“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (2)



Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Sáu)

Tôn Ngộ Không lĩnh nhận chiếu chỉ chiêu an, được truyền lên Thiên giới, Ngọc Hoàng Đại Đế phong cho chức “Bật Mã Ôn”, trông coi nuôi dưỡng ngàn con thiên mã. Từ đó, Ngộ Không cũng được tính là có tên trong sổ Tiên, ở trong hàng ngũ quan lại. Từ một yêu tiên nơi hạ giới nhảy vọt trở thành nhân vật trên trời. Nhưng khi Tôn Ngô Không biết “Bật Mã Ôn” chỉ là một chức quan tép riu nhỏ bé thì liền nổi giận, đánh ra Nam Thiên Môn, trở về Hoa Quả Sơn. Từ đó, treo cờ tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh”. Kỳ thực, Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi sinh tử, ngộ được bản tính chân thật của tâm không, đạt đến trạng thái vô sinh vô diệt, có thể cùng trường tồn với đất trời, thọ ngang nhật nguyệt. Thường có câu rằng: “Tâm làm nguyên thủ, gan làm tướng quân”, lại thêm tâm đó cao hơn trời. Có thể nói Tôn Ngộ Không tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh” cũng không sai chút nào. Mà những kẻ kết giao huynh đệ với Tôn Ngộ Không cũng tự phong cho mình là Đại Thánh: Ngưu Ma Vương tự xưng “Bình Thiên Đại Thánh”, Giao Ma Vương tự xưng “Phúc Hải Đại Thánh”, Bằng Ma Vương tự xưng “Hỗn Thiên Đại Thánh”, Sư Đà Vương tự xưng “Di Sơn Đại Thánh”, Di Hầu Vương tự xưng “Thông Phong Đại Thánh”, Nhung Ma Vương tự xưng “Khu Thần Đại Thánh”. Tất cả đều là biểu hiện của tâm ma bên ngoài mà thành.

Hồi thứ bảy có một bài thơ: “Viên hầu đạo thể phối nhân tâm, Tâm tức viên hầu ý tứ thâm. Đại Thánh Tề Thiên phi giả luận, Quan phong Bật Mã thị tri âm. Mã viên hợp tác tâm hòa ý, Khẩn phọc lao thằng mạc ngoại tầm. Vạn tướng quy chân tùng nhất lý, Như Lai đồng khế trụ song lâm” (Tạm dịch: Khỉ đây đạo thể hợp tâm người, Tuy khỉ nhưng lòng nghĩ sâu xa. Đại Thánh dẹp trời đâu chuyện giả, Quan phong “Bật Mã” há vui sao? Tâm viên ý mã hai loài ấy, Trói chặt ngay vào chớ buông lơi. Muôn nẻo về nguồn theo một lý, Rừng sâu tu luyện học Như Lai). Xét về thiên mệnh của Tôn Ngộ Không mà nói, phong cho anh ta làm Bật Mã Ôn thực sự rất thích hợp. Chỉ có nhân tâm là khó hàng phục nhất, tâm viên ý mã mới dẫn đến “khi Thiên phạm thượng đòi địa vị, lừa Thánh trộm đan loạn thiên luân” mà bị trời phạt báo ứng. Về sau, Ngọc Hoàng Đại Đế lại phong anh ta làm “Tề Thiên Đại Thánh”, hơn nữa còn xây cho một phủ đệ mang tên Tề Thiên Đại Thánh Phủ, trong phủ đặt hai ti: một gọi là “An Tĩnh Ti”, một gọi là “Ninh Tĩnh Ti”. Chỉ cần anh ta tâm an, tính tĩnh, thì có thể toại nguyện, hiểu thấu thiên mệnh, mãi mãi ở Thiên giới. Nhưng cảnh đẹp chẳng được lâu dài, sự đời khó theo ý muốn. Tôn Ngộ Không kiêm quản trông coi Vườn Đào, lấy việc công làm việc tư để trộm đào, trộm thức ăn, trộm rượu, còn lẻn vào lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân ăn trộm tiên đan sau đó rời khỏi Thiên Cung, cuối cùng bị Nhị Lang Thần bắt giữ, áp giải lên đài trảm yêu. “Dao chém rìu bổ, lửa thiêu sét đánh, nhưng thân thể không hề mảy may thương tổn”. Rồi Ngộ Không lại bị nhốt vào lò Bát Quái của Lão Quân, luyện suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày, luyện thành một đôi mắt hỏa nhãn kim tinh, sau đó đá tung lò Bát Quái, một đường đại náo Thiên Cung, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai hàng phục, đè dưới Ngũ Hành Sơn, khát uống nước rỉ đồng, đói ăn viên sắt. Lần bị núi đè này kéo dài suốt năm trăm năm. Tuy nói Tôn Ngộ Không phạm vào tội cuồng vọng nghịch thiên, nhưng anh ta đã đạt đến cảnh giới “Hỗn Nguyên Thể hợp với tiên thiên”, lại tinh thông pháp thuật tránh “Tam Tai hại mệnh”, nhân tâm này đã là thể kim cương thuần dương, tính không linh quang thấu tận hư không. Vì thế, vào lửa không thể bị cháy, vào nước không thể bị nhấn chìm. “Ác nghiệp tràn đầy thân chịu khổ, Thiện căn chưa dứt, khí còn đây”. Vậy nên, số mệnh Tôn Ngộ Không chưa thể kết thúc. Sau này còn có một sứ mệnh lớn hơn và những ma nạn lớn hơn đang chờ đợi. Chỉ khi anh ta gặp được thánh tăng Huyền Trang, vị cao tăng nhà Đường đi Tây Thiên thỉnh kinh, mới có thể thoát khỏi sự trấn áp của Ngũ Hành Sơn và kết thúc năm trăm năm kiếp nạn.

Nếu nhìn từ góc độ sâu hơn về hành trình của Tôn Ngộ Không, từ lúc sinh ra, theo Bồ Đề Tổ Sư học Đạo, rồi lên trời, xuống đất, xuống biển, một đường đánh giết, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai trấn áp dưới Ngũ Hành Sơn, hình tượng này có nhiều cách giải thích theo nhiều góc độ: thiện và ác, tĩnh và động, nội và ngoại, hồng quan và vi quan, trừu tượng và cụ thể. Đầu tiên, về thiện và ác của anh ta, đúng như trong sách đã mô tả: khi tâm an, tính tĩnh, có thể ngộ Đạo, tham thiền tu luyện; Phật tính nhất xuất, chấn động thế giới mười phương, đoạn trừ ma chướng, quy về bản nguyên, phản bổn quy chân, không đánh mất bản tính tiên thiên. Nhưng do bị ô nhiễm bởi thói quen, môi trường, quan niệm hậu thiên cùng với việc kết giao với những kẻ trong ma đạo thú vật, dẫn đến tâm ma trỗi dậy, làm tiêu tan tinh thần, kiêu căng nóng nảy, lừa dối trời đất, đại nghịch bất đạo. Khi nội tâm bình lặng, thiên hạ cũng được thanh bình, an nhiên, hài hòa. Còn nếu như tham cầu ngoại vật, chỉ khiến tâm tình bất an, để lợi ích che mờ trí tuệ, ngoan cố cứng đầu, làm loạn tâm Pháp, quên hết thiên lý, rồi làm ra những hành vi bất chính. Đào sâu hơn, việc Tôn Ngộ Không xuống Đông Hải lấy Kim Cô Bổng, vào U Minh Giới xóa sổ sinh tử, rồi lên trời đại náo Thiên Cung, chính là quá trình thoát thai hoán cốt của tâm anh ta, một quá trình tôi luyện sống còn, đoạn tuyệt với phàm trần để siêu phàm nhập Thánh. Một âm một dương tạo thành Đạo, tuy rằng anh ta đã tu luyện thành Đạo trong Tam giới ngũ hành, đắc được tiên thể, có thể biến hóa thần thông, nhưng sự thăng hoa tâm tính và đề cao cảnh giới đều phải đồng thời đột phá lên theo mới được. Do đó nói lý của con người đối với Tôn Ngộ Không mà nói đã trở thành phản lý, chỉ có cắt bỏ đi mới là đúng đắn. Mà Phật Tổ Như Lai dùng năm ngón tay hóa thành Ngũ Hành Sơn để trấn áp anh ta, chính là sự thể hiện của loại công phu “Tam Muội Đại Định” (trạng thái thiền định sâu sắc). Khi đó, tâm linh của Tôn Ngộ Không được tịnh hóa hoàn toàn. Chỉ khi cái tâm này hướng Thần, kính Đạo, lễ Phật, nhất niệm quy chính, hoàn toàn không động tâm thì Đường Tăng Huyền Trang mới có thể đủ tín tâm, ý chí kiên cường và tín niệm không lay chuyển mà vượt qua ngàn dặm núi non hiểm trở, đối mặt với yêu ma quỷ quái, vượt qua chín chín tám mươi mốt quan nạn, đi Tây Thiên thỉnh kinh, viên mãn công thành, ngũ thánh thành chân.

(Bảy)

Từ đầu truyện đến đây, bản lĩnh thần thông bảy mươi hai phép biến hóa lên trời, xuống đất, xuống biển của Tôn Ngộ Không, nói thẳng ra chính là phương thức biểu đạt tư tưởng như ý của bản tính tiên thiên của anh ta, không bị trói buộc bởi âm dương bát quái, tam giới ngũ hành. Mà việc anh ta bị Phật Tổ Như Lai dùng năm ngón tay hóa thành Ngũ Hành Sơn chính là thể hiện của trạng thái nhập định sâu. Điều này nói nên rằng cái tâm của anh ta, nhân vật chính này đã bắt đầu bước vào trạng thái ổn định, đã chuẩn bị đầy đủ cho tu luyện sau này và hoàn thành sứ mệnh trọng đại. An bài bước tiếp theo chính là Phật Thích Ca Mâu Ni muốn truyền Phật Pháp sang Đông Thổ, nhưng: “Đáng tiếc thay, chúng sinh nơi đó ngu muội, phỉ báng lời chân thật, không hiểu yếu chỉ của Pháp môn ta”. Vậy nên, “cần phải tìm một người thiện tín ở Đông Thổ, để người đó trải qua nghìn vạn dặm núi sông gian khổ, đến nơi ta cầu chân kinh, vĩnh truyền Đông Thổ, hóa độ chúng sinh”. Đây cũng chính là nguồn gốc của kiếp nạn đầu tiên mà Kim Thiền Tử, vị đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni phải chịu khi bị đày xuống nhân gian. Khi Kim Thiền Trưởng Lão được xác lập là người đi lấy kinh Đường Tăng, khiến toàn bộ thân tâm của ông trở thành đại diện cho sự hợp nhất của thể sinh mệnh chính, đồng thời phó nguyên thần của ông cũng dần được xác định, chính là Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh và Bạch Long Mã. Trong hồi thứ tám, có bài thơ rằng: “Nhân tâm sinh nhất niệm, Thiên địa tận giai tri. Thiện ác nhược vô báo, Càn khôn tất hữu tư”. Điều này cho thấy rõ Tôn Ngộ Không, làm chủ tâm và làm chủ thần chí, đã hạ định quyết tâm đi trên con đường Phật pháp đại Đạo, tu thành chính quả. Ngộ Không là ngộ ra bản tính. Ngộ Năng là ngộ ra bản năng. Ngộ Tĩnh là ngộ ra bản tính. Sinh mệnh con người nằm ở tam bảo tinh – khí – thần, khi tính tĩnh, thân tâm sẽ cân bằng và hòa hợp. Quá trình ba người hòa hợp cũng chính là hành trình Đường Tam Tạng tự thân không ngừng học Pháp, ngộ Đạo, tu luyện, ma luyện và vượt quan, đề cao tâm tính. Còn Bạch Long Mã là cước lực đại diện cho khảo nghiệm ý chí kiên trì và phẩm chất của người tu luyện. Đường Huyền Trang là chủ nguyên thần, chủ ý thức, cũng chính là ý niệm. Sa Hòa Thượng, từng nuốt chín người đi lấy kinh tại Lưu Sa Hà, những hộp sọ của họ treo lủng lẳng dưới cổ anh ta, chờ đợi người đi lấy kinh. Ở đây cũng ngụ ý quá trình vũ trụ đại khung của chúng ta đã chín lần hủy diệt và trùng tổ. Mà bốn thầy trò họ quy y nhập sa môn cũng ngụ ý một đại sự sẽ phát sinh trong tương lai. Chữ “沙” (Sa) có thể chiết tự thành “三” (ba) và “少” (ít), mà tám trăm dặm Lưu Sa Hà, nhược thủy tam thiên chính là ẩn dụ tượng trưng cho thế giới nhân loại, đặc biệt là cõi Nam Thiệm Bộ Châu nơi chúng ta đang sống. “Tham dâm vui thú gây tai họa, giết chóc tranh giành, lời lẽ hiểm ác, chìm đắm trong biển tội nghiệp”. Con người đạo đức băng hoại, cam tâm sa đọa, nhìn một cái là biết. Do đó, chúng sinh nơi đó cần nhanh chóng khiến đạo đức thăng hoa, để tránh bị đào thải trong vận mệnh bi thương. Vì thế, Chủ Phật từ bi sẽ giáng thế trong thời kỳ mạt pháp, mạt kiếp để Chính Pháp độ nhân. Trước đây, mười phương thế giới cũng vì thiếu hụt “三” (ba) và “少” (ít) mà khiến sinh mệnh vũ trụ mất đi sự ước thúc của tâm Pháp. Do đó mới cần quảng truyền Đại Pháp, tam tự chân ngôn thâm sâu huyền diệu – Chân, Thiện, Nhẫn.

(Tám)

Long Vương sông Kinh Hà vì đố kỵ với khả năng bói toán chuẩn xác của Viên Thủ Thành, nên đã cố tình cắt giảm lượng mưa, phạm phải luật Trời, theo lý đáng bị xử tử. Tuy nhiên, Viên Thủ Thành đại phát từ bi, chỉ điểm Long Vương đến tìm Đường Thái Tông Lý Thế Dân cầu giúp đỡ, để tránh bị quan ở nhân gian là Ngụy Trưng chém đầu. Đường Vương trong giấc mộng đã đồng ý, nhưng đạo nhân gian và âm gian khác biệt, mạng của Long Vương vốn đã định sẵn một đao này. Cuối cùng, trời xui đất khiến, Long Vương sông Kinh Hà vẫn bị Ngụy Trưng chém đầu thị chúng tại Quả Long Đà. Do đó, Quỷ Vương sông Kinh Hà xuống Âm Ti, đến điện Diêm Vương kiện cáo Đường Vương đã hứa cứu nhưng lại để hắn bị giết hại. Điều này dẫn đến việc Đường Vương vào năm Trinh Quán thứ mười ba, hồn lìa xác, xuống cõi U Minh địa phủ một chuyến. Tại đây, ông tận mắt chứng kiến những vong hồn và cảnh tượng địa ngục thê lương, liền phát nguyện: “Sau khi trở lại dương gian, trong hai mươi năm sẽ lập đàn thủy lục pháp hội, siêu độ vong hồn và oan hồn”. Quả nhiên Đường Vương giữ đúng lời hứa, lập tức kính Trời lễ Phật, làm điều nhân đức, khiến thiên hạ thái bình thịnh thế. Theo ý chỉ của Quan Thế Âm Bồ Tát, Đường Vương lại phái Trần Huyền Trang đi Tây Thiên nơi Phật Như Lai cầu kinh Phật, để quảng truyền Đại Thừa Phật Pháp, phổ độ chúng sinh có thiện duyên.

Ở đây, tôi có những phân tích quan trọng dưới đây, trước tiên, sự kiện này xảy ra bắt nguồn bởi lòng đố kỵ của Long Vương sông Kinh Hà. Có thể thấy rằng, nếu không loại bỏ tâm đố kỵ, đối với một người mà nói thì đó là hại người hại mình, độc tính của nó vô cùng mạnh mẽ, gây hại sâu xa. Là một người tu luyện, điều quan trọng đầu tiên là phải loại bỏ tâm đố kỵ này. Ngoài ra, Thôi phán quan lại thêm cho Đường Vương hai mươi năm dương thọ, có thể nói là một lần minh chứng và bảo đảm cho việc dùng sinh mệnh được kéo dài sau này tận tâm tận lực vì Phật Pháp. Cho dù là người cứu độ hay chúng sinh được cứu độ, hễ những ai tiến vào trong Tam giới và Trái Đất, hết thảy sinh mệnh đều là vì Pháp mà đến. Có thể nói, sự quý giá của thời gian là vô cùng trọng yếu, đời người có được mấy lần hai mươi năm? Hơn nữa, thực chất Đường Vương chính là đại diện cho vị chủ thực sự của Phật Pháp. Đây chính là một lần kiến chứng cho việc Chủ Phật trong thời kỳ cuối cùng sẽ truyền rộng Đại Pháp tại Đông Thổ Trung Nguyên và quay trở lại với chính mình. Mà Đường Tăng chính là kết quả của sự nỗ lực này. Cuối cùng, hãy nói về Đường Huyền Trang. Ông chính là đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni – Kim Thiền Tử, pháp hiệu Tiên Âm. Vì không nghe Pháp mà bị đày xuống trần gian, sau đó được Quan Âm Bồ Tát đưa đến đầu thai vào gia đình Trần Quang Nhụy. Vừa mới giáng thế đã mồ côi cha trong bụng mẹ, không còn cách nào nên bị mẹ là Ân thị thả trôi sông, may mắn được hòa thượng Pháp Minh của chùa Kim Sơn cứu giúp, đặt tên là Giang Lưu, nuôi nấng trưởng thành, báo thù rửa sạch mối huyết hận cho cha mẹ. Đây chính là khái lược bốn kiếp nạn đầu tiên trong tổng số chín chín tám mươi mốt kiếp nạn được đề cập trong tác phẩm. Hồi thứ mười hai có một bài thơ mô tả thân thế tao ngộ của Đường Huyền Trang, trong đó có câu: “Xuất thân mệnh phạm lạc giang tinh, thuận thủy tùy ba trục lãng ương” (Tạm dịch: Ra đời gặp nạn trôi sông, Sóng to gió cả thuận dòng trôi xuôi). Từ đó có thể thấy do “Lạc giang tinh” mà dẫn đến Pháp nạn. Đây tuy chỉ là một phần mở đầu, nhưng cũng là ám chỉ sự kéo dài và mượn cớ cho Pháp nạn ở phạm vi lớn hơn. Đường Tam Tạng, với tư cách là một hành giả đại đức, gánh vác sứ mệnh lịch sử và sự giao phó của Đường Vương – đi Tây Thiên thỉnh kinh mang Phật Pháp chân kinh về. Đối với sự hồng truyền Đại Pháp cuối cùng của nhân loại lần này, ông đã kiến lập nên công lao vĩ đại không thể xóa nhòa. Có thể nói rằng, toàn bộ lịch sử nhân loại sớm đã được Thần Phật an bài xong xuôi. Chủ Phật hạ thế Chính Pháp độ nhân, hàng vạn Thần Phật theo cùng hạ thế để chứng thực Pháp, tu luyện và cứu người, cũng đều được an bài tỉ mỉ hết từ những niên đại xa xưa. Đọc Tây Du Ký có thể cảm nhận sâu sắc được điều này. Bề ngoài có vẻ như ngẫu nhiên, nhưng thực chất bên trong lại là điều tất nhiên. Tất cả đều đang hướng về giai đoạn cao trào cuối cùng của vở kịch lớn của nhân loại, tức là lời tiên tri trong “Các Thế Kỷ” của Nostradamus từ năm trăm năm trước về sự kiện “Tháng bảy năm 1999, đại vương khủng bố từ trên trời giáng xuống”.

(Chín)

Trong hồi thứ mười ba, trước khi Đường Tam Tạng chính thức lên đường, tại chùa Pháp Vân, ông đã có một cuộc đối thoại với các tăng nhân như sau. Tam Tạng đáp: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt. Đệ tử từng phát hồng thệ đại nguyện trước Phật tại chùa Hóa Sinh, không phải do con không tận tâm này. Lần này lên đường, nhất định phải đến Tây Thiên, bái Phật cầu kinh, để khiến Pháp Luân hồi chuyển, mong cho cơ nghiệp Thánh chủ vĩnh cố”. Đây có thể xem là “thư nhãn” của bộ tiểu thuyết này, tức là điểm mấu chốt của toàn bộ tác phẩm. Nó trực tiếp tiết lộ và là ấn chứng rõ ràng ý đồ sáng tác của tác giả cũng như tầng ý nghĩa sâu xa hơn của câu chuyện. Đồng thời, từ đây cũng có thể thấy rằng hành trình thỉnh kinh, phương thức tu luyện này – cũng là hồng nguyện mà bản thân người đó phát ra. Mà quá trình thỉnh kinh, cũng là thực tiễn và kiến chứng đoái hiện lại lời hứa mà bản thân đã phát ra. Ngoài ra, Đường Huyền Trang cũng lập lời thề: “Trên đường đi, gặp chùa thì dâng hương, gặp Phật thì bái Phật, gặp tháp thì quét tháp”. Đây cũng là đức tin mà một người vừa mới bước trên con đường tu luyện tất phải có. Tín Sư tín Pháp, nội tâm của bản thân cần thời thời khắc khắc quét sạch, không ngừng hướng nội tìm, chỉ có như vậy mới có thể làm được dũng mãnh tinh tấn. Thời điểm mà Đường Tăng xuất hành là ngày 12 tháng 09 năm Trinh Quán thứ 13. Số “13” ở đây có thể xem là một con số luân hồi giáp tử, mang ý nghĩa bắt đầu một sự khởi đầu mới. Trong các chương hồi sau, con số này cũng xuất hiện với ý nghĩa tương tự.

Ban đầu, Đường Tam Tạng lên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh với hai tùy tùng và một con ngựa trắng. Ngay sau khi rời Trường An, họ gặp phải khổ nạn đầu tiên. Tại núi Song Xoa, bị một con hổ tinh bắt đi, hai tùy tùng bị hổ tinh, gấu tinh và ngưu tinh ăn thịt. Con ngựa trắng sau đó cũng bị Bạch Long Mã nuốt vào bụng. Phân tích từ góc độ tượng trưng, tu luyện là việc của bản thân cá nhân, không ai có thể thay thế được. Những người tùy tùng và con bạch mã này chính là thể hiện cho nhân tâm hướng ngoại cầu, tính yếu đuối của nhân tâm và sự thiếu kiên định trong ý chí sẽ hủy hoại ý chí của người tu luyện chỉ trong phút chốc. Vì vậy, việc bị yêu tà và Bạch Long Mã ăn thịt thực chất là một điều đáng mừng. Tu luyện chỉ có thể dựa vào chính mình, dựa vào chính niệm của bản thân và sự giác ngộ của bản tính, tín Sư tín Pháp mới là đảm bảo căn bản nhất để có thể vĩnh viễn bước đi trên con đường của Thần. Kiếp nạn đầu tiên của Đường Tăng xảy ra tại núi Song Xoa, nhìn từ góc độ tượng trưng, đây có thể nói là bắt đầu phân biệt giữa người và Thần khi mới tu luyện. Hổ tinh chính là Dần Tướng Quân, tượng trưng cho con người vẫn tồn tại tâm tranh đấu và tâm tham lam; gấu tinh là Hùng Sơn Quân, biểu hiện cho sự pha trộn giữa hùng tâm, dã tâm và tâm nhút nhát; còn ngưu tinh là Đặc Xử Sĩ, có thể xem là đại diện cho tính tự đại, cố chấp và sự khôn khéo trong cách đối nhân xử thế. Ba loại yêu ma này chính là thể hiện trực tiếp của nhân tâm, và đây cũng là những chấp trước mà người tu luyện cần phải loại bỏ ngay từ đầu. Cũng tức là có thể buông bỏ chấp trước thì chính là Thần, nếu không sẽ rất dễ quay trở lại trạng thái của người thường.

(Mười)

Khi Đường Tăng đi đến biên giới giữa Đại Đường và Thát Đát, ông đã cứu được Tôn Đại Thánh đang bị đè dưới Ngũ Hành Sơn suốt năm trăm năm mãn hạn, thu nhận anh ta làm đồ đệ. Mà khi Tôn Ngộ Không thoát ra khỏi Ngũ Hành Sơn, đất trời rung chuyển, núi non sụp đổ, cho thấy đan trong cơ thể anh ta đã chấn động mệnh môn, đạt đến trạng thái khai ngộ hoặc bán khai ngộ. Từ công năng biến hóa đã thăng hoa lên thần thông, tâm trí định lại và quy chính, từ đó bước lên con đường chân tu đại Đạo. Đây cũng chính là biểu tượng của việc thu nhận Ngộ Không tại Lưỡng Giới Sơn, một sự phân định giữa người và Thần. Mà Thát Đát, vùng đất giáp ranh với Đại Đường, cũng mang ý nghĩa của “thông tiêu đạt đán” (thâu đêm suốt sáng). Trong Âm Phù Kinh, Hoàng đế từng nói: “Tam phản trú dạ, dụng sư vạn bội” (Ba lần phản tỉnh ngày đêm, hiệu quả gấp vạn lần nghe thầy giảng), điều này thể hiện rằng Đường Tăng là chủ thể, chủ nguyên thần, còn Tôn Ngộ Không cũng là nhân vật trung tâm, phó nguyên thần, đồng thời sản sinh tiêu chí trình độ cùng tinh tấn. Chính bởi tâm chính của Tôn Ngộ Không, nên khi gặp sáu tên cướp Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bản Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) (Chú thích của người dịch: đoạn này phù hợp với quan điểm của Phật giáo về lục dục: Mắt muốn nhìn cái đẹp, tai muốn nghe điều hay, mũi muốn ngửi mùi thơm, lưỡi muốn nếm vị ngon, thân xác muốn hưởng thụ cảm giác sung sướng, ý nghĩ muốn chuyện vui thích), liền dùng một gậy đánh chết sáu tâm ma này. Kỳ thực đây cũng là “thân, khẩu, ý” mà Phật gia yêu cầu. Đồng thời phải làm được thị nhi bất kiến (nhìn mà như không thấy), thính nhi bất văn (nghe mà như chưa nghe),… thì mới có thể khiến lục căn của bản thân thanh tịnh, lục tặc không còn tung tích.

Đại Đạo chí giản chí dị, trực chỉ nhân tâm. Tu luyện chính là tu tâm, con người cần trừ bỏ hết thảy các tâm chấp trước mới có thể thành công viên mãn, đạt được kim thân chính quả. Ngay từ đầu, truyện đã nhấn mạnh miêu tả nhân vật trung tâm đại diện cho tâm Tôn Ngộ Không. Ý nghĩa là chỉ khi Đường Tăng ngộ được “bản tâm không” này thì mới có thể khiến tu luyện và thỉnh kinh gặt hái được thành công. Có thể thấy dụng tâm sâu xa của tác giả, hàm ý vô cùng thâm sâu. Vì vậy, khi quy y cửa Phật và chính thức bước lên con đường đại Đạo tu luyện, một người cần có tâm tính ổn định và đôi mắt trí huệ siêu phàm để có thể nhận thức được sự xâm nhập của ma từ sáu thức bên ngoài mà tiêu diệt thanh trừ chúng. Sau đó, đối với một Đường Tăng vẫn chưa thoát khỏi mắt thịt thai phàm mà nói, tư tưởng và cái lý của con người vẫn thi thoảng bộc phát, ảnh hưởng đến hành trình thỉnh kinh. Điều này đã bộc lộ rõ khi ông trách phạt Tôn Ngộ Không. Vì chuyện này mà Tôn Ngộ Không, vốn là “tâm viên ý mã”, cũng vì lòng bất bình trong tâm mà tức giận rời khỏi sự dạy bảo và ước thúc của sư phụ Đường Tăng. Sau khi rời khỏi Đường Tăng, anh ta lập tức tìm đến Đông Hải để ôn lại chuyện cũ với lão Long Vương. Nước ở biển lớn có thể xem là biểu tượng của nguồn gốc sinh mệnh. Chuyến đi này của Tôn Ngộ Không cho thấy thực ra anh ta xác thực vì việc này mà hướng nội tìm, con đường là đúng, chỉ là vẫn chưa đủ chín muồi. Mà những lời dạy bảo của lão Long Vương cũng chính là minh chứng cho sự khai ngộ và mở khóa trong tâm của anh ta. Quan Âm Bồ Tát, với tư cách là thượng sư, vì để giúp cho thầy trò họ có thể đồng tâm hiệp lực, bước đi thật tốt trên con đường tu luyện đầy gian nan, đã ban cho Đường Tăng chú khẩn cô và đặt vòng kim cô lên đầu hành giả Tôn Ngộ Không. Điều này cũng tạo nên đặc điểm bên ngoài của anh ta với tư cách là một người hành giả. Ý nghĩa là, khi làm điều xấu, làm điều không tốt, không nghe lời sư phụ dạy bảo hoặc không đạt tiêu chuẩn của người tu luyện, sẽ khiến anh ta bị đau đầu. Đây cũng là điều mà một người tu luyện thường xuyên gặp phải.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56626



Ngày đăng: 27-02-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.