Tác giả: Quý Đại
[ChanhKien.org]
Hiện nay, với sự biến dị của khoa học kỹ thuật, đạo đức suy đồi, tự ngã bành trướng, phóng túng dục vọng cá nhân, lương tri mai một, cùng với tà thuyết vô thần của Trung Cộng đang hoành hành, tất cả điều đó đang nói với chúng ta rằng, giờ đây không còn là thời đại để chỉ lo tu thân giữ mình, chỉ nghĩ đến bản thân nữa; cũng đang cảnh tỉnh chúng ta rằng việc khôi phục lại những mỹ đức truyền thống tốt đẹp vốn có đã trở thành một vấn đề cấp bách không thể trì hoãn! Con người có được cứu độ hay không, có tương lai hay không, đã trở thành thời khắc then chốt đang cận kề trước mắt!
Thêm vào đó, trong thế kỷ qua, Trung Cộng đã phát động cuộc Cách mạng Văn hóa, giương cao ngọn cờ “đả đảo Khổng gia điếm”, coi nền văn hóa Thần truyền được an bài có trật tự bởi ông Trời từ xa xưa là lễ giáo giết người. Do đó, chúng cố tình hủy diệt, cố ý phá hoại, coi thường dụng tâm vất vả của Thượng Thiên. Cứ như vậy, những thế hệ kế tiếp bị nhồi nhét văn hóa đảng không những nhận giặc làm cha, mà còn hoàn toàn không biết, hoàn toàn không còn tuân theo những chuẩn mực đạo đức tối thiểu mà con người nên có; họ cho rằng thứ ngôn ngữ bạch thoại thấp kém dung tục thô lỗ, không hiểu thành ngữ, chẳng biết tu từ mới là công cụ biểu đạt tốt nhất. Thật là đáng buồn và đáng thương thay! Nếu có ai còn bàn luận đến sách của Khổng Mạnh thì bị cho là cổ hủ; ai còn nhắc đến những cuốn sách đóng bằng chỉ thời xưa thì bị xem là lỗi thời. Thế nào là tốt xấu, đâu là đúng sai? Đều không phân biệt rõ ràng, chỉ biết đến tiền bạc, vì tiền mà không chuyện ác nào không làm. Đạo đức bị đong đếm theo cân lạng; luân thường bị cân đo bằng tiền tài và quyền thế; thiện ác hữu báo vốn là thiên lý, nhưng ngày nay người ta có thấy thì mới chịu tin…
Dân tộc Trung Hoa từ xưa vốn là dân tộc kính Trời, yêu dân, văn hóa Trung Hoa vốn là nền văn hóa tôn kính Trời, yêu thương con người. Văn hóa Trung Hoa nguyên là nội thánh ngoại vương, lấy việc tôn kính Trời, kính Thần, yêu thương con người, coi trọng đức làm căn bản trong luân lý, đạo nghĩa, lương tri và hành vi thực tiễn. Thiên lý tồn tại trong nhân đạo, nhân đạo bắt nguồn từ thiên lý, Trời và người có thể hợp nhất! Nếu xa rời thiên lý, thiên mệnh, thiên tính, thiên đạo thì không còn được gọi là văn hóa Thần truyền của Trung Hoa nữa.
Sau khi Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn nho, trong những bức tường đổ nát của Khổng miếu, người ta phát hiện các bản viết bằng văn cổ triện của các sách như: “Kinh Thi”, “Thượng Thư”, “Kinh Dịch”, “Xuân Thu”, “Hiếu Kinh”, “Luận Ngữ”... Kỳ thực đó mới là bản gốc chân thực! Thượng Thiên từ bi đã sớm biết trước tai họa khủng khiếp do ngọn lửa của nhà Tần gây ra, nên đã dùng phương thức này để bảo tồn! Thế nhưng sau khi những văn bản ấy được khai quật lại, với trí huệ và tâm thái của nhân loại, trong trạng thái mê mờ nơi thế gian, căn bản không cách nào phân biệt thật giả, lại càng không thể tìm được đáp án. Vì thế mới tạo thành những nhận thức bất đồng, chỉ hươu nói ngựa, tự cho là đúng, phỏng đoán bừa bãi,… Kết quả là sau này, thời gian dài trôi qua, bản sách gốc thật lại bị vùi lấp, trong khi bản sách giả lại được tôn sùng như khuôn mẫu chuẩn mực.
Kỳ thực những điều này đều nằm trong lòng bàn tay của Thần, bởi vì con người thời đó chỉ có thể nhận thức được đến mức ấy thôi. Tuy chỉ có vậy, nhưng cũng đã là đủ rồi! Những bộ “kinh” ấy, khi được kết hợp lại, đã quy phạm đạo đức, tiêu chuẩn sinh hoạt cũng như khuôn thước cho lời nói hành vi của con người, tất cả đều được dung hợp, quán thông thành một thể thống nhất. Chúng bổ trợ lẫn nhau mà không đối lập; đúng mực khuôn thước mà không xung đột. Đã thành tựu mô hình xã hội loài người và quốc gia sơ khai do Thần hoạch định và thừa nhận; cũng đã tạo tựu thứ được gọi là “vạn vật chi linh” (chỉ con người là anh linh của vạn vật), thích hợp với cách thức sinh tồn trong Tam giới của vũ trụ.
Trí huệ vô lượng của văn hóa Thần truyền đã khiến những bậc tiên tri hiền triết như Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử,... lần lượt hạ thế, lấy thân người mà truyền dạy cho dân chúng. Dưới sự chỉ dẫn của Thượng Thiên, sự an bài của ông Trời cũng như biến hóa của thiên tượng, họ từng bước dẫn con người vào đúng quỹ đạo, bước từng bước lên tầng lầu. Từ hơn hai nghìn năm trước, họ đã dốc lòng khổ công, tận tình dạy bảo; trong đời sống thường nhật, họ đã âm thầm cảm hóa; khiến những hành vi thất đức quay trở lại với đạo lý Thiên đạo. Tất cả những điều này, đều là để chuẩn bị cho thời khắc cuối cùng của thời kỳ mạt Pháp này, để các đệ tử đắc Đại Pháp có thể giữ được đạo đức cao quý mà thuận lợi trở về; để những người dân lương thiện có thể thành tâm kính Thần, thoát ly tà đảng mà được từ bi cứu độ!
Học giả thời Hán là Trịnh Huyền nói: “Luận (論), cũng tức là luân (綸 - cai trị), là luân (輪 - bánh xe), là lý (理 - lý lẽ), là thứ (次 - thứ tự), là soạn (撰 - biên soạn). Dùng sách này có thể cai trị thiên hạ nên gọi là luân, tuần hoàn vô cùng nên gọi là luân, hàm chứa muôn vàn đạo lý nên gọi là lý, kết cấu chương hồi có trật tự nên gọi là thứ, được nhiều bậc thánh hiền góp sức tạo thành nên gọi là soạn”. Đây chính là lời giải thích về tên gọi của Luận Ngữ. Do đó, ngay cả phàm phu tục tử như chúng ta cũng có thể ngộ ra phần nào “thiên cơ” - đây là một bộ kinh do Thượng Thiên lưu lại cho nhân loại, dùng để trị lý thế gian, tuần hoàn vô cùng vô tận, ẩn chứa muôn vạn đạo lý, thiên chương có trật tự, là tác phẩm điển phạm do chư Thần cùng biên tạo! Vì thế, vào đời Tống, Triệu Phổ mới có câu nói hào hùng: “Dùng nửa bộ Luận Ngữ để trị thiên hạ”, trên thực tế không phải là lời nói khoa trương. Nếu có thể ghi nhớ tinh hoa của những kinh sách này trong lòng và thực hành bằng hành động, thì sẽ được lợi ích cả đời dùng không hết. Lúc nghèo khó thì đủ để tu thân giữ mình, lúc hiển đạt thì có thể giúp đời cứu người. Các nước phương Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc đều rất coi trọng giáo hóa từ Luận Ngữ. Thái tử Nhật Bản từ xưa đến nay bắt buộc phải học Luận Ngữ; Singapore cũng đề xướng việc đọc Luận Ngữ và tôn sùng Nho thuật. Huống chi người Trung Quốc chúng ta là con cháu Viêm Hoàng, lẽ nào lại có thể thờ ơ xem nhẹ?
Đại Học chi đạo, tại minh minh đức (Đạo của Đại Học là ở chỗ làm sáng tỏ đức sáng), mục đích cốt lõi là hoằng dương đạo đức chí thiện. Mà đạo đức chí thiện ấy, nằm ở thiên tính và lương tri. Xuất phát từ vũ trụ quan “Thiên nhân hợp nhất”, lý niệm làm người trong văn hóa Thần truyền đã sớm được thể hiện rõ ràng trong “Luận Ngữ”, “Đại Học”, “Trung Dung”: Phải bắt đầu từ việc hoàn thiện đạo đức cá nhân, mọi người thông qua việc tu thân, giữ vững thiện lương mới có thể hiển lộ bản tính và lương tri mà Trời ban cho, có thể đạt đến cảnh giới “Thiên Nhân hợp nhất”, có thể trực tiếp cảm ứng với Trời, Đạo, Thần, Phật.
Chương đầu của Trung Dung bắt đầu bằng câu: “Thiên mệnh chi vị tính” (Thiên mệnh tức là bản tính), Thiên đạo ẩn chứa trong nhân tính, thiên lý tồn tại trong nhân đạo, do đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc người quân tử phải giữ tâm và tu thân, người quân tử phải thận trọng ngay cả khi ở một mình, từ lời nói đến hành vi phải nhất quán, phải làm được trong ngoài như một, tuyệt đối không giả dối, làm bộ giả tạo. Bằng không thì chỉ là tự lừa mình dối người, bởi cái tâm này không thể che giấu, thiên lý, lương tri không thể bị đánh lừa! Nói đến tâm, “Thành giả thiên chi đạo; thành chi giả, nhân chi đạo” (Chân thành là đạo của Trời; làm được chân thành là đạo của người). Muốn lựa chọn và giữ vững điều thiện thì phải học rộng, xét kỹ, suy nghĩ thận trọng, phân biệt rõ ràng và thiết thực thi hành, những điều này đều là để tận sức làm tròn bổn phận, nhân đạo, là công phu để đạt được sự chân thành. Thế nên mới có câu “Thành giả, vật chi chung thủy, bất thành vô vật” (Chân thành là khởi đầu và kết thúc của vạn vật, không chân thành thì không có gì tồn tại).
Chính từ một niệm thành tâm ấy mà trên thì phù hợp với thiên lý, dưới thì hợp với nhân luân, cuối cùng quy kết về câu nói: “Chỉ có tấm lòng chân thành tuyệt đối trong thiên hạ mới có thể điều hành cai quản thiên hạ, thiết lập nền tảng lớn của thiên hạ, và hiểu được sự sinh hóa của trời đất”. Tức là đã hợp Thiên đạo và nhân đức làm một, trời người tương thông, hợp nhất rồi! Trong truyền thống văn hóa do Thần truyền lại, ý thức tinh thần ‘kiêm tế thiên hạ’ của Nho gia có ảnh hưởng sâu rộng, dẫn dắt con người lấy chuẩn mực đạo đức để đo lường hết thảy sự vật. Người ta coi việc truy cầu chân lý và đạo đức quan trọng hơn hết thảy, kiên định giữ vững nguyên tắc của mình trước sau như một, trong mọi hoàn cảnh đều không hề dao động. Giáo hóa con người hướng thiện, giữ tâm chân thành, tôn chỉ là chiểu theo quy luật vũ trụ mà làm để đạt tới sự hòa hợp giữa con người và vũ trụ. Với thái độ đúng đắn, phân biệt rõ đúng sai, thiện ác, chính tà.
“Luận Ngữ”, “Đại Học”, “Trung Dung” không chỉ là nền tảng nhập môn sơ cấp của Nho gia, mà còn là chuẩn tắc hành xử suốt đời của bậc quân tử, là nơi gửi gắm cốt lõi tôn chỉ trung tâm của Nho gia. Mà trong tứ thư, ba bộ này chỉ là một phần rất nhỏ trong “Thập nhị kinh” mà thôi, nhưng đã đủ để khiến người học nhận được lợi ích vô tận, không chỉ giúp tu thân dưỡng thiện, giúp đời cứu người, mà còn có thể trở thành Thánh nhân.
Chưa nói đến “Thập nhị kinh” này, vào trước thời Tống, số lượng chương hồi có sự sai lệch; văn tự cổ kim cùng tồn tại khiến cho có nhiều nghi hoặc; thật giả khó phân minh; còn có tranh cãi ai là tác giả. Nhưng dù là bản thật hay giả, nói chung, người thời đó chỉ có thể nhận thức đến mức độ đó, phẩm đức tu dưỡng cũng chỉ đề cao đến cảnh giới và tầng thứ như vậy mà thôi. Thật ra, trong mắt của Thần, tất cả đều nhằm cung cấp nền tảng văn hóa đạo đức cho tu luyện, tất cả chỉ là để làm trải thảm cho các chúng sinh có duyên trong đời này đắc được Đại Pháp, để cho các con dân trong thiên hạ có trí tuệ minh bạch chân tướng mà thôi.
Từ đó thấy được rằng sự rực rỡ và huy hoàng của văn hóa Trung Hoa được khắp bốn biển công nhận, vạn cổ vẫn mới mẻ, chí thánh vô cực, xứng đáng vĩnh viễn lưu truyền vạn thế bất diệt, bởi vì nó là văn hóa do Thần truyền lại. Tác giả mặc dù trong thời gian học hành đã từng tiếp xúc với những phần tinh túy hiếm hoi như lông phượng, vảy kỳ lân trong các kinh sách này, những tinh hoa quý báu trong các cổ thư ấy, nhưng lại không đủ dụng tâm, lại xem nhẹ và thờ ơ nên sau khi bước vào xã hội, đã bị những thứ hỗn tạp, trần tục, đầy màu sắc pha tạp làm ô nhiễm không ít. Trong sách giáo khoa âm nhạc trung học thời đó, do những người nổi tiếng trong giới âm nhạc biên soạn, đã đưa “Lễ vận đại đồng thiên” chuyển thành bài hát để giảng dạy. Dù lúc đó tôi chỉ học thuộc lòng một cách mơ hồ, không hiểu ý nghĩa gì, nhưng sau 60 năm, cùng với quá trình biên soạn “Thập nhị kinh giản lược”, vẫn có thể hát trọn bài một cách lưu loát, không quên hay bỏ sót câu nào, đồng thời thấu hiểu được nhiều nội hàm và sửa chữa được nhiều thiếu sót, điều này không thể không nói là thu hoạch lớn nhất của tôi. Dĩ nhiên, những bài giản lược này chỉ là những hiểu biết hạn hẹp, cái nhìn qua ống nhỏ, cũng hy vọng những nhân sĩ có tâm huyết không ngại chỉ giáo.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/70309