quay đầu nhìn lại những hiu quạnh trước nay, thấy rằng chỉ là đang trên bước đường quay về, không có mưa gió mà cũng chẳng có tạnh trong vậy.