“Tây Du Ký”: Tam thừa giải Pháp (1)



Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

Lời dẫn: Không quá lời khi nói rằng cuốn tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng “Tây du ký” là một bộ “Bách khoa toàn thư” liên quan đến tu luyện. Mà quá trình đọc tác phẩm này cũng chính là một quá trình vượt quan, trải qua gian hiểm của tâm linh, cũng là quá trình giác ngộ Đạo Pháp và chứng ngộ bản nguyên. Vì đây là cách giải thích theo Tam thừa (Tam thừa giải Pháp), nên tôi sẽ cố gắng lấy đại cục của Chính Pháp ngày nay làm tham chiếu, lại kết hợp với nghiên cứu tỉ mỉ để chắt lọc ra những tinh hoa của tác phẩm và phẩm chất giác ngộ quả vị Phật. Tuy nhiên, do thời gian viết gấp rút, khó tránh khỏi những thiếu sót và sơ suất. Mong mọi người rộng lượng bỏ qua và góp ý chỉnh sửa.

(Một)

Có người nói “Tây du ký” là tiểu thuyết thần thoại hay một tiểu thuyết hư cấu, kỳ thực xét từ góc độ văn bản, nghiêm khắc mà nói thì đây là một bộ tiểu thuyết mang hình thức và thể loại liên quan đến quá trình tu luyện. Tức là triển hiện và giải thích sống động về hành trình tu luyện của một người tu luyện. Vì là thể loại tiểu thuyết, lại là một tác phẩm đại chúng, nên nó phù hợp với mọi lứa tuổi, ai ai cũng biết đến. Tác phẩm này hội tụ cả thô tục lẫn tao nhã, thiện và ác, xuyên suốt từ tầng cao đến tầng thấp của vũ trụ.

Chữ “Tây” mang ý nghĩa là phương Tây, nơi Phật ngự, còn chữ “Du” có nghĩa là hành trình. Cuốn sách này tập trung vào việc vẽ nên một bức tranh rực rỡ về toàn bộ quá trình trải qua chín chín tám mươi mốt kiếp nạn. Vì thế, nó còn có tên gọi là “Tây du Thích ách truyện”. Đây cũng chính là con số đại viên mãn công thành – Cửu cửu quy chân. Một âm một dương hợp lại thành Đạo. Trong quá trình tu luyện đặc thù của thế giới nhị nguyên, việc rèn luyện trong không gian và thời gian đặc định mang ý nghĩa đặc thù và hàm chứa những chân lý chân thực không sai lệch. Đây cũng chính là lý do ngay ở chương đầu tiên của tác phẩm có câu thơ rằng: “Dục tri tạo hóa hội nguyên công” (Muốn biết được công đức to lớn của tạo hóa). Chữ “Ký” (記) được tổ hợp từ hai bộ “Ngôn” (言 – lời nói) và “Kỷ” (己 – bản thân), có thể hiểu là “nói rõ về câu chuyện của chính mình”, cũng là tổng kết hành trình từ chân ngã sa đọa thành giả ngã, rồi từ giả ngã phản hồi trở lại, tu xuất chân ngã. Trong tác phẩm “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận thời Đông Hán, chữ “Kỷ” (纪) được giải thích là “tách sợi tơ”, nên nghĩa gốc của “Kỷ” chính là đầu mối của sợi tơ. Chữ “Kỷ” (纪) thông với “Ký” (記), nghĩa là hé lộ manh mối của nguồn cội Phật Pháp. Nếu muốn đi sâu hơn vào việc lý giải, thì phàm là tác phẩm kinh điển bất hủ vĩ đại được lưu truyền đều là những tự truyện liên quan đến chính tác giả. Tôi cho rằng “Tây du ký” cũng không ngoại lệ. Trong u minh, tôi cho rằng tác giả cùng với nhân vật Đường Thái Tông Lý Thế Dân và Khấu Hồng lão viên ngoại trong truyện đều là một thể sinh mệnh huyễn hóa mà thành, tức là tác giả viết về những trải nghiệm tiền kiếp của chính mình và chuẩn bị nền tảng cuối cùng trải thảm cho đại sự mà mình sẽ thực hiện trong đời sau.

Về tam tạng của Phật Pháp, tam tạng mà Phật Thích Ca Mâu Ni nhắc đến trong truyện có sự khác biệt căn bản so với kinh, luật, luận được truyền bá trong thế gian. Tam tạng ở đây bao gồm: Tạng Pháp nói về trời. Tạng luận nói về đất. Tạng kinh để độ quỷ. Tổng cộng có 35 bộ, bao gồm 15.144 quyển. Về sự phân biệt giữa Phật Pháp Đại Thừa và Phật Pháp Tiểu Thừa, Phật Pháp Tiểu Thừa dùng để giải thoát tự thân, chứng đắc quả vị A La Hán, tức là tu hành viên mãn. Trong khi đó, Phật Pháp Đại Thừa lại được thiết lập để phổ độ chúng sinh. Lại bởi vì thời kỳ mạt pháp mạt kiếp, Đại Pháp sẽ được khai đàn ở Đông thổ Trung Nguyên, nên mới có sự tích Đường Thái Tông Lý Thế Dân phái Đường Tăng Huyền Trang sang Tây Thiên thỉnh kinh, rồi hồi truyền Phật Pháp về với chủ nhân của mình. Do vậy, cách giải thích tác phẩm này cũng được phân thành ba tầng cấp khác nhau, là cao, trung, thấp: Thượng thừa giải Pháp, như đã đề cập, chính là câu chuyện trả lại Phật Pháp trở về với chủ nhân thực sự của mình. Trung thừa giải Pháp, tức là phương pháp giải thích trong bài viết, đề cập đến tâm viên ý mã, âm dương ngũ hành. Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đại diện cho một hình tượng sinh mệnh hoàn chỉnh, trải qua quá trình tu luyện tâm tính trên con đường Đại Đạo. Gọi là chỉnh thể đề cao, chỉnh thể thăng hoa, cho đến khi toàn bộ hình tượng bản chất từ hồng quan đến vi quan của sinh mệnh tầng tầng viên mãn quy vị, đồng hóa với Đại Pháp. Hạ thừa giải Pháp: là cách hiểu phổ biến của giới học giả và độc giả người thường – tức là câu chuyện bốn thầy trò Đường Tăng vượt qua 81 kiếp nạn, chiến đấu với yêu ma quỷ quái trên đường đi Tây Thiên lấy kinh.

(Hai)

Bài thơ mở đầu ở hồi thứ nhất đã thực sự chỉ ra mục đích và ý nghĩa của tác phẩm này: “Hỗn độn vị khai thiên địa loạn”, từ câu này có thể thấy rằng, ngay cả trước khi nền văn minh nhân loại lần này xuất hiện, vũ trụ đã lâm vào cảnh mạt kiếp hỗn loạn. “Tự tòng Bàn Cổ phá hồng mông, Khai khởi tòng tư thanh trọc biện” (Từ khi Bàn Cổ khai phá hồng hoang, Khai thiên tịch địa, từ đó mới phân ra thanh trọc). Từ khi Tam Giới, Trái Đất và nhân loại hình thành cho đến nay, thực tế chỉ là sự tái hiện lại cảnh tượng đại loạn trên Thiên thượng đem xuống nhân gian, nhằm tiến hành chuẩn bị đầy đủ và cần thiết cho việc trùng tổ đại khung vũ trụ, cũng như việc Chính Pháp và chứng thực Pháp vào lúc cuối cùng. Phật Pháp, tức Đại Đạo, mang đặc tính “xung phá”. Mà quá trình ra đời của Thạch Hầu và sứ mệnh của anh ta chính là một quá trình tự mình hoàn thiện những thứ vốn có của tiên thiên, cũng như sự vận hành tự nhiên của cơ năng, cơ chế hoàn thiện bản thân. Như câu nói Phật Pháp vô biên, hết thảy đều có sẵn, không cần tìm cầu từ bên ngoài.

Lại nói về nguồn gốc của Thạch Hầu. Nơi Thạch Hầu sinh ra là Hoa Quả Sơn, thuộc nước Ngạo Lai, Đông Thắng Thần Châu. “Núi này chính là tổ mạch của mười châu, long mạch của ba đảo”. Trong đó, “mười châu” có thể hiểu là ẩn dụ cho “thế giới mười phương”, còn “ba đảo” tượng trưng cho “quá khứ, hiện tại, tương lai”, tất cả các sinh mệnh trong vũ trụ đều có nguồn gốc ngọn ngành như vậy. Mà chữ “Ngạo” trong “Ngạo Lai Quốc” chính là điểm yếu và tử huyệt chí mạng của tâm tính. Sau này, trong tác phẩm, dùng một chữ “Ngưu”, thành ma vương, tiêu diệt tà tính mà xuất hiện. Mà Hoa Quả Sơn vốn chính là: “Trụ trời nơi trăm sông hội tụ, gốc rễ của đại địa vạn kiếp không lay chuyển”. Từ đó nói lên rằng những điều trải qua ở Hoa Quả Sơn là không tầm thường: là nơi ẩn chứa quả vị tiên thiên, hạ phàm tái tạo cội nguồn. Sự ra đời của Thạch Hầu là kết quả của sự giao hòa giữa âm và dương của trời đất, được thai nghén từ sự vận động của vật chất trong vũ trụ, “tự nhiên có linh tính”. “Bái lạy bốn phương, đôi mắt phóng hai luồng kim quang, xông thẳng lên cung điện trời”, làm kinh động Ngọc Hoàng Đại Đế, điều này chứng tỏ Phật tính của Thạch Hầu chưa mất, lai lịch không tầm thường. Thế nhưng, theo thời gian, khi Thạch Hầu “ăn thức ăn, uống nước ở thế gian, kim quang dần dần lịm tắt”, là một thể sinh mệnh tự nhiên, ở trong Tam Giới, trong ngũ hành, dần dần bị tiêm nhiễm bởi thói quen và quan niệm của bản thân trói buộc. Những bản năng thần thông tiên thiên và phía mặt thuần chính sẽ dần dần tiêu mất, thậm chí bị tiêu hủy hoàn toàn. Trong tâm phải có Pháp mới có thể sống ở thế gian, mới có thể đứng ở vị trí bất bại, sinh mệnh đó mới có thể đạt đến sự vĩnh hằng. Cũng chính vì thế mới có sự nghiệp tu luyện bất biến này. Kỳ thực, bộ tiểu thuyết này cũng có thể được coi là một bảo điển về tu luyện tâm tính, một áng văn chương bất hủ trường tồn qua muôn đời. Trong tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Hoa, “Tây du ký” chiếm địa vị cao nhất, không gì có thể sánh bằng, sánh ngang nhật nguyệt, nội dung rõ ràng dễ hiểu, danh tiếng lưu truyền vạn cổ.

(Ba)

Trên Hoa Quả Sơn có một hang động gọi là Thủy Liêm Động. Kỳ thực là tượng trưng cho Đạo Pháp tạo tựu vạn sự vạn vật. Đó chính là nguồn nước của sự sống, nơi khởi nguồn của sinh mệnh. Tuy nhiên, để kết nối với thế giới bên ngoài, cần phải có một cây cầu bắc qua. Và đây cũng chính là nguyên tố cốt lõi mà Đạo Pháp dựa vào khi phổ độ vô lượng chúng sinh. Bờ bên này và bờ bên kia, nội tâm và bên ngoài, sự cân bằng, giao hòa và tương thông giữa trời đất âm dương, hình tượng cây cầu cầu vồng là điều không thể thiếu.

Ai vượt qua cây cầu này đầu tiên sẽ trở thành vua. Đây cũng chính là khởi điểm để Thạch Hầu lập thế và trở thành Mỹ Hầu Vương. Như câu thơ đã nói: “Lịch đại nhân nhân giai thuộc thử, Xưng Vương xưng Thánh nhậm tung hoành” (Tạm dịch: Từ xưa ai ai cũng như vậy, Xưng Vương xưng Thánh mặc sức tung hoành). Đó gọi là vật tụ theo loài, người phân theo nhóm. Mỹ Hầu Vương cũng có phạm vi địa bàn và thế lực của riêng mình. Tên Thạch Hầu có hai cách giải thích: một là nói “thạch” (石) nghĩa là “thực” (实) – rõ ràng là một con khỉ, tâm viên (viên là âm Hán Việt, chỉ con khỉ) khó giữ, suy nghĩ hỗn loạn, quay cuồng trời đất, nhân tâm vọng niệm trùng trùng. Hai là “Thạch Hầu” cũng có nghĩa là “thời hậu” (时候) – tức là hỏa hầu (火候), ý chỉ chờ đợi. Thạch Hầu ra đời cần phải chờ đợi cơ duyên chín muồi. Tuổi thọ năm trăm năm của Mỹ Hầu Vương là thuộc về thọ mệnh của một thiên nhân. Nhưng sau khi theo Bồ Đề Tổ Sư đắc Đạo thành Tiên, anh ta đã “ra ngoài Tam Giới, không trong ngũ hành” rồi, thoát khỏi lục đạo luân hồi, vượt qua cửa ải sinh tử. Từ đó, danh hiệu Tề Thiên Đại Thánh cũng ra đời.

Trước khi đến Tây Ngưu Hạ Châu để tìm Tiên Đạo, Hầu Vương đi qua Nam Thiệm Bộ Châu. Ở đó suốt tám, chín năm để “học cách ăn nói, học lễ nghi của con người”. Tuy nhiên, anh ta chẳng hề gặp được Đạo của Phật, Tiên, Thánh, hay phương pháp trường sinh bất lão, chỉ thấy: “Thế nhân đều là kẻ vì danh vì lợi, chẳng có ai thật sự vì sinh mệnh của chính mình”. Con người trên Trái Đất chúng ta ở Nam Thiệm Bộ Châu. Hầu Vương chủ về tâm, phương Nam thuộc Hỏa, đây là một vùng đất thị phi, danh lợi đua tranh, là quần thể người phức tạp nhất, là bãi rác nhất của vũ trụ. Vì vậy, những gì Hầu Vương trải qua ở đây cũng gieo xuống cho con người hạt giống cho sự rèn luyện tâm tính trong lửa đỏ, để tu luyện xuất ra cao nhân.

Khi Hầu Vương tìm đến “Linh Đài Phương Thốn Sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh Động”, cũng chính là nơi tu luyện tâm. Tâm nằm ở giữa phương thốn (lòng người), còn “Tà Nguyệt Tam Tinh” hợp lại thành chữ tâm “心” ( “Tà nguyệt” 斜月 có nghĩa là trăng khuyết, kết hợp với “tam tinh” 三 星 nghĩa là ba ngôi sao, vừa hay chính là chữ “tâm” 心 ). Bồ Đề Tổ Sư chính là tổ sư dạy về tâm. Khi Tổ Sư hỏi tên họ là gì, Hầu Vương đáp: “Con không có họ”. Tâm viên (khỉ) vốn vô tính, chẳng như nam nữ ở thế gian, cũng đã đoạn tuyệt rất nhiều phiền não, khi tu luyện cũng sẽ thuận lợi hơn chút. Nhưng tâm viên cũng có thể xem là thứ chung cho cả nam nữ, nên mới không có tính. Khi Tổ Sư lại hỏi, Hầu Vương lại đáp: “Con không cha mẹ”. Thế là Tổ Sư đặt một pháp danh cho anh ta: Tôn Ngộ Không. Chữ “Tôn” (孙): Xuất phát từ chữ “Hầu Tôn” (猢狲 – con khỉ). Nếu bỏ bộ “thú” (犭) thì còn lại chữ “Tôn” (孙), chính là tử hệ. Tử nghĩa là con trai, hệ nghĩa là trẻ con. Hoàn toàn phù hợp với luận về bản chất của trẻ sơ sinh. Ở đây có vài tầng ý nghĩa: thứ nhất, bỏ đi bộ thú trong chữ “狲” (hầu), tức là thể hiện sự tu chính bản tính. Hai là, trẻ con, phù hợp với cách nói về trẻ sơ sinh, là nói tu Đạo cần tu xuất nguyên anh. Đây chính là cách nói về bản tâm, bản tính, bản lai chân thật. “Ngộ” (悟): là một trong mười hai chữ pháp danh của Tổ Sư, phân theo phái mà đặt tên, đến lượt Hầu Vương đã là đệ tử đời thứ mười rồi. Mười hai chữ đó là: “Quảng Đại Trí Tuệ, Chân Như Tính Hải, Duệ Ngộ Viên Giác”. Đến lượt Hầu Vương, pháp danh tương ứng là Ngộ. Điều này cũng trùng khớp với vũ trụ đại khung lần thứ mười tái tổ hợp. Một người tu luyện muốn được độ để tiến nhập vào vũ trụ mới, nhất định phải đặt công phu vào một chữ “Ngộ”. Không ngộ thì sẽ không có gì, cũng sẽ không được tính. “Không” (空): ý là không vô, không có gì. Đạo gia giảng về chữ “Vô”, vạn sự đều không, tứ đại ngũ uẩn đều là không. Từ đây, Tôn Ngộ Không bước lên con đường tu luyện. Nhưng đây mới chỉ là bước đầu của tu luyện. Lúc này, anh ta chỉ có tâm mong cầu tìm ra phương pháp trường sinh bất lão, cầu giải thoát cho tiểu ngã tự thân. Về sau, khi đi theo Đường Tăng tu luyện Phật môn, mới là một bước nhảy vọt về bản chất, vì để đoái hiện hồng nguyện đại ngã phổ độ chúng sinh. Đại Đạo tức là chính Đạo, Đại Pháp tức là Chính Pháp.

(Bốn)

Tôn Ngộ Không ở lại Tam Tinh Động suốt bảy năm, gọi là thất nhật lai phục (bảy ngày chuyển hóa tuần hoàn). Trong thời gian đó, anh ta chỉ làm những công việc như đốn củi, gánh nước, nhóm lửa, quét dọn, nhằm rèn giũa tính tình. Đây cũng là bài học nhập môn mà các bậc xuất gia từ xưa đến nay đều phải trải qua. Sau đó, Bồ Đề Tổ Sư đặc biệt muốn truyền dạy cho anh ta công pháp Đạo gia. Nhưng khi nghe giảng về Đạo của chữ “Thuật”, chữ “Lưu”, chữ “Tĩnh” và chữ “Động”, Tôn Ngộ Không đều không chịu học. Anh ta chỉ muốn tu luyện công pháp trường sinh bất lão, thoát khỏi sinh tử luân hồi. Cuối cùng, Tổ Sư truyền cho anh ta bí quyết vĩnh viễn bảo tồn Thần thể, chính là giữ gìn “tinh”, “khí”, “thần” bên trong cơ thể, không để hao tổn, rò rỉ. Chỉ có như vậy mới có thể trồng kim liên trong lửa. Đây cũng là nền tảng vững chắc cho con đường tu luyện sau này và để đối mặt với những khảo nghiệm khắc nghiệt thực sự. Tiếp đó, Tổ Sư lần lượt dạy anh ta cách tránh “tam tai họa hại”, bảy mươi hai phép địa sát biến hóa, phép “cân đẩu vân” tung hoành mười vạn tám nghìn dặm, còn có “bốn vạn tám ngàn sợi lông trên thân đều có thể biến hóa tùy tâm”. Điều này cũng minh chứng rằng, chỉ cần chính niệm xuất ra, tu luyện Đại Đạo, ngay lập tức có thể giác ngộ, thấy rõ chân tính, phản bổn quy chân. Ngộ thiền, ngộ Đạo chỉ trong một khoảnh khắc “cân đẩu”, dễ dàng như trở bàn tay. Hai mươi năm thoáng chốc trôi qua như tên bay. Do Tôn Ngộ Không có tâm hiển thị quá mạnh, khoe khoang trước mặt mọi người, biểu diễn các thủ pháp biến hóa, Bồ Đề Tổ Sư, vì lo cho sự an toàn của đệ tử, đã trục xuất ra khỏi động phủ, bảo rằng anh ta từ nơi nào đến thì hãy quay về nơi đó. Kỳ thực, khi mới ngộ Đạo cũng chính là ngộ ra bản lai tiên thiên vốn có của mình, đồng thời có thể phản bổn quy chân, trở về tầng thứ tiên thiên vốn có. Lúc này, Bồ Đề Tổ Sư cũng đã biết rõ sau này anh ta nhất định sẽ sinh sự gây đại họa, nên dặn dò không được tiết lộ là đệ tử của ông, bán đứng sư phụ. Kỳ thực là một người tu luyện, đầu tiên cần làm được là kính Sư kính Pháp, không được vong ân phụ nghĩa. Nếu không, bán đứng sư phụ, cũng chính là bán đứng lương tâm lương tri của mình, ngay cả tư cách làm người cũng không xứng. Tôn Ngộ Không theo Bồ Đề Tổ Sư tu hành hơn hai mươi năm, tu thành Thái Ất Tản Tiên, đây mới chỉ là bước đầu của con đường tu luyện nhưng đã khai mở rất nhiều Thần thông và công năng rồi. Còn về phương diện tâm tính, ma luyện và vượt quan thì vẫn còn một chặng đường dài phía trước, viên mãn đắc Phật quả không thể một bước mà thành, cần phải tu luyện chuyên nhất bất nhị pháp môn, cần có chính niệm, dũng mãnh tinh tấn, giữ vững tâm tính và kiên định mới được.

Khi Tôn Ngộ Không trở về Hoa Quả Sơn, Thủy Liêm Động, trước mặt là hàng nghìn hàng vạn tiểu hầu nhảy ra chào đón. Anh ta lại khôi phục danh hiệu, địa vị và thân phận của Mỹ Hầu Vương. Kỳ thực, bốn vạn tám ngàn tiểu hầu này chính là bốn vạn tám nghìn phiền não và chấp trước mang theo trên thân. Mà việc đầu tiên anh ta phải gặp khi trở về chính là đánh bại và tiêu diệt Hỗn Thế Ma Vương “ở núi Khảm Nguyên trong Tam Giới, sống trong động Thủy Tạng ngũ hành”. Kỳ thực cũng chính là cần phải trừ bỏ Hỗn Thế Ma Vương của bản thân. Người tu luyện, dù là xuất gia hay tại gia, đều không được phá hoại hình thức của xã hội người thường mà phải sống phù hợp với xã hội người thường ở mức độ tối đa. Tuy nhiên, người tu luyện bước trên con đường của Thần lại có thái độ đối nhân xử thế khác biệt về bản chất so với người thường. Cũng chính là có biểu hiện của tâm hỗn thế hay không, nếu không thì rất dễ lẫn lộn không tự biết với người thường, không thể tự kéo lên được. Tôn Ngộ Không cuối cùng cũng đánh chết Hỗn Thế Ma Vương, một mồi lửa thiêu hủy động Thủy Tạng, cũng chính là sửa đổi tận gốc. Khiến tâm, thần của bản thân làm chủ, thông suốt một thể, trở về bản vị, hợp nhất với nguyên thần. Bát quái hậu thiên từ đó được xác lập, nhưng để đạt đến bát quái tiên thiên vẫn còn một khoảng cách, còn một chặng đường phải đi, và cũng cần đến kết quả của quá trình nỗ lực trong cuốn sách này.

(Năm)

Trên Hoa Quả Sơn, có bốn con khỉ già, trong đó hai con là xích khào mã hầu (khỉ đít đỏ), hai con là thông bối viên hầu (khỉ lưng thẳng). Liệu đây có thể tượng trưng cho bốn loại tâm tính khởi nguồn của con người, tương ứng với “tham, sân, si, mạn” mà Phật môn giảng dạy không? Dù chúng xuất hiện không nhiều và cũng ít lời, nhưng ẩn trong đó vẫn lộ ra tư tâm. Khi Mỹ Hầu Vương khải hoàn trở về quê hương, tiêu diệt Hỗn Thế Ma Vương, thì lúc này, anh ta mang trong mình hai loại tính cách đối lập: vừa có tính khỉ, vừa mang tính ma và Thần tính hòa trộn trong một thể. Điều này là vì anh ta chưa đắc được chính quả. Mà lúc này, khắp núi rừng, vô số động vật cùng bảy mươi hai yêu vương đều kéo đến bái kiến và tôn anh ta làm Vương. Đến đây, Mỹ Hầu Vương xưng bá thiên hạ, điều này đi ngược lại Thiên Đạo, thiên lý, đi sang nhân đạo và thú đạo. Anh ta chấp trước hướng ngoại tìm cầu, mà không hướng nội để thiền tâm ngộ Đạo. Điều này cũng cho thấy, tư tâm tạp niệm của con người hễ khởi lên, thì giống như cân đẩu vân, nhảy nhót không ngừng, không có lấy một ngày yên tĩnh.

Sau khi xuất gia tu hành, Tôn Ngộ Không đã đắc được thân thể bất sinh bất diệt, nước không thể nhấn chìm, lửa không thể thiêu rụi, đã đắc Đạo thành Tiên Thánh. Anh ta đi đến Thủy Tinh Cung của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng, lấy được Thiên Hà Định Để Thần Trân Thiết, gọi là Như Ý Kim Cô Bổng, nặng mười ba nghìn năm trăm cân, có thể tùy ý biến lớn thu nhỏ. Đây chính là Hải Để Thần Châm, một vật thuần dương, cũng là biểu tượng ngoại hóa của nội tâm Tôn Ngộ Không. Sau đó, anh ta còn tìm được Kim quan (mũ vàng), Kim giáp (giáp vàng), Vân lý (hài mây), toàn thân khôi giáp chỉnh tề, thực sự có thể xưng là thiên hạ đệ nhất Mỹ Hầu Vương rồi. Anh ta ngao du bốn bể, du ngoạn khắp núi sông, rồi kết giao với bảy huynh đệ, gồm Ngưu Ma Vương, Giao Ma Vương, Bằng Ma Vương, Sư Ma Vương, Di Hầu Vương, Nhung Ma Vương, cộng với anh ta Mỹ Hầu Vương là bảy người. Thực chất, bảy người huynh đệ này chính là biểu hiện tâm nhập thế của Tôn Ngộ Không.

Tuy nói Tôn Ngộ Không đã thành Tiên đắc Đạo, đã siêu xuất Tam Giới, không trong ngũ hành, nhưng hộ khẩu âm gian của anh ta vẫn còn ở địa ngục. Vì vậy, khi anh ta dương thọ 342 tuổi, hai quỷ Hắc Bạch Vô Thường đến bắt hồn, khi đến U Minh Giới, xông vào Diêm La Điện, náo động Thập Đại Diêm Vương, rồi trong sổ âm phủ, tìm đến quỷ hồn số 1350, và gạch bỏ tên họ của loài khỉ, không còn chịu sự quản lý của Diêm Vương. Mà trọng lượng của Như Ý Kim Cô Bổng vừa đúng gấp mười lần số thứ tự của “hồn”, liệu điều này có thể xem là ba hồn bảy phách, thân Thần hợp nhất? Hành động xuống biển lấy Kim Cô Bổng, xuống âm phủ gạch tên khỏi sổ sinh tử, cả hai đều là phạm tội ngỗ nghịch. Do đó, Ngọc Hoàng Đại Đế ra lệnh phái thiên binh thiên tướng đi truy bắt. Tây Phương Thái Bạch Kim Tinh tiến lên hiến kế: triệu Tôn Ngộ Không lên thiên giới, “Phong cho nó một chức quan nhỏ”, “Nếu chịu nhận mệnh trời, sau này có thể thăng thưởng; nếu không tuân mệnh, sẽ lập tức truy bắt!” Thái Bạch Kim Tinh chính là biểu tượng của ánh sáng, chỉ dẫn con đường lên trời, một ngọn đèn soi sáng trong tâm con người. Chính vì Tôn Ngộ Không nhận chiếu chỉ chiêu an, nên sau này mới dẫn đến việc đại náo thiên cung.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56625



Ngày đăng: 23-02-2025

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.