Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Thần Châu sử cương (10): Khúc sử thi được soạn sẵn - Lịch sử ẩn trong những lời dự ngôn (Phần 1)

07-06-2025

[ChanhKien.org]

Khóa 1:

“Vô lực hồi Thiên
Cúc cung tận tụy
Âm cư Dương phất
Bát thiên nữ quỷ”

Cách hành văn này kỳ thực không khác với dự ngôn “Vong Tần giả Hồ” là mấy, nhưng vì không gian trong câu chữ đã khóa chặt yếu tố thời gian, nên khi trục bánh xe khổng lồ của thời đại chưa lăn đến thì ý nghĩa trên mặt chữ vẫn chưa được hiển lộ ra. “Vô lực hồi Thiên, cúc cung tận tụy” - câu này không chỉ nói về số phận của chính Gia Cát Lượng mà còn là vận mệnh của nhà Thục Hán.

Trong danh tác “Xuất Sư Biểu” Gia Cát Lượng đã viết: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”. Bốn chữ “cúc cung tận tụy” đã khắc họa một đời của ông, nếu như không có Gia Cát Lượng, chúng ta cũng sẽ không hiểu được thế nào gọi là “cúc cung tận tụy”, ông đã dùng một đời để diễn ra bốn chữ này, thổi vào ngữ nghĩa của nó một tầng nội hàm phong phú, đây chính là điểm đặc sắc của văn hóa Trung Hoa trong suốt thời đại tín sử của nửa 2500 năm sau. “Vô lực hồi Thiên” chứng tỏ Gia Cát Lượng biết được giang sơn nhà Hán vận khí đã tận, nhưng ông cũng không thể nào cải biến định số của lịch sử.

Người hiện đại nhất định sẽ cảm thấy kỳ lạ, một Gia Cát Lượng trí huệ hơn người vốn đã biết rõ hết thảy phó xuất của bản thân cũng chỉ là công dã tràng, vì sao vẫn tận tâm nỗ lực cho đến thời khắc cuối cùng của sinh mệnh?! Càng khó tin hơn nữa khi “Hậu chủ” (vị vua sau cùng của triều đại) A Đẩu mà ông phò tá lại hết sức bất tài vô dụng, dù Lưu Bị đã mở đường để ông danh chính ngôn thuận lên ngôi xưng đế nhưng Gia Cát Lượng vẫn giữ nguyên phận bề tôi. Kiểu người vừa mang trong mình tư chất của bậc trí giả lại vừa như kẻ ngốc này, rốt cuộc đang suy nghĩ điều chi?

Chuyện khó tin hãy còn ở phía sau, “Âm cư Dương phất” là nói về những việc sau khi Gia Cát Lượng qua đời, lúc đó hoạn quan Hoàng Hạo ở bên cạnh Hậu chủ Lưu Thiện nắm đại quyền, tự định đoạt triều cương, khiến việc nước ngày càng rối ren, “Âm cư” ở đây ý chỉ kẻ tiểu nhân lộng quyền. Do đó, Đại tướng Khương Duy chỉ có thể duy trì tàn cục.

Năm Công nguyên 263, Đại tướng Chung Hội của nhà Tào Ngụy đã dẫn đại quân đánh xuống phương Nam, tướng Khương Duy cố thủ ở Kiếm Môn Quan (phía Bắc Kiếm Các, Tứ Xuyên ngày nay), chiến sự rơi vào thế giằng co. Trong khi đó, một đại tướng khác của nhà Tào Ngụy là Đặng Ngải lại từ quận Âm Bình (Văn huyện, Cam Túc), vượt qua vực núi non trùng điệp, một mình dẫn binh đánh thẳng vào trọng trấn Giang Du (Giang Du, Tứ Xuyên) của nhà Thục Hán, rồi tiến thẳng đến dưới chân Thành Đô.

Lúc đó, Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin quân địch chỉ còn cách Thành Đô không xa nhưng ông hoàn toàn không nghĩ đến việc kháng cự, con trai ông là Bắc Địa Vương Lưu Thầm lại chủ trương chiến đấu, tuy nhiên dù có khổ sở khuyên ngăn thế nào Lưu Thiện cũng không nghe, do đó Lưu Thầm đã bi thương khóc lóc trước miếu Chiêu Liệt (thụy hiệu của Lưu Bị), lo sợ hổ thẹn với tổ nghiệp nên chỉ còn cách giết thê tử rồi tự vẫn theo, lấy cái chết làm lời khuyên gián. Lưu Thiện ấy thế mà không chút động lòng, vẫn hạ chiếu lệnh cho toàn bộ đại quân của Khương Duy đầu hàng Chung Hội, nhà Thục Hán đến bước này chính thức diệt vong, không thể trì hoãn thêm một khắc nào nữa, đây chính là Thiên tượng “Âm cư Dương phất”.

“Bát thiên nữ quỷ” (八千女鬼) hợp lại chính là một chữ “Ngụy” (魏), cũng là tượng trưng cho sự kết thúc của thời đại Tam Quốc, cũng ở trong thời đại duy nhất mà ba thế lực cùng va chạm, giằng co trong lịch sử Trung Hoa này mà những phẩm chất thuộc về nhân tính như “Trung”, “Nghĩa”, “Gian”, “Trí”, “Mưu”, “Dũng” đã được triển hiện đầy đủ thông qua từng nhân vật lịch sử khi họ bước lên vũ đài lớn này, khắc sâu vào nền văn hóa Trung Hoa.

Khóa 2:

“Hỏa thượng hữu hỏa
Quang chúc Trung thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông hữu hổ”

Tiếp sau nhà Ngụy chính là nhà Tấn. Gia tộc Tư Mã đã nắm giữ đại quyền trong triều đình Tào Ngụy thời gian dài, đến thời Tư Mã Chiêu thì trở thành người cai trị thực sự, câu thành ngữ “Tư Mã Chiêu chi tâm” về sau đã trở thành đại từ của câu “ai nấy đều biết” (ngụ ý là lòng dạ Tư Mã Chiêu ai nhìn cũng thấy). Sau khi nhà Thục diệt vong, thế chân vạc thời Tam Quốc cũng bị phá vỡ. Năm Công nguyên 265, Tể tướng Tư Mã Chiêu qua đời, con trai ông là Tư Mã Viêm đã lập tức đăng đàn tế trời, hạ lệnh ép vị hoàng đế cuối cùng của Tào Ngụy là Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán “thiện nhượng” (nhường lại ngôi vị). “Hỏa thượng hữu hỏa”, trên hỏa (火) có hỏa (火) chính là chữ “Viêm” (炎), ám chỉ việc Tư Mã Viêm kiến lập nhà Tấn, xưng là Tấn Vũ Đế, đóng đô tại Lạc Dương, từ đó đánh dấu sự ra đời của một triều đại mới.

Năm Công nguyên 280, nhà Tấn xuất binh đánh Đông Ngô, tiến thẳng về Kiến Nghiệp (Nam Kinh, Giang Tô), khi ấy vị hoàng đế cuối cùng của nhà Ngô là Tôn Hạo đã ra xin hàng, nhà Đông Ngô diệt vong. Vậy là sau gần một thế kỷ chia cắt, Trung Quốc lại thống nhất, đó chính là “quang chúc Trung thổ” (ánh sáng chiếu rọi vùng Trung thổ). Tuy nhiên huyền cơ lại nằm ở chữ “chúc” (燭) này, lấy ánh sáng từ “chúc” (ngọn đuốc) mà chiếu rọi Trung thổ thì khẳng định là không đủ, thời gian cũng chẳng thể dài lâu. Vì Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm thực chất là đã mượn danh nghĩa “thiện nhượng” mà soán ngôi nhà Tào Ngụy để xưng đế, cho nên mới gọi là “xưng danh bất chính”.

Quả nhiên vào năm Công nguyên 290, sau khi Tấn Vũ Đế qua đời, Thái tử Tư Mã Trung lên kế vị, xưng là Huệ Đế, thì ngay trong năm sau đó Loạn Bát Vương bùng nổ, mở màn cho thời kỳ lịch sử tiếp theo mà lịch sử gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa. Giai đoạn thống nhất ngắn ngủi lại lần nữa rơi vào hỗn loạn và chia cắt, Trung Nguyên bị các dân tộc thiểu số chiếm cứ. Năm Công nguyên 317, Thân vương Tư Mã Duệ trấn thủ ở Kiến Khang tuyên bố kế vị xưng đế, lập đô tại Kiến Khang (Nam Kinh, Giang Tô), sử sách gọi là nhà “Đông Tấn”. Vì Kiến Khang nằm ở vùng Giang Đông nên mới có câu “Giang Đông hữu hổ” (Giang Đông có hổ).

Khóa 3:

“Nhiễu nhiễu Trung Nguyên
Sơn hà vô chủ
Nhị tam kỳ vị
Dương chung Mã thủy”

Từ Đông Tấn đến thời Ngũ Hồ thập cửu quốc, tiếp sang giai đoạn mà sử sách gọi là “Nam-Bắc triều”, cho tới thời nhà Tùy thì Trung Quốc mới khôi phục thống nhất. Trong khoảng gần 300 năm ấy, Trung Nguyên rơi vào hỗn loạn, các triều đại và quốc gia vừa mới hưng thịnh bỗng chốc lại diệt vong, tình thế chồng chéo phức tạp, thời gian trị vì rất ngắn ngủi, lâu thì được mấy chục năm, ngắn chỉ khoảng mười mấy năm (do đó gọi là “nhị tam kỳ vị”). Vận nước của Bắc Ngụy tuy lâu dài hơn một chút nhưng cũng chỉ tồn tại được 148 năm. Điều này hoàn toàn khớp với quẻ tượng “nhiễu nhiễu Trung Nguyên, sơn hà vô chủ, nhị tam kỳ vị”. “Mã thủy” ám chỉ việc thiên hạ đại loạn khởi phát từ thời nhà Tấn của gia tộc Tư Mã, còn “Dương chung” ám chỉ cuộc đại loạn chấm dứt khi Dương Kiên lập ra nhà Tùy.

Khoảng thời gian giữa “Mã” và “Dương” ấy, nên hiểu rằng đó là một giai đoạn mang tính chỉnh thể, không thể phủ nhận rằng thời kỳ hỗn loạn này chính là lúc Trời định các dân tộc sẽ dung hợp cùng nhau, những tộc quần di cư khiến Hồ tộc dần Hán hóa, quá trình văn hóa chuyển dịch về phương Nam cũng khiến những vùng đất trù phú được khai phá toàn diện, cuộc đại phân liệt này tựa như chiếc lò luyện lớn, tôi luyện nên một Hán tộc hoàn toàn mới, tỏa sáng rực rỡ trên vũ đài Thần Châu.

Quá trình thống nhất sau đoạn thời gian chia cắt lâu dài ấy cũng ẩn tàng sức mạnh thần kỳ của Hán tự! Chúng ta đều biết, bất kỳ một đế quốc nào khi bị chia cắt quá lâu cũng sẽ phân thành những quốc gia khác nhau do sự bất đồng về chữ viết, ngôn ngữ cũng như phong tục tập quán, Đế quốc La Mã ở châu Âu cùng thời kỳ ấy cũng tan rã và diệt vong như thế. Tuy nhiên đối diện với một Trung Quốc chia năm xẻ bảy thì mức độ phức tạp đã vượt xa Đế quốc La Mã, chỉ riêng về ngôn ngữ đã có vô số loại. Ấy thế mà Hán tự, trên bờ cõi Trung thổ mênh mông ấy, đã trở thành một luồng sức mạnh vô hình, gắn kết tâm linh của những con người bất đồng về huyết thống, về phong tục tập quán và ngôn ngữ lại với nhau, khiến họ tự trong tâm thức đã trở thành người Trung Quốc. Theo cách đó, sau khi các quốc gia và vùng lãnh thổ hợp nhất, mối quan hệ giữa người với người có thể nhanh chóng hòa hợp, khiến chúng ta không cảm thấy bất kỳ trở ngại nào. Nhưng tại châu Âu hoặc những địa khu khác, nếu muốn hợp nhất các quốc gia hay dân tộc thì sẽ cực kỳ khó khăn, các chủng loại xung đột sẽ lập tức bùng phát, căn bản không cách nào giải quyết.

Điều này khiến cho Trung Quốc, với hình thức “cải triều hoán đại” xuất hiện giống như từng màn kịch lớn trong lịch sử, được trình diễn liền mạch trên vũ đài Thần Châu, đây cũng không phải chuyện ngẫu nhiên, nếu nhìn từ hoành quan sẽ không khó nhận ra trong đó có ẩn chứa huyền cơ. Điều này liên quan đến căn nguyên vì sao vùng đất Trung thổ lại được gọi là “Trung Quốc”, nếu như châu Âu cũng trở thành một quốc gia thống nhất và các triều đại cũng luân phiên nối tiếp nhau như thế thì ý nghĩa “trung tâm” hay “trung ương” của vùng đất Trung thổ này sẽ không còn nữa.

Sau thời Tam Quốc, Phật Pháp từ Ấn Độ truyền rộng khắp Trung Nguyên, giai đoạn này ngày càng phát triển hưng thịnh, toàn bộ Nam-Bắc triều tràn ngập bầu không khí tu Phật, rất nhiều bậc quân vương đã trở thành đệ tử Phật môn. Còn tư tưởng Đạo gia lại càng trở nên rầm rộ trong giới sĩ phu, cũng có rất nhiều vị đế vương hết lòng tin theo Đạo giáo, trào lưu “thanh đàm” đã trở thành nét đặc sắc của thời kỳ lịch sử này. Phần tử trí thức không còn thuần túy là các Nho sĩ, mà phần lớn đã dung hợp Nho và Phật hoặc Nho và Đạo.

Nhìn chung, tư tưởng của hai gia Phật và Đạo đã quán xuyến từ thượng tầng xã hội xuống đến dân gian. ‘Đạo xuất thế’ và ‘Đức nhập thế’ ấy đã được dung luyện vào mỗi con dân trên mảnh đất Thần Châu, ba gia Nho-Thích-Đạo trở thành chủ lưu của văn hóa Trung Hoa, dần dần định hình một cách hoàn chỉnh. Nền văn hóa này đã kế thừa những phẩm chất của văn hóa Thần truyền thời thượng cổ, mang theo đặc tính “nửa Thần nửa nhân”, thế nên chúng ta gọi đó là “văn hóa bán Thần”. Về khía cạnh “nhân bản”, cả ba nhà đều coi trọng những đức tính tốt đẹp như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong bản tính con người, nhấn mạnh việc hành thiện, tích đức và cải biến thế gian. Về khía cạnh “Thần bản” thì các bậc “Chân nhân” của Đạo gia, các “Giác Giả” của Phật gia hay “Thánh nhân” của Nho gia đều đề cao sự tồn tại của những trạng thái sinh mệnh cao cấp hơn con người, trong đó cũng ẩn chứa Đạo Pháp để con người thăng hoa thành sinh mệnh cao cấp, do vậy các khái niệm như tu luyện, tu hành hay tu thân đã thấm sâu vào nền văn hóa của chúng ta. Nhân sinh kinh qua bao tôi luyện cũng tựa như dòng nước chảy về Đông, thị phi thành bại hóa hư không, cũng như cái “Không” của Phật gia hay cái “Vô” của Đạo gia, đều khiến những trang anh hùng hào kiệt đang tung hoành trên vũ đài sinh mệnh này không khỏi suy tư: Sinh mệnh vì cớ gì mà đến, hồi kịch này diễn xuất vì đâu?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/74797

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài