Nhìn thế giới qua con mắt thứ ba: Giải mã thần thoại (Phần 10)



Tác giả: Lý Đạo Chân

[ChanhKien.org]

Mục đích lịch sử

Những ai từng xem toán mệnh đều biết rằng: từ xưa đến nay các tiên đoán và thuật bói toán vô cùng linh nghiệm, không chỉ cho biết vận mệnh tổng thể của cá nhân mà còn có thể dự đoán chính xác những sự kiện quan trọng trong đời, thậm chí một số cao nhân có thể đoán hoàn toàn chuẩn xác. Vì sao có thể đoán trước vận số, vì sao có thể thấy được tương lai? Lời giải thích thỏa đáng nhất cho câu hỏi này là: Cuộc đời con người sớm đã được định sẵn, toàn bộ quá trình từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời chỉ là chiểu theo kịch bản đã có sẵn mà đi trọn kiếp nhân sinh. Một số cao nhân đã nhìn thấy trước được “tình tiết vở kịch”, do đó có thể biết trước được vận mệnh của một người. Cho nên, cổ nhân đều kính Trời tín Thần, tin vào mệnh số, cho rằng “sinh tử hữu mệnh, phú quý tại Thiên”.

Nhưng không chỉ vận mệnh cá nhân, mà toàn bộ xã hội nhân loại cũng đều như vậy. Trong lịch sử đã lưu lại rất nhiều lời tiên tri, ví như lưu truyền ở Trung Quốc là mười đại dự ngôn: “Càn Khôn vạn niên ca”, “Vũ Hầu bách niên kê”, “Mã tiền khóa”, “Bộ Hư đại sư dự ngôn”, “Tạng đầu thi”, “Thôi bối đồ”, “Hoàng Nghiệt thiền sư thi”, “Mai hoa thi”, “Kim Lăng tháp bia văn”, “Thiêu bính ca”,v.v. Trên thế giới cũng có rất nhiều lời tiên tri nổi tiếng như “Các thế kỷ”, “Cách am di lục”, “Thánh Kinh – Khải Huyền”, v.v. Các bậc Thánh nhân và một số nhà tiên tri thần bí trong lịch sử từng thấy trước hình thế biến hóa của toàn xã hội trải dài hàng trăm năm, hàng ngàn năm, và gần như tất cả đều đã ứng nghiệm. Hơn 600 năm trước, “Lưu Bá Ôn bia ký” đã tiên đoán về đại ôn dịch lần này, từ thời gian cho đến địa điểm bùng phát đều hoàn toàn chính xác, chúng ta có thể tự mình kiểm chứng.

Nếu vậy, phải chăng lịch sử nhân loại sớm đã được định sẵn? Phải chăng chu kỳ văn minh lần này của chúng ta đã được các sinh mệnh cao tầng an bài tỉ mỉ? Và phải chăng đằng sau hết thảy những an bài ấy còn có dụng ý và mục đích tối cao mà con người không hay biết?

Để trả lời cho những câu hỏi ấy, trước hết hãy đi tìm lời giải trong các dự ngôn. Dự ngôn kim cổ

Maya

Người Maya đã lưu lại nhiều thư tịch cổ tiết lộ rằng: Nhân loại hiện nay đã tiến nhập vào thời kỳ “Địa cầu canh tân” (Earth Regeneration Period). Tính từ năm 3113 TCN cho tới năm 2012, hệ Mặt Trời đã trải qua đại chu kỳ kéo dài 5125 năm, Mặt Trời sẽ trùng hợp với điểm giao thoa giữa cung Hoàng đạo (Ecliptic) và Xích đạo (Equator) của dải Ngân Hà. Sau đó, địa cầu sẽ ra khỏi phạm vi xạ tuyến của Ngân Hà và tiến nhập vào giai đoạn mới.

Sau thời kỳ tịnh hóa và canh tân này, nhân loại sẽ tiến nhập vào một nền văn minh hoàn toàn mới, mở ra kỷ nguyên của nhân loại mới. Hiện nay chính là thời điểm then chốt cho sự chuyển đổi giữa kỷ nguyên cũ và kỷ nguyên mới, nền văn minh cũ và nền văn minh mới, nhân loại cũ và nhân loại mới.

Edgar Cayce

Edgar Cayce nổi tiếng là ‘nhà tiên tri ngủ gật’ của nước Mỹ. Trong cuộc đời mình ông đã đưa ra rất nhiều dự đoán chuẩn xác, trong đó có một dự ngôn vô cùng quan trọng, đó là: Một ngày nào đó, Trung Quốc sẽ trở thành cái nôi thai nghén ra tín ngưỡng Cơ Đốc giáo (Christianity), con người trong sinh hoạt sẽ nỗ lực thực hành tín ngưỡng này… Tương lai Trung Quốc sẽ thức tỉnh! [1]

Trong tiếng Anh hiện đại, ý nghĩa bề mặt của chữ “Christianity” là chỉ Cơ Đốc giáo hoặc tín ngưỡng về Cơ Đốc giáo, còn “cái nôi” là ẩn dụ về sự ra đời mới. Bởi Cơ Đốc giáo đã tồn tại từ xa xưa, do đó dự ngôn của Cayce không phải là chỉ Cơ Đốc giáo hiện nay, mà là ám chỉ về một tín ngưỡng mới sẽ ra đời ở Trung Quốc và sau đó truyền bá rộng rãi khắp toàn cầu.

Câu nói trên gợi cho chúng ta nhớ đến dự ngôn từ 500 năm trước của nhà tiên tri nổi tiếng nước Pháp là Nostradamus. Trong “Các thế kỷ”, ông viết: Một người ở phương Đông với lòng từ bi của Chúa sẽ cứu chuộc thế giới, mỗi cá nhân đều sẽ lay động trước cây gậy Thần của Ngài. [2]

Jeane Dixon

Nhà tiên tri trứ danh của nước Mỹ là Jeane Dixon từng dự báo chính xác rất nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử, như: Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt qua đời, Thủ tướng Anh Winston Churchill thất cử, Tổng thống Mỹ Kennedy bị ám sát, Trung Quốc sẽ bị chính quyền đỏ thống trị, v.v. Trước lúc lâm chung vào năm 1997, bà đã để lại dự ngôn cuối cùng, đại ý rằng: Hy vọng của nhân loại nằm ở phương Đông! Nơi phương Đông xa xôi sắp xuất hiện một bậc Thánh nhân, Ngài sẽ cải biến thế giới này. Ngài sẽ truyền bá trí huệ của Chúa cho con người, dùng tình yêu thương để nhân loại đoàn tụ lại với nhau, kiến lập thế giới mới. [3]

Trước đó, trong cuốn sách xuất bản vào năm 1971 là “The Call to Glory” (Tiếng gọi vinh quang), Jeane Dixon viết: Cuộc đại chiến giữa Thiện và ác sẽ xảy ra vào năm 2020, lúc ấy những nhà tiên tri giả, Satan và các kẻ chống Chúa sẽ tác chiến chống lại nhân loại [4]. Bà nói, trong cuộc chiến giữa Thiện và ác này, nhân gian sẽ kinh qua một cuộc cách mạng tâm linh và lễ tẩy rửa tín ngưỡng. Cuối cùng tín ngưỡng được phục hưng, nhân loại sẽ kiên định chính tín, lòng thành kính đối với Chúa Sáng Thế cũng sẽ được hồi sinh.

Ấn Độ cổ và Phật giáo

Tại Ấn Độ cổ, “Vệ Đà bản tập” và các kinh điển Phật giáo đều ghi chép rằng: Đức Chuyển Luân Thánh Vương là bậc tôn kính của vạn vương, là vị vua tối cao của vũ trụ (“Vạn vương chi tôn, vô thượng chi vương”). Trong tương lai khi Ngài giáng thế cứu độ chúng sinh, đệ tử của Ngài sẽ tu luyện tại gia, không cần thoát ly thế tục mà vẫn có thể trở thành Phật.

Trong “Pháp Hoa văn cú” viết: “Ưu Đàm tam thiên niên nhất hiện, hoa khai tắc Chuyển Luân Thánh Vương xuất”, nghĩa là: Ưu Đàm 3000 năm hễ xuất hiện, hoa nở là Chuyển Luân Thánh Vương đến.

Sách “Huệ Lâm âm nghĩa” cũng chép: “Hoa Ưu Đàm mang điềm lành linh dị, đến từ Thiên thượng, thế gian không có loài hoa này. Khi Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân, nhờ từ bi và phúc đức vô biên của Ngài, loài hoa này sẽ xuất hiện ở nhân gian”.

Năm 1997, tại chùa Thanh Khê (Cheonggye) ở Hàn Quốc đã phát hiện Ưu Đàm Bà La hoa. Sau đó, lần lượt các nơi cũng xuất hiện, đến nay hoa Ưu Đàm Bà La đã khai nở khắp thế giới. Điều ấy nói lên rằng, hiện tại Chuyển Luân Thánh Vương đã giáng thế và bắt đầu truyền Pháp độ chúng sinh tại thế gian.

Lưu Bá Ôn

Trong dự ngôn trứ danh của Lưu Bá Ôn là “Thôi Bối Đồ” có viết:

Nguyên văn: “Thế giới dĩ tẫn, mạt kiếp lai đáo, chúng sanh thụ khổ não, vạn ma xuất động, phi tam dương năng điều, tất đãi Thượng Thượng Chủ Thánh lai đáo…ngã đạo Thượng Thượng Chủ Thánh nãi Di Lặc Phật tảo đáo”.

Dịch: Thế giới đã tới kết thúc cuối cùng, đại kiếp tận thế đã đến, chúng sinh khổ não, vạn ma xuất động… Hết thảy chỉ có thể chờ đợi Thượng Thượng Chủ Thánh (vô thượng chi vương, Chuyển Luân Thánh Vương) đến giải cứu, Thượng Thượng Chủ Thánh sẽ lấy danh nghĩa Phật Di Lặc giáng lâm tại nhân gian.

Dự ngôn trên đây tiết lộ rằng: Nhân loại hiện nay đã bước vào thời kỳ đặc thù -đại canh tân, đại đào thải. Vào thời khắc đặc biệt này sẽ có bậc Thánh nhân giáng sinh ở phương Đông để cứu độ chúng sinh. Vị đại Thánh nhân được gọi bằng những tên khác nhau trong các dự ngôn khác nhau, khi là Sáng Thế Chủ, khi là Chuyển Luân Thánh Vương, khi là Di Lặc Phật… nhưng kỳ thực đều cùng chỉ về một người.

Nếu như vị Thánh nhân cứu thế chỉ là một người, vậy đó là ai?

Thánh nhân cứu thế

Nhắc đến bậc Thánh nhân cứu thế, trong “Thôi Bối Đồ” viết:

Nguyên văn: “Nhi thì Di Lặc Phật thấu hư đáo Nam hạp phù đề trung thiên Trung Quốc kim kê mục, phụng Ngọc Thanh thì niên, kiếp tận, Long hoa hội hổ, thố chi niên đáo trung thiên, dĩ mộc tử tính”.

Dịch: Lúc đó Phật Di Lặc xuyên qua các tầng vũ trụ (thái hư) đến vị trí mắt gà Trung Quốc thuộc Nam hạp phù đề trung thiên vào năm Ngọc thanh, kiếp hết. Long hoa hội hổ, năm Thỏ (Mão) đến trung thiên, họ là Mộc Tử.

Giải: Bản đồ Trung Quốc giống như con gà vàng, vị trí mắt gà vàng chính là tỉnh Cát Lâm. Theo đó, Di Lặc Phật sẽ giáng sinh ở Cát Lâm, Trung Quốc, sinh năm Thỏ (Mão), lấy Mộc Tử (木子) làm họ, hai chữ Mộc Tử ghép lại thì chính là họ Lý (李).

Tại thời kỳ này, tín ngưỡng truyền xuất từ phương Đông và hồng truyền toàn thế giới chính là Pháp Luân Đại Pháp. Người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp là ông Lý Hồng Chí, sinh ngày 13/5/1951 (năm Thỏ, tức năm Mão), tại tỉnh Cát Lâm, mang họ Lý. Những chi tiết này hoàn toàn trùng hợp với tiên tri Lưu Bá Ôn.

Cuốn kinh thư chính của Pháp Luân Đại Pháp là “Chuyển Pháp Luân”. Pháp Luân Đại Pháp chú trọng đại đạo vô hình, không có hình thức tôn giáo, không thoát ly thế tục mà tu luyện, coi xã hội nhân loại như một trường tu luyện, người sinh hoạt trong các ngành các nghề và các giai tầng khác nhau đều có thể tu luyện. Pháp Luân Đại Pháp lấy đặc tính tối cao của vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn” làm tiêu chuẩn, người tu luyện sinh sống trong thế tục, trong các ngành nghề và các loại hoàn cảnh khác nhau mà đề cao bản thân, không ngừng thăng hoa, lấy đại viên mãn làm đích đến.

Điều này cùng với thuyết trong Phật giáo: Đặc điểm của Chuyển Luân Thánh Vương là tại gia thành Phật, không thoát ly thế tục mà tu luyện cũng hoàn toàn phù hợp.

Pháp Luân Đại Pháp được Đại sư Lý Hồng Chí truyền ra tại thành phố Trường Xuân, Trung Quốc vào tháng 5/1992 (năm 1992 cũng là lúc bắt đầu thời kỳ địa cầu canh tân). Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Pháp Luân Đại Pháp đã truyền khắp Trung Hoa, gần 100 triệu người Trung Quốc đều đang học và luyện, nhờ đó nhân tâm được cải biến, đạo đức được hồi thăng.

Đến nay, Pháp Luân Đại Pháp đã truyền khắp các đại châu lục, tới hơn 100 quốc gia và địa khu. Các cuốn sách chính của Pháp Luân Đại Pháp đã được phiên dịch sang hơn 40 loại ngôn ngữ, được xuất bản và quảng truyền khắp thế giới. Chính phủ các nước đã công bố lời khen ngợi, thông qua nhiều chương trình ủng hộ và tuyên bố “Tháng Pháp Luân Đại Pháp”, “Tuần Pháp Luân Đại Pháp”, và “Ngày Pháp Luân Đại Pháp”. Cho đến nay, Pháp Luân Đại Pháp đã nhận được 1832 giải thưởng, 373 chương trình ủng hộ, 1180 thư ủng hộ từ các giới…

Vào thời kỳ này, ngoại trừ Pháp Luân Đại Pháp thì không có bất cứ tín ngưỡng nào xuất sinh từ phương Đông có sức ảnh hưởng tới toàn nhân loại đến như vậy.

Trong “Thôi Bối Đồ” cũng viết:

Nguyên văn: “Di Lặc Phật từ thiên viết: Ngã khứ hậu hậu chỉ truyền tự gia tam tự tam pháp, tất vạn pháp quy nhất, pháp chính càn khôn… Lễ tất thấu hư nhi khứ. Phàm thân mộc tử vi tính.”

Dịch: [Khi từ biệt chúng Thần trên Thiên thượng], Phật Di Lặc đã nói: Sau khi xuống nhân gian ta sẽ truyền Pháp 3 chữ [Chân – Thiện – Nhẫn], khiến vạn pháp quy nhất, thiên địa quy chính. Hành lễ xong, Ngài xuyên việt tầng tầng vũ trụ (thái hư), giáng hạ xuống nhân gian, sau khi chuyển thế Ngài lấy họ là Mộc Tử (木子) [tức họ Lý (李)].

Nguyên văn: “Thì niên nhân giai tri tam tự, bất dĩ vi nhiên, thanh ảnh tề mạ, thần khấp quỷ khốc, chúng bất tri nhược hà, nhất tha, nhị tha, tam đẳng, chúng sanh bất tỉnh”.

Dịch: Đến thời đó, mọi người đều biết đến ba chữ, nhưng không cho là đúng, đều nhục mạ, quỷ khóc Thần sầu, chúng sinh vẫn không biết gì, kéo dài thời gian chờ đợi một lần, hai lần, ba lần, chúng sinh vẫn không tỉnh.

Giải: Đến lúc ấy, người người đều nghe nói đến ‘ba chữ chân ngôn’ [Chân, Thiện, Nhẫn] nhưng lại xem thường, thậm chí mở miệng ra là nhục mạ, dè bỉu. Thần quỷ nhìn thấy cảnh ấy đều than khóc, bởi vì đại kiếp đang đến, còn nhân loại thì vẫn u mê, không biết rằng đại họa cận kề. Sáng Thế Chủ đã đợi chờ hết lần này đến lần khác, chờ đợi thế nhân tỉnh ngộ để được đắc cứu, đại kiếp nạn cũng được trì hoãn hết lần này đến lần khác, một mạch cho đến hiện tại. Nhưng đại bộ phận nhân loại vẫn trong mê không tỉnh! Các đệ tử của Phật Di Lặc cũng mạo hiểm tính mệnh để nói rõ chân tướng, thức tỉnh thế nhân… nhưng lại bị bức hại, chịu ngục tù.

Con rồng đỏ

Chúng ta hãy cùng đàm luận một chút về con ác long màu đỏ nhắc đến trong kỳ trước.

Sau khi bị đả nhập vào Tam giới, con ác long luôn tìm cách thao túng nhân loại. Bởi Tam giới đã bị phong kín, nó không thể hiện nguyên hình tiến nhập vào nhân gian. Do đó, nó cần đưa năng lượng thâu nhập vào thế gian, ở nơi đây hình thành trường năng lượng của bản thân. Sau đó nó lại kéo dài ma mạch đến thân thể người, khiến nhân loại biến thành tế bào của nó.

Con ác long đã xâm nhập nhân gian theo cách nào? Như đã bàn luận trong phần “Hậu Nghệ bắn mặt trời”, con ác long đã xâm chiếm hệ Mặt trời, thiết lập trong đó một trường năng lượng nhất định. Sau khi bị chúng Thần đánh hạ xuống Tam giới, nó không ngừng xâm nhập, cuối cùng khống chế nhân loại. Trong lịch sử nó vẫn luôn từng bước hình thành, dần dần vươn dài ma mạch của nó, mãi cho đến hơn 100 năm gần đây mới hoàn toàn thao túng nhân loại.

Ở tầng thứ cá nhân biết rằng: Ban đầu, điểm xâm nhập của ma mạch ác long là ở thế giới phương Tây, tại đây nó vươn dài ma mạch luồn lách khắp nhân gian. Trong quá trình lịch sử đằng đẵng, nó đã dần dần thâu nhập năng lượng, phát triển tế bào, kiến lập những tổ chức tà giáo có tính ngụy trang và bí mật như “Thái Dương giáo”, “Satan giáo”… Sau đó, nó lại ký sinh vào hội Tam Điểm, dựa vào hội Tam Điểm mà phát triển một lượng lớn ma mạch, kiến lập nên tổ chức Illuminati. Cuối cùng, nó phái xuất ra ma vương đại biểu cho mạch chủ của nó, chuyển sinh thành người tiến nhập vào nhân gian. Trong hơn 100 năm tiếp theo, nó lại vươn ma mạch đến từng ngõ ngách, từ phương Tây tiến vào phương Đông, vươn mạch chủ thâm nhập và ký sinh vào Trung Hoa, thao túng Trung Quốc. Trung Hoa đại địa đã bị bao phủ bởi ma mạch ấy, từ đó nó khống chế người Trung Quốc, biến họ thành tế bào của mình.

Tà linh rồng đỏ ký sinh vào trong thân thể mỗi người Trung Quốc, bắt người Trung Quốc phải nhận nó là mẹ. Nó hủy diệt văn hóa Thần truyền, cắt đứt huyết mạch Trung Hoa, khiến dân tộc Hoa Hạ mất đi gốc rễ. Đồng thời, nó dùng Vô Thần luận cắt đứt liên hệ giữa nhân loại với Thần, khiến người Trung Quốc quên đi Thần, phủ nhận nguồn gốc sinh mệnh của bản thân, trở thành cây không rễ, thành bù nhìn của ma quỷ. Cuối cùng, nó khống chế từ tư tưởng đến nhục thể người ta, hòng biến tất cả người Trung Quốc thành tế bào thây ma của nó tại nhân gian.

Sau khi thao túng Trung Quốc, tà long rồng đỏ lại trao quyền bính cho một con cóc tinh ngàn năm tuổi, để nó khoác chiếc áo da người chuyển sinh vào thai mẹ, nắm giữ ma mạch, trở thành thủ lĩnh của ĐCSTQ, ở nhân gian mà tráo trở lật lọng, hý lộng Trung Hoa. Nó phình to bụng, miệng phun độc khí và tà hỏa từ địa ngục, công kích Chuyển Luân Thánh Vương cùng với các đệ tử của Ngài. Hơn 20 năm qua nó đã làm đủ mọi điều táng tận lương tâm, thông qua ma mạch mà phun độc khí tới từng ngóc ngách trên thế giới. Tất cả những ai nghe và tin vào lời dối trá của nó đều bị ma mạch và độc khí xâm nhập, góp sóng thành bão, cuối cùng trở thành tế bào, thành một bộ phận của ma quỷ tại nhân gian. Ai tin vào những lời hoang ngôn, lựa chọn vào hàng ngũ của ác long, thì khi đại đào thải đến họ sẽ bị chôn vùi theo nó, bị hủy diệt trong đào thải. Chỉ những ai dũng cảm trừ sạch mọi lời hoang ngôn của ma quỷ, cự tuyệt làm tế bào của tà linh, thì mới có thể tiến nhập vào tương lai.

Đối ứng ở nhân gian, đó chính là tháng 7/1999 khi người đứng đầu ĐCSTQ lúc bấy giờ là Giang Trạch Dân, xuất phát từ lòng đố kỵ đã phát động một cuộc bức hại tàn khốc chưa từng có. Cũng từ đó ĐCSTQ bắt đầu vận hành bộ máy toàn quốc bức hại Pháp Luân Công, hạ lệnh “bôi nhọ danh dự, vắt kiệt tài chính, hủy hoại thân thể” các học viên. Hàng vạn người tu luyện đã bị tịch thu nhà cửa, bắt cóc, kết án, chịu đủ loại nhục hình và tra tấn tàn khốc. Hàng trăm vạn học viên Pháp Luân Công đã bị tra tấn đến chết hoặc tàn phế, thậm chí bị mổ sống cơ thể để lấy nội tạng. Những tội ác này đều đã được phơi bày và chứng thực, khiến dư luận thế giới chấn động!

Đối với cuộc bức hại tàn khốc Pháp Luân Công, trong lịch sử sớm đã có dự ngôn. Nhà tiên tri nổi tiếng thế giới Nostradamus trong cuốn “Các thế kỷ” đã viết:

Tháng 7, 1999 Để nhà vua Angoulmois phục sinh Đại vương Khủng Bố sẽ từ trên trời xuống Đến thời trước sau Mars sẽ thống trị thiên hạ Nói là để có được cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. [5]

Ma vương khủng bố chính là Chủ nghĩa Cộng sản, cũng đồng thời là con ác long màu đỏ. “Mars” trong dự ngôn chính là “Marx”, đó là ma vương do ác long phái đến, là mạch chủ của ác long. Tà giáo mà Marx sáng lập không chỉ gây tai họa tới các quốc gia xã hội CN mà đã thẩm thấu toàn thế giới, len lỏi vào từng trường học, phá hoại gia đình, hủy hoại tín ngưỡng và đạo đức. Những gì là chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ, các cuộc vận động môi trường, vận động nữ quyền, phong trào người da đen đáng sống, các phái cánh tả phương Tây… kỳ thực đều là chiếc áo khoác ngụy trang của ma quỷ. Do đó nói ma quỷ thống trị thiên hạ, ma mạch đã vươn đến khắp nhân gian. Thậm chí rất nhiều chính trị gia chủ chốt, các tập đoàn tài chính, các danh nhân v.v. ở những quốc gia dân chủ, đều vì để thỏa mãn tư dục cá nhân và lợi ích bản thân mà ngấm ngầm cấu kết với ĐCSTQ, phản bội lương tri. Ma quỷ đeo chiếc mặt nạ gạt người, dùng lời dối trá mê hoặc nhân loại, nói là vì để người ta có được cuộc sống hạnh phúc, nhưng thực chất lại khiến nhân loại đi vào địa ngục vạn kiếp bất phục!

Mục đích lịch sử

Từ những dự ngôn nói trên, chúng ta biết rằng: Nhân loại hiện tại đang ở thời khắc then chốt của cuộc đại canh tân, đồng thời cũng là đại đào thải, đại kiếp nạn. Ở thời khắc đặc thù này, Sáng Thế Chủ sẽ giáng sinh tại nhân gian, cứu độ chúng sinh, hoàn thành đại sự cực kỳ trọng yếu. Do đó Thần đã mô phỏng hình tượng thân thể của bản thân mà tạo ra con người, truyền thụ văn minh cho nhân loại, luôn luôn quan tâm chăm sóc cho con người, bảo hộ nhân gian.

Vậy vì sao nhân loại cần phải đưa ra lựa chọn trong thời khắc này? Vì sao Thần cho phép tà linh rồng đỏ xâm nhập thế gian?

Cá nhân tôi cho rằng: Đây là khảo nghiệm đối với nhân loại, bởi vì đại canh tân là có tiêu chuẩn, không phải sinh mệnh nào cũng có thể tiến vào tương lai thuần tịnh và mỹ hảo không gì so sánh được. Chỉ những ai đạt tiêu chuẩn mới có thể vượt qua đại canh tân và đi đến tương lai.

Vậy tiêu chuẩn ấy là gì? Đạo nghĩa và lương tri chính là ranh giới của nhân loại, nếu như mất đi đạo nghĩa và lương tri, con người không xứng đáng làm người. Trong lịch sử, mỗi lần văn minh bị hủy diệt đều là khi nhân loại đã mất đi đạo đức, bỏ rơi đạo nghĩa và lương tri, rời xa Thần.

Nếu lựa chọn hàng ngũ của tà ma, chối bỏ đạo nghĩa và lương tri, tự nguyện trở thành tế bào của ma quỷ, vậy khi thời khắc đại canh tân đến sẽ bị đào thải cùng với nó. Do đó mỗi cá nhân đều cần trong thời khắc này mà nhìn rõ những lời dối trá của tà ma, đừng để bị lừa dối. Xin hãy bảo vệ đạo nghĩa và lương tri cuối cùng của nhân loại, cắt đứt liên hệ với tà ma, lựa chọn tương lai quang minh và mỹ hảo cho bản thân mình.

(Hết)

Chú thích:

[1] Nguyên văn: “Yea, there in China one day will be the cradle ofChristianity, as applied in the lives of men. It is far off, as man countstune, but only a day in the heart of God. For tomorrow China will awake.”

[2] Nguyên văn:

“The Easterner will leave his seat, To pass the Apennine mountains to see Gaul: He will transpierce the sky, the waters, and the snow, And everyone will be struck by his rod.” (Century II, khổ 29)

[3] Nguyên văn: “The hope of mankind lies in the East” và “A child, bornsomewhere in the Middle East (…) This will be the foundation of a newChristianity, with every sect and creed united through this man who will walkamong the people to spread the wisdom of the Almighty Power.”

[4] Nguyên văn: “Armageddon will come in 2020, when the False Prophet, Satanand the Antichrist will rise up and battle man himself”. Và: “The years2020-2037, approximately, hail the true Second Coming of Christ.”

[5] Nguyên văn:

“The year 1999, seventh month goals, From the sky will come a great King of Terror: To bring back to life the great King of the Mongols, Before and after Mars to reign by good luck tremor.” (Century X, khổ 72)



Ngày đăng: 11-05-2022

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.