“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (5)
Tác giả: Lăng Ngộ
[ChanhKien.org]
(Hai mươi mốt)
Yêu quái ở sông Hắc Thủy là một con tiểu đà long, cháu của Tây Hải Long Vương Ngao Thuận, đứng hàng thứ chín. Cha của nó chính là cựu Long Vương của sông Kinh Hà, từng bị Ngụy Trưng chém đầu và từng cầu cứu trong mộng nhưng không thành. Cũng vì nguyên do này, Ngao Thuận ban đầu có ý định để tiểu đà long tu chân dưỡng tính ở sông Hắc Thủy, chờ sau này thành danh sẽ có chỗ dùng. Nhưng do bản tính ương bướng không đổi, nó đã chiếm cứ phủ của Thần sông Hắc Thủy, lại còn bắt giữ Đường Tăng và Bát Giới, muốn ăn thịt Đường Tăng. Về sau, Tôn Ngộ Không tìm đến Tây Hải Long Vương, Long Vương phái thái tử đến hàng phục người em họ này, cũng coi như hành động vì đại nghĩa diệt thân, trừ hại cho dân. Nếu phân tích theo ý nghĩa tượng trưng, sông Hắc Thủy và đại dương Tây Hải đều là thể hiện của nguồn gốc sinh mệnh. Nhưng sông Hắc Thủy lại mang ý nghĩa bản chất con người đã bị biến dị từ căn bản, tâm đã bị biến thành hắc tâm. Yêu quái Hắc Hà vì mê mất bản tính, mới làm ra những việc can nhiễu tu luyện. May mắn thay, sinh mệnh của nó được Thái tử Tây Hải, người có cùng chung huyết thống thức tỉnh, nhờ đó mới thoát khỏi kiếp nạn này. Đồng thời, Đường Tăng và Bát Giới cũng nhờ vậy mà được giải thoát lần nữa, tâm tính trở nên thuần tịnh, nội tâm trong sáng, thân thể nhẹ tựa yến bay. Dưới sự trợ giúp của Thần sông Hắc Thủy, họ dễ dàng vượt qua con sông này như đi trên đất bằng, lại vượt thêm một cửa ải khó khăn nữa.
Khi thầy trò Đường Tăng đến bên ngoài thành Xa Trì Quốc, Tôn Ngộ Không nhìn thấy năm trăm hòa thượng đang đi trên một con đường hẹp giữa hai quan ải lớn, không ngừng vận chuyển những chiếc xe đầy đất đá và gỗ. Ngộ Không bèn đánh chết hai yêu đạo đi tuần tra, “Lão Tôn một mình kéo xe qua hai ải, vượt qua chỗ hẹp, rồi đập nát xe”, đồng thời phóng thích cho năm trăm hòa thượng kia. Đoạn mô tả này thực chất là một phép ẩn dụ cho quá trình “hà xa vận chuyển” trong tu luyện, tức là khai thông một mạch để dẫn dắt trăm mạch, khiến cơ thể đạt đến trạng thái không mạch không huyệt, thân thể đạt đến trạng thái tịnh bạch thể. Hồi này cũng ngụ ý rằng thầy trò Đường Tăng đã vượt qua cửa ải này, chuẩn bị bước vào giai đoạn tu luyện xuất thế gian pháp rồi, tức là tu luyện Phật thể. Lại nói về năm trăm hòa thượng, ban đầu vốn có hơn hai nghìn người. Nhưng vì không thể chịu đựng sự hành hạ nên sáu, bảy trăm người đã chết; bảy, tám trăm người khác tự sát, chỉ còn lại năm trăm người may mắn sống sót, được Thần hộ pháp bảo hộ, để họ chờ đợi Tôn Đại Thánh đến cứu giúp thoát khỏi bức hại khổ nạn. Điều này cũng chứng minh rằng, những người tu luyện chân chính, có căn cơ, sẽ luôn được Thần Phật bảo hộ.
Khi thầy trò Đường Tăng một lần nữa đến Xa Trì Quốc, họ vào yết kiến quốc vương, làm thủ tục thông văn điệp để được rời thành tiếp tục lên đường. Không ngờ, ba yêu quái Hổ Lực Đại Tiên, Lộc Lực Đại Tiên và Dương Lực Đại Tiên đã giả dạng Đạo sỹ, cố tình ép Tôn Ngộ Không phải tỉ thí với chúng. Trong đó có các cuộc đấu phép gồm cầu mưa, cầu Thần hiện trên mây, đoán vật sau vách, biến thành người sống, thậm chí có cả trò “chặt đầu xuống rồi gắn lại; mổ bụng moi tim vẫn lành lặn; ngâm mình trong chảo dầu mà như tắm rửa”. Chỉ là những tiểu năng tiểu thuật, bàng môn tà đạo. Tôn Đại Thánh ứng đối ung dung, thi triển thần thông như ý, vận dụng công năng, phá giải yêu thuật một cách dễ dàng. Mà việc ba huynh đệ Tôn Ngộ Không đến Tam Thanh Quán, xô đổ tượng, biến hóa trêu chọc ba tên yêu đạo. Ý nghĩa của việc này là để nói rõ rằng, nếu những tượng Thần Phật bị yêu tinh quỷ quái bất chính loạn bái, khiến tà ma phụ thể, thì linh quang không có, gây hại một phương, khiến độc khí lan tràn. Vì vậy, Tôn Ngộ Không mới khuyên bảo quốc vương: “Mong bệ hạ… cũng kính Tăng, cũng kính Đạo, cũng dưỡng dục nhân tài. Ta sẽ bảo hộ giang sơn bệ hạ mãi mãi trường tồn”. Đối với người tu luyện mà nói, bài thơ ở cuối hồi thứ 46 càng thể hiện rõ duyên cớ này:
“Thân người khó được, quả nhiên khó,
Không gặp chân truyền chớ luyện đan.
Uổng công dùng nước phép bùa chú,
Lại không thuốc thọ giữ thân an.
Chưa tỏ viên minh, sao đắc Đạo?
Dụng tâm vô ích, mệnh chẳng toàn.
Nếu sớm hiểu ra mà buông bỏ,
Chi bằng ẩn núi sống bình an”.
(Hai mươi hai)
Khi đến sông Thông Thiên và tới Trần Gia Trang, thầy trò Đường Tăng đã đi được năm vạn bốn ngàn dặm, trải qua bảy, tám năm, đúng nửa chặng đường thỉnh kinh. Nước sông Thông Thiên rộng lớn, “rộng tám trăm dặm, từ xưa rất ít người dám qua lại”. Một con cá vàng thành tinh làm yêu quái đã chiếm đoạt phủ đệ của lão bạch quy, tác oai tác quái tại nơi này. Nó còn lập miếu thờ “Linh Cảm Đại Vương” và bắt ép dân làng mỗi năm phải hiến tế đồng nam đồng nữ để nó ăn thịt. Hai anh em ông lão Trần Trừng và Trần Thanh, chủ nhà nơi thầy trò Đường Tăng tá túc, đúng năm nay phải dâng hai đứa con của mình để làm vật tế. Trong bộ truyện này, Đường Tăng gặp rất nhiều yêu tinh ma quái đa phần đều muốn ăn thịt ông, con cá vàng tinh này cũng không ngoại lệ. Khi nó chuẩn bị ăn thịt đồng nam đồng nữ do Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hóa thành, thì bị Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đánh cho phải quay trở về sông. Nó lại nghĩ ra một kế, bèn làm phép khiến sông Thông Thiên nổi gió lạnh, tuyết rơi dày, đóng thành băng, hòng khiến Đường Tăng nóng lòng qua sông mà đi lên mặt sông rơi vào bẫy. Hai ông lão họ Trần hết lời khuyên giữ ở lại, mượn cớ là thưởng thức cảnh vật tự nhiên yên tĩnh ở nơi đây, ngụ ý để nhắc nhở và điểm hóa thầy trò họ chớ lo lắng hấp tấp, không nên nóng vội. Nhưng Đường Tăng tâm tính cố chấp không nghe lời khuyên, khăng khăng tự mình vượt sông, kết quả mắc bẫy, bị cá vàng tinh bắt nhốt vào chiếc hộp đá, khiến sinh mệnh gần kề cái chết. Ngay khi nước sông Thông Thiên vừa đóng băng để người có thể đi qua, có thể thấy trên mặt băng có không ít người qua lại. Đường Tăng thắc mắc, liền hỏi, lão Trần đáp: “Bờ bên kia là Tây Lương Nữ Quốc. Những người qua lại này đều là thương nhân buôn bán. Hàng hóa ở bờ bên này chỉ đáng giá trăm đồng, nhưng sang bên kia lại có giá vạn đồng; bên kia giá trăm đồng, sang bên này lại đáng giá vạn đồng. Lợi nhuận quá lớn, nên họ bất chấp nguy hiểm mà liều mình vượt sông. Mỗi năm, có gia đình đi thuyền năm sáu người, thậm chí mười mấy người một thuyền mà qua sông. Nay thấy sông đóng băng, họ càng không ngại nguy hiểm mà đi bộ qua”. Đường Tăng thở dài: “Chuyện thế gian, duy có danh và lợi là quan trọng nhất. Họ vì lợi mà quên sống chết, còn ta vâng mệnh thiên tử lấy kinh để tận trung, cũng chỉ vì danh tiếng. Há chẳng khác họ là bao!” Danh và lợi mà con người thế gian chấp trước, là tử quan của người tu luyện, ai cũng phải vượt qua. Giống như trận bão tuyết giá rét mà Đường Tăng gặp phải lần này, cũng phải trải qua một khảo nghiệm nghiêm khắc. Nhưng không thể nóng vội, cần chậm mà chắc. Tâm tính thực sự có thể tĩnh xuống, trầm ổn, như tên của hai ông lão: Trừng Thanh (“澄 – trừng”: có nghĩa là trong, trong vắt; “清 – thanh” có nghĩa trong suốt, tĩnh lặng), tức là trạng thái tâm lý và cảnh giới chân thực mà người tu hành cần đạt đến. Kỳ thực, “Thông Thiên Hà” có nghĩa là con sông có thể thông lên trời, phản bổn quy chân, quay trở về tầng thứ tồn tại tiên thiên của mình. Điều này chứng tỏ công trụ mà thầy trò Đường Tăng tu luyện đã đột phá Tam Giới. Mà cây chùy đồng chín cánh trong tay cá vàng tinh thực chất là một đóa sen chưa nở, ngụ ý rằng họ đã đạt đến cảnh giới “tam hoa tụ đỉnh”, cảnh giới tu luyện có một bước nhảy vọt và đề cao về bản chất. Lần này, vẫn là Tôn Ngộ Không tìm đến Quan Âm Bồ Tát, dùng giỏ cá thu phục cá vàng tinh. Điều đó một lần nữa khẳng định: trên con đường tu luyện, tín Sư tín Pháp là điều vô cùng quan trọng.
(Hai mươi ba)
Sau khi vượt qua sông Thông Thiên, bốn thầy trò Đường Tăng đã đi được một nửa chặng đường sang Tây Thiên thỉnh kinh. Nhưng càng về sau, họ càng không thể lơ là, càng về cuối càng phải tinh tấn. Trước khi đi hóa duyên, Tôn Ngộ Không đã dùng gậy Như Ý vẽ một vòng tròn xung quanh Đường Tăng, Bạch Long Mã và hành lý, tạo thành một kết giới kiên cố như bức tường đồng, không cho yêu quái hay thú dữ xâm phạm. Tôn Ngộ Không còn dặn đi dặn lại Đường Tăng, thế nhưng, vì bị Trư Bát Giới xúi giục, Đường Tăng cuối cùng vẫn bước ra khỏi vòng bảo hộ, vô tình rơi vào bẫy của yêu quái. Ngay cả Sa Tăng cũng bị bắt cùng. Qua đây có thể thấy, thần thông như ý của Tôn Ngộ Không đã tiến bộ vượt bậc, vẽ một cái vòng ở đất, ngay cả trong tình huống anh ta không có ở đó, anh ta hoàn toàn có thể bảo vệ cả đoàn. Nhưng chính vì Trư Bát Giới làm liên lụy Đường Tăng, khiến ông bán tín bán nghi hoặc có sự nghi ngờ, nên đã khiến con đường tu luyện của họ trở nên khó khăn hơn. Hết thảy điều này đều là do tâm niệm bất hảo của bản thân tạo thành. Khi rời khỏi vòng bảo hộ của Tôn Ngộ Không, nhóm người Đường Tăng đến một tòa lầu do yêu quái biến hóa. Trư Bát Giới tiến vào trong lấy ra ba chiếc áo yếm gấm. Lúc này, đầu óc Đường Tăng lại rất thanh tỉnh, niệm rất chính, liền quát: “Không được! Không được! Luật dạy rằng: Dù lấy công khai hay lấy trộm, đều là trộm cắp”. Ông yêu cầu Trư Bát Giới không được tham những thứ nhỏ, phải lập tức trả lại cho người ta. Lúc này, dù biết việc mình làm là không đúng, nhưng tâm cố chấp nổi lên, Trư Bát Giới vẫn cưỡng từ đoạt lý, cãi rằng: “Mặc thử thôi mà, sưởi ấm cái lưng một chút. Chờ sư huynh về, ta sẽ cởi trả rồi đi tiếp”. Chính vì tham lam những thứ vặt mà sinh ra mê muội, nên Sa Tăng cũng loạn tính, cũng thử mặc một chiếc. Hành động này đã dẫn đến tai họa: yêu quái ở động Kim Đâu, Độc Giác Tỷ Đại Vương xuất hiện, bắt cả ba người đem đi.
Không còn cách nào khác, Tôn Ngộ Không đành phải giao đấu với yêu quái một trận nữa. Chỉ là chiếc vòng trắng sáng trong tay yêu tinh rất lợi hại, lần lượt thu lấy gậy Như Ý của Tôn Ngộ Không, sáu món binh khí của Na Tra Tam Thái Tử, một bộ pháp bảo của Hỏa Đức Tinh Quân, thậm chí ngay cả Kim Đan Sa của mười tám La Hán cũng bị thu mất. Nước lửa đều vô dụng, dù có cố gắng đến đâu cũng không thể hàng phục được yêu tinh này. Cuối cùng Tôn Ngộ Không không thể không lên Linh Sơn diện kiến Như Lai. Phật Như Lai liền chỉ ra rằng, yêu quái này thực chất chủ của nó là Thái Thượng Lão Quân. Do đồng tử trông coi lò luyện đan lén ăn trộm Kim Đan, suốt bảy ngày ngủ mê không tỉnh, khiến con thanh ngưu (trâu xanh) nhân cơ hội trốn xuống trần gian, lấy cắp Kim Cang Trác của Lão Quân mà tác oai tác quái. Câu chuyện này cũng nói rõ rằng từng ý từng niệm của người tu luyện đều phải quy chính mới được, đừng vì cái nhỏ mà mất cái lớn. Đây cũng là minh chứng một lần nữa cho thấy trên con đường tu luyện, không có việc gì là nhỏ.
(Hai mươi tư)
Sau khi thầy trò Đường Tăng vượt qua sông Tử Mẫu Hà, vì thấy khát, Đường Tăng và Trư Bát Giới hai người đã uống ngụm nước sông. Không ngờ, ngay sau đó, họ cảm thấy bụng đau dữ dội, rồi bụng to dần lên, hóa ra đã mang thai! Muốn phá bỏ thai này, họ phải uống nước suối ở động Phá Nhi. Tôn Ngộ Không tìm đến động Phá Nhi nhưng nơi đây đã bị đổi tên thành Tụ Tiên Am và đang bị một kẻ tự xưng là Như Ý Chân Tiên cai quản. Nếu không dâng lễ vật cho hắn thì hắn không cho lấy nước. Hóa ra, Như Ý Chân Tiên chính là huynh đệ của Ngưu Ma Vương, đồng thời cũng là thúc thúc của Hồng Hài Nhi. Hắn vẫn ôm hận trong lòng vì chuyện của Hồng Hài Nhi, nên không ưa gì Tôn Ngộ Không, khi Ngộ Không tới múc nước, hắn liền lao vào giao đấu. Tuy nói trái ý nhau, nhưng con yêu quái này cũng không phạm pháp, Tôn Ngộ Không dừng tay lại và tha cho hắn. Sa Tăng mang nước suối về cho Đường Tăng và Trư Bát Giới uống, hai người trở lại bình thường. Ở đây có thể thấy rằng, Như Ý Chân Tiên dù không phải chính Đạo nhưng nếu biết thời thế, không can nhiễu việc sang Tây Thiên thỉnh kinh, thì cũng có thể bảo toàn mạng sống. Ngoài ra, trong tu luyện Phật gia coi trọng thân, khẩu, ý, đặc biệt coi trọng tu khẩu. Điều này không chỉ bao gồm lời nói và hành xử, mà còn bao gồm cả việc dứt bỏ chấp trước vào ăn uống. Câu thơ: “Rửa sạch nghiệp miệng, thân trong sạch, Tiêu hóa phàm thai, thể tự nhiên” có thể nói là lời nhắc nhở đầy ý nghĩa.
Đường Tăng và các đồ đệ đến Tây Lương Nữ Quốc, toàn bộ người dân trong nước đều là phụ nữ. Vị nữ vương nhất quyết muốn kết hôn với ông. Lúc này Đường Tăng nói: “Làm sao ta có thể hủy hoại nguyên dương, làm bại hoại đức hạnh của Phật gia? Đánh mất tinh khí, thân người sa ngã làm hoại giáo”. Thêm vào đó, bốn thầy trò họ trong việc này cũng đồng lòng hợp sức, tương kế tựu kế, giả vờ thuận theo rồi khéo léo vượt qua cửa ải này. Khi cấp giấy thông quan văn điệp, nữ vương ghi cả tên Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh vào văn điệp. Điều này càng chứng minh rằng bốn người họ đã thực sự trở thành một thể thống nhất, cùng chung chí hướng, tâm kiên định không lay chuyển. Bữa tiệc cưới mà nữ vương tổ chức, nhìn bề ngoài là hôn lễ, nhưng thực ra chính là sự an bài của thiên ý để chúc mừng bốn thầy trò đã bước đến một cảnh giới tu luyện mới, thật đáng chúc mừng. Nếu xét riêng lẻ, Đường Tăng gặp phải hôn sự và chức vị đế vương, tức quyền lực tuyệt đối, quả là hai việc trong mơ mà người thường khó cầu. Nếu tâm tính không ổn, không giữ mình vững, học Pháp không sâu, thì rất có thể sẽ sa ngã, uổng phí công sức trước đây, đọa nhập lục đạo luân hồi, không biết đến bao giờ mới có thể giải thoát?
Ngay khi Tôn Ngộ Không dùng trí mưu thoát khỏi sự níu kéo của nữ vương, chỉ bất cẩn một chút, lại gặp phải con ma gió trăng. Nhân lúc bốn thầy trò không hề phòng bị, một nữ yêu tinh bất ngờ xuất hiện, hóa thành cơn gió lốc và cuốn Đường Tăng đi. Nữ yêu tinh này chính là bọ cạp tinh sống tại động Tì Bà, núi Độc Địch. Con yêu quái này vô cùng độc. Cái đuôi của nó có một cái móc, gọi là “Đảo Mã Độc”. Khi Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới giao đấu với nó, cả hai đều bị móc câu này ám toán, móc vào một cái, đau đớn vô cùng. Trước đây khi nghe Phật giảng kinh ở chùa Lôi Âm Tự, nó đã từng chích một cái vào tay Như Lai. Có thể thấy rằng, đây là việc trực tiếp phỉ báng, bôi nhọ và tổn hại Pháp Vương và Phật Pháp, tội ác không thể dung thứ. Sau khi trốn xuống hạ giới, nó lại dùng sắc dục tà dâm để quyến rũ Đường Tăng, hòng khiến ông phá thân, hao tổn nguyên dương, từ đó hủy diệt đại nghiệp tu luyện đi Tây Thiên thỉnh kinh. Nhưng bởi Đường Tăng trong khảo nghiệm này vẫn giữ vững ý chí kiên định, tâm tính thuần chính, thân trong sạch, không nhiễm bụi trần, do vậy lần này Quan Âm Bồ Tát chủ động làm phép biến hóa, chỉ đường cho Tôn Ngộ Không, mách rằng có thể mời Mão Nhật Tinh Quân đến trừ yêu tinh bọ cạp. Điều này một lần nữa chứng minh đạo lý trong tu luyện: chính niệm xuất ra, tà ác tự diệt.
(Hai mươi lăm)
Bốn thầy trò Đường Tăng tiếp tục cuộc hành trình, đi qua một vùng núi bằng phẳng. Lại gặp một nhóm thảo khấu chặn đường cướp bóc, ước chừng hơn ba mươi tên. Tôn Ngộ Không tức giận, trêu đùa bọn chúng một hồi rồi dùng thiết bảng đánh chết gần hết, chỉ có vài tên may mắn trốn thoát. Đường Tăng ghét Ngộ Không lạm sát vô cớ, niệm chân ngôn siết vòng kim cô, và đuổi Tôn Hành Giả đi. Cũng vì việc này khiến nội bộ bốn thầy trò trở nên rạn nứt, trong lòng không vừa ý nhau. Tôn Ngộ Không vì việc này cũng cảm thấy uất ức, ủy khuất, liền cưỡi Cân Đẩu Vân, bay thẳng đến chỗ Quan Âm Bồ Tát để khiếu nại và giãi bày kể khổ. Thực tế, đây cũng là quá trình anh ta học Pháp, tham thiền ngộ Đạo hướng nội tìm. Mà Quan Âm Bồ Tát nghe xong liền giảng Pháp lý cho Ngộ Không: “Đường Tam Tạng phụng chỉ đi Tây Thiên thỉnh kinh, là tăng nhân cả đời giữ tâm thiện lương, quyết không tùy tiện sát hại sinh mệnh. Như ngươi có nhiều phép thần thông, cần gì phải giết hết bọn thảo khấu? Thảo khấu tuy là kẻ xấu, nhưng rốt cuộc cũng mang thân người, không thể giết chết. Khác với yêu quái, quỷ mị, tà ma, nếu diệt trừ chúng thì là công đức của ngươi. Nhưng nếu giết người, lại chính là sự bất nhân của ngươi. Hơn nữa, bọn cướp thấy ngươi lợi hại mà bỏ chạy, cũng đã cứu được sư phụ ngươi rồi. Ta xét về lý lẽ, vẫn là ngươi không thiện vậy”. Là một người tu luyện khi đối mặt với ủy khuất cần phải làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, cần phải có tâm đại nhẫn. Nếu không, thì giống như trong truyện viết rằng: “Tâm còn hung hăng, đan khó luyện. Thần không định, lập Đạo khó thành”.
Sau khi Tôn Ngộ Không bị đuổi đi, Trư Bát Giới và Sa Tăng lại đi hóa trai, lấy nước, để Đường Tăng lại một mình chịu đựng gian khổ, khô cổ khát nước. Lúc này, ông đã “tâm loạn thần mê, trăm bệnh phát tác, hình suy tinh kiệt, đạo tâm lung lay”. Đúng lúc hoảng hốt, một Tôn Ngộ Không giả xuất hiện bên thân, đánh ông bất tỉnh, cướp hành lý rồi đằng vân bay đi. Sự xuất hiện của Chân Giả Hầu Vương chứng tỏ thầy trò họ trên dưới bất hòa, sinh ra nhị tâm (hai lòng) mà dẫn đến; cũng là do chính Tôn Ngộ Không tự tâm sinh ma tạo thành, chẳng thể trách ai khác. Con khỉ giả ấy chính là Lục Nhĩ Mi Hầu. Để phân biệt thật giả, chính tà, hai Hầu Vương chạy khắp nơi, từ chỗ Quan Âm Bồ Tát lên thiên cung yết kiến Ngọc Đế, rồi trở lại chỗ Đường Tăng, lại xuống tận u minh địa ngục phủ, cuối cùng đánh nhau đến trước bảo tọa của Phật Thích Ca tại Lôi Âm Tự. Quả đúng là Phật Pháp vô biên, toàn tri toàn giác. Lục Nhĩ Mi Hầu tượng trưng cho hết thảy vọng tưởng, hư giả của sáu thức. Lục Nhĩ Mi Hầu bị Tôn Ngộ Không một gậy đánh chết, kết thúc nhị tâm. Trong sách còn viết, sau khi giả Hầu Vương cướp đi thông quan văn điệp, hắn trở về Hoa Quả Sơn, xuất hiện thêm một nhóm Đường Tăng và đồ đệ giả, cùng với Bạch Long Mã. Nó cũng lập chí lấy kinh thành công, tôn mình làm tổ, truyền danh muôn đời. Thế nhưng, một lời của Sa Tăng đã đánh trúng yếu điểm. Sa Tăng nói: “Sư huynh nói vậy chưa thỏa đáng. Từ trước đến nay chưa từng có chuyện Tôn Hành Giả đi lấy kinh. Đức Phật Như Lai lập ra Tam Tạng chân kinh, lệnh cho Quan Âm Bồ Tát sang Đông Thổ tìm người thỉnh kinh, để chúng ta phải khổ sở băng suối vượt núi, đi khắp các nước, bảo hộ người thỉnh kinh. Bồ Tát từng nói: Người thỉnh kinh chính là môn đồ của Như Lai, hiệu là Kim Thiền Trưởng lão. Chỉ vì ông ta không chuyên tâm nghe Phật tổ giảng kinh nên bị giáng xuống Linh Sơn, chuyển sinh Đông Thổ, để ông ta phải quay về Tây Phương đắc chính quả, tu luyện lại Đại Đạo. Trên đường đi, ắt sẽ gặp phải ma chướng, cũng là để giải thoát ba huynh đệ chúng ta, làm hộ pháp cho ngài. Nếu sư huynh không bảo hộ Đường Tăng thì thử hỏi Phật tổ nào chịu truyền kinh cho huynh? Chẳng phải chỉ là uổng phí công sức một phen hay sao?” Cái gọi là hai lòng hỗn loạn chính là trạng thái khi người tu hành hai chân bước lên hai chiếc thuyền tạo thành. Vừa nắm giữ phía Thần không buông, lại nắm giữ chấp trước của con người không xả. “Người có hai lòng sinh tai họa, Chân trời góc bể cũng nghi ngờ”. Nếu cứ tiếp tục như vậy, e rằng sẽ thực sự bỏ cuộc giữa chừng, đi được nửa đường lại dừng bước. Vì thế, cần phải tỉnh ngộ sớm, bất chợt bừng tỉnh, thêm vào gõ một chùy nặng, khiến cho tỉnh ngộ, tâm tư quy chính, quét sạch vọng niệm, đồng tâm hợp ý, nhất thể chân tu, mới có thể đạt được chân như.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56629
Ngày đăng: 19-03-2025
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.