[ChanhKien.org]
Khóa 4:
“Thập bát nam nhi
Khởi vu Thái Nguyên
Động tắc đắc giải
Nhật nguyệt lệ thiên”
Thời kỳ Trung Nguyên nhiễu loạn vừa qua đi, giai đoạn tiếp theo đã không còn là “ngọn đuốc” chiếu sáng Trung thổ nữa mà là nhật nguyệt soi rọi, thiên địa rực rỡ, trời đã định đây sẽ là thời đại hoàng kim thịnh thế!
Triều đại nhà Tùy thuộc giai đoạn cuối của thời kỳ lịch sử “nhị tam kỳ vị”, vận nước đương nhiên cũng ngắn ngủi, nhị thế tử Dượng Đế giết cha đoạt vị (năm Công nguyên 604) là một kẻ hoang dâm bạo ngược, chỉ trong vòng vài năm đã khiến dân chúng sục sôi oán hận; năm Công nguyên 611, “Tri thế lang” Vương Bạc đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy chống lại sự tàn bạo, khởi đầu cho dân biến, quần hùng nổi lên khắp nơi, làn sóng biến động của đoạn cuối này kéo dài 18 năm.
Câu “thập bát nam nhi” là điểm mấu chốt của triều đại mới, vì nó ám chỉ một chữ “Lý” (李) (thập bát (十八) ghép lại chính là chữ mộc (木), “nam nhi” là “tử” (子), “mộc tử” hợp thành chữ “Lý”), trong hàng ngũ quần hùng này quả nhiên có nhiều vị họ Lý như Lý Mật, Lý Quỹ, Lý Hoằng Chi, và câu “khởi vu Thái Nguyên, động tắc đắc giải” đã chỉ điểm rằng Quan Lưu thủ Thái Nguyên Lý Uyên sẽ cùng con trai Lý Thế Dân là một trong những quần hùng, khởi binh ở Thái Nguyên. Lý Uyên vì có quan hệ họ hàng với Dượng Đế Dương Quảng nên không muốn khởi binh. Thế nhưng khi ấy đã có lời sấm truyền rằng họ “Lý” sẽ thay thế họ “Dương” trị vì thiên hạ, do đó Dượng Đế rất nghi kỵ Lý Uyên, hơn nữa Thái Nguyên vốn là vùng đất mà các nhà cầm binh ắt sẽ tranh giành, nếu lúc ấy Lý Uyên không khởi binh thì e rằng sẽ bị các thế lực phản vương như Lý Mật hay Đỗ Phục Uy tiêu diệt. Vì hình thế cấp bách nên chỉ còn cách “động tắc đắc giải”, do đó dưới sự thuyết phục của thứ tử Thế Dân, Lý Uyên đã mạo hiểm khởi binh, một cái “động” này ấy thế mà lại khai sáng cho lịch sử Trung Quốc cả thời kỳ “Lý Đường thịnh thế”, dù là về “văn trị” (dùng văn hóa trị quốc) hay “võ công” (công lao về quân sự) cũng đều đạt đến đỉnh cao chói lọi.
Trong ánh quang huy xán lạn của “nhật nguyệt lệ thiên” ấy còn hàm chứa cả ánh trăng dịu dàng, quả nhiên thời nhà Đường đã xuất hiện vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc - Võ Tắc Thiên. Kỳ lạ ở chỗ, bà đã tựa như ngẫu hứng mà tạo ra một chữ mới gọi là “Chiếu” (曌) (cách đọc và ý nghĩa giống chữ “照”), đặt làm tên của mình. Phần trên chữ Chiếu là chữ “minh” (明), tức là “nhật nguyệt” (日月), phần dưới là chữ “không” (空), tức là “Thiên”, ghép lại nghĩa là nhật nguyệt trên bầu trời. Điều này lại nâng thêm một tầng nghĩa khác cho “nhật nguyệt lệ thiên”, đó là thời thịnh thế đã mang theo thiên tượng về việc nữ nhân đăng cơ. Hơn nữa, “Thiên Khả Hãn” (1) không chỉ tượng trưng cho “võ công” của Đại Đường mà cả văn học, nghệ thuật, kiến trúc, phục sức, điêu khắc... cũng tựa như những tuyệt tác thơ Đường bất hủ vừa truyền tải ý cảnh sâu xa, lại như đứng trên đỉnh cao chót vót mà ngắm nhìn ánh nhật nguyệt huy hoàng chưa từng thấy này, “nhật nguyệt lệ thiên” chỉ tóm gọn trong bốn chữ mà đã lột tả hết vẻ hưng thịnh của Đại Đường. Đây cũng chính là thời kỳ mẫu mực của văn minh nhân loại cả về văn vật, đạo đức, phong tục và đời sống nhân dân.
Vào những năm Trinh Quán thời đầu nhà Đường (năm 627 - 649 theo Tây lịch), bộ sấm “Thôi Bối Đồ” do Tư thiên giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cương biên soạn đã ra đời. “Thôi Bối Đồ” tại Trung Quốc có thể nói là nhà nhà đều biết, bộ dự ngôn này gồm 60 bức đồ quái, mỗi bức đều kèm theo sấm ngữ và một bài thơ luật “Tụng viết”, trong đó tiên đoán các sự kiện từ thời nhà Đường đến nay, thậm chí cho đến cả tương lai cuối cùng, tựa như một tập sử thi nhưng lại được “ghi chép trước”. Vì trục bánh xe thời gian của “Mã tiền khóa” lăn theo sự luân chuyển của triều đại nên các thời đại lớn đã được cô đọng trong những bài sấm ngữ 16 chữ đậm tính quái tượng. Tuy nhiên, bánh xe thời gian của “Thôi Bối Đồ” lại lăn theo dòng luân chuyển của thời thế, nên ngoài những việc hoán triều đổi đại hay vận nước thì trong đó còn bao gồm các cột mốc trọng đại khác như Thiên hậu đăng cơ, loạn An Sử, nạn Hoàng Sào v.v. đầy đủ từ gốc đến ngọn, thêm vào đó là các quẻ, đồ, sấm, tụng, mỗi yếu tố đều ẩn chứa điều huyền diệu, muôn màu muôn vẻ. Theo dòng thời gian, nhiều sự thật không ngừng được triển hiện ra, khiến người đọc không khỏi kinh ngạc, do đó tác phẩm này cứ thế được lưu truyền mãi trong dân gian, danh tiếng đã vượt xa những dự ngôn khác. Thế nhưng có “sinh” ắt sẽ có “khắc”, càng chuẩn xác bao nhiêu thì lại càng chuốc họa bấy nhiêu. Từ đời Tống trở đi, hầu như triều đại nào cũng liệt “Thôi Bối Đồ” vào hàng sách cấm, trong những thư mục sách và lời tựa qua các đời đều không có ghi chép về cuốn sách này, khiến hậu thế khó lòng khảo chứng. Thế nhưng cấm hoài vẫn không xuể, sau này triều đình đã dứt khoát “xáo trộn thứ tự, pha tạp nội dung”, đảo lộn hệ thống các quẻ đồng thời lại tạo ra hàng trăm bản khác nhau, cho lưu truyền cùng lúc. Cách làm này quả là chí mạng, vì trục thời gian đã bị phá vỡ nên các quái, đồ, tự, ngữ toàn bộ đều mất gốc, do đó từ đời Thanh về sau, có nhiều quái tượng rất khó giải mã. Tuy nhiên việc “dự ngôn” trở thành một phần của văn hóa Trung Hoa là điều không thể phủ nhận, trong đó sức ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng mà làn sóng “Thôi Bối Đồ” tạo nên có thể gọi là đỉnh cao, mà tất cả đều bắt nguồn từ thời Đại Đường!
Khóa 5:
“Ngũ thập niên trung
Kỳ số hữu bát
Tiểu nhân đạo trường
Sinh linh đồ độc”
Vào những năm cuối đời nhà Đường loạn phiên trấn cát cứ kéo dài, phát triển thành thời kỳ quá độ, gọi là loạn Ngũ Đại. Trong khoảng 50 năm (“Ngũ thập niên trung”), từ năm Công nguyên 907 đến năm Công nguyên 960, đã lần lượt xuất hiện Chu Ôn soán ngôi nhà Đường, kiến lập Hậu Lương (907-923); Lý Tồn Úc dựng lên Hậu Đường (923-936), Thạch Kính Đường thành lập Hậu Tấn (936-946), Lưu Tri Viễn lập ra Hậu Hán (946-979) và Quách Uy sáng lập Hậu Chu (951-960), sử gọi năm vương triều đoản mệnh này là “Ngũ Đại”. Tuy là “Ngũ Đại” nhưng lại có đến tám tộc họ khác nhau lên ngôi hoàng đế, trong đó ba vị vua của Hậu Đường là Lý Tồn Úc, Lý Tự Nguyên và Lý Tùng Kha tuy đều mang họ “Lý” nhưng thực chất không hề có quan hệ huyết thống; nhà Hậu Chu thì có hai họ là Quách và Sài (Vinh). Điều này ứng với câu “kỳ số hữu bát”. Hiện tượng soán ngôi đoạt vị liên tiếp này gọi là “tiểu nhân đạo trường”; chiến tranh và tai họa liên miên khiến “sinh linh đồ độc” dân chúng lầm than, khổ cực.
Vào giai đoạn loạn lạc ngắn ngủi ấy, thư pháp và hội họa lại chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, thể loại “từ” đã kế thừa Đường thi vươn lên mạnh mẽ. Trọng tâm kinh tế dần dịch chuyển từ lưu vực sông Hoàng Hà sang Trường Giang, thương mại đường biển phát triển phồn thịnh, trọng tâm của vũ đài Trung Nguyên cũng dần hướng về phương Nam. Có thể thấy sử sách chỉ ghi chép những hỗn loạn trên bề mặt nhưng dòng chảy văn hóa thì lại âm thầm lắng đọng! Mà chính cỗ sức mạnh âm thầm ấy mới là động lực vận hành thực sự…
Khóa 6:
“Duy Thiên sinh thủy
Thuận Thiên ứng nhân
Cương trung nhu ngoại
Thổ nãi sinh kim”
“Duy Thiên sinh thủy” (chỉ có Trời sinh ra nước), nước vốn tính nhu hòa, thiện lương, văn nhã lại có phần yếu mềm, đây chính là đặc tính tiên thiên của triều đại mới. Nhà Tống đã mở màn bằng một cuộc cách mạng không đổ máu hiếm có trong lịch sử Trung Quốc, sau “binh biến Trần Kiều, khoác áo hoàng bào” nổi tiếng, Tống Thái Tổ - Triệu Khuông Dận được tôn làm hoàng đế. Không phải nói rằng hễ khoác áo hoàng báo thì chính là chân mệnh thiên tử mà lịch sử đã chứng minh việc Triệu Khuông Dận đăng cơ là thuận theo thiên mệnh. “Bằng chén rượu mà giải chuyện binh quyền”, Tống Thái Tổ đã triển hiện được năng lực chính trị kiệt xuất, ông đã tiêu diệt tận gốc căn nguyên của binh biến, đối với hoàng đế và đại thần của những triều đại trước ông đều không ra tay tàn sát, đồng thời ông còn đề ra “gia pháp” không giết đại thần và ngôn quan (quan chức chuyên giám sát và can gián hoàng đế cũng như các quan lại khác), từ đó viết nên một trang mới cho lịch sử chính trị Trung Quốc. Thời kỳ này thực thi tiết kiệm nghiêm minh, chính trị lấy nhân từ và yêu dân làm gốc, biết người mà dùng đúng chỗ, tu thân dưỡng tức, lấy nhu hòa an định thiên hạ, vừa thuận theo thiên mệnh mà cũng hợp lòng dân (thuận Thiên ứng nhân)!
Tuy nhiên, chính sách “cường can nhược chi” (mạnh gốc yếu ngọn) của triều Tống vốn tập trung quyền lực quân sự vào chính quyền trung ương đã khiến sức mạnh đối ngoại ngày càng suy yếu, đây cũng chính là đặc trưng “cương trung nhu ngoại”. Cương “trung”, trong ngũ hành, vị trí “trung” ương thuộc về hành “thổ”, mà “địa” được hình thành từ trong thổ, đó là quái tượng Hậu Thiên (chỉ có “Thiên” sinh thủy mới là tượng Tiên Thiên), “thổ nãi sinh kim” ám chỉ triều Kim là mối họa ngoại xâm lớn nhất của nhà Tống, nhưng thực ra “kim” cũng là ám chỉ chung cho mọi mối đe dọa từ bên ngoài, đây vừa là quy luật tất yếu cũng vừa là điểm then chốt của toàn bộ quái tượng này!
Tống triều phải đối mặt với họa ngoại xâm không dứt, từ Liêu, Kim đến Nguyên, mỗi nhà sau lại mạnh hơn nhà trước, tuy nhiên nếu không có những mối họa ngoại xâm hùng mạnh ấy thì cũng không thể làm nổi bật tính “thủy” của nhà Tống. Nếu xét về những chuyện thế sự hậu thiên trên bề mặt, chúng ta có thể thấy một nhà Tống yếu nhược, phải xưng thần nộp cống, cắt đất bồi thường, thu mình an phận ở Giang Nam, “võ công” đã suy yếu đến cùng cực, về mặt quân sự gần như thất bại hoàn toàn. Ngay cả khi hai nhà Nam-Bắc Tống xuất hiện những đội quân tinh nhuệ kiệt xuất như “Dương Gia Tướng” và “Nhạc Gia Quân” thì họ cũng chỉ có thể bảo vệ chứ không thể khôi phục đất nước, chỉ đành lưu lại một nỗi cảm khái “tráng chí lòng đau, nhục chưa rửa”.
Thế nhưng ấn tượng về lịch sử vẫn thường che mờ chân tướng, đừng quên rằng sau khi kế thừa Đường thi thì thể loại Tống “từ” đầy ý vị đã đạt đến đỉnh cao mới, sự hưng thịnh đích thực của nhà Tống không nằm ở việc dùng vũ lực để bành trướng ra bên ngoài, mà là hướng về gây dựng tinh thần, tư tưởng và nghệ thuật, từ đó mang lại những cống hiến vĩnh cửu cho nền văn minh Trung Quốc. Nhân vật tỏa sáng trong thời đại này không phải là các danh tướng, mà là những nhà tư tưởng, văn nhân, nghệ thuật gia, khoa học gia, thậm chí là những người thợ thủ công bình dị, tất cả họ đã cùng tạo nên một nền văn hóa Tống triều rực rỡ xán lạn!
Sau khi nhà Đường đạt đến đỉnh cao cả về văn trị lẫn võ công thì Thiên ý lại an bài một thời đại tương phản khác, nơi văn trị hưng thịnh nhưng võ công lại khiếm khuyết, cố ý để sức mạnh tiềm ẩn và phẩm chất mềm mại như nước của nền văn hóa Thần Châu được triển hiện xuất lai. Lão Tử từng viết: “Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thủy... Nhu thắng cương, nhược thắng cường, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành” (Tạm dịch: Trong thiên hạ không gì mềm yếu hơn nước… cái nhu lại thắng cái cương, mềm lại thắng cứng, điều này thiên hạ không có ai hiểu, cũng chưa ai làm được), nhìn từ góc độ này, trong cuộc đối đầu trường kỳ giữa nhị Tống với Liêu-Kim thì dù Liêu-Kim đã ra sức xâm nhập Trung Nguyên để lập triều xưng đế nhưng kết quả lại khiến tộc người Khiết Đan và Nữ Chân dần Hán hóa. Trong quá trình này, người Liêu thì kính Phật, người Kim lại sùng Nho, tư tưởng của ba nhà Nho-Thích-Đạo đã đóng vai trò như chất lên men mà lan truyền ảnh hưởng, chính cỗ sức mạnh ấy đã siêu việt mọi rào cản của thế gian như chủng tộc hay ngôn ngữ, dù trong tự giác hay vô thức đều bị dung nhập và trở thành một phần trong đó, tô thêm sắc màu cho nền văn hóa Thần Châu. Khi người Mông Cổ vào làm chủ Trung Nguyên, họ lại xem tất cả người Hán, Kim, Liêu ở phương Bắc đều là người Hán, gọi người Nam Tống là người Nam, tựu trung đều quy về người Hán, có thể thấy mức độ Hán hóa đã sâu rộng như thế nào.
Nói về vận nước của nhà Tống và các mối họa ngoại xâm như Liêu, Kim, Nguyên thì nhà Liêu tồn tại được 210 năm, nhà Kim 120 năm, ngay cả đế quốc Nguyên hùng mạnh cũng chỉ được 89 năm, ấy thế mà nhà Tống vốn bị coi là yếu nhược lại duy trì được 320 năm; vậy thế nào mới là mạnh, thế nào là yếu, thật khiến người ta phải suy ngẫm sâu xa. Các nhà sử học vẫn luôn cảm thấy bối rối khó giải khi quân đội nhị Tống mặc dù suy bại, hoàn toàn không còn năng lực tác chiến, nhưng vì sao vẫn liên tục triển hiện được khả năng phòng ngự kiên cường? Kỵ binh Mông Cổ vốn Đông chinh Tây phạt, đánh đâu thắng đó, bất khả chiến bại, thế nhưng quá trình tiêu diệt nhà Tống lại trở thành một cuộc chiến trường kỳ gian khổ. Đáp án rõ ràng và dễ thấy nhất là nền văn trị của nhà Tống đã gắn kết được lòng dân, chính ý chí của toàn dân đã bù đắp cho những khiếm khuyết về quân sự. Nhưng rốt cuộc thì Thiên ý cũng không thuận theo lòng người, lần đầu tiên trong lịch sử, toàn bộ Hán tộc đã rơi vào ách thống trị của ngoại tộc, nỗi đau mất nước khó chịu đựng nổi, đoạn lịch sử này Thiên ý lại có một an bài khác, kỳ thực hai nhà Tống, Nguyên chính là đại biểu cho hai thời kỳ tương phản, cũng nói rằng việc dùng khái niệm “cương trung nhu ngoại” để miêu tả nhị Tống quả là có ý nghĩa thâm sâu!
Vào thời đầu Bắc Tống còn có một kiệt tác khác cũng âm thầm ra đời, Thiệu Ung trong “Mai Hoa Thi” đã đem “tương lai” hóa thành mười áng “sử thi”, cũng có thể gọi là tiết lộ thiên cơ. Dự ngôn này có câu “Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, bất tín Hoàng Kim thị họa thai” (Tạm dịch: Non sông tuy đẹp mà không trọn vẹn, không tin Hoàng Kim chính là mầm tai họa) ám chỉ mối họa ngoại xâm trời định của nhà Tống; còn câu “Tam bách niên lai chung nhất nhật” (Tạm dịch: Ba trăm năm rồi cũng đến ngày tàn) ám chỉ vận nước 300 năm sớm đã được định đoạt. Lịch sử và tương lai chỉ cách nhau một lằn ranh, thay vì nói tạo hóa trêu ngươi con người, chi bằng nói chính con người đã lạc lối trong những tháng năm đằng đẵng ấy!
Chú thích:
(1) “Thiên Khả Hãn” là tôn hiệu mà các bộ tộc từ khắp nơi thống nhất trao tặng cho Đường Thái Tông - Lý Thế Dân. Khả Hãn là tước hiệu thủ lĩnh cao nhất tại Mông Cổ, gọi “Thiên Khả Hãn” là có ý tôn Lý Thế Dân thành Khả Hãn của các Khả Hãn - vị Khả Hãn cao nhất trong thiên hạ.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/74797