Tam Tự Kinh – Đọc sách luận bút (13)



Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Nguyên văn

凡(1)訓(2)蒙(3) 須(4)講究(5)

詳(6)訓詁(7) 明句讀(8)

為學(9)者(10) 必有初(11)

小學(12)終(13) 至四書(14)

Bính âm

凡(fán) 訓 (xùn) 蒙(méng), 須(xū) 講(jiǎng) 究 (jiū),

詳(xiáng) 訓(xùn) 詁(gǔ), 名(míng) 句(jù) 讀 dòu)。

為,(wéi) 學(xué) 者(zhě), 必(bì) 有(yǒu) 初(chū),

小(xiǎo) 學(xué) 終(zhōng), 至(zhì) 四(sì) 書 (shū)。

Chú âm

凡(ㄈㄢˊ) 訓(ㄒㄩㄣˋ) 蒙(ㄇㄥˊ),

須(ㄒㄩ) 講(ㄐ一ㄤˇ) 究(ㄐ一ㄡˋ);

詳(ㄒ一ㄤˊ) 訓(ㄒㄩㄣˋ) 詁(ㄍㄨˇ),

明(ㄇ一ㄥˊ) 句(ㄐㄩˋ) 讀(ㄉㄡˋ)。

為(ㄨㄟˊ) 學(ㄒㄩㄝˊ) 者(ㄓㄜˇ),

必(ㄅ一ˋ) 有(一ㄡˇ) 初(ㄔㄨ);

小(ㄒ一ㄠˇ) 學(ㄒㄩㄝˊ) 終(ㄓㄨㄥ),

至(ㄓˋ) 四(ㄙˋ) 書(ㄕㄨ)。

Âm Hán Việt

Phàm huấn mông, Tu giảng cứu,

Tường huấn cổ, Minh cú đậu.

Vi học giả, Tất hữu sơ,

Tiểu học chung, Chí tứ thư.

Tạm dịch

Thường khi dạy học, phải giảng xét kỹ,

Tường tận nghĩa xưa, ngắt câu rõ ràng.

Bởi người đi học, phải biết chỗ khởi đầu,

Học hết tiểu học, mới đến Tứ thư.

Từ vựng

(1) 凡 (phàm): thường, bình thường, phàm là, nói chung, đại khái, hễ.

(2) 訓 (huấn): giáo đạo, dạy bảo.

(3) 蒙 (mông): ý là khải mông (启蒙), là nhập môn, vỡ lòng, khai sáng. Ở đây chỉ mới vào học đọc sách, giáo dục trẻ tiếp thu ban đầu nhất.

(4) 須 (tu): cần, phải, nên.

(5) 講究 (giảng cứu): giảng giải, tìm tòi nghiên cứu đạo lý trong đó. Trong bài chỉ về chú trọng phương pháp dạy học.

(6) 詳 (tường): kỹ càng tường tận.

(7) 訓 詁 (huấn cổ): giải nghĩa của các chữ Hán. Ở đây chỉ việc giáo đạo (dạy và hướng dẫn) đọc hiểu ý của từ và chữ trong các điển tịch cổ đại. Chữ cổ 詁, gồm chữ ngôn và chữ cổ 古(cổ đại) ghép thành, tức là dùng ngôn ngữ để giảng giải ra ý của từ và chữ thời cổ đại.

(8) 句讀 (cú đậu): ngắt câu. Trong sách cổ không có dấu chấm câu, cho nên khi đọc sách mà dừng câu văn, ý câu hoàn chỉnh được gọi là “cú”; không hoàn chỉnh mà dừng một chút gọi là “đậu”.

(9) 為學 (vi học): nghiên cứu học tập.

(10) 者 (giả): người, ở đây chỉ người đi học.

(11) 初 (sơ): mở đầu, bắt đầu; mở rộng ra là chỉ nền tảng, cơ sở.

(12) 小學(tiểu học): học những điều căn bản; ý trong bài này là nghiên cứu hình dạng chữ, âm đọc, nghĩa của chữ. Làm như vậy để người hiện đại hiểu được ngữ pháp và ngôn ngữ của người xưa, để tương lai có thể đọc được các loại chữ và sách vở, đương nhiên chủ yếu là nói về những sách cổ xưa.

(13) 終 (chung): hết, hoàn thành, kết thúc.

(14) 四書 (Tứ thư): chỉ về bốn cuốn sách cổ Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung. Thời Nam Tống, Chu Hy lấy Đại Học, Trung Dung trong Lễ Ký ra làm thành sách riêng, hợp với Luận Ngữ, Mạnh Tử thành Tứ thư.

Dịch nghĩa tham khảo

Phàm là khi bắt đầu dạy dỗ trẻ nhỏ phải đặc biệt chú ý phương pháp dạy. Thầy giáo cần giải thích một cách tỉ mỉ ý nghĩa của từng chữ cho rõ ràng, ngoài ra khi dạy trẻ đọc sách thì phải dạy chúng cách ngắt câu.

Bởi vì người đọc sách nghiên cứu học vấn, tương lai sau này sẽ phải nghiên cứu sách thánh hiền và các loại thư tịch khác, do đó cần chuẩn bị tốt cho mình cơ sở văn chương cũng như khả năng đọc hiểu văn cổ. Để làm được như vậy, người học trước hết cần học tốt những điều thuộc về cơ bản như tự hình (hình dạng của chữ), tự âm (âm điệu của chữ), tự nghĩa (ý nghĩa của chữ) cho đến cách ngắt câu, mới có năng lực tiến thêm một bước là đọc hiểu Tứ Thư.

Đọc sách luận bút

Mãi đến bài học này, Tam Tự Kinh mới bắt đầu đi vào cái mà người hiện đại chúng ta lý giải là đọc sách. Vì sao phải qua mười mấy bài mới đề cập đến chủ đề này? Bởi vì những bài học trước là bắt đầu từ bản tính thiện lương của con người, mục đích của việc học tập chính là để duy hộ bản tính thiện lương của con người không bị che lấp mất. Nói cách khác, là người học, trong việc tiếp thụ giáo dục, đầu tiên phải biết vì sao mình cần đọc sách tiếp thụ giáo dục. Đọc sách chính là để bản tính không bị hoàn cảnh hậu thiên che đậy, giữ tâm mãi mãi thiện lương, lấy chính lý (lẽ phải) để sống ở thế gian.

Thế nên tiếp đó nói đến trách nhiệm giáo dục của cha mẹ và bổn phận học tập đọc sách của con cái. Cho nên, trước khi chính thức đề cập đến loại sách nên đọc, đầu tiên sẽ nói cho bạn biết mục đích của việc tiếp thụ giáo dục. Đó là bạn sẽ cần tìm hiểu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, hiểu về Thiên Địa ngũ hành, hiểu về quan hệ gia đình xã hội, căn bản nhất chính là hiếu đễ (孝悌) trong gia đình, trong quan hệ với mọi người trong xã hội nhất định phải tuân thủ nghiêm ngặt Ngũ thường Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Nghĩa là, tương lai bất kể bạn đọc bao nhiêu cuốn sách, cuối cùng đều là để bạn hiểu được những đạo lý này từ mọi góc độ khác nhau. Đây đều là để trưởng thành, có thể bước ra xã hội một cách lý trí thiện lương, xử lý tốt mọi mối quan hệ và mọi việc, có thể an thuận trong việc lo tốt cho chính mình, hoặc là phụng hiến vì quốc dân (hiến dâng đóng góp).

Vì vậy, khi hiểu rõ những đạo lý này, mới bắt đầu đi vào trình bày cách đọc sách cụ thể như thế nào. Thật đáng tiếc khi nhiều người xem việc nắm bắt bao nhiêu điển tích để trở thành vốn liếng để kiêu ngạo, quên đi mục đích căn bản của đọc sách, quên chiểu theo đạo lý mà thánh hiền giảng dạy để sinh sống trong thực tiễn, để làm người. Vậy nên, cả đời có tri nhưng lại không có thức, không cách nào đạt được thông kim bác cổ, lấy tinh hoa xưa áp dụng vào thực tiễn ngày nay. Cũng có những người căn cơ rất tốt, cả đời lương thiện, mặc dù chưa từng đi học, hoặc học không nhiều nhưng cũng có thể ngộ được rất nhiều đạo lý xử thế trong cuộc sống, một đời thành công phi thường, nguyên nhân là ngay ở chỗ này.

Những trường hợp như tể tướng Triệu Phổ thời nhà Tống của Trung Quốc chỉ đọc vẻn vẹn một cuốn Luận Ngữ của Khổng Tử đã bị rất nhiều quan viên thuộc làu các loại điển tịch xem thường nhưng ông lại có thể trị lý thiên hạ, hay Matsushita Konosuke, người được mệnh danh “ông thần kinh doanh” của Nhật Bản cũng là người am hiểu sâu sắc tri thức của Khổng Tử, đã dựa vào trình độ thấp là bậc tiểu học mà đạt được thành công trong cuộc sống, đều đáng cho chúng ta suy ngẫm. Tam Tự Kinh trên hết chính là răn dạy con người về cái căn bản của việc nghiên cứu học vấn, để mọi người không quên. Vì vậy, cuốn tài liệu giảng dạy nhập môn này mới xứng gọi là kinh thư.

Câu chuyện “Giai thoại về ngắt câu”

Chữ viết của Trung Quốc là loại chữ viết thú vị nhất, đẹp nhất, mỗi một chữ là một âm tiết, bao gồm hình, âm, nghĩa. Mỗi một nét bút, mỗi một nét vẽ đều ẩn sâu bên trong đó những câu chuyện cảm động. Đối với chữ Trung Quốc, chỉ cần hiểu rõ nguyên tắc tạo chữ thuở ban sơ, hiểu được nguồn gốc của nó, thì dù chữ có khó đến đâu cũng có thể nhìn qua là nhớ.

Hình dạng của mỗi một chữ Trung Quốc thường phản ánh ý nghĩa ban đầu của việc tạo ra chữ đó, cũng chính là “bản nghĩa” (nghĩa gốc) của chữ đó, rồi lại từ nghĩa gốc đó mà suy ra ý nghĩa tương quan, cũng gọi là “dẫn thân nghĩa”, tức là nghĩa mở rộng hay nghĩa bóng. Chúng ta có thể thông qua bộ thủ thiên bàng, cũng chính là hình dạng của chữ mà biết được ý nghĩa và âm đọc; phần lớn các bộ thủ đều có nghĩa, cho nên nghĩa của một chữ quá nửa có liên quan tới bộ thủ của chữ đó. Những chữ thiên bàng giống nhau, thì phần lớn những chữ đó có cách đọc gần giống nhau. Thế nhưng, do hàm nghĩa của chữ có thể bị thay đổi theo thời đại, cho nên phải tìm hiểu nghiên cứu rõ ý nghĩa của từng câu trong văn bản đó, mới có thể chân chính hiểu được ý nghĩa của văn chương.

Chúng ta hãy lấy bộ thủ “nhật (日)” để làm ví dụ thuyết minh.

Chữ “nhật (日)” trong chữ Giáp cốt giống hình dạng của thái dương (mặt trời). Nghĩa gốc của nó là “thái dương (太阳)”. Do đó các chữ có bộ thủ “nhật (日)”, phần lớn đều có liên quan tới mặt trời. Ví dụ như chữ “đán (旦) – sáng sớm”, chữ “nhất (一)” là chỉ trên mặt đất, buổi sáng sớm mặt trời vừa nhú lên khỏi đường chân trời được gọi là “đán (旦)” tức là ngày mới. Như chữ “thị (是)”; có chữ “chính (正)” ở bên dưới, tức là tiến thẳng về phía trước không nghiêng không lệch, có ý nghĩa là đường đi chính xác, đúng đắn. Trong suy nghĩ của người xưa, chữ “nhật (日)” ở phía trên chính là cơ sở của “chính (正)”, do đó nghĩa gốc của chữ “thị (是)” là “chính (正)”, “trực (直)”; nếu mở rộng nữa thì ý của chữ thị (是) là “chính xác (正确)”. Chẳng hạn như chữ “thị (是)” trong “thị phi 是非 đúng sai”, “nhất vô thị xứ” (一无是处 không chỗ nào đúng), “thực sự cầu thị” (实事求是 đúng theo thực tế) đều có ý nghĩa này.

Ngoài đó ra, bởi vì trong các sách cổ đều không sử dụng các loại dấu câu, cho nên việc đầu tiên khi thầy giáo lên lớp là dạy học sinh cách ngắt câu thế nào cho đúng, để cho học sinh hiểu rõ được bao nhiêu chữ là một câu và đến đâu thì ngừng ngắt. Làm rõ được chỗ dừng ngắt của các câu trong một văn bản, thì mới có thể đi vào dạy học sâu hơn.

Dấu câu là một bộ phận của văn chương, nếu sử dụng một cách hợp lý thì có thể biểu đạt được rõ ràng văn ý. Cùng một câu nhưng thay đổi hoặc di chuyển vị trí dấu câu thì ý nghĩa sẽ sai khác rất nhiều. Có một câu chuyện thế này:

Ngày xưa có một người đi xa, vì trời mưa nên anh đành ở nhờ nhà bạn. Anh ở một thời gian dài, người chủ nhà keo kiệt cảm thấy sốt ruột, nhưng lại ngại nói thẳng với bạn mình, thế là anh ta bèn lấy giấy ra và viết : “Hạ vũ thiên lưu khách thiên thiên lưu ngã bất lưu” 下雨天留客天天留我不留 (Trời mưa Trời giữ khách, Trời ơi Trời giữ khách, chứ ta không giữ) với hy vọng vị khách đọc được sẽ biết điều mà mau chóng rời đi. Vị khách đọc được mấy chữ đó liền hiểu ngay được ý của chủ nhà, nhưng anh lại quyết định trêu bạn mình một phen. Thế là anh bèn lấy bút viết thêm dấu phẩy sau chữ “lưu khách thiên” 留客天, thêm dấu hỏi (?) sau chữ “bất” 不, và cả câu đã bị sửa thành “Hạ vũ thiên, lưu khách thiên, thiên lưu ngã bất? Lưu!” 下雨天, 留客天, 天留我不? 留! (Ngày nào trời mưa, ngày đó giữ khách, Trời lưu ta không? Lưu!”). Người bạn nhìn thấy rất tức giận, nhưng cũng không thể làm gì.

Câu chuyện này giúp chúng ta nhìn nhận rõ ràng, tiểu học thời xưa chính là đặt nền tảng. Ngoại trừ xác định rõ mục đích đọc sách, còn đặt nền tảng nhận mặt chữ, ngắt dấu câu để tiến một bước chính thức đọc hiểu kinh điển cổ tịch.

Video:

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/24530



Ngày đăng: 04-08-2021

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.